Friday, June 30, 2017

“Kỷ luật không nước mắt


  • Thạc sỹ – chuyên gia Trần Thị ÁI Liên – tác giả bản quyền của Kỷ luật không nước mắt là một Việt Kiều có hơn 20 năm sống tại Mỹ và trong thời gian sống tại đây chị đã có kinh nghiệm 6 năm làm việc với vai trò cố vấn chính sách của Viện Hàn Lâm Nhi Khoa Hoa Kỳ. Với niềm đam mê sẻ chia kiến thức nuôi dạy con và những kinh nghiệm cá nhân, Thạc sĩ Ái Liên đã dành 5 năm trời để đi khắp Việt Nam mang tới mọi cha mẹ ở mọi vùng quê buổi nói chuyện mang tên “Kỷ luật không nước mắt” cũng như các chuyên đề khác về kỹ năng cha mẹ.
  • Chương trình giống như một món quà ý nghĩa mà chị muốn gửi tặng tới các cha mẹ đang hàng ngày coi đòn roi là phương pháp hữu hiệu để dạy dỗ con cái, đồng thời giúp họ thay đổi phương hướng giáo dục con tích cực hơn. Và sau bao năm xa xứ, mong muốn của chị đã, đang và sẽ được thực hiện, bằng chứng là đã có hơn 50.000 phụ huynh tham dự Kỷ luật không nước mắt, trong đó đại đa số đã áp dụng thành công

Cô BA CHáO Gà

câu chuyện có thật 100% tội ác bất hiểu CHA MẸ trở về từ ÂM TÀO ĐỊA PHỦ | rất hay

