Thursday, April 25, 2013

Cụ Triệu-Vinh-Phương biết trước ngày giờ Vãng Sanh


"...Cụ Triệu-Vinh-Phương biết được ngày giờ ra đi cho nên họ hộ niệm trước 3 ngày, còn Nội cháu đâu biết ngày nào đi cho nên phải hộ niệm liên tục, nghĩa là hằng ngày đều tới nhắc nhở và ngồi niệm Phật chung với Nội. Thực tế, như cụ Phương thì không cần hộ niệm cũng được vãng sanh, vì cụ đã được Phật A-di-đà thọ ký, đã được Phật xác định ngày giờ Phật tới tiếp dẫn, cụ đã thành tâm niệm Phật đến nhứt tâm bất loạn thì cần ai hộ niệm nữa."  ("Khuyên người niệm Phật")

Lời Khuyên Cháu Gái - An Lạc và Hiếu Nghĩa



17/12/2010
Cháu Tuyết thương,
Cậu đã đọc kỹ thư cháu, trước tiên cậu khen cháu lắm đó. Một người trẻ mà có tâm hướng Phật trong một môi trường sinh hoạt khó khăn như cháu thật hiếm có và đáng quý. Sự hướng về Phật tu tập không phải là việc tầm thường đâu, đây chính là thiện căn của cháu đã có từ trong những đời trước. Ví dụ như khi cậu Năm viết thư về quê cho ông bà ngoại, thì dì Thứ của cháu đã cảm ứng trước tất cả mọi người. Đây chính là thiện căn phúc đức và nhân duyên của dì Thứ có đầy đủ hơn so với người khác trong gia đình. Trong đời này chúng ta là thân thuộc, vợ chồng, cha con, cậu cháu, anh chị em với nhau… tất cả đều do một duyên nợ từ tiền kiếp nào đó. Sau cuộc đời này có thể còn gặp nhau, cũng có thể không bao giờ gặp lại. Cuộc sống của một chúng sanh trải dài từ thật lâu xa trong quá khứ vô cùng cho đến mãi về tương lai thời gian vô tận. Cháu hãy tưởng tượng có hai sợi chỉ thật dài, bỗng nhiên nó nhập lại một cái gút, rồi sau đó lại tiếp tục đi tiếp. Mỗi sợi chỉ tượng trưng một mạng sống, hai sợi chỉ gút lại là cái duyên nợ ân oán với nhau trong đời này. Thời gian chúng ta ở chung với nhau nó dài cũng giống như cái gút so với chiều dài sợi chỉ vậy cháu à.
Khi cháu hiểu được Phật pháp rồi cháu sẽ thấy rõ ràng những sợi chỉ đó và những cái gút đó. Có sợi chỉ thoát được cái gút đi lên, có sợi chỉ qua khỏi cái gút đâm đầu đi xuống. Nếu thức tỉnh quay đầu thì vượt lên được, còn không thì đi thẳng vào nơi hiểm nạn, khổ đau vô tận. Thư của cháu lời lẽ rất tha thiết, có hiếu có nghĩa. Cậu Năm khen lắm, cậu sẽ theo thứ tự giúp ý kiến giải quyết những khó khăn cho cháu.
Trước hết, “Cháu lo sợ rằng ngày mãn phần của bà Nội cháu đã gần kề”. Đọc đến dòng chữ này làm cậu Năm cũng cảm thấy ngậm ngùi, ngậm ngùi cho Nội cháu, ngậm ngùi cho số kiếp con người. Bao nhiêu năm bôn ba quật lộn với đời, cuối cùng chợt nghĩ lại thì những gì xảy ra trong quá khứ tuồng như một giấc mộng lờ mờ lưu lại trong trí nhớ; cảnh hiện tại như trò huyễn hóa, còn đây mất đó hồi nào không hay; những ước vọng cho tương lai tưởng chừng là vàng son gấm vóc, nhưng đó cũng chỉ là những áng mây trôi, tan hợp hợp tan chập chờn không thực! Đối diện với cảnh sắp chia ly, ai mà không buồn, ai mà không đau xót! Nếu là người không hiểu đạo thì cảnh phũ phàng này sẽ đem đến sự đau khổ vô cùng, thương tâm vô tận, sầu não vô biên! Nhưng hiểu cho thấu kiếp nhân sinh thì đây là lẽ đương nhiên thôi!
Tất cả mọi người ai cũng đang đi về chỗ đó, rồi đây tới ông bà ngoại, tới cậu, tới cha má cháu, tới cháu, tới con của cháu… không ai tránh khỏi. Con người vừa mới sinh ra là đã bắt đầu tìm đường đi vào phần mộ, thì cần gì phải chờ ngày già rồi mới hiểu phải không cháu? Thế nhưng người không biết tu, không hiểu đạo họ sẽ rối bời, tâm hồn bấn loạn, mê mê mờ mờ để đem huệ mạng của mình gởi cho vào nơi hiểm ác. Còn người biết tu thì họ chờ đợi sự ra đi như một cơ hội để giải thoát, vẫy tay vui vẻ chào giã biệt cuộc đời khổ nạn.
Cháu nên biết rằng, một khi mình chọn con đường giải thoát thì mình giải thoát, an hưởng tất cả những sự sung sướng an lạc trên đời; mình chọn con đường đoạ lạc mình chịu đau khổ vô biên, tự mình dìm đời mình trong tăm tối phiền não triền miên vạn kiếp. Cho nên khổ đau hay hạnh phúc đang nằm ngay trong tâm của mỗi một chúng ta. Giải thoát hay đọa lạc đang ở ngay trước mắt, nó chỉ là sự lựa chọn tùy ý của mình mà thôi. Người lâm chung mà được sáng suốt, tâm hồn tỉnh táo biết đường đi họ sẽ chọn lựa con đường tốt: “Đường về Cực-lạc”, người mê muội hoặc không biết đường đi, họ sẽ bị nghiệp chướng lôi kéo vào ngả hiểm nguy: “Đường về đọa lạc”. “Cực-lạc” hay “Đọa-Lạc” là do sở nguyện của mình, chính cái nguyện nó có năng lực rất mạnh, có thể quyết định được tương lai cho mình! Nguyện vãng sanh, mình vãng sanh về với Phật, không có lời nguyện thì mình trôi theo giòng nghiệp lực để thọ nạn.
Chính vì điểm này mà lúc nào Cậu cũng nhắc nhở phải nhớPHÁT NGUYỆN VÃNG SANH. Người hằng ngày phát nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc với Phật, thì họ đã chuẩn bị đợi chờ ngày mãn báo thân để được gặp Phật, thì làm sao họ sợ sệt hay hoảng hốt trước giây phút lâm chung! Chính vì thế mà tất cả những người chí thành niệm Phật đều có tâm hồn tỉnh táo, an vui, tự tại trong phút giây ra đi. Họ bình tĩnh đợi đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn để họ bỏ cái xác thân trần tục lại rồi đi theo quang minh của Phật. Ấy gọi là Vãng-Sanh. Sự thành tựu này, một là do lòng tin kiên cường và chí thành nguyện cầu của mình; hai là nhờ sự gia trì của Phật A-di-đà.
Có nhiều người họ biểu diễn đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, hẹn lại ngày vãng sanh, làm tiệc vãng sanh… giống như trò xiệc vậy. Ví dụ như pháp sư Đế-Nhàn có một người đệ tử, ông ta dốt chữ, không đọc kinh được, không thông minh, không làm gì được cho chùa. Thế nhưng ông ta lại muốn xuất gia, Ngài không cho nhưng ông ta cứ nằn nèo xin hoài, Ngài Đế-Nhàn mới chấp nhận và giao cho ông ta tới một cái am vắng để niệm Phật. Ngài dặn chỉ niệm Nam-mô A-di-đà Phật thôi, ngoài ra có giờ rảnh thì phụ với bà cụ coi chùa lo quét dọn trước sau. Ba năm sau ông ta đứng thẳng chắp tay hướng về sư phụ mà vãng sanh. Trước khi vãng sanh, ông báo cho bà cụ biết để khỏi nấu cơm và hãy mau đi về tự viện báo với sư phụ tới mai táng. Ông vãng sanh đứng im như vậy ba ngày chờ đến khi sư phụ tới lo hậu sự. Đó là sự thật, một sự thật rất khó mà giải thích! Người tu hành mà không lấy đây làm gương, không chịu niệm Phật, không nguyện vãng sanh, đến cuối cùng hầu hết đều chịu chung số phần may rủi như bao nhiêu nạn nhân khác! Thật là tiếc vậy! Hãy liên lạc với cậu An để xin cuộn phim bà cụ Triệu-Vinh-Phương để coi rõ một trường hợp vãng sanh về với Phật. Đây là một chứng cớ sống động, chứng minh những điều cậu đã nói toàn là sự thật. Khó lắm mới có cuộn video này đó cháu, nhớ tìm cách sang ra cho nhiều người coi, đừng để mất bổn.
Đoạn khác cháu viết “…bà Nội cháu từ nhỏ đã theo đạo Phật, nay gặp cậu ghi thư về giúp đỡ, Nội cháu ngày đêm đã niêm Phật”. Câu này cậu Năm thích nhất. Nội cháu ngày đêm đã niệm Phật, chỉ cần như vậy là Nội của cháu đã khởi sự con đường về với Phật rồi đó. Nội cháu đang yếu nặng, đang nằm một chỗ, để chờ ngày mãn phần. Ngay thời điểm cuối cùng của cuộc đời này mà Nội cháu đã gặp được cơ may, phát được tâm nguyện niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-lạc, thì thực sự Nội của cháu đã có thiện căn phúc đức rất lớn, lớn hơn rất nhiều người khác! Trên đời này không dễ có ai được may mắn như vậy đâu. Đây là lời nói thành thực. Đã có rất nhiều ông bà trong dòng họ mình cũng suốt đời tu Phật, nhưng cuối cùng đâu được ai khuyên nhắc để niệm một tiếng Phật hiệu ở phút lâm chung. Hàng triệu, hàng tỉ người trên thế gian này đếm được mấy người niệm được tiếng A-di-đà Phật khi lâm chung đâu cháu? Thật sự Nội của cháu có nhiều thiện căn phúc đức, chính nhờ vậy mà chỉ qua một lời khuyên trong thư mà Nội cháu đã “ngày đêm niệm Phật”.
Người đã có thiện căn phúc đức sẵn, khi nhân duyên đến họ phát tâm liền, họ sẽ có cơ hội về với Phật liền. Nội cháu đang nắm trong tay cái cơ duyên ngàn đời khó gặp, ngàn vàng khó mua, tỉ người trên thế gian này mong cầu không dễ gì có được. Cậu Năm xin nhắn lời chúc mừng Nội cháu. Khi nhận được thư này cháu nhớ đọc cho Nội cháu nghe, nhớ đọc rõ ràng, đọc từng chữ từng câu, không nên nói đại khái, vì nói đại khái sẽ không diễn lại được đầy đủ ý nghĩa của Cậu nói đâu. Dù cậu không trực tiếp thấy Nội cháu trong lúc này nhưng cậu chắc chắn rằng, dù thể chất của Nội cháu yếu đuối bất động, nhưng tinh thần của Nội cháu đang rất sáng suốt, minh mẫn. Cháu đọc thư , Nội cháu sẽ cảm nhận được từng lời từng ý và sẽ liễu ngộ sâu lời thư của cậu, nhiều khi còn hơn cháu nữa đó.
Trong kinh Phật Thuyết A-di-đà, Phật dạy rằng, người nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, lúc lâm chung tâm hồn tỉnh táo, không điên đảo mê loạn. Nội cháu đang nằm im thiêm thiếp nhiều tháng ngày qua, đó là trạng thái hôn mê, nhưng nay Nội cháu đã niệm Phật ngày đêm thì chắc rằng sự hôn mê không còn nữa. Nếu Nội cháu nhứt tâm hướng về Phật A-di-đà, hàng ngày tha thiết cầu nguyện vãng sanh về thế giới Cực-lạc với Phật, hàng ngày thành tâm nguyện xin Phật A-di-đà phóng quang nhiếp thọ, rồi quyết chí niệm A-di-đà Phật, nhất định không để phí một giây phút nào, nhất định không để một ý tưởng nào khác chen vào, nhất định không luyến tiếc cái gì khác, nhất định không thèm cầu sống thêm. Chỉ một lòng một dạ, một đường mà đi, cương quyết xin về với Phật thì cơ duyên thành Phật của Nội cháu đã thành thục rồi vậy.
Ngay khi Nội cháu nghe đọc thư này, nếu Nội cháu quyết thề niệm Phật, nhứt định phải niệm liên tục KHÔNG HOÀI NGHI, KHÔNG GIÁN ĐOẠN, KHÔNG XEN TẠP, thì 10 câu Phật hiệu trước khi chấm dứt hơi thở cuối cùng chắc chắn phải được. Được như vậy thì cậu Năm dám bảo đảm rằng Nội cháu được vãng sanh, chắc chắn được vãng sanh. Đây là lời kinh nói, đây là lời Phật dạy, đây là lời thề của Phật A-di-đà chứ không phải Cậu Năm nói bừa.
Muốn được mười niệm trước lúc lâm chung thì ngay bây giờ phải thực tập liền, thành tâm khẩn thiết, tâm tâm nghĩ tới Phật A-di-đà, niệm niệm hướng tới Phật A-di-đà, khi đó tự nhiên trong lúc niệm câu Phật hiệu, thì lời nguyện vãng sanh Tây-phương nó tự hiện ra, nghĩa là chỉ cần niệm Phật thôi nó cũng có đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh trong đó rồi. Cho nên, Tín-Hạnh-Nguyện tuy ba mà một, được một thì được ba. Đã niệm Phật rồi thì nhứt thiết đừng sợ ma quỷ, không sợ ác mộng, không sợ mộc đè, không sợ oan gia trái chủ, không sợ bất cứ thứ gì khác nữa. Hãy nói thật rõ với Nội cháu là trong những lúc kiệt sức, chóng mặt ù tai, mệt mỏi, mê thấy đủ thứ, thấy Phật, thấy ma, thấy quỷ, thấy thú dữ, thấy mộc đè, v.v… tuyệt đối không lo sợ gì cả, cứ tiếp tục niệm Phật, niệm lớn càng tốt, niệm lớn không được thì trong tâm tiếp tục niệm “A-di-đà Phật, A-di-đà phật…”, cứ thế thì tất cả đều được qua khỏi. Nội đã niệm Phật thì có quang minh của Phật che chở cho Nội rồi, đừng lo ngại chuyện gì cả. Nhớ không cháu?
Đến đây thì cậu Năm nghĩ rằng con đường vãng sanh của Nội cháu đã đặt sẵn trước bàn chân của nội cháu rồi đó. Phẩm vị cao thì không dám bảo đảm được nhưng được về tới cảnh giới Cực-lạc với Phật coi như đủ tiêu chuẩn, Nội cháu sẽ nghiễm nhiên trở thành vị Bồ-tát bất thối tại cõi Tây-phương, từ đó vĩnh viễn không sợ đọa lạc vào địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh nữa, không sợ chết , không sợ khổ đau nữa, chỉ còn một đời chót này nữa thôi thần thông biến hóa, an nhàn tự tại, tu hành chờ thành Phật. Điều này cậu Năm dám khẳng định. Nếu Nội cháu vững lòng tin tưởng, ý chí cương nghị vững như tường đồng, sắt son niệm Phật, một hướng mà đi không chút phân vân, không một chút do dự, không một chút hồ nghi, thì cậu Năm tin rằng chỉ một thời gian ngắn, Nội cháu có thể cảm ứng rõ được Phật lực gia trì, nghĩa là Nội cháu sẽ biết được ngày ra đi. Khi Nội lâm chung, cháu có thể thấy được quang minh của Phật sáng loà cả nhà, hương thơm bay ngát cả trong ngoài. Nếu được như vậy, phẩm vị của Nội cháu thật sự không phải tầm thường đâu. Còn nếu không thấy quang minh, thì ít ra Nội cháu cũng được tỉnh táo niệm Phật vãng sanh.
Ngược lại đến giờ phút này mà gia đình còn lưỡng lự, còn hỏi tới hỏi lui, còn nghi ngờ lời Phật, còn chạy cầu kiến khắp nơi, nhất là Nội cháu không chịu tranh từng hơi thở để niệm Phật thì đành chịu thua, không còn cách gỡ nữa đâu. Cậu Năm cầu Phật lực gia hộ cho Nội cháu, cho cháu và toàn gia đình được sự đại may mắn, đại phước báu.
Về việc “…Cháu sợ trước và sau phút lâm chung sẽ không có người hộ niệm, vì gia đình cháu không như gia đình của bà cụ Triệu-Vinh-Phương”. Đây là mối lo rất đứng đắn! Thật tội nghiệp cho cháu về sự lo lắng này. Đúng ra mối lo này phải dành cho ba cháu mới đúng! Chính ba má cháu mới là người trực tiếp làm tròn đạo hiếu của con và dâu, còn cháu thì nặng về nghĩa nhiều hơn.
Người học Phật phải lưỡng toàn cả Phúc và Huệ. Tu Phúc có 3 phúc 11 điều. Ba phúc là phúc báu Nhơn-Thiên, phúc báu Nhị-Thừa, phúc báu Đại-Thừa, trong đó phúc Nhơn Thiên là nền tảng căn bản nhứt có 4 điều: 1)Hiếu dưỡng phụ mẫu; 2) Phụng sự sư trưởng; 3)Từ tâm bất sát; 4)Tu thập thiện nghiệp. Trong bốn điều trên thì “Hiếu dưỡng phụ mẫu” là tối quan trọng, đặt ở hàng đầu. Một người con mà ăn ở bất hiếu với cha mẹ thì khó có thể mơ ngày thoát ly khổ hải, nếu không nói là phải bị đọa vào cảnh cực kỳ hiểm ác sau này. Trong pháp môn niệm Phật, đức Phật A-di-đà có khả năng cứu độ những kẻ gây tội ngũ nghịch thập ác, nghĩa là những kẻ giết cha hại mẹ mà biết ăn năn hối lỗi. Nhưng cháu nên nhớ cho kỹ rằng, cái lỗi lầm này là ở quá khứ, ở lúc mình còn ngu si mê muội, mình chưa hiểu Phật pháp, chưa rõ luật nhân quả báo ứng, chứ không phải là lỗi ở hiện tại và tương lai.
Trong quá khứ vì vô minh bất giác, tâm tính bị ma chướng ám hại làm cho mê muội thành ra mình làm nên điều ác đức. Nay đã hiểu ra rồi thì phải ăn năn sám hối, tận lực tu sửa thì mới được tha thứ. Phật cứu độ là cứu trong điều kiện này. Chứ như một người không chịu phân biệt đường chánh nẻo tà, tâm hồn cống cao ngã mạn, không lo chu toàn chữ hiếu, tiếp tục làm ác… thì Phật làm sao cứu được?!…
Cụ Triệu-Vinh-Phương biết được ngày giờ ra đi cho nên họ hộ niệm trước 3 ngày, còn Nội cháu đâu biết ngày nào đi cho nên phải hộ niệm liên tục, nghĩa là hằng ngày đều tới nhắc nhở và ngồi niệm Phật chung với Nội. Thực tế, như cụ Phương thì không cần hộ niệm cũng được vãng sanh, vì cụ đã được Phật A-di-đà thọ ký, đã được Phật xác định ngày giờ Phật tới tiếp dẫn, cụ đã thành tâm niệm Phật đến nhứt tâm bất loạn thì cần ai hộ niệm nữa. Nhưng người nhà cẩn thận cũng tổ chức thật đàng hoàng đó là vì lòng hiếu kính của con cháu. Hơn nữa hộ niệm này trở thành công đức tu hành cho chính người hộ niệm. Có lần có người hỏi thầy Ngộ-Thông rằng, “cụ Phương tu cách nào mà ống xương biến thành tượng Phật vậy?”. Thầy trả lời, đó không phải là công phu của cụ mà là công phu của người hộ niệm. Vì cụ đã vãng sanh về với Phật, cụ đã trở thành Bồ-tát ở cõi Cực-lạc rồi, cụ đâu cần cái cục xương đó nữa. Cái tượng Phật bằng xương cụ để lại là để độ cho những người hộ niệm, độ kẻ còn ở lại.
Câu trả lời này rất hay, suy nghĩ kỹ rất có lý. Vì ngay khi Phật phóng quang tới, tất cả những người đang hộ niệm đã trầm mình trong ánh quang minh, họ đã xúc chạm quang minh của Phật thì cũng như được Phật thọ ký rồi. Phật đã để lại hiện tượng: “tượng Phật bằng xương xá lợi” để cho mọi người củng cố niềm tin, tinh tấn tu hành để được vãng sanh sau này. Do đó, đây có thể là do thần lực của Phật A-di-đà để lại chứ đâu phải của cụ Phương.
Nội của cháu hồi giờ theo đạo Phật, có tu hành nhưng, nhưng theo cậu thấy, công phu tu hành không đắc lực cho nên công đức không thể lớn được. Về phúc đức thiện căn thì nhiều đời trước đã có mới khiến Nội cháu niệm Phật, nhưng con cháu trong nhà cũng cần đề cao cảnh giác cao độ về oan gia trái chủ trong đời, đó là những oan nghiệp dây dưa rất lâu rồi khó lường sự trả thù của họ. Nếu tinh thần của Nội cháu, cương nghị, luôn luôn sáng suốt giữ được câu Phật hiệu trong bất kỳ cảnh ngộ nào và trì niệm tới cùng thì khỏi lo chi cả. (Đã nói qua ở trên). Giả sử như Nội cháu yếu quá, chóng mặt, nhức đầu, ói mửa, đau nhức… mà quên mất câu Phật hiệu thì sao? Oan gia trái chủ lợi dụng cơ hội đó nhào vô dụ dỗ, phá hoại, trả thù… liệu Nội cháu có còn bình tĩnh được nữa không? Đây là điều rất nguy hiểm cho Nội mà con cháu cần đặc biệt chú tâm. Hộ niệm rất cần thiết để ứng phó trong những trường hợp này. Hiếu thảo hay không là sự quyết tâm bảo vệ người thân của mình trong những thời điểm này đây. Hộ niệm không phải là niệm thay cho người đi, mà hộ niệm là giúp người ra đi giữ được chánh niệm, luôn luôn nhớ được câu Phật hiệu để được vãng sanh và cũng giúp ngăn cản nghiệp chướng phá hoại.
Trong các thư trước cậu đã nói rất rõ những gì cần làm rồi. Lời của cậu rất chân thành, tha thiết, đầy ắp thiện ý muốn cứu độ Nội cháu. Nhưng dù sao thì cậu Năm cũng chỉ giúp bằng lời chứ không có cách nào hơn nữa. Trước đây vì cậu không biết nên cậu đã tĩnh bơ, an nhiên chứng kiến nhiều người thân trong giòng họ mình ra đi trong đau khổ, trong đoạ lạc. Giờ đây cậu đã hiểu đạo, cậu đã thấy được con đường giải thoát, cậu đã giựt mình tỉnh ngộ, cậu cố gắng tối đa giảng giải rất kỹ, qua nhiều thư từ cậu năn nỉ cạn lời, cậu mần mò tìm cho được những bằng chứng cụ thể để xây dựng lòng tin cho mọi người, cũng chỉ vì một tâm nguyện duy nhứt là cứu độ được người nào hay người đó. Giờ đây, cậu mách nước để cứu Nội cháu, nhưng cứu độ được hay không là lương tâm, trách nhiệm, hiếu nghĩa của ba cháu với phận làm con, má cháu với phận làm dâu, của cô cháu và con cháu trong gia đình. Đã đến nước này mà không chịu tin nữa thì thôi chứ cậu biết làm cách nào hơn, phải không cháu?
Cậu nhắc lại, Nội cháu có cứu được hay không hoàn toàn tùy thuộc vào:
v Một là lòng quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ của Nội cháu;
v Hai là sự hổ trợ tích cực của những người trong gia đình.
Nếu mọi người cho rằng chết là hết, phủi tay cuộc đời là xong nợ, không còn gì nữa cả thì cậu đành chịu thua, không có quyền gì dám xen vào nữa. Ôi! Cậu chỉ đành cầu Phật gia hộ cho Nội cháu, sự may mắn chỉ còn nhờ chính vào sức lực đơn độc của một bà cụ già yếu đuối bị bỏ rơi trong tình trạng quá tội nghiệp, để tự chống chọi với bao nhiêu thế lực hung hiểm, bao nhiêu cạm bẩy ác nghiệt nhất trong đời, mà đúng ra, nếu con cái có lòng hiếu nghĩa, biết thương tưởng đến, thì chỉ cần bỏ ra một chút công sức rất nhỏ có thể cứu được người thân yêu. Đó là một ơn nghĩa vô cùng vĩ đại đối với Nội cháu, muôn ngàn đời Nội cháu không dám quên!
Riêng về phần cháu, cậu rất thông cảm sự khó khăn của cháu. Chỉ cần có tấm lòng tha thiết của cháu cũng đủ làm cho Nội cháu được an ủi rồi. Bây giờ cháu hãy áp dụng châm ngôn “còn nước còn tát”, quyết chí cứu Nội thì phải cố gắng làm hết mình tới đâu hay tới đó. Nếu lòng cháu chân thành, tâm cháu chí thiết, Phật lực sẽ gia trì cho cháu, cậu nghĩ sự cố gắng của cháu không uổng công đâu. Cứu bằng cách nào? Cậu đề nghị mấy điểm sau:
1) Hãy cố gắng dành thì giờ thăm Nội thường xuyên để chăm sóc, giúp đỡ những điều cần thiết như việc đại tiểu tiện, quạt mát sưởi ấm, giúp xoay trở nhẹ nhàng… nói chung làm tất cả những gì Nội yêu cầu. Nếu có thêm người trong gia đình thì thay phiên nhau mỗi lần một người một giờ thôi.
2) Cần cho Nội cháu uống nước thường xuyên để khỏi bị kiệt sức, cứ cỡ 15 phút uống một ngụm nước nhỏ, nên pha với nước cam thật loãng, có thể uống thuốc bổ hoặc chích thuốc bổ và ăn cháo đều độ cho lại sức. Cũng nên hỏi bác sĩ, nhưng phải nhớ trong khi cho uống nước cháu vẫn tiếp tục niệm Phật. Có sức khỏe sẽ trợ lực để niệm Phật tích cực hơn. Việc chích thuốc bổ hay chuyền nước biển để tăng sức rất tốt, nhưng khi biết sắp lâm chung rồi thì không được chích nữa để khỏi gây đau đớn.
3) Mỗi lần tới thăm, thay vì nói: “cháu tới thăm Nội”, hãy nói là: “Cháu tới niệm Phật với Nội đây”. Hãy chuyển chữ “Thăm” thành chữ “Niệm Phật” để nhắc nhở Nội. Đó là hộ niệm. Vì người bệnh bị mệt mỏi thường lười biếng dễ ngủ lì, dễ buông xuôi, thì người chăm sóc cần nhắc nhở, khuyến khích người niệm Phật luôn luôn. Đừng sợ mất ngủ, cố gắng niệm Phật cho tỉnh táo thì tốt hơn. Khuyến khích Nội nếu nhép môi niệm được theo thì tốt, còn không cứ niệm thầm trong tâm cũng tốt. Nhép môi là để vận dụng sức thì sức dễ hồi tỉnh, tâm dễ tỉnh lại hơn, thế thôi.
4) Người bệnh tinh thần mệt mỏi rất dễ hôn mê rơi vào ác mộng. Nhớ theo dõi, nếu thấy Nội đang mớ, ú-ớ là phải đánh thức dậy và ngay lập tức niệm Phật liền. Khuyên Nội cố gắng niệm Phật trong giấc mộng, nghĩa là khi mộng mị thấy bất cứ điều gì cũng cứ niệm Phật. Thấy Phật cũng niệm Phật, thấy ma cũng niệm Phật, thấy thú dữ hay bất cứ thứ gì cũng niệm Phật. Niệm Phật và vững tâm niệm Phật, tuyệt đối không đi theo bất cứ Thần, Thánh, Tiên, Phật nào hết. Không được đi theo ông, bà, cha, mẹ, nào cả vì đó không phải là thực đâu. Phải nhớ, ma có thể giả dạng người thân yêu, giả đến cả Phật để dụ mình chứ không phải tầm thường. Cứ việc niệm “A-di-đà Phật” thì giả thực sẽ biết rõ. Chỉ chờ Phật A-di-đà, chỉ được đi theo Phật A-di-đà vì chắc chắn không ai dám giả Phật A-di-đà cả. Nói rõ cho Nội biết rằng, khi còn niệm A-di-đà Phật thì liền được 25 vị Hộ Pháp bảo vệ, không có thế lực nào dám xâm nhập đến mình. Mình bị ma cảnh là tại vì lúc đó mình quên niệm Phật đó thôi. Cho nên trong giấc mộng cố gắng niệm Phật, niệm trong đó không được, thì khi thức giấc ngay lập tức niệm liền. Chắc chắn không thể lạc đường đâu.
5) Nhắc nhở Nội nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc,đừng nguyện cầu lành bệnh hay sống lâu thêm (vì không ích lợi gì mà còn mang thêm nghiệp báo khó gỡ, khi báo thân đã mãn dù có cầu trăm miễu ngàn chùa cũng không sống thêm được, ngược lại làm hại cho đường vãng sanh). Cho nên nhắc Nội nhớ nguyện vãng sanh mỗi sáng. Mỗi lần tới thăm, trước khi hộ niệm đều mời Nội phát nguyện vãng sanh thêm một vài lần cũng tốt, bằng cách cháu thành tâm kính cẩn, ngồi trên ghế hoặc quỳ gối, chắp tay đọc lời phát nguyện rõ ràng cho Nội đọc theo. Phải chép lời nguyện ngắn gọn rồi để trên đầu giường, ngày nào tới cũng đọc đúng như vậy để nhiếp vào tâm. Có thể nguyện đơn giản như vầy: “Nam-mô A-di-đà Phật, con xin nguyện cầu hết một báo thân này được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế-giới. Ngưỡng nguyện A-di-đà Phật đại từ đại bi phóng quang tiếp dẫn. Nam-mô A-di-đà Phật.”, rồi tiếp tục cùng niệm Phật.
Nên nhớ phải đọc rõ ràng từng chữ, đọc từng câu với lòng thành kính tin tưởng. Niệm Phật cũng phải rõ ràng từng chữ, không được kéo nhựa, không được lờ mờ. Niệm đều đều để cho Nội niệm theo. Nên theo dõi thử Nội cháu thích niệm nhanh hay chậm, thích niệm bốn tiếng hay sáu tiếng, nên niệm bốn tiếng dễ hơn và mạnh hơn. Nguyện nhiều lần để nhắc nhở tâm mình xác định hướng đi rõ rệt.
6) Tuyệt đối không làm ồn, không khóc lóc, không kể lể chuyện thương tâm. Tuyệt đối không để bà con lối xóm lui tới thường xuyên nói chuyện thăm lom và trực tiếp nói chuyện với Nội. Muốn cho Nội được an toàn về với Phật thì dành tất cả thời giờ để Nội niệm Phật, tránh tất cả những thói quen phàm tục tầm thường. Người bước vào phòng Nội chỉ để niệm Phật hộ niệm, xin miễn hỏi thăm, xin miễn chúc phúc chúc lành, xin miễn mọi lời đưa đẩy. Nếu gia đình không cứng rắn chuyện này Nội cháu sẽ mất phần vãng sanh đó.
Người muốn về với Phật tối kỵ nhất là sự phân tâm. Vì cảm tình hàng xóm, vì vị nể coi chừng Nội cháu bị hại mà ngàn đời ân hận. Con cháu vì quá thương mến, mà thiếu trí tuệ, thường trở thành thủ phạm hại tiêu huệ mạng của người thân trong địa ngục đó. Phải nhớ, nhứt định phải nhớ kỹ điều này.
Cho nên, ai tới thăm chỉ được tiếp xúc ở phòng khác, đừng nói lớn tiếng ồn động đến người bệnh, sau đó dứt khoát mời họ ra về, không được vị nể mà hại đến người thân của mình. Bà cụ Triệu-Vinh-Phương khi vẫn còn khỏe nhưng đã quyết định vãng sanh, ai tới thăm cụ nhất định không trả lời, không nói chuyện, không đáp lễ, ai nói gì thì nói cụ cứ A-di-đà Phật, A-di-đà Phật… Quyết chắc như vậy ai nghĩ gì thì nghĩ, mình lo vãng sanh trước đã. Chính nhờ vậy mới thoát vòng kiềm toả của thế tục. Cũng nên nhớ oan gia trái chủ có thể xúi dục bà con tới khóc lóc, than thở, an ủi, thăm lom, vô tình phá tan tâm nguyện niệm Phật cầu sanh mà cả họ lẫn mình không hay biết. Phải nhớ, phải nhớ, phải nhớ!
7) Hãy cố gắng thuyết phục trong gia đình tin Phật, hiểu được sự vi diệu tối thắng của pháp niệm Phật để mọi người cùng chung chí hướng niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ. Tin nhân quả luân hồi. Chết là thần thức rời bỏ nhục thể để tìm thế giới khác sống chứ không phải là Nội cháu chết. Hiểu được như vậy thì mọi người hãy chung lo phần vãng sanh cho người, đừng để tâm ý phàm tục khởi loạn mà khóc lóc kể lể, gây ồn ào. Đây là điều tối kỵ, tối nguy hiểm cho Nội cháu. Tuyệt đối làm sao chỉ có tiếng niệm Phật rót vào tai người đi, ngoài ra không còn gì nữa cả. Không được dùng bùa ngải, cầu xin nước Tiên nước Thánh, v.v… để uống.
8) Nếu được ra đi trong không khí trên thì chắc chắn được vãng sanh. Khi vừa vãng sanh rồi vẫn tiếp tục niệm Phật. Tuyệt đối không đụng chạm đến nhục thể, cứ để im như vậy không cần thay đổi tư thế nằm, cứ tiếp tục niệm Phật càng lâu càng tốt, ít nhất là tám tiếng đồng hồ mới được ngưng. Đừng ngại để lâu thì xác cứng khó sửa, chỉ cần lấy khăn nhúng nước nóng đắp chỗ khuỷu xương một chốc là mềm lại ngay. Đừng báo hàng xóm hay sớm, nếu không họ sẽ tới đánh trống, thổi kèn, gây ồn ào sẽ làm mất phần vãng sanh đó. Tất cả những thứ đó chỉ là tập tục sai lầm của người đời. Phải niệm Phật để cứu độ người thân của mình, tám giờ sau mới tính đến chuyện tùy thuận tập quán xã hội cũng không muộn.
Thôi đọc lại thư cho Nội nghe, đọc từng chữ chứ đừng nói tóm tắt, vì nói tóm tắt không khéo làm sai ý cậu mà có hại cho người nghe và cháu có lỗi đó. Thôi cháu niệm Phật đi.
Thương cháu nhiều lắm.
Cậu Năm.
(Viết xong, Úc châu 04/12/01)

Cư sĩ Lưu Tố Thanh tự tại Vãng Sanh


CƯ SĨ LƯU TỐ THANH
BIỂU DIỂN TỰ TẠI VÃNG SANH
(Chị Của Cư Sĩ Lưu Tố Vân)
Lưu Tố Thanh
Từ lúc sanh ra đến nay tôi rất ngoan, khi còn bé thì nghe lời mẹ, còn bây giờ học Phật rồi, nghe lời của Phật.
Bây giờ tôi chỉ được 2 chữ: ĐỔI TÂM … Tôi phải tự thành tựu, rồi mới có thể thành tựu người khác, cho nên vì sao mỗi một ngày tôi đều cười vui vẻ.
Tôi sống trong thế giới cảm ân, tôi nói với con tôi: “Cuộc đời này mẹ không có hối tiếc điều gì, mẹ cảm thấy rất đủ”; Tôi cười mà vãng sanh, tự tại vãng sanh. Thật ra bây giờ, phẩm vị cũng đã biết rồi… tôi không cần trợ niệm, sẽ đi trong một tích tắc thôi, nhưng vì là độ chúng sanh, cái hình hài này phải đi thôi.
Đứa con thứ 4:
Mẹ ơi! Kiên định tín tâm niệm Phật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhé!
Lưu Tố Thanh:
“Con hãy yên tâm! Mẹ nhất định làm được, chẳng những làm được, mà còn làm cho thật xuất sắc nữa kìa.
Trước hết tôi viết ra cảnh đẹp của thế giới Tây Phương, tướng hảo của trước và sau khi tôi vãng sanh, tôi sẽ dùng cách này biểu pháp, để cho những chúng sanh khổ nạn trong 9000 năm sau được thấy: Ồ! Chỉ cần niệm A Di Đà Phật là thành công rồi”.
Tôi dùng phương pháp đặc biệt gì? Hiện nay chẳng phải tôi vẫn còn thở hay sao, chẳng phải tôi rất khỏe mà ngồi đây hay sao?
Khi chưa đi vãng sanh, tôi dùng phương thức viết kệ tụng, lấy kệ tụng mà miêu tả hết thảy cảnh đẹp quê hương Cực Lạc và cách vãng sanh của tôi. Khi tôi chưa đi, tôi dùng phương thức này độ chúng sanh. Sau khi tôi đi rồi, dùng kệ tụng lúc sanh tiền và tướng lành vãng sanh của tôi đem đối chiếu, quí vị có tin không?
Dùng sự thực để kiểm chứng, tôi đã xem xong 600 tập “Vô Lượng Thọ kinh diễn giải” và 1 lần xem “Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán”, tiếp theo tôi xem “Đại Kinh Khoa Chú” vẫn chưa xem xong hết bộ đĩa này, xem xong những bộ kinh này rồi, nhiều thì tôi nhớ không nổi, tôi chỉ nhớ 2 chữ: ĐỔI TÂM.
Tôi vốn là ngọn cỏ vô danh, tôi từ đại tự nhiên mà đến, và cũng quay về đại tự nhiên, tôi âm thầm đến rồi cũng âm thầm ra đi… Nhưng bây giờ từ phụ A Di Đà giao cho tôi nhiệm vụ quan trọng: Làm chứng cho quyển thiện bản kinh Vô Lượng Thọ của ngài Hạ Liên Cư, làm chứng cho quyển “Đại Kinh Khoa Chú” của ngài Huỳnh Niệm Tổ, và cũng làm chứng cho lời giáo huấn của lão pháp sư Tịnh Không, ngài đã 86 tuổi rồi mà vẫn thương xót và dạy dỗ cho chúng sanh, chúng sanh thì mê hoặc không hiểu, tôi vì 3 người thầy này mà làm chứng.
Cư Sĩ LƯU TỐ THANH TỰ TẠI VÃNG SANH
(Thời gian vãng sanh: 12 giờ trưa ngày 21/11/2012)
VUI VẺ TIỄN CHỊ VỀ NHÀ (Phần 1)
Tỷ tỷ quy tây khứ, muội muội tống tỷ hành
Cư sĩ Lưu Tố Vân chủ giảng. Thời gian ngày 5/12/2012. Địa điểm: TP Cáp Nhĩ Tân, tỉnh Hắc Long Giang,Trung Quốc.
Kính thưa quí vị liên hữu trong nước và khắp nơi trên thế giới, kính thưa nhất thiết chúng sanh khổ nạn tận hư không biến pháp giới. A Di Đà Phật!
Hôm nay tôi ở đây xin thông báo một tin vui cho quí vị: Người chị của tôi Bà Lưu Tố Thanh đã biết trước ngày giờ, vãng sanh Cực Lạc thế giới thành Phật, thượng phẩm thượng sanh, bà đã vãng sanh ngay trong lúc còn sống, là một tấm gương tốt cho chúng ta.
Thời gian vãng sanh cụ thể của bà là đúng vào lúc 12 giờ trưa ngày 21/11/2012, không sai 1 phút, tôi thật sự vui mừng và tự hào cho người chị này. Hôm nay tôi sẽ kể về nhân duyên biểu pháp vãng sanh của chị cho quí vị nghe. Những sự việc cụ thể trong quá trình vãng sanh, mời quí liên hữu xem đoạn phim video ở phần sau.
Trước hết tôi muốn nói đến việc 15 ngày trước lúc chị vãng sanh, đã có những nhân duyên gì. Việc này phải kể lại chuyện xảy ra từ tháng 6 năm nay. Vào tháng 6, tôi đến HongKong tham dự buổi báo cáo về đề tài “Đại Kinh Giải diễn nghĩa”.
Trong buổi thuyết trình đó, rất nhiều đồng tu viết ra những câu hỏi với tôi, đại bộ phận là vẫn còn nghi vấn đối với việc vãng sanh Tây Phương, đặc biệt rất nhiều đồng tu hỏi rằng:
“Có thật là được vãng sanh trong lúc còn sống hay không? “.
Điều nghi vấn này là nhiều nhất. Tôi nhớ khi đó tôi đang đứng giảng, tôi nói với các đồng tu:
“Nếu như A Di Đà Phật cho phép, ngay bây giờ tôi đứng đây biểu diễn cho quí vị xem khi còn sống mà vãng sanh là 1 việc như thế nào”, nhưng Phật A Di Đà không cho, vậy thì phải làm sao? Chắc là phải đợi một cơ hội khác vậy.
Sau khi từ Hong Kong trở về đến Cáp Nhĩ Tân, tôi có nói chuyện điện thoại với chị tôi, vì hai chúng tôi không ở chung với nhau. Tôi kể về cảm nhận trong chuyến đi vừa rồi, tôi nói:
“Chị ơi, việc cần kíp hiện nay là đang thiếu người biểu pháp”.
Chị hỏi: “Tiểu Vân, biểu pháp gì ?”.
Tôi nói: “Biểu pháp khi còn sống mà được vãng sanh”.
Tôi nói nếu Phật A Di Đà cho phép, tôi sẽ là người biểu diễn, nhưng Phật A Di Đà không duyệt, vậy tôi không biết phải kiếm ai để biểu diễn đây? Lúc đó chị ấy có nói một câu:
“Tiểu Vân, em không biểu diễn được, em còn nhiệm vụ khác, em phải lưu lại đây, để chị diễn”.
Khi chị nói lời này, tôi tin vào chị. Chị lớn hơn tôi 4 tuổi, có thể nói từ nhỏ chúng tôi đã cùng nhau lớn lên, đối với con người và cá tánh của chị , tôi hiểu rất rõ, tôi biết khi chị nói thì sẽ giữ lời.
Với 1 câu nói “lần này để tôi diễn”, đó là nhân duyên ban đầu cách biểu pháp vãng sanh của chị. Vài tháng sau chị có âm thầm chuẩn bị việc biểu pháp này hay không thì tôi không biết, vì chúng tôi không có liên lạc.
Nhưng 5 ngày trước lúc vãng sanh, những gì chị diễn, tôi nghĩ rằng chị đã có sự chuẩn bị, chị đã quyết tâm làm cho bằng được, nhất định phải biểu diễn cho tốt vai diễn còn sống mà vãng sanh này, chị là người có trách nhiệm.
Lần thứ nhứt khi tôi biết tin thời gian chị vãng sanh, đó là ngày 08/11/2012 năm nay. Ngày 07/11 tôi đến thăm một người bạn cũ bị bệnh, và thăm một người thầy.
Người bạn cũ của tôi bị đau, phải mổ đi hai phần ba dạ dày, trước đó tôi có gọi điện hỏi thăm tình hình sức khỏe, bạn ấy nói không được khỏe, đã mổ hơn 2 tháng rồi mà vết mổ không lành vẫn bị hở, tôi còn đùa rằng: “Không lành cũng chẳng sao, cứ như là mở cái cửa sổ, để không khí được lưu thông”, nói xong cả 2 đều cười.
Người khác mà tôi thăm là thầy dạy tiểu học lớp 3, tôi nghe nói sức khỏe thầy không tốt, tôi nghĩ mình nhất định phải đến thăm thầy. Tại vì sao? Vì có 1 thầy dạy tiểu học khác, đã vãng sanh năm ngoái, sau khi vãng sanh, những thầy khác nói lại với tôi:
“Tố Vân à, thầy giáo vãng sanh chỉ còn một điều nuối tiếc là không có gặp cô lần cuối”. Tôi tính nhẩm xem khoảng thời gian đó, thật ra khi đó tôi đã về Cáp Nhĩ Tân, nhưng tôi không biết tin thầy sắp mất, cho nên đã không được gặp mặt lần cuối.
Vì vậy tôi nghĩ: bây giờ thầy này bị đau, tôi không thể để lại điều nuối tiếc nữa, cho nên ngày 7/11 vừa rồi tôi đã đến thăm. Buổi sáng tôi sẽ ghé thăm bạn tôi, buổi chiều sẽ ghé thăm thầy. Vì sao phải thăm thầy vào buổi chiều?
Vì tôi muốn được ở bên thầy lâu một chút, đã rất lâu chúng tôi không gặp nhau rồi. Trưa hôm đó, tôi không muốn làm phiền người bạn cũ, không thể ở lại dùng cơm trưa, tôi cũng không muốn phiền thầy tôi, vì ông đã 80 tuổi rồi, không để ông chuẩn bị cơm được.
Tôi nghĩ hay là cứ qua nhà chị tôi ăn 1 buổi vậy. Tôi gọi điện và bà ấy có ở nhà, nếu không thì không ai mở cửa. Tôi nói sẽ qua ăn bữa cơm, khi đến nơi tôi nhìn chị, thấy bà gầy hơn trước, tôi hỏi: “Lão Bồ Tát à, sao dạo này gầy đi vậy, có phải muốn về nhà rồi không?”. Chị tôi cười và nói rằng: “cũng sắp đi rồi”.
Đó là ngày 7/11, tôi ở lại ăn bữa cơm khoảng nửa tiếng đồng hồ, sau đó đến nhà thầy, rời nhà thầy lúc khoảng 3 – 4 giờ chiều, tôi trực tiếp về lại Cáp Nhĩ Tân, đó là tình hình tôi gặp chị vào ngày 7/11.
Ngày 8/11, khi tôi lạy Phật, vì mỗi sáng tôi đều lạy 3 tiếng đồng hồ, khi đó tôi có một cảm giác rất lạ, từ năm 2003 đã có cảm giác này, tôi không thấy và cũng không nghe nhưng tôi hiểu đó là tình trạng gì, có một âm thanh nói với tôi rằng:
“Chị của bà không phải người thường, bà ấy là vị Bồ Tát đến độ chúng sanh, bà gần viên mãn rồi, ngày vãng sanh sẽ ở trong vòng 1 tháng, không cần trợ niệm, tự tại vãng sanh, Phật Bồ Tát sẽ an bày tất cả”.
Khi đó tôi nhìn đồng hồ là khoảng 6 giờ 15 sáng, tôi sợ mình quên, tôi đã viết nguyên văn câu này vào mảnh giấy. Hôm đó là ngày 8/11, là lần đầu tiên tôi nhận được thông tin bà chị sắp vãng sanh.
Nếu nhẩm lại số ngày đó là còn khoảng 1 tháng, đó là khoảng thời gian từ 8/11 đến 8/12, đó là khoảng thời gian đại khái, không phải là 1 ngày chính xác.
Lần thứ 2, tôi nhận được thông tin vãng sanh của bà chị là ngày 15/11, cũng là lúc tôi lạy Phật vào buổi sáng, thông tin cho tôi biết lần này là 1 dãy số mật mã, đó là 2012112112phía sau là tên của chị tôi Lưu Tố Thanh.
Tôi đã lấy 1 tấm giấy nhỏ, viết dãy chữ số này vào và cất đi, tôi không có nói với ai, cũng không có nói với chị, chỉ một mình tôi biết việc này.
Tôi giải dãy số mật mã này là 2012 là biểu thị năm, 11 là biểu thị tháng, 21 là biểu thị ngày, và số 12 phía sau là lúc mấy giờ, đó là 12 giờ trưa, liên kết lại sẽ là 2012112112.
Tôi còn nghĩ: Sau này sẽ kiểm chứng lại dãy mật mã này, xem có phải là ý nghĩa này hay không? Đó là việc phát sinh vào ngày 8/11 và 15/11, đó là quá trình cả 2 lần nhận được thông tin vãng sanh của người chị là như vậy.
Trưa ngày 16/11, chị gọi điện cho tôi, trong điện thoại nói rất ngắn gọn, nguyên văn là như vầy: “Tiểu vân, báo gấp, gia tốc em nghe có hiểu không?”.
Tôi nói: “Em hiểu rồi”, sau đó thì chị cúp máy. Vì hôm trước tôi đã biết thông tin chị vãng sanh, cho nên khi chị nói lời này tôi nghe qua thì hiểu, nói rằng: “báo gấp, gia tốc”, hỏi tôi nghe có hiểu không?
Tại sao lại có 2 chữ gia tốc? Tôi sẽ nói cho mọi người nghe: Vì bên Cẩm Châu có 1 đồng tu nam 40 tuổi, bị ung thư đã di căn, anh ta muốn gặp tôi. Vợ anh ta đã viết 1 bức thư cho hội Tịnh Tông bên Hongkong, nói chồng cô ấy 40 tuổi, mang bịnh ung thư đã di căn, không còn nhiều thời gian nữa, anh ta mong được gặp mặt Dì Lưu.
Bên học hội đã chuyển bức thư này cho tôi, lúc đó tôi vừa từ Hongkong về Cáp Nhĩ Tân 10 ngày, cho nên tôi đã mua vé tàu đi Cẩm Châu để gặp bạn tu này. Người này trẻ hơn tôi, chỉ mới 40 tuổi, vả lại thời gian học Phật cũng không được dài, đối với cái chết vẫn còn sợ hãi, đối với việc vãng sanh không đầy đủ niềm tin, đó là trường hợp của anh ta.
Sau khi gặp tôi thì anh ta sanh ra tánh ỷ lại, cứ nghĩ rằng có Dì Lưu ở bên thì sẽ được vãng sanh Cực Lạc, cậu ấy đã gọi điện cho tôi nhiều lần, sau này tôi thấy như vậy hoài không ổn, cứ ỷ lại vào tôi như vậy sẽ ảnh hưởng việc vãng sanh của anh ta.
Tôi nói anh ta đừng nên gọi cho tôi nữa, mà phải nhớ Phật A Di Đà. Tên anh ta là Kiên Chí, Kiên chí nói với tôi: “Tôi không nhớ A Di Đà Phật, tôi nhớ Dì Lưu thôi”. Tôi bảo: “Nếu cậu nhớ tôi, cậu không đi Cực Lạc thế giới không thành Phật được đâu, cậu phải nhớ phải niệm Phật A Di Đà mới được”.
Tuy rằng cậu ta cũng chịu nghe lời và nói: “Được, sau này sẽ nhớ Phật, không nhớ Dì Lưu nữa”, nhưng tôi vẫn cảm giác được cậu ấy vẫn nhớ tôi. Sau đó cậu cũng gọi lần nữa, và nói: “Dì Lưu ơi! Con đã 2 lần gặp Phật A Di Đà, nhưng con không có đi theo”.
Tôi bảo: “Đã gặp Phật 2 lần rồi, sao cậu không theo Phật?”. Cậu ta nói: “Con nghĩ con chưa được gặp Dì, đã 2 lần gặp Phật, chưa gặp Dì Lưu nên 2 lần cũng không đi”.
Tôi mắng: “Cậu không nên bỏ lỡ cơ hội lần thứ 3 nữa, đã 2 lần Phật đến rước cậu không đi, lần thứ 3 mà bỏ lỡ là Phật không đến rước nữa, cậu sẽ không được về nhà đâu”.
Sau đó cậu lại gọi cho tôi, tôi mới nghĩ hay là cho cậu nói chuyện với chị tôi, vì chị tôi bị ung thư xương thời kỳ cuối, đã di căn đến toàn thân, “cậu hãy coi tâm trạng bà ấy như thế nào, tôi sẽ cho cậu số phone của chị tôi, tôi gọi cho chị ấy trước, 10 phút sau cậu hãy nói chuyện với chị”, cậu ta đồng ý.
Tôi nói cậu ấy hãy gọi bà là Dì Lưu lớn, còn tôi là Dì Lưu nhỏ. Cúp máy xong tôi gọi cho chị tôi, nhờ chị khai thị cho một đồng tu bên Cẩm Châu này, chị tôi đồng ý, sau đó Kiên Chí gọi cho chị tôi.
Tôi nghe nói hai người đã nói chuyện điện thoại cả tiếng đồng hồ, trong điện thoại chị tôi sách tấn cậu ấy nên khởi tín niệm như thế nào, cầu vãng sanh như thế nào, “nhất định phải về nhà gặp từ phụ A Di Đà”.
Sau đó chắc cậu ấy có nói những lời không được kiên định lắm, vẫn còn nghi ngờ, chị tôi nói: “Vậy thì để Dì Lưu lớn sẽ dẫn con cùng về”. Nghe xong cậu ta mừng lắm, sau đó cậu gọi cho tôi và báo: “Dì ơi! Dì Lưu lớn đã hứa dẫn con cùng về, lần này con có tín tâm và thấy chắc ăn rồi “. Việc này cứ trôi qua như vậy …
Sau đó vài ngày, vợ cậu ấy lại gọi cho tôi, nói: “Dì Lưu ơi, tình hình của Kiên Chí thật không bình thường”. Tôi hỏi như thế nào, cô ấy bảo cậu ta cứ như bị hôn trầm. Tôi dặn là không được làm phiền cậu ấy, rồi hỏi cái này cái kia. Có thể mọi người nhìn thấy cậu bị hôn trầm, nhưng tôi biết cậu ấy không phải như vậy.
Vợ cậu ấy nói: “Có một ngày ảnh nói với chúng tôi, khi ấy có mẹ, em trai ảnh và tôi đứng cạnh, thì anh ấy nói: “Tôi đã được vãng sanh rồi, mọi người có biết không?”, chúng tôi nhìn qua nhìn lại và bảo: “Đâu có đâu, chúng tôi không biết, vãng sanh lúc nào, anh vẫn còn nằm trên giường mà”.
Anh ấy nói: “Tôi đã vãng sanh rồi, sao mọi người không biết”. Sau đó cậu chỉ người em trai và nói “chú ấy biết nè”. Người vợ mới hỏi em chồng rằng: “Chú có biết anh chú đã vãng sanh không?”.
Chú ấy nói: “Tôi không biết, nhưng đêm qua tôi mơ thấy anh trai đứng trên 1 tòa sen, nhưng không phải ở mặt đất nơi này mà là trên không trung”.
Người em trai này không có tin Phật, nên không biết mà nói anh đứng trên không trung một mình, bên cạnh không có ai”. Tôi hỏi: “Không biết có phải Kiên Chí còn đang đợi Dì Lưu lớn hay không? Cho nên cứ đứng đó một mình”.
Tôi kêu vợ Kiên Chí nói cậu ấy đừng đợi Dì Lưu lớn nữa, cứ đến thế giới Cực Lạc trước, sau đó quay về đón Dì Lưu lớn chẳng phải cũng như nhau hay sao. Đó là lần tôi nói chuyện với vợ anh ta.
Sau đó tôi gọi cho chị tôi, nói rằng: “Kiên Chí gặp Phật rồi còn chưa chịu đi, khi xưa thì nói chờ tôi, còn bây giờ thì nói chờ chị, gặp chị mới chịu đi”. Chị tôi nói: “Ôi, cái cậu này, nếu vậy chắc tôi phải đi gấp thôi”.
Cho nên ngày 16 chị nói với tôi 2 chữ “gia tốc”, không biết có phải là do nhân duyên này không? Nhưng bây giờ thì không thể kiểm chứng nữa bởi vì chị đã vãng sanh rồi. Tôi thì nghi là do nhân duyên như vậy, vì bà biết Kiên Chí đang đợi bà, đó là nhân duyên thứ nhất.
Nhân duyên thứ 2 của chữ “gia tốc” là bởi chị ấy còn có một sứ mạng mới, phải đi cho mau chóng, và phải mau chóng quay về đây. Về đây để làm gì, rồi mọi người sẽ hiểu.
Sau khi coi xong đĩa vãng sanh của bà, chắc sẽ hiểu được vì sao bà ấy phải ra đi sớm. Tôi có thể nói với mọi người bà vãng sanh lần này là bà đã hy sinh 10 năm tuổi thọ để vãng sanh, điều này tôi đã biết trước, đáng lẽ bà còn sống thêm 10 năm thọ mạng nữa, nhưng bà đã vãng sanh sớm để về nhà.
Về để làm gì? Để tiếp nhận 1 sứ mạng mới, sứ mạng này cũng là có liên quan đến cõi Ta Bà này, cho nên mới nói là“chóng đi chóng về”. Bây giờ bà đã chóng đi rồi, có phải chóng quay về không? Tôi thì không biết, nhưng cảm nhận chị đã quay về, đó là nhân duyên như vậy.
Dưới đây tôi kể tiếp cho quí vị: Trưa ngày 16 tôi nhận được điện thoại của chị báo gấp, bỗng dưng tôi nghĩ đến việc phải thu hình cho chị ấy, hồi giờ tôi chưa từng làm qua chuyện này, tôi chưa quay phim cho người nào hoặc là sắp xếp cho người quay phim, đây là lần đầu tiên tâm trí tôi bỗng nghĩ đến việc này, phải quay phim cho chị.
Tôi gọi điện cho Tiểu Tống, Tiểu Tống là người mà trong đĩa “Tín Niệm” tôi có nhắc đến, là lúc tôi và cô ấy cùng đưa Trương Vĩnh Chân vãng sanh vào năm 2003. Khi nhận được điện thoại tôi, cô ấy rất mừng, vì đã lâu rồi chúng tôi không gặp nhau, cả hai chúng tôi đều bận việc của mình nên không có liên lạc.
Cô ấy báo cho tôi 2 việc: Việc thứ nhất là vài hôm trước vừa đưa 1 người vãng sanh, đó là 1 người bà con tên Vương Chiếu Phụng. Cô ấy nói người đó vãng sanh rất thù thắng, khi cô ấy nói đến chữ “rất thù thắng” thì tôi tiếp lời rằng:
“Tiếp theo còn có 1 ca càng thù thắng hơn kìa”, tôi không hiểu vì sao tôi lại nói như vậy. Sau đó cô ấy lập tức tiếp một câu là: “Có phải là chị cả không?”. Tôi bảo: “Cô thật là có trí tuệ”; đó là những lời đối thoại của 2 chúng tôi. Mọi người coi đó có phải là sự trùng hợp hay không? Cô ta vừa nói thì tôi tiếp lời, khi tôi nói xong thì cô ấy tiếp lời, đúng là tuyệt diệu.
Đó là việc thứ nhất cô ấy báo tôi biết. Việc thứ hai cô ấy nói là: “Chắc bây giờ tôi sẽ có nhiệm vụ mới”. Tôi hỏi: “Có nhiệm vụ mới nào?”. Cô kể hôm qua cô ở Song Thành, vì nhà bên Cáp Nhĩ Tân là ở chung với đứa con trai, bên Song Thành là ở cùng Ông Vương chồng cô ta, cho nên cô thường lui tới 2 nơi; cô ấy nói thì nhận được 1 thông tin:
Vi Đà Bồ Tát đến nói với tôi 1 câu, nói là “ý chỉ của Bồ Tát, nên sự chuẩn bị, đợi mà xuất phát”, tôi không hiểu lắm hỏi lại ông Vương. Ông ấy bảo là cấp trên chỉ thị cho cấp dưới nên có sự chuẩn bị, có thể sẽ có nhiệm vụ mới, khi có lệnh thì lập tức xuất phát. Cô ấy hỏi có phải là ý nghĩa này không?
Tôi nói: “Đúng rồi”. Cô ấy bảo tối hôm qua cô mới về đến Cáp Nhĩ Tân, mà bây giờ dì đã gọi điện, không biết dì gọi có chuyện gì không? Tôi nói cô ấy tối nay qua nhà tôi, sáng mai cùng đến nhà chị tôi quay phim. Cô ấy hỏi: “Ồ, có phải đó đúng là câu Vi Đà Bồ Tát đã nói với tôi không?”. Tôi trả lời rằng: “cũng có thể là như vậy”.
Thế là đêm ấy cô ấy qua nhà tôi nghỉ. Sáng ngày 17/11, chúng tôi cùng nhau đến nhà chị tôi, bắt đầu quay phim. Đó là việc xảy ra trước lúc vãng sanh 5 ngày. Biểu pháp vãng sanh được bắt đầu từ ngày 17/11 đến ngày 21/11, thời gian là 5 ngày. Trong 5 ngày biểu pháp này thật là tuyệt diệu.
Quí vị xem phim thì rõ, những điều cần giải thích, ở đây tôi xin giải thích tóm gọn. Đó là nhân duyên biểu pháp của chị tôi diễn ra như vậy.
17/11 tôi và Tiểu Tống qua xem chị tôi như thế nào, thấy da dẻ chị hồng hào, tinh thần sáng suốt. Tôi mới nghĩ: Ồ! Lão Bồ Tát này nói được làm được, nói biểu pháp là diễn được cảnh tượng hoàn mãn như thế, đó là tâm tôi nghĩ vậy thôi, cũng không có nhiều thời gian nói với chị tôi điều gì.
Biểu pháp được bắt đầu như vậy. Tôi đã có một sự tổng kết trong 5 ngày vừa qua, quay 5 ngày biểu pháp này là ghi lại ký sự lịch sử, có thể để lại một kỷ niệm vĩnh cửu cho người hậu thế, vĩnh cữu …
Giá trị của nó là không thể tính lường được. Có đồng tu sẽ hỏi rằng: “Trong 5 ngày này đã biểu được pháp gì cho chúng tôi?”. Trước khi xem phim, tôi nói sơ lược qua trong 5 ngày này chị ấy đã biểu pháp gì?
Biểu Pháp thứ nhất: Học Phật vui vẻ, chúng ta tu phải vui vẻ, thoải mái, không nên cứ ủ rũ, cộc cằn, tu mà không khỏe mạnh, ai mà tu nữa.
Vì thế chị tôi đã biểu pháp tu vui vẻ này. Phải vui vẻ như thế nào? Suốt ngày nói cười vui vẻ; Cho đến trước lúc vãng sanh, chị gặp các đồng tu cũng vui vẻ như vậy, không một chút lưu luyến, sầu khổ biệt ly. Đó là cách biểu pháp thứ nhất: Tu một cách vui vẻ.
Biểu Pháp thứ hai: Vạn duyên buông xả. Khi đó có đồng tu hỏi chị tôi: “Bà đã buông xả hết chưa?”. Chị nói: “Các bạn đang khảo tôi đó sao? Các bạn nhìn vào cách ăn nói của tôi còn có gì gọi là lưu luyến nữa không?”.
Quí vị thấy đó…chị đã dùng hành động thực tế biểu pháp vạn duyên buông xả này. Chị có gia đình: Chồng và 3 đứa con gái, 1 con trai, con dâu con rể, thật là đông đủ, cũng như chúng ta không khác, vậy mà bà cũng hoàn toàn buông xả. Đó là pháp thứ hai.
Biểu Pháp thứ ba: Pháp Niệm Phật thành tựu. Điều này rất quan trọng! Chỉ với 1 câu Phật hiệu, đã vãng sanh thành Phật. Tôi biết chị tôi không tụng kinh nhiều; tụng kinh Vô Lượng Thọ, nhà cô ấy không có điều kiện, vì nhà chị rất nhỏ lại đông người, cũng không có thời gian để tụng.
Có dạo chị có qua bên nhà tôi ở 2 lần, mỗi 1 lần là 5 tháng, tổng cộng là 10 tháng. 10 tháng này chị tụng kinh Vô Lượng Thọ mỗi ngày 1 bộ, ngoài ra chị không có tụng kinh khác. Chị nghe kinh khoảng 2 năm nay; “Đại Kinh Giải diễn nghĩa” của Lão Pháp Sư chị đã nghe hết, “Đại Kinh Khoa Chú” thì vẫn chưa nghe xong.
Nói tóm lại, chị nghe kinh và tụng kinh không nhiều, duy nhất là niệm 1 câu A Di Đà Phật, chị đã niệm Phật thành Phật, là một tấm gương điển hình nhất.
Còn nữa là pháp tự tại vãng sanh. Đây là biểu pháp quan trọng nhất! Vì khi tôi từ Hong Kong về đây có nói là cần một người biểu diễn vãng sanh trong lúc còn sống, chị đã diễn vaiTỰ TẠI VÃNG SANH này thật xuất sắc, không có một sơ suất nào.
Từ ngày 17, chúng tôi đã bắt đầu quay phim cho chị, xuyên suốt đến tận lúc chị vãng sanh, không sai 1 phút. Thật tuyệt vời! Tôi chỉ đơn giản dùng 2 câu để nói:
“Đó là trình độ biểu diễn của chị”, khi chỉ còn vài phút nữa chị đã nói bằng lời: “Chỉ còn lại vài phút nữa”, rồi chấp hai tay lại nói cám ơn mọi người đã đến tiễn chị. Sau đó lại nói: “Bây giờ tôi đã đứng trên tòa sen”, qua 1 lúc chị lại bảo: “Tôi đang đứng gần Phật A Di Đà”.
Khi còn 2-3 phút thì vãng sanh chị đã diễn bằng tay, vì trước đó tôi có nói với chị: “Khi chị lên tòa sen rồi, tôi không nhìn thấy được, vả lại khi đó rất có thể đã mệt nói không được, chị dùng cách gì để ra dấu đây, hay là ra dấu bằng cách đưa ngón tay cái ra”. Đó là ám hiệu giữa chúng tôi với nhau, khi tôi nhìn thấy đưa ngón cái ra là biểu thị chị đã lên tòa sen rồi, chị tôi đồng ý.
Cho nên chị đã dùng ám hiệu này, chị là người giữ lời hứa đến như vậy; Ám hiệu thứ 2 là hai tay chấp lại như búp sen, đó là nói “hoa khai kiến Phật”, sau đó thì ra dấu OK, chị nằm nghiêng bên phải, nhưng vẫn giữ ám hiệu này dài đến khoảng 5 phút. Không biết có phải chị sợ tôi không hiểu chăng?
Lúc ấy tôi nói “viên mãn rồi” chị mới từ từ buông xuống, sau đó ra dấu chào mọi người hẹn gặp nhau ở Cực Lạc thế giới, lúc đó là đúng 12g trưa, không sai 1 phút, chị đã vãng sanh trong lúc còn sống như vậy.
Khi quí vị xem phim nên để ý cảnh cuối, khi đầu chị nghiêng sang một bên, hãy nhìn cổ chị xem, hơi thở vẫn còn không bị tắt. Đó là cách diễn pháp vãng sanh trong lúc còn sống, không tắt thở mà đã đi rồi.
Phần sau vẫn còn 1 pháp. Đó là Bồ Tát diễn pháp từ bi đến cực độ, diễn xong cảnh tự tại vãng sanh Cực Lạc rồi; Bạn có tin không? Khi ra đi, khuôn mặt vẫn cười, quí vị có thể thấy trong phim; Tiếp theo đó là quay trở về, về để nói với mọi người điều gì? Về để nói rằng bà vãng sanh đúng giờ và mau chóng quay về Ta Bà vì vẫn chưa diễn xong.
Sau khi quay về Ta Bà rồi là diễn cảnh chết đau khổ của lục đạo luân hồi, diễn tứ đại phân ly, đó là từ 12g đến 8:45 hôm sau, diễn cảnh khổ của cái chết. Khi đó tôi và các đồng tu đều ở đó niệm Phật, tôi như một người nói pháp giữa hiện trường, hỏi mọi người có thấy không?
Buổi sáng là diễn pháp tự tại vãng sanh, bây giờ là diễn pháp tứ đại phân ly, chị vừa diễn thì tôi vừa nói, hai chúng tôi phối hợp khá ăn ý. Nhưng thú thật, nhìn cách diễn này thật đau lòng, rõ ràng là tôi đang giải thích cách biểu diễn, cũng đau lòng đến như vậy.
Sau đó tôi và Tiểu Tống cùng nói, kêu con gái và cháu của chị ra ngoài đi, đừng ngồi ở đây nữa, thật không nỡ lòng nhìn thấy cảnh này, nhưng Bồ Tát cứ diễn 1 cách tuyệt vời. Buổi sáng thì diễn 1 pháp, buổi chiều diễn 1 pháp, thật sự là từ bi đến cực độ. Nếu không phải Bồ Tát tái lai, thật không thể diễn được như vậy. Nếu xem cảnh này mà còn có người không tin, thì quả là ngu muội đến tột độ.
Đó là 5 ngày biểu pháp của chị. Cảm nhận của tôi như thế nào? Thật là quá tuyệt vời! Không phải người đó là chị tôi mà tôi nói như vậy. Khi tôi xem chị diễn, tôi mới biết tấm lòng của Bồ Tát thật từ bi. Khi xưa chúng ta thường nói “tấm lòng của Bồ Tát” … nhưng chưa hiểu được đến trình độ nào, bây giờ thì tôi mới hiểu tấm lòng của chị tôi đúng là tấm lòng của Bồ Tát. Không cần giải thích về những điều khác, ai có thể làm được như vậy, trừ phi đó là Phật, Bồ Tát .
Trước đây tôi cũng đã nói với quí vị: Khi xưa tôi thường ăn hiếp chị tôi, khi lớn rồi tôi luôn quản lý chị, đến tận bây giờ chị vẫn nghe lời tôi, mấy chục năm nay chúng tôi vẫn như vậy, việc gì chị tôi cũng nghe tôi.
Trước lúc vãng sanh 5 ngày, tôi không nhớ ngày nào, khi nói chuyện với đồng tu, chị đã nói 1 câu: “Hồi giờ tôi cứ bị em gái tôi ăn hiếp, bây giờ cô ấy không thể làm thế nữa, tôi đã ngồi lên tòa kim cang rồi, đến phiên tôi quản lý cô ấy rồi”, nói xong chị cười hà hà. Tôi nắm lấy tay chị dặn rằng: “Khi qua thế giới Cực Lạc chị đừng không nhận tôi nhé!”. Chị trả lời: “Không thể nào, không thể nào”. Suốt những ngày đó đều cười vui vẻ.
Suốt từ đó đến nay, tôi nhìn thấy chị là một bà lão yếu đuối, ai muốn làm gì cũng được, chịu đựng suốt cuộc đời, không hề tranh chấp với ai, bây giờ đã thành Phật rồi. Khi nói đến việc này, chị tôi cười ha hả và bảo rằng: “Chị đã lời to rồi”.
Khi xem phim chị đã nhiều lần nhắc như vậy: “Tôi đã bị hà hiếp và cam chịu suốt một đời, sau cùng tôi đã thành Phật về Tây Phương rồi, quí vị xem có phải tôi được lời to rồi đúng không?”. Y như lời Lão Pháp Sư nói vậy. Khi tôi xem từng cảnh từng cảnh diễn của chị, tôi nghĩ một người chị nhu nhược như thế, nhưng bây giờ đã cho tôi một cách nhìn hoàn toàn khác. Ôi! … Chị ơi! Chị thật là tấm gương tốt để tôi noi theo, đem so sánh với chị tôi thật là hổ thẹn.
Có đồng tu bên Hong Kong hỏi: “Hãy nói xem bà chị của cô là người như thế nào?”. Tôi thường dùng mấy chữ này để hình dung: “Chị đã chịu đựng, bị hà hiếp suốt một đời, nhưng sau cùng chị đã được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc rồi… đó là tất cả những gì của chị tôi”. Hoặc giả có người muốn biết tỉ mỉ hơn, tôi sẽ kể cụ thể để quí vị được hiểu rõ hơn:
Điều thứ nhất: Nói khái quát về chị tôi, đó là 1 con người bình thường nhất trong mọi người bình thường, nhiều đồng tu cứ nghĩ: “Ồ!…Người ta là Phật gì, Bồ Tát gì, chúng ta làm sao bắt chước được?”. Chúng ta là phàm phu, và chị tôi cũng là một người phàm phu điển hình nhất, không có gì đặc biệt hoặc xuất sắc.
Khi nói chuyện với các đồng tu, chị nói tôi là bạch dương của tham thiên, còn chị chỉ là ngọn cỏ nhỏ. Đúng là như vậy, vì ngọn cỏ thì ai muốn dẫm đạp lên như thế nào cũng được. Tôi nói nếu muốn tìm một người bình thường hơn chị tôi chắc cũng không dễ. Khi xưa nghe Lão Pháp Sư khai thị, Sư Phụ thường nói người học Phật phải có sự chuẩn bị tốt, phải chịu nhịn nhục đến cùng.
Nói thật tôi nghe đến đây không hiểu rõ lắm, tôi nói sao người học Phật lại xui xẻo thế, chịu nhịn nhục đã là quá lắm rồi, sao lại phải chịu nhịn nhục đến cùng, thì chính chị đây là người điển hình làm được điều này, nhiều khi tôi nghĩ sao chị khờ quá.
Quan ải khó nhất là nhẫn nhục, rốt cuộc chị tôi đã qua được quan ải này rồi, nếu không phải như vậy, chưa chắc kiếp này chị được thành Phật. Tôi nói khái quát về chị điểm thứ nhất đó là: Chị là một con người bình thường.
Điểm thứ hai: Chị là một người làm trọn trách nhiệm của mình. Chẳng phải Ấn Quang đại sư đã dạy chúng ta phải làm tròn trách nhiệm của mình hay sao? Nếu nói về chị, thật không quá đáng một chút nào. Sao lại nói chị là người làm tròn trách nhiệm?
Ví dụ như trách nhiệm của một người con đối với cha mẹ, chị đã làm tròn, và còn làm rất viên mãn; cha mẹ chúng tôi không có con trai, chỉ có 2 chị em chúng tôi, từ lúc bé cho đến sau khi lập gia đình, chị đã chăm sóc cha mẹ cho đến khi mãn phần, lâu nay chị vẫn sống chung với cha mẹ, lập gia đình rồi vẫn không có rời đi nơi khác, vì thế đối với việc hiếu dưỡng cha mẹ, chị đã làm tròn.
Còn tôi thì thua xa, không sao mà sánh được với chị, vì khi ấy tôi quá mê công việc, hằng ngày cứ lo đi làm, nhất là lúc tôi được cử đến làm việc bên tỉnh ủy, từ sáng đến tối ngày nào cũng bận, khách quan mà nói thì tôi không có nhiều thời gian, còn không khách quan mà nói thì là trong tâm không có cha mẹ, hoặc rất ít khi nhớ đến cha mẹ.
Đáng lẽ cả hai đứa đều phải hiếu dưỡng vậy mà một mình chị đã gánh luôn hết. Đặc biệt là trong khoảng thời gian trước khi mẹ mất, mẹ bị chứng bịnh mất trí nhớ của tuổi già, thời đó chúng tôi đâu như bây giờ biết người già bị mang căn bịnh này, lúc đó tánh tình mẹ rất ngang, thường hay la mắng, vì sống chung với chị, nên hay hà hiếp chị và anh rể, gặp anh rể thì mắng anh rể, gặp chị thì mắng chị, chị đến chỗ tôi khóc rằng:
“Tiểu Vân à, bây giờ phải làm sao?”. Thế là tôi về đó giải quyết tình hình, thì chẳng nghe mẹ nhắc chuyện gì hết, cứ mẹ mẹ con con, chị tôi càng oan ức, vì chị chăm sóc mẹ mà còn bị la rầy, còn Tiểu Vân lâu lâu về thì được cưng như bảo bối.
Lúc sau này mẹ tôi càng làm dữ. Vì chung một nhà, cha mẹ thì sống bên dãy này, chị tôi thì sống bên dãy kia, cách nhau một hành lang, tôi nói với ba xây một bức tường ngăn ra, mỗi bên đi bằng cửa của mình.
Mẹ tôi lấy cây gậy, khoét một lỗ rớt mấy viên gạch, như cái lỗ thông gió, ngày nào cũng chửi vọng qua bên đó, tất cả chị tôi đều chịu đựng hết, cho đến ngày cha mẹ mất. Lúc đó chúng tôi chưa học Phật, không có niệm Phật cho ông bà, nhưng tấm lòng hiếu đạo của chị đối với cha mẹ thì là viên mãn.
Còn đối với mẹ chồng chị cũng tận tâm, anh rể tôi đã mất cha lúc 2 tuổi, chỉ có người mẹ già, anh chị tôi cưới chưa bao lâu thì bà mất, chị về đưa tiễn bà. Lúc đó gia đình chồng ít người chỉ có một ông anh cả, nhưng vợ anh cả không sanh đẻ được, mà người thời đó rất quan trọng vấn đề có cháu nối dõi, vậy thì đành trông chờ vào anh chị tôi.
Người nhà bên đó hỏi chị tôi có thể gánh lấy trọng trách này không, chị tôi đã hứa, và cũng giữ lời. Trong vòng 10 năm, chị sanh 5 đứa: 4 gái 1 trai; chị nói dùng hành động thực tế để bà cụ có thể nhắm mắt nơi chín suối. Trong đó có đứa con gái thứ ba đã mất lúc 21 tuổi, bây giờ còn lại 3 đứa con gái và 1 con trai, vì thế về điểm này chị cũng đã tận lực.
Còn trách nhiệm làm vợ chị đã làm rất viên mãn, là 1 người vợ hiền hiếm có, tôi kể vì sao anh chị tôi quen nhau: Anh rể mất cha từ nhỏ, đi lính năm 55, năm 60 xuất ngũ, ra làm việc cùng chỗ chị tôi, gia đình anh rất nghèo, anh được cấp 1 căn ký túc xá nhỏ, trong đó có cho 1 cái giường có cái gối bằng cỏ, anh tôi đã vào ở như vậy, không có mền, cũng không có ra giường, gia tài của anh chỉ có 1 tấm mền lính.
Sau đó có một bà cụ nói với chị tôi: “Thấy cậu đó cũng được hay là hai đứa cưới nhau đi”. Chị về nói với cha mẹ, tôi còn nhớ lần đầu ra mắt, anh rể tôi mặc bộ quân phục màu vàng, anh là lính hậu cần không quân, anh chẳng đẹp trai, hơi lùn nữa, khi đến nhà tôi anh ta chẳng dám nói gì hết, vì thế cha mẹ tôi cũng chẳng để ý.
Bẵng một thời gian, bà cụ kia lại tác hợp hai người; cha mẹ tôi là người tốt bụng, họ không ngăn cản, vậy là cho họ cưới nhau, cho ảnh về ở rể, thế là gia đình tôi 5 người cùng sống chung. Suốt 52 năm chị và anh rể sống với nhau, chị đã làm tròn bổn phận người vợ hiền.
Đối với con cái, cứ 2 năm sanh 1 đứa, không được cha mẹ giúp đỡ mà nuôi lớn 5 đứa như vậy, thật xứng đáng là người mẹ hiền! Tuy rằng không giàu có, nhưng 5 đứa đều rất xinh xắn và sạch sẽ, bây giờ tuy có nhiều bạn đạo nói tôi ngăn nắp, nhưng tôi biết tôi không sao sánh bằng chị được, vì thế chị cũng là một người mẹ hiền.
Còn với tôi, từ khi mẹ mất, chị luôn quan tâm thương tôi như một người mẹ vậy, ở bên chị tôi cứ như một đứa con nít, lúc thì nhõng nhẽo chị, lúc thì ngang ngạnh, chị không hề so đo tính toán, tôi đòi gì chị cũng chiều, nói tóm lại chị là một con người luôn làm tròn bổn phận của mình.
Chị cũng là một người yêu nghề, chị tận tâm và có trách nhiệm với công việc của mình, luôn làm hài lòng lãnh đạo của mình, mấy đứa con của chị đều được bà ngoại chăm cho ăn bột mà lớn lên, chứ chị ít khi cho bú đúng giờ.
Lúc đó tôi đã lên trung học, chị tôi là một đảng viên ưu tú, hồi giờ không có lựa chọn công việc, ai sắp xếp việc gì thì chị cũng làm, có nhiều việc người khác không chịu làm đem xếp cho chị chị cũng không từ chối, chị là một người cần mẫn.
Chị cũng là người cần kiệm. Cả nhà 11 người: 2 vợ chồng chị, 5 đứa nhỏ, ba má tôi là 9 người, cộng thêm ông bà ngoại tôi nữa, cả đại gia đình. Làm sao sống qua ngày đây? Tôi nhớ tiền lương của 2 vợ chồng chị chưa đến 100 đồng, lương của ba tôi là 81,5 đồng, 3 người gộp lại là 180 đồng.
Chưa đến 200 đồng, cả đại gia đình đều trông vào số tiền ít ỏi đó mà duy trì cuộc sống, nhưng cũng hay là chưa hề cần vay mượn của ai. Có lúc tôi nghĩ, tôi đã sống rất tiết kiệm rồi, vậy mà không sánh nổi bằng chị.
Nếu không phải vậy, thì tiền ăn mặc, tiền học của 5 đứa trẻ phải tính làm sao? Nói chung 5 đứa nhỏ cũng dễ, đứa nhỏ lượm đồ của đứa lớn mặc, vậy mà cũng nuôi lớn chúng. Ra giường và mền của chị tôi, chỗ nào rách chị đều vá lại, chị rất khéo tay, không như tôi vá đồ một cách cẩu thả.
Cứ mỗi lần thấy tôi vá đồ, chị trêu tôi như vẽ 1 tấm bản đồ của 1 quốc gia vậy đó, kêu tôi tháo ra và chị vá lại dùm. Có một lần, tôi chơi khâm chị: nhà tôi có 1 cái mền mỏng, đã xài cả 30 năm rồi, có chỗ chỉ cần lấy ngón tay khều vào là rách 1 lỗ ngay, vậy mà chị tôi cũng vá nó lại.
Có hôm tôi đem 1 cái quần ngắn cho chị vá, chị cầm lên xem qua xem lại rồi nói cái này không vá được nữa, tôi nói chị vá khéo lắm, sao lại không vá được, chị nói tôi đếm thử xem cái quần ngắn mà có đến 48 cái lỗ rách, thì làm sao mà vá chứ, tôi cũng bị ảnh hưởng cách sống tiết kiệm của chị, vì thế tôi nói chị là người trì gia cần kiệm, với một số tiền ít ỏi như vậy, hỏi phải sống như thế nào, vậy mà người ta cũng sống được qua ngày đó.
Chị là người từ bi hỷ xả. Nếu nói hai chữ từ bi được phát minh dành cho chị cũng chẳng ngoa, thấy người khác khổ một chút, chị đã đau lòng, vậy mà bao cái khổ chị cắn răng chịu đựng một mình.
Trong nhà 11 người, đồ ăn thừa một mình chị phải gánh hết, nhiều khi đồ đã bị thiu, nhưng chị tiếc, lấy nước rửa sạch không còn mùi chị lấy ăn.
Còn một chuyện là gia đình tôi có một người bà con thường hay đến xin tiền và đồ của chị, họ thường than khổ, cứ mỗi lần đến đều bịa ra một lý do, cần tiền thì chị cho tiền, cần đồ thì chị cho đồ; nhiều khi chị mặc bộ đồ tốt một tí, họ xin chị cũng đem cho luôn.
Tôi không chịu nổi, nói: “Chị coi chừng bị lừa đó, gia đình đó có sao đâu”. Chị nói: “Kệ họ đi, nếu họ lừa thì để họ lừa đi”. Sau này người đó còn bày ra một chiêu nữa: Khi đó gần tết, họ mua heo về làm thịt rồi bán, thịt ngon thì bán được, còn thịt heo mỡ quá bán không được đem bán cho chị tôi.
Tôi còn nhớ có năm, chính chị nói với tôi đã dùng khoảng 1 tháng tiền lương mà mua thịt heo, xong rồi chị đem cắt từng miếng ra đem cho bà con và xóm giềng. Thịt đó là tiền chị mua, chị không thể đem bán lại vì nó quá mỡ, chỉ có thể đem cho mà thôi.
Vậy mà người đó bán cho chị tôi giá cao hơn ngoài chợ, vì biết thế nào chị cũng đưa tiền cho họ, cứ cầm tiền xong là họ vui vẻ quay đi, còn chị thì hết tiền xài tết. Khi tôi hỏi chị mới kể ra, tôi bảo sao họ không dám bán cho tôi đi, vì họ sợ tôi sẽ nói ra sự thật, chị thì bảo thôi đi, người lớn rồi, sao nỡ làm như vậy được.
Tôi kể những câu chuyện ở trên đều là sự thật, tôi muốn nói với quí vị con người của chị là như vậy, quí vị thấy chị có phải là người bình thường không?
Chị và những người khác có điểm nào khác nhau không? Sự từ bi và lương thiện của chị là như thế đó. Phần sau tôi sẽ kể gì đây, cũng là do các đồng tu nêu ra, hỏi cách tu của chị ấy thế nào?
Phần trên đã có nói rồi, đó là niệm Phật, 1 câu Phật hiệu niệm đến cùng, không có tuyệt chiêu nào khác, đó là nhất môn thâm nhập trường kỳ huân tu, không xen tạp, chỉ cần 4 chữ A Di Đà Phật.
Chị tôi nói: “Liên Trì đại sư bảo nếu muốn về nhà thì không cần khách sáo, 1 câu A Di Đà Phật là đủ”. Đó là người mà tôi tiếp xúc: 1 câu Phật hiệu, 1 đời thành Phật.
Chị rất ít khi đọc kinh, 1-2 năm nay mới nghe pháp thôi, chân của chị không tiện nên cũng không thể lạy, chỉ 1 câu A Di Đà Phật niệm cho thật tốt, không để ngoại cảnh chia phối.
Người khác khen cái này tốt cái kia tốt, chị cũng không động tâm, chính điểm này đáng cho chúng ta học tập.Tôi nhớ khi còn sống, tôi từng hỏi: “Sao chị lại diễn pháp còn sống mà vãng sanh?”.
Chị nói: “Bây giờ được nghe Lão Hòa Thượng thuyết pháp thật không dễ gì, ngài đã 86 tuổi rồi, ngài giảng kinh cho chúng ta bao nhiêu năm, mọi người vẫn chưa hiểu, phải làm thế nào đây, thôi thì để chị làm nhân chứng sống vậy”.
Chị nói muốn làm chứng cho 4 điều.
Điều 1: là làm chứng cho quyển hội tập kinh Vô Lượng Thọ của ngài Hạ Liên Cư, trong 9000 năm mạt pháp sau này, quyển kinh đây có thể thành tựu chúng sanh.
Điều 2: là làm chứng cho quyển “Đại Kinh Khoa Chú” của ngài Huỳnh Niệm Tổ.
Điều 3: là làm chứng cho lão pháp sư Tịnh Không nói quyển “Đại Kinh Giải diễn nghĩa”.
Điều 4: làm chứng cho pháp môn niệm Phật của Tịnh độ, 1 câu A Di Đà Phật có thể viên thành Phật đạo.
Đó là 5 ngày biểu pháp của chị, hoàn toàn có thể làm tròn không khuyết. Tôi nhớ tôi có viết 1 bức thư cho Sư Phụ, trong thư có 1 câu ngắn như vầy “cách biểu pháp của chị, trong 10.000 người cũng không tìm được 1 người, thật khó gặp được, thật là thù thắng!”.
Không phải bà ấy là chị tôi mà tôi nói vậy, tôi phải chịu trách nhiệm với chị, và cũng phải chịu trách nhiệm với chúng sanh, vì vậy tôi phải đem thật tướng của sự vãng sanh thù thắng này nói cho mọi người, đó là việc tôi phải làm.
Về việc vãng sanh của chị, hiện nay được nhắc rất nhiều, bây giờ chúng tôi đang làm thành đĩa, khi xem xong, quí vị sẽ rõ, tôi nghĩ chúng sanh nhất định sẽ được sự lợi ích.
Hôm nay tôi xin báo cáo với quí vị cách biểu pháp, cách tu hành, và con người của chị, mong rằng chúng ta nhận được sự lợi ích, hy vọng mỗi vị liên hữu sẽ học theo chị, lão thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, tương lai vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà, cám ơn quí vị!
A Di Đà Phật!
Đoạn nói chuyện của Cư Sĩ Lưu Tố Thanh
trước lúc vãng sanh
58:28- còn vài phút nữa thì tôi đi rồi.
58:36- bây giờ chư Phật Bồ Tát đang ở gần chúng ta
58:42- Tây Phương Tam Thánh đang đứng gần mặt trời
58:46- quí vị có thể thấy được
58:49- tí nữa trong không trung sẽ có sự biến hóa
59:00- khi đúng giờ, tôi sẽ mang theo vô lượng vô biên chúng sanh về nhà
59:11- có thấy vui không?
59:18- đây không phải là ý nguyện của riêng tôi, tự tôi cũng không thể tưởng tượng được
59:25- đều do Phật lực gia trì, Chư Phật Bồ Tát giao nhiệm vụ cho tôi.
59:30- Tôi vẫn còn nhiệm vụ mới, cho nên tôi phải trở về đó sớm hơn.
60:42- Pháp môn tịnh độ thù thắng, pháp môn tịnh độ cực thù thắng!
62:56- Tôi đã lên hoa sen, đang đứng gần bên Từ Phụ (Di Đà)
63:11- Cảm niệm công đức quí vị đã đến tiễn tôi, cám ơn (chắp tay lại cám ơn !)
63:28- (chắp tay nhắm mắt)
63:35- (nhắm mắt mỉm cười)
63:42- (buông tay)
66:18- (tay phải ra dấu OK)
69:30- (chắp tay búp sen)
71:39- (tay phải vẫy chào)
71:50- (vãng sanh) Bồ Tát đã về Cực Lạc, thị hiện mau chóng quay lại cõi Ta Bà)
72:50- (Bồ Tát đột nhiên mở mắt)
72:55- Tôi đã đến giờ đi rồi, đột nhiên lại quay về rồi
Lưu Tố Vân hỏi (còn lưu luyến việc gì sao?)
73:06- không phải tôi tôi lưu luyến
73:15- hình như có nhiệm vụ mới Lưu Tố Vân hỏi: vẫn chưa biểu diễn xong à?)
73:21- vẫn chưa biểu diễn xong, đến đúng giờ phải đi rồi(Lưu Tố Vân đáp : tôi biết , tôi biết)
73:29- trong chốc lát thì về rồi
Lưu Tố Vân (hiện tại đang đứng trên sàn diễn, để diễn 1 tiết mục, tiết mục của mỗi người đều khác nhau)
74:10- tôi đến giờ thì đi, trong chốc lát lại quay về, tôi bắt kịp cư sĩ Trương Vinh Chân, tôi bắt kịp Bồ Tát Văn Thù
81:52- Lưu Tố Vân nói:
Lúc trước chị có nói với tôi sẽ biểu diễn 2 pháp vãng sanh: 1 pháp chính và 1 pháp phụ. Pháp chính là còn sống mà tự tại vãng sanh. Pháp phụ là diễn cảnh chết trong sự đau khổ của lục đạo luân hồi.
Tôi hỏi chị tại vì sao mà phải biểu 2 pháp, chị nói diễn cho chúng sanh xem 2 pháp đối lập để họ có sự chọn lựa.
Kết quả là lúc 12g trưa chị biểu pháp còn sống tự tại vãng sanh, rất tiếc là biểu pháp thứ 2 (từ 12g trưa ngày 21 đến 8:30 sáng ngày 22) có chướng ngại, không cho quay phim, không cho niệm Phật (biểu pháp thứ nhất là vị liên hữu đã quay lén). Có liên hữu thắc mắc về ngày vãng sanh của chị, thật ra là ngày 21 hay 22, có người nói làm sao một người mà chết 2 lần.
Tôi xin trân trọng nói với quí vị, không phải là chết 2 lần, mà là biểu diễn 2 lần. Vì thế nói chị vãng sanh ngày 21 là không sai, nói ngày 22 cũng không sai, tôi thì tính ngày chị đã biết trước là 12g ngày 21.