17/12/2010
Cháu Tuyết thương,
Cậu đã đọc kỹ thư
cháu, trước tiên cậu khen cháu lắm đó. Một người trẻ mà có tâm hướng Phật trong
một môi trường sinh hoạt khó khăn như cháu thật hiếm có và đáng quý. Sự hướng
về Phật tu tập không phải là việc tầm thường đâu, đây chính là thiện căn của
cháu đã có từ trong những đời trước. Ví dụ như khi cậu Năm viết thư về quê cho
ông bà ngoại, thì dì Thứ của cháu đã cảm ứng trước tất cả mọi người. Đây chính
là thiện căn phúc đức và nhân duyên của dì Thứ có đầy đủ hơn so với người khác trong
gia đình. Trong đời này chúng ta là thân thuộc, vợ chồng, cha con, cậu cháu,
anh chị em với nhau… tất cả đều do một duyên nợ từ tiền kiếp nào đó. Sau cuộc
đời này có thể còn gặp nhau, cũng có thể không bao giờ gặp lại. Cuộc sống của
một chúng sanh trải dài từ thật lâu xa trong quá khứ vô cùng cho đến mãi về
tương lai thời gian vô tận. Cháu hãy tưởng tượng có hai sợi chỉ thật dài, bỗng
nhiên nó nhập lại một cái gút, rồi sau đó lại tiếp tục đi tiếp. Mỗi sợi chỉ
tượng trưng một mạng sống, hai sợi chỉ gút lại là cái duyên nợ ân oán với nhau
trong đời này. Thời gian chúng ta ở chung với nhau nó dài cũng giống như cái
gút so với chiều dài sợi chỉ vậy cháu à.
Khi cháu hiểu được
Phật pháp rồi cháu sẽ thấy rõ ràng những sợi chỉ đó và những cái gút đó. Có sợi
chỉ thoát được cái gút đi lên, có sợi chỉ qua khỏi cái gút đâm đầu đi xuống.
Nếu thức tỉnh quay đầu thì vượt lên được, còn không thì đi thẳng vào nơi hiểm
nạn, khổ đau vô tận. Thư của cháu lời lẽ rất tha thiết, có hiếu có nghĩa. Cậu
Năm khen lắm, cậu sẽ theo thứ tự giúp ý kiến giải quyết những khó khăn cho
cháu.
Trước hết, “Cháu lo
sợ rằng ngày mãn phần của bà Nội cháu đã gần kề”. Đọc đến dòng chữ này làm cậu
Năm cũng cảm thấy ngậm ngùi, ngậm ngùi cho Nội cháu, ngậm ngùi cho số kiếp con
người. Bao nhiêu năm bôn ba quật lộn với đời, cuối cùng chợt nghĩ lại thì những
gì xảy ra trong quá khứ tuồng như một giấc mộng lờ mờ lưu lại trong trí nhớ;
cảnh hiện tại như trò huyễn hóa, còn đây mất đó hồi nào không hay; những ước
vọng cho tương lai tưởng chừng là vàng son gấm vóc, nhưng đó cũng chỉ là những
áng mây trôi, tan hợp hợp tan chập chờn không thực! Đối diện với cảnh sắp chia
ly, ai mà không buồn, ai mà không đau xót! Nếu là người không hiểu đạo thì cảnh
phũ phàng này sẽ đem đến sự đau khổ vô cùng, thương tâm vô tận, sầu não vô
biên! Nhưng hiểu cho thấu kiếp nhân sinh thì đây là lẽ đương nhiên thôi!
Tất cả mọi người ai
cũng đang đi về chỗ đó, rồi đây tới ông bà ngoại, tới cậu, tới cha má cháu, tới
cháu, tới con của cháu… không ai tránh khỏi. Con người vừa mới sinh ra là đã
bắt đầu tìm đường đi vào phần mộ, thì cần gì phải chờ ngày già rồi mới hiểu
phải không cháu? Thế nhưng người không biết tu, không hiểu đạo họ sẽ rối bời,
tâm hồn bấn loạn, mê mê mờ mờ để đem huệ mạng của mình gởi cho vào nơi hiểm ác.
Còn người biết tu thì họ chờ đợi sự ra đi như một cơ hội để giải thoát, vẫy tay
vui vẻ chào giã biệt cuộc đời khổ nạn.
Cháu nên biết rằng,
một khi mình chọn con đường giải thoát thì mình giải thoát, an hưởng tất cả
những sự sung sướng an lạc trên đời; mình chọn con đường đoạ lạc mình chịu đau
khổ vô biên, tự mình dìm đời mình trong tăm tối phiền não triền miên vạn kiếp.
Cho nên khổ đau hay hạnh phúc đang nằm ngay trong tâm của mỗi một chúng ta.
Giải thoát hay đọa lạc đang ở ngay trước mắt, nó chỉ là sự lựa chọn tùy ý của mình
mà thôi. Người lâm chung mà được sáng suốt, tâm hồn tỉnh táo biết đường đi họ
sẽ chọn lựa con đường tốt: “Đường về Cực-lạc”, người mê muội
hoặc không biết đường đi, họ sẽ bị nghiệp chướng lôi kéo vào ngả hiểm nguy: “Đường về đọa lạc”. “Cực-lạc” hay “Đọa-Lạc” là do sở nguyện của mình, chính cái nguyện nó có năng lực rất mạnh, có
thể quyết định được tương lai cho mình! Nguyện
vãng sanh, mình vãng sanh về với Phật, không có lời nguyện thì mình trôi theo
giòng nghiệp lực để thọ nạn.
Chính vì điểm này
mà lúc nào Cậu cũng nhắc nhở phải nhớPHÁT NGUYỆN VÃNG
SANH. Người hằng ngày phát nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc với Phật, thì
họ đã chuẩn bị đợi chờ ngày mãn báo thân để được gặp Phật, thì làm sao họ sợ
sệt hay hoảng hốt trước giây phút lâm chung! Chính vì thế mà tất cả những người
chí thành niệm Phật đều có tâm hồn tỉnh táo, an vui, tự tại trong phút giây ra
đi. Họ bình tĩnh đợi đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn để họ bỏ cái xác thân trần
tục lại rồi đi theo quang minh của Phật. Ấy gọi là Vãng-Sanh. Sự thành tựu này, một là do lòng tin kiên cường và chí thành
nguyện cầu của mình; hai là nhờ sự gia trì của
Phật A-di-đà.
Có nhiều người họ
biểu diễn đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, hẹn lại ngày vãng sanh, làm tiệc vãng
sanh… giống như trò xiệc vậy. Ví dụ như pháp sư Đế-Nhàn có một người đệ tử, ông
ta dốt chữ, không đọc kinh được, không thông minh, không làm gì được cho chùa.
Thế nhưng ông ta lại muốn xuất gia, Ngài không cho nhưng ông ta cứ nằn nèo xin
hoài, Ngài Đế-Nhàn mới chấp nhận và giao cho ông ta tới một cái am vắng để niệm
Phật. Ngài dặn chỉ niệm Nam-mô A-di-đà Phật thôi, ngoài ra có giờ rảnh thì phụ
với bà cụ coi chùa lo quét dọn trước sau. Ba năm sau ông ta đứng thẳng chắp tay
hướng về sư phụ mà vãng sanh. Trước khi vãng sanh, ông báo cho bà cụ biết để
khỏi nấu cơm và hãy mau đi về tự viện báo với sư phụ tới mai táng. Ông vãng
sanh đứng im như vậy ba ngày chờ đến khi sư phụ tới lo hậu sự. Đó là sự thật,
một sự thật rất khó mà giải thích! Người tu hành mà không lấy đây làm gương,
không chịu niệm Phật, không nguyện vãng sanh, đến cuối cùng hầu hết đều chịu
chung số phần may rủi như bao nhiêu nạn nhân khác! Thật là tiếc vậy! Hãy liên
lạc với cậu An để xin cuộn phim bà cụ Triệu-Vinh-Phương để coi rõ một trường
hợp vãng sanh về với Phật. Đây là một chứng cớ sống động, chứng minh những điều
cậu đã nói toàn là sự thật. Khó lắm mới có cuộn video này đó cháu, nhớ tìm cách
sang ra cho nhiều người coi, đừng để mất bổn.
Đoạn khác cháu viết
“…bà Nội cháu từ nhỏ đã theo đạo Phật, nay gặp cậu ghi thư về giúp đỡ, Nội cháu
ngày đêm đã niêm Phật”. Câu này cậu Năm thích nhất. Nội cháu ngày đêm đã niệm
Phật, chỉ cần như vậy là Nội của cháu đã khởi sự con đường về với Phật rồi đó.
Nội cháu đang yếu nặng, đang nằm một chỗ, để chờ ngày mãn phần. Ngay thời điểm
cuối cùng của cuộc đời này mà Nội cháu đã gặp được cơ may, phát được tâm nguyện
niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-lạc, thì thực sự Nội của cháu đã có thiện căn
phúc đức rất lớn, lớn hơn rất nhiều người khác! Trên đời này không dễ có ai
được may mắn như vậy đâu. Đây là lời nói thành thực. Đã có rất nhiều ông bà
trong dòng họ mình cũng suốt đời tu Phật, nhưng cuối cùng đâu được ai khuyên
nhắc để niệm một tiếng Phật hiệu ở phút lâm chung. Hàng triệu, hàng tỉ người
trên thế gian này đếm được mấy người niệm được tiếng A-di-đà Phật khi lâm chung
đâu cháu? Thật sự Nội của cháu có nhiều thiện căn phúc đức, chính nhờ vậy mà
chỉ qua một lời khuyên trong thư mà Nội cháu đã “ngày đêm niệm Phật”.
Người đã có thiện
căn phúc đức sẵn, khi nhân duyên đến họ phát tâm liền, họ sẽ có cơ hội về với
Phật liền. Nội cháu đang nắm trong tay cái cơ duyên ngàn đời khó gặp, ngàn vàng
khó mua, tỉ người trên thế gian này mong cầu không dễ gì có được. Cậu Năm xin
nhắn lời chúc mừng Nội cháu. Khi nhận được thư này cháu nhớ đọc cho Nội cháu
nghe, nhớ đọc rõ ràng, đọc từng chữ từng câu, không nên nói đại khái, vì nói
đại khái sẽ không diễn lại được đầy đủ ý nghĩa của Cậu nói đâu. Dù cậu không
trực tiếp thấy Nội cháu trong lúc này nhưng cậu chắc chắn rằng, dù thể chất của
Nội cháu yếu đuối bất động, nhưng tinh thần của Nội cháu đang rất sáng suốt,
minh mẫn. Cháu đọc thư , Nội cháu sẽ cảm nhận được từng lời từng ý và sẽ liễu
ngộ sâu lời thư của cậu, nhiều khi còn hơn cháu nữa đó.
Trong kinh Phật
Thuyết A-di-đà, Phật dạy rằng, người nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, lúc
lâm chung tâm hồn tỉnh táo, không điên đảo mê loạn. Nội cháu đang nằm im thiêm
thiếp nhiều tháng ngày qua, đó là trạng thái hôn mê, nhưng nay Nội cháu đã niệm
Phật ngày đêm thì chắc rằng sự hôn mê không còn nữa. Nếu Nội cháu nhứt tâm
hướng về Phật A-di-đà, hàng ngày tha thiết cầu nguyện vãng sanh về thế giới
Cực-lạc với Phật, hàng ngày thành tâm nguyện xin Phật A-di-đà phóng quang nhiếp
thọ, rồi quyết chí niệm A-di-đà Phật, nhất định không để phí một giây phút nào,
nhất định không để một ý tưởng nào khác chen vào, nhất định không luyến tiếc
cái gì khác, nhất định không thèm cầu sống thêm. Chỉ một lòng một dạ, một đường
mà đi, cương quyết xin về với Phật thì cơ duyên thành Phật của Nội cháu đã
thành thục rồi vậy.
Ngay khi Nội cháu
nghe đọc thư này, nếu Nội cháu quyết thề niệm Phật, nhứt định phải niệm liên
tục KHÔNG HOÀI NGHI, KHÔNG GIÁN ĐOẠN, KHÔNG XEN TẠP, thì 10 câu Phật hiệu trước
khi chấm dứt hơi thở cuối cùng chắc chắn phải được. Được như vậy thì cậu Năm
dám bảo đảm rằng Nội cháu được vãng sanh, chắc chắn được vãng sanh. Đây là lời
kinh nói, đây là lời Phật dạy, đây là lời thề của Phật A-di-đà chứ không phải
Cậu Năm nói bừa.
Muốn được mười niệm
trước lúc lâm chung thì ngay bây giờ phải thực tập liền, thành tâm khẩn thiết,
tâm tâm nghĩ tới Phật A-di-đà, niệm niệm hướng tới Phật A-di-đà, khi đó tự
nhiên trong lúc niệm câu Phật hiệu, thì lời nguyện vãng sanh Tây-phương nó tự
hiện ra, nghĩa là chỉ cần niệm Phật thôi nó cũng có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh
trong đó rồi. Cho nên, Tín-Hạnh-Nguyện tuy ba mà một, được một thì được ba. Đã
niệm Phật rồi thì nhứt thiết đừng sợ ma quỷ, không sợ ác mộng, không sợ mộc đè,
không sợ oan gia trái chủ, không sợ bất cứ thứ gì khác nữa. Hãy nói thật rõ với
Nội cháu là trong những lúc kiệt sức, chóng mặt ù tai, mệt mỏi, mê thấy đủ thứ,
thấy Phật, thấy ma, thấy quỷ, thấy thú dữ, thấy mộc đè, v.v… tuyệt đối không lo
sợ gì cả, cứ tiếp tục niệm Phật, niệm lớn càng tốt, niệm lớn không được thì
trong tâm tiếp tục niệm “A-di-đà Phật, A-di-đà phật…”, cứ thế thì tất cả đều
được qua khỏi. Nội đã niệm Phật thì có quang minh của Phật che chở cho Nội rồi,
đừng lo ngại chuyện gì cả. Nhớ không cháu?
Đến đây thì cậu Năm
nghĩ rằng con đường vãng sanh của Nội cháu đã đặt sẵn trước bàn chân của nội
cháu rồi đó. Phẩm vị cao thì không dám bảo đảm được nhưng được về tới cảnh giới
Cực-lạc với Phật coi như đủ tiêu chuẩn, Nội cháu sẽ nghiễm nhiên trở thành vị Bồ-tát
bất thối tại cõi Tây-phương, từ đó vĩnh viễn không sợ đọa lạc vào địa-ngục,
ngạ-quỷ, súc-sanh nữa, không sợ chết , không sợ khổ đau nữa, chỉ còn một đời
chót này nữa thôi thần thông biến hóa, an nhàn tự tại, tu hành chờ thành Phật.
Điều này cậu Năm dám khẳng định. Nếu Nội cháu vững lòng tin tưởng, ý chí cương
nghị vững như tường đồng, sắt son niệm Phật, một hướng mà đi không chút phân
vân, không một chút do dự, không một chút hồ nghi, thì cậu Năm tin rằng chỉ một
thời gian ngắn, Nội cháu có thể cảm ứng rõ được Phật lực gia trì, nghĩa là Nội
cháu sẽ biết được ngày ra đi. Khi Nội lâm chung, cháu có thể thấy được quang
minh của Phật sáng loà cả nhà, hương thơm bay ngát cả trong ngoài. Nếu được như
vậy, phẩm vị của Nội cháu thật sự không phải tầm thường đâu. Còn nếu không thấy
quang minh, thì ít ra Nội cháu cũng được tỉnh táo niệm Phật vãng sanh.
Ngược lại đến giờ
phút này mà gia đình còn lưỡng lự, còn hỏi tới hỏi lui, còn nghi ngờ lời Phật,
còn chạy cầu kiến khắp nơi, nhất là Nội cháu không chịu tranh từng hơi thở để
niệm Phật thì đành chịu thua, không còn cách gỡ nữa đâu. Cậu Năm cầu Phật lực
gia hộ cho Nội cháu, cho cháu và toàn gia đình được sự đại may mắn, đại phước
báu.
Về việc “…Cháu sợ
trước và sau phút lâm chung sẽ không có người hộ niệm, vì gia đình cháu không
như gia đình của bà cụ Triệu-Vinh-Phương”. Đây là mối lo rất đứng đắn! Thật tội
nghiệp cho cháu về sự lo lắng này. Đúng ra mối lo này phải dành cho ba cháu mới
đúng! Chính ba má cháu mới là người trực tiếp làm tròn đạo hiếu của con và dâu,
còn cháu thì nặng về nghĩa nhiều hơn.
Người học Phật phải
lưỡng toàn cả Phúc và Huệ. Tu Phúc có 3 phúc 11 điều. Ba phúc là phúc báu
Nhơn-Thiên, phúc báu Nhị-Thừa, phúc báu Đại-Thừa, trong đó phúc Nhơn Thiên là
nền tảng căn bản nhứt có 4 điều: 1)Hiếu dưỡng phụ mẫu; 2) Phụng sự sư trưởng;
3)Từ tâm bất sát; 4)Tu thập thiện nghiệp. Trong bốn điều trên thì “Hiếu dưỡng
phụ mẫu” là tối quan trọng, đặt ở hàng đầu. Một người con mà ăn ở bất hiếu với
cha mẹ thì khó có thể mơ ngày thoát ly khổ hải, nếu không nói là phải bị đọa
vào cảnh cực kỳ hiểm ác sau này. Trong pháp môn niệm Phật, đức Phật A-di-đà có
khả năng cứu độ những kẻ gây tội ngũ nghịch thập ác, nghĩa là những kẻ giết cha
hại mẹ mà biết ăn năn hối lỗi. Nhưng cháu nên nhớ cho kỹ rằng, cái lỗi lầm này
là ở quá khứ, ở lúc mình còn ngu si mê muội, mình chưa hiểu Phật pháp, chưa rõ
luật nhân quả báo ứng, chứ không phải là lỗi ở hiện tại và tương lai.
Trong quá khứ vì vô
minh bất giác, tâm tính bị ma chướng ám hại làm cho mê muội thành ra mình làm
nên điều ác đức. Nay đã hiểu ra rồi thì phải ăn năn sám hối, tận lực tu sửa thì
mới được tha thứ. Phật cứu độ là cứu trong điều kiện này. Chứ như một người
không chịu phân biệt đường chánh nẻo tà, tâm hồn cống cao ngã mạn, không lo chu
toàn chữ hiếu, tiếp tục làm ác… thì Phật làm sao cứu được?!…
Cụ
Triệu-Vinh-Phương biết được ngày giờ ra đi cho nên họ hộ niệm trước 3 ngày, còn
Nội cháu đâu biết ngày nào đi cho nên phải hộ niệm liên tục, nghĩa là hằng ngày
đều tới nhắc nhở và ngồi niệm Phật chung với Nội. Thực tế, như cụ Phương thì
không cần hộ niệm cũng được vãng sanh, vì cụ đã được Phật A-di-đà thọ ký, đã
được Phật xác định ngày giờ Phật tới tiếp dẫn, cụ đã thành tâm niệm Phật đến
nhứt tâm bất loạn thì cần ai hộ niệm nữa. Nhưng người nhà cẩn thận cũng tổ chức
thật đàng hoàng đó là vì lòng hiếu kính của con cháu. Hơn nữa hộ niệm này trở
thành công đức tu hành cho chính người hộ niệm. Có lần có người hỏi thầy
Ngộ-Thông rằng, “cụ Phương tu cách nào mà ống xương biến thành tượng Phật
vậy?”. Thầy trả lời, đó không phải là công phu của cụ mà là công phu của người
hộ niệm. Vì cụ đã vãng sanh về với Phật, cụ đã trở thành Bồ-tát ở cõi Cực-lạc
rồi, cụ đâu cần cái cục xương đó nữa. Cái tượng Phật bằng xương cụ để lại là để
độ cho những người hộ niệm, độ kẻ còn ở lại.
Câu trả lời này rất
hay, suy nghĩ kỹ rất có lý. Vì ngay khi Phật phóng quang tới, tất cả những
người đang hộ niệm đã trầm mình trong ánh quang minh, họ đã xúc chạm quang minh
của Phật thì cũng như được Phật thọ ký rồi. Phật đã để lại hiện tượng: “tượng
Phật bằng xương xá lợi” để cho mọi người củng cố niềm tin, tinh tấn tu hành để
được vãng sanh sau này. Do đó, đây có thể là do thần lực của Phật A-di-đà để
lại chứ đâu phải của cụ Phương.
Nội của cháu hồi
giờ theo đạo Phật, có tu hành nhưng, nhưng theo cậu thấy, công phu tu hành không
đắc lực cho nên công đức không thể lớn được. Về phúc đức thiện căn thì nhiều
đời trước đã có mới khiến Nội cháu niệm Phật, nhưng con cháu trong nhà cũng cần
đề cao cảnh giác cao độ về oan gia trái chủ trong đời, đó là những oan nghiệp
dây dưa rất lâu rồi khó lường sự trả thù của họ. Nếu tinh thần của Nội cháu,
cương nghị, luôn luôn sáng suốt giữ được câu Phật hiệu trong bất kỳ cảnh ngộ
nào và trì niệm tới cùng thì khỏi lo chi cả. (Đã nói qua ở trên). Giả sử như
Nội cháu yếu quá, chóng mặt, nhức đầu, ói mửa, đau nhức… mà quên mất câu Phật
hiệu thì sao? Oan gia trái chủ lợi dụng cơ hội đó nhào vô dụ dỗ, phá hoại, trả
thù… liệu Nội cháu có còn bình tĩnh được nữa không? Đây là điều rất nguy hiểm
cho Nội mà con cháu cần đặc biệt chú tâm. Hộ niệm rất cần thiết để ứng phó
trong những trường hợp này. Hiếu thảo hay không là sự quyết tâm bảo vệ người
thân của mình trong những thời điểm này đây. Hộ niệm không phải là niệm thay
cho người đi, mà hộ niệm là giúp người ra đi giữ được chánh niệm, luôn luôn nhớ
được câu Phật hiệu để được vãng sanh và cũng giúp ngăn cản nghiệp chướng phá
hoại.
Trong các thư trước
cậu đã nói rất rõ những gì cần làm rồi. Lời của cậu rất chân thành, tha thiết,
đầy ắp thiện ý muốn cứu độ Nội cháu. Nhưng dù sao thì cậu Năm cũng chỉ giúp
bằng lời chứ không có cách nào hơn nữa. Trước đây vì cậu không biết nên cậu đã
tĩnh bơ, an nhiên chứng kiến nhiều người thân trong giòng họ mình ra đi trong
đau khổ, trong đoạ lạc. Giờ đây cậu đã hiểu đạo, cậu đã thấy được con đường
giải thoát, cậu đã giựt mình tỉnh ngộ, cậu cố gắng tối đa giảng giải rất kỹ,
qua nhiều thư từ cậu năn nỉ cạn lời, cậu mần mò tìm cho được những bằng chứng
cụ thể để xây dựng lòng tin cho mọi người, cũng chỉ vì một tâm nguyện duy nhứt
là cứu độ được người nào hay người đó. Giờ đây, cậu mách nước để cứu Nội cháu,
nhưng cứu độ được hay không là lương tâm, trách nhiệm, hiếu nghĩa của ba cháu
với phận làm con, má cháu với phận làm dâu, của cô cháu và con cháu trong gia
đình. Đã đến nước này mà không chịu tin nữa thì thôi chứ cậu biết làm cách nào
hơn, phải không cháu?
Cậu nhắc lại, Nội
cháu có cứu được hay không hoàn toàn tùy thuộc vào:
v Một là lòng quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ của Nội cháu;
v Hai là sự hổ trợ tích cực của những người trong gia đình.
Nếu mọi người cho
rằng chết là hết, phủi tay cuộc đời là xong nợ, không còn gì nữa cả thì cậu
đành chịu thua, không có quyền gì dám xen vào nữa. Ôi! Cậu chỉ đành cầu Phật
gia hộ cho Nội cháu, sự may mắn chỉ còn nhờ chính vào sức lực đơn độc của một
bà cụ già yếu đuối bị bỏ rơi trong tình trạng quá tội nghiệp, để tự chống chọi
với bao nhiêu thế lực hung hiểm, bao nhiêu cạm bẩy ác nghiệt nhất trong đời, mà
đúng ra, nếu con cái có lòng hiếu nghĩa, biết thương tưởng đến, thì chỉ cần bỏ
ra một chút công sức rất nhỏ có thể cứu được người thân yêu. Đó là một ơn nghĩa
vô cùng vĩ đại đối với Nội cháu, muôn ngàn đời Nội cháu không dám quên!
Riêng về phần cháu,
cậu rất thông cảm sự khó khăn của cháu. Chỉ cần có tấm lòng tha thiết của cháu
cũng đủ làm cho Nội cháu được an ủi rồi. Bây giờ cháu hãy áp dụng châm ngôn “còn nước còn tát”, quyết chí cứu Nội thì phải cố gắng làm hết mình
tới đâu hay tới đó. Nếu lòng cháu chân thành, tâm cháu chí thiết, Phật lực sẽ
gia trì cho cháu, cậu nghĩ sự cố gắng của cháu không uổng công đâu. Cứu bằng
cách nào? Cậu đề nghị mấy điểm sau:
1) Hãy cố gắng dành
thì giờ thăm Nội thường xuyên để chăm sóc, giúp đỡ những điều cần thiết như
việc đại tiểu tiện, quạt mát sưởi ấm, giúp xoay trở nhẹ nhàng… nói chung làm
tất cả những gì Nội yêu cầu. Nếu có thêm người trong gia đình thì thay phiên
nhau mỗi lần một người một giờ thôi.
2) Cần cho Nội cháu
uống nước thường xuyên để khỏi bị kiệt sức, cứ cỡ 15 phút uống một ngụm nước
nhỏ, nên pha với nước cam thật loãng, có thể uống thuốc bổ hoặc chích thuốc bổ
và ăn cháo đều độ cho lại sức. Cũng nên hỏi bác sĩ, nhưng phải nhớ trong khi
cho uống nước cháu vẫn tiếp tục niệm Phật. Có sức khỏe sẽ trợ lực để niệm Phật
tích cực hơn. Việc chích thuốc bổ hay chuyền nước biển để tăng sức rất tốt,
nhưng khi biết sắp lâm chung rồi thì không được chích nữa để khỏi gây đau đớn.
3) Mỗi lần tới
thăm, thay vì nói: “cháu tới thăm Nội”, hãy nói là: “Cháu tới niệm Phật với Nội
đây”. Hãy chuyển chữ “Thăm” thành chữ “Niệm Phật” để nhắc nhở Nội. Đó là hộ
niệm. Vì người bệnh bị mệt mỏi thường lười biếng dễ ngủ lì, dễ buông xuôi, thì
người chăm sóc cần nhắc nhở, khuyến khích người niệm Phật luôn luôn. Đừng sợ
mất ngủ, cố gắng niệm Phật cho tỉnh táo thì tốt hơn. Khuyến khích Nội nếu nhép
môi niệm được theo thì tốt, còn không cứ niệm thầm trong tâm cũng tốt. Nhép môi
là để vận dụng sức thì sức dễ hồi tỉnh, tâm dễ tỉnh lại hơn, thế thôi.
4) Người bệnh tinh
thần mệt mỏi rất dễ hôn mê rơi vào ác mộng. Nhớ theo dõi, nếu thấy Nội đang mớ,
ú-ớ là phải đánh thức dậy và ngay lập tức niệm Phật liền. Khuyên Nội cố gắng
niệm Phật trong giấc mộng, nghĩa là khi mộng mị thấy bất cứ điều gì cũng cứ
niệm Phật. Thấy Phật cũng niệm Phật, thấy ma cũng niệm Phật, thấy thú dữ hay
bất cứ thứ gì cũng niệm Phật. Niệm Phật và vững tâm niệm Phật, tuyệt đối không
đi theo bất cứ Thần, Thánh, Tiên, Phật nào hết. Không được đi theo ông, bà,
cha, mẹ, nào cả vì đó không phải là thực đâu. Phải nhớ, ma có thể giả dạng
người thân yêu, giả đến cả Phật để dụ mình chứ không phải tầm thường. Cứ việc
niệm “A-di-đà Phật” thì giả thực sẽ biết rõ. Chỉ chờ
Phật A-di-đà, chỉ được đi theo Phật A-di-đà vì chắc chắn không
ai dám giả Phật A-di-đà cả. Nói rõ cho Nội biết rằng, khi còn niệm A-di-đà Phật
thì liền được 25 vị Hộ Pháp bảo vệ, không có thế lực nào dám xâm nhập đến mình.
Mình bị ma cảnh là tại vì lúc đó mình quên niệm Phật đó thôi. Cho nên trong
giấc mộng cố gắng niệm Phật, niệm trong đó không được, thì khi thức giấc ngay
lập tức niệm liền. Chắc chắn không thể lạc đường đâu.
5) Nhắc nhở Nội
nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc,đừng nguyện cầu lành
bệnh hay sống lâu thêm (vì không ích lợi gì mà còn mang thêm nghiệp báo khó gỡ,
khi báo thân đã mãn dù có cầu trăm miễu ngàn chùa cũng không sống thêm được,
ngược lại làm hại cho đường vãng sanh). Cho nên nhắc Nội nhớ nguyện vãng sanh
mỗi sáng. Mỗi lần tới thăm, trước khi hộ niệm đều mời Nội phát nguyện vãng sanh
thêm một vài lần cũng tốt, bằng cách cháu thành tâm kính cẩn, ngồi trên ghế
hoặc quỳ gối, chắp tay đọc lời phát nguyện rõ ràng cho Nội đọc theo. Phải chép
lời nguyện ngắn gọn rồi để trên đầu giường, ngày nào tới cũng đọc đúng như vậy
để nhiếp vào tâm. Có thể nguyện đơn giản như vầy: “Nam-mô A-di-đà Phật, con xin nguyện cầu hết một báo thân này được vãng
sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế-giới. Ngưỡng nguyện A-di-đà Phật đại từ đại bi
phóng quang tiếp dẫn. Nam-mô A-di-đà Phật.”, rồi tiếp tục cùng niệm Phật.
Nên nhớ phải đọc rõ
ràng từng chữ, đọc từng câu với lòng thành kính tin tưởng. Niệm Phật cũng phải
rõ ràng từng chữ, không được kéo nhựa, không được lờ mờ. Niệm đều đều để cho
Nội niệm theo. Nên theo dõi thử Nội cháu thích niệm nhanh hay chậm, thích niệm
bốn tiếng hay sáu tiếng, nên niệm bốn tiếng dễ hơn và mạnh hơn. Nguyện nhiều
lần để nhắc nhở tâm mình xác định hướng đi rõ rệt.
6) Tuyệt đối không
làm ồn, không khóc lóc, không kể lể chuyện thương tâm. Tuyệt đối không để bà
con lối xóm lui tới thường xuyên nói chuyện thăm lom và trực tiếp nói chuyện
với Nội. Muốn cho Nội được an toàn về với Phật thì dành tất cả thời giờ để Nội
niệm Phật, tránh tất cả những thói quen phàm tục tầm thường. Người bước vào
phòng Nội chỉ để niệm Phật hộ niệm, xin miễn hỏi thăm, xin miễn chúc phúc chúc
lành, xin miễn mọi lời đưa đẩy. Nếu gia đình không cứng rắn chuyện này Nội cháu
sẽ mất phần vãng sanh đó.
Người muốn về với
Phật tối kỵ nhất là sự phân tâm. Vì cảm tình hàng xóm, vì vị nể coi chừng Nội
cháu bị hại mà ngàn đời ân hận. Con cháu vì quá thương mến, mà thiếu trí tuệ,
thường trở thành thủ phạm hại tiêu huệ mạng của người thân trong địa ngục đó.
Phải nhớ, nhứt định phải nhớ kỹ điều này.
Cho nên, ai tới
thăm chỉ được tiếp xúc ở phòng khác, đừng nói lớn tiếng ồn động đến người bệnh,
sau đó dứt khoát mời họ ra về, không được vị nể mà hại đến người thân của mình.
Bà cụ Triệu-Vinh-Phương khi vẫn còn khỏe nhưng đã quyết định vãng sanh, ai tới
thăm cụ nhất định không trả lời, không nói chuyện, không đáp lễ, ai nói gì thì
nói cụ cứ A-di-đà Phật, A-di-đà Phật… Quyết chắc như vậy ai nghĩ gì thì nghĩ,
mình lo vãng sanh trước đã. Chính nhờ vậy mới thoát vòng kiềm toả của thế tục.
Cũng nên nhớ oan gia trái chủ có thể xúi dục bà con tới khóc lóc, than thở, an
ủi, thăm lom, vô tình phá tan tâm nguyện niệm Phật cầu sanh mà cả họ lẫn mình
không hay biết. Phải nhớ, phải nhớ, phải nhớ!
7) Hãy cố gắng
thuyết phục trong gia đình tin Phật, hiểu được sự vi diệu tối thắng của pháp
niệm Phật để mọi người cùng chung chí hướng niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Tin
nhân quả luân hồi. Chết là thần thức rời bỏ nhục thể để tìm thế giới khác sống
chứ không phải là Nội cháu chết. Hiểu được như vậy thì mọi người hãy chung lo
phần vãng sanh cho người, đừng để tâm ý phàm tục khởi loạn mà khóc lóc kể lể,
gây ồn ào. Đây là điều tối kỵ, tối nguy hiểm cho Nội cháu. Tuyệt đối làm sao
chỉ có tiếng niệm Phật rót vào tai người đi, ngoài ra không còn gì nữa cả.
Không được dùng bùa ngải, cầu xin nước Tiên nước Thánh, v.v… để uống.
8) Nếu được ra đi
trong không khí trên thì chắc chắn được vãng sanh. Khi vừa vãng sanh rồi vẫn
tiếp tục niệm Phật. Tuyệt đối không đụng chạm đến nhục thể, cứ để im như vậy
không cần thay đổi tư thế nằm, cứ tiếp tục niệm Phật càng lâu càng tốt, ít nhất
là tám tiếng đồng hồ mới được ngưng. Đừng ngại để lâu thì xác cứng khó sửa, chỉ
cần lấy khăn nhúng nước nóng đắp chỗ khuỷu xương một chốc là mềm lại ngay. Đừng
báo hàng xóm hay sớm, nếu không họ sẽ tới đánh trống, thổi kèn, gây ồn ào sẽ
làm mất phần vãng sanh đó. Tất cả những thứ đó chỉ là tập tục sai lầm của người
đời. Phải niệm Phật để cứu độ người thân của mình, tám giờ sau mới tính đến
chuyện tùy thuận tập quán xã hội cũng không muộn.
Thôi đọc lại thư
cho Nội nghe, đọc từng chữ chứ đừng nói tóm tắt, vì nói tóm tắt không khéo làm
sai ý cậu mà có hại cho người nghe và cháu có lỗi đó. Thôi cháu niệm Phật đi.
Thương cháu nhiều
lắm.
Cậu Năm.
(Viết xong, Úc châu
04/12/01)