Thursday, June 29, 2017

reasons-to-hate-vietnam

Hoài Nguyễn
 là một anh Tây ba lô sang Việt Nam du lịch với vợ. Kỷ niệm sốc văn hóa của anh đã khiến anh viết bài 16 reasons to hate Vietnam.
1.Sự gian dối
2.Kiểu nói thách giá cả
3.Tiếng ồn
4.Ngôn ngữ
5.Giao thông
6.Phí xin thị thực để vào Việt Nam
7.Những tòa nhà mỏng
8.Cách người Việt làm cản trở lối ra vào trước cửa hàng
9.Tôm hùm
10.Cái ghế nhựa, con gián và bệnh dịch tả
11.Cái mũ cối (mũ bộ đội)
12.Tài xế taxi ở Việt Nam
13.Món ăn ở Việt Nam
14.Sự vô ý vô tứ (vô ý thức)
15.Khả năng về kiến thức và thông tin kém của người Việt
16.Sự khác biệt văn hóa, góc nhìn cá nhân
Ôi, Việt Nam, sao tôi ghét đất nước này như thế… Để tôi liệt kê vậy…
*Lý do số 1:
Tôi ghét sự gian dối ở Việt Nam. Tôi thật mệt mỏi bởi bị lừa lọc. Nó duờng như là thói quen phải có của nguời dân xứ này.
Tôi bị lừa khi tôi hướng dẫn cho người lái xe bus đưa chúng tôi từ sân bay tới một khách sạn mà tôi đã đặt phòng truớc. Khi đến nơi tôi thấy có một nguời đàn ông chạy ra bảo rằng khách sạn đã hết phòng và yêu cầu tôi đến một khách sạn khác ở một cái góc loanh quanh nào đó. Tôi bị lừa khi muốn nhận lại một chiếc ba lô không quan trọng lắm mà tôi đã bỏ quên ở một khách sạn Hà Nội, tôi thấy chiếc ba lô đuợc cột lại ở một góc phòng duới chân bàn trong phòng tiếp tân cùng với việc một nhân viên cứ cố moi ở tôi 30$ cho việc giữ đồ trong vài ngày đó. Chúng tôi bỏ đi, bỏ luôn chiếc ba lô và không chi trả gì hết.
Tôi thường bị lừa như một kẻ ngốc, thật đơn giản bởi những ngón nghề vớ vẩn tầm thường. Như là lúc tôi mua mấy tấm thiệp hay hay ở một cửa tiệm nhỏ ngoài khu dành cho du lịch. Tatiana có hỏi cách làm những tấm thiệp đó, và người phụ nữ bán hàng đã ra hiệu rằng do chị ta tự làm bằng một con dao. Hoàn toàn bịa đặt, bởi tôi thấy được hầu như cả những vạch in còn lại từ máy laser khi thiệp được sản xuất với số lượng hàng lọat. Tôi cũng cho rằng cô ta đã dán mảnh giấy barcode đằng sau tấm thiệp, phải vậy không hả!?
Lừa đảo. Thật quá nhiều bọn lừa đảo dơ bẩn.
*Lý do số 2: Tôi ghét kiểu nói thách 2 mệnh giá cả ở Việt Nam
Mặc dù ở nhiều nước khác cũng phổ biến, nhưng giá cả dành cho người nước ngoài thay đổi xoành xoạch thể hiện rõ nhất ở Việt Nam. Cùng một chuyến đi, khách du lịch phải trả 100 ngàn đồng, hãy hỏi một người Việt Nam ngồi cạnh thì họ trả có 80 ngàn đồng. Tôi có mặc cả khi mua hoa quả, nhưng cái giá cuối cùng tôi trả vẫn cứ cao gấp đôi so với gánh hàng bán bên cạnh, bởi người bán đã thổi phồng giá gốc lên 400%
Mặc dù là điểm chung trong nhiều quốc gia nhưng nguời ngọai quốc rất dễ nhận ra tại Việt Nam. Hầu hết người nước ngoài được coi là mục tiêu cho họ cơ hội. Cùng một món hàng du khách phải trả 100,000 đồng trong khi dân địa phuơng chỉ phải trả 80,000 đồng. Theo lời ông Nguyễn Hữu Việt, trưởng phòng bộ phận du lịch Hà Nội, bán thách giá cho du khách nước ngoài không hẳn là một kiểu lừa lọc, nhưng nó là một phần “văn hóa”.
Đây là một trích dẫn về bài báo (Giá cả không hề ổn định) The price isn’t quite right:
“Khách du lịch người Mỹ và người Nga rất hào phóng, nhưng hào phóng nhất vẫn là khách hành từ Nhật Bản, họ hầu như không mặc cả gì hết” Thu Hương người làm việc trong một sạp lưu niệm nhỏ ở phố cổ nói. “Thậm chí với cái giá cao hơn gấp 10 lần, khách hàng người Nhật vẫn coi vậy là rẻ. Nhưng người Ý hay Đức họ chỉ xem và cười.”
Vô tư hơn nữa với những khách du lịch lọai này được coi là “gà béo”, đây là một từ lóng dành cho những người mua phải cái giá 100$ cho một chiếc đồng hồ nhái Rolex của Trung Quốc trị giá chỉ 10$ hoặc 40$ cho một chuỗi hạt ngọc trai nhân tạo chỉ với giá 5$.
“Thành thật mà nói tôi không quan tâm lắm tới những tiệm lưu niệm hay là hoa quả khi họ cố lấy thêm chút tiền từ khách nước ngoài, việc mặc cả hàng hóa giống như một phần của trò chơi vậy” – Daniel Lewenstein luật sư người Mỹ thường qua lại và sống ở Việt Nam suốt 10 năm qua đã nói vậy.
“Nhưng thực sự là rất phiền khi giá cả đã được ấn định, và người ta cứ cố tìm cách móc túi du khách, như lần trước tối tới sân bay Nội Bài, người lái taxi cứ cố đòi ở tôi 280 ngàn VND cho chuyến đi vào thành phố trong khi giá đề rõ trên biển là 150 ngàn đồng.”
*Lý do số 3 : Tôi ghét sự ồn ào ở Việt Nam
Có vẻ như đất nước này phát triển hay gia tăng mọi kiểu cách để hủy hoại môi trường bằng tiếng ồn. Cấp độ âm thanh đạt đến đỉnh điểm trên đường phố, nơi tôi phải bịt lỗ tai lại chỉ vì tai tôi chỉ còn lại những tiếng “eeeeeeeeeeeeing” khi tôi về lại khách sạn.
Hàng trăm hàng ngàn thứ âm thanh xe cộ ầm ầm như như xe không đuợc gắn ống bô trên mọi con đường. Còi xe máy thì kêu liên tục bởi mọi nguời lái xe gắn máy, trung bình cứ 5 đến 7 giây như vậy. Họ bấm còi khi vượt qua người khác, bấm còi khi quay xe, bấm còi sau khi đi đái, bấm còi khi vui vẻ, bấm còi khi người ta đi chậm, họ bấm còi ngay cả lúc họ đi ngược chiều, họ bấm còi chỉ để khoe cái còi đặt chế của họ, và họ bấm còi chỉ vì người khác cũng bấm còi. Tôi nhìn và lắng nghe thì thấy họ cứ bấm còi xe khi họ rẽ vào đại lộ. Ở Hà Nội, lúc nào trong ngày bạn cũng nghe thấy tiếng còi xe, không cần biết là ở đâu hay ngay trong phòng khách sạn.
Ở Hà Nội loa phường được đặt khắp mọi nơi phát thanh nhiều lần trong ngày, cứ nhồi vào tai người du lịch và dân cư cho tới khi cái tai phải chảy máu. Những bản phát thanh cả giờ đồng hồ về tin tức, thời tiết và thông tin quảng cáo thật sự quá lớn, nó át cả tiếng còi xe. Thật là ồn lắm.
Điều cuối cùng bạn thực lòng muốn có ở đất nước này chính là một căn phòng khách sạn ở mặt đường, đặc biệt là khi bạn có một chiếc loa phuờng gắn vào vào tòa nhà, làm bạn tỉnh giấc vì chói tai vào 7h sáng với một thứ âm thanh ồn ào bởi một thứ ngôn ngữ khó chịu.
Giữa sự ồn ào của xe cộ, công trình xây dựng liên miên, tiếng Việt và những quán Karaoker, tôi cảm thấy thật ghen tỵ với những người bị điếc.
*Lý do số 4: Tôi ghét tiếng Việt
Cách diễn tả hay nhất về tiếng Việt là nó nghe giống như tiếng mèo nó rú nó gào khi nó đang ăn mà bị ai chọc phá….”meruughh-meowruugh-rruughh.” Còn giọng nguời đàn ông thì nghe giống như tiếng vịt đực của một thằng cha bị bệnh tâm thần.
*Lý do số 5: Tôi ghét giao thông ở Việt Nam và sự **** khổ khi đi bộ
Hơn một triệu rưỡi xe mô tô ở Hà Nội và hơn bốn trăm ngàn xe ở các vùng phụ cận – với chỉ số tăng trưởng 14% hàng năm. Đéo mẹ nó sao nhiều xe gắn máy thế! Số lượng xe cộ đông đúc như thế như một minh chứng cho tình trạng nguy hiểm của người đi bộ.
Những lối đi cho người đi bộ bị nêm cứng bởi những người bán lẻ và các hộ gia đình ở đây khi họ cố tình lấn chiếm lòng lề đuờng để nới rộng thêm diện tích sử dụng ở tầng duới đuờng với mục đích kinh doanh. Điều đó đồng nghĩa với việc người đi bộ phải đi vào phía đuờng xe chạy. Lúc nào họ cũng có thể cảm nhận được gió tạt ngang gần như bị té khi bị những chiếc xe gắn máy hoặc ô tô vượt qua.
Ở đây thực sự có rất ít lối băng qua đường dành cho người đi bộ. Kể cả khi có, nó cũng chẳng giúp giảm thiểu nguy cơ tai nạn cho người đi bộ bị gây ra bởi xe cộ, và ngay cả khi tín hiệu qua đường cho người đi bộ bật xanh, họ vẫn phải lưu ý những xe cộ rẽ vào hoặc từ hướng trái, hoặc từ hướng phải.
Việc băng sang đường, dù có hoặc không có đèn đuờng, cũng có thể ví von như cảm giác mình đang đóng phim Indiana John khi nhảy xuống vực từ miệng hang Đầu Sư Tử “Indiana Jones jump from the Lion’s Head Leap of Faith”. Nếu ví luồng giao thông như một dòng sông chảy xiết, thì khi đó bạn chỉ như một hòn đá chuyển động chậm chạp, luồng giao thông sẽ tẽ ra khi bạn di chuyển.
Việc này đã gây ra mối bất an cho Tatiana vào ban ngày, khi em lo sợ cho sự an toàn của đứa trẻ đang nằm trong bụng mỗi khi em phải liều lĩnh ra khỏi khách sạn. Đối với Tatiana, việc đi lại ở đây là một thử thách lớn. Em cảm thấy hoang mang khi phải nghĩ đến việc bị đâm bởi một xe máy chạy ẩu và những hậu quả xảy đến sau đó cho đứa con trai chưa sinh của mình. Tôi lúc nào cũng phải giữ chặt tay em, đứng giữa em và luồng xe đang chạy đến, giống như kỹ thuật che chắn bằng hình nộm người. Tôi không thể trách cứ em vì em có thói quen dừng lại khi xe cộ nó tuởng như nó đang đâm xầm vào nguời em, phản ứng đó hòan toàn sai.
Chúng ta coi chừng sẽ bị tai nạn. Không được dừng lại. Không được chạy. Điều đó đã thành luật. Bạn phải thoát khỏi nỗi sợ hãi như thể bạn sắp phải nhảy ra khỏi máy bay và tin rằng mọi thứ vẫn tốt đẹp.
Tôi có quay lại một đoạn phim ngắn để thấy xe cộ hằng ngày ở đây như thế nào và bạn phải cẩn thận như thế nào khi đi bộ ở đây. Trafics in Vietnam
*Lý do số 6: Tôi ghét giá cả làm hộ chiếu nhập cảnh vào Việt Nam
Tôi ghét giá là bao nhiêu khi khi làm hộ chiếu vào quốc gia này, và để có đuợc giá rẻ hơn một chút thì tôi phải đau thốn cái lỗ đít như thế nào!
*Lý do số 7: Tôi ghét những tòa nhà ốm nhách ốm nheo ở Việt Nam
Bạn phải trèo lên những cầu thang có những nấc thang dài đến vô tận. Nguời Việt thích xây dựng khách sạn có chiều rộng như một phòng ngủ độc thân nhỏ làm tôi muốn dẹp mẹ nó đi cho rồi. Tôi buộc phải thuê phòng sang hơn nhưng chúng ở tầng thứ 8 mà Tatiana thì đang có bầu gần 7 tháng nên chỉ cần leo đến tầng thứ 3 là nàng dường như muốn bị trúng gió.
*Lý do số 8: Tôi ghét cái lối nguời Việt làm cản trở lối ra vào các hàng quán
Cái thói quen dân tộc tánh của việc đậu xe gắn máy chóan hết cả lối đi vào ngay truớc cổng hàng quán, nhà hàng mà tôi muốn đi vào làm tôi muốn phát điên lên. Sự thiếu suy nghĩ và mất lịch sự đối với nguời khác đuợc thấy rõ nét trong cách thức đậu xe ngoài đuờng phố. Chen lấn xô đẩy để tìm lối đi bất kể nào đó đuợc xem như là sự thành công của chính mình.
Tôi nhận ra rằng không có bất cứ chổ nào dành cho bất cứ ai hay bất cứ cái gì trong điều kiện giao thông **** nạn ở cái quốc gia này, không phải ai cũng chỉ nặng có 43 kg như một thằng cha Ninja mà có thể di chuyển dễ dàng ở đây – hãy nhìn xem Tatiana với cái bụng bầu chình ình thì hiểu đuợc nàng coi như bị cấm di chuyển ở đây .
*Lý do số 9: Tôi ghét món tôm hùm ở Việt Nam
Tôi tin rằng tôi thật sự nhận đuợc món ăn giống như tôm hùm với giá $3, nhưng tôi đã ở vùng vịnh Tokin rồi nên tôi biết hải sản là món ăn chủ yếu trên menu. Vừa mới ra khỏi bát quái trận đồ rồi, tôi nghĩ như thế!
Những gì tôi đuợc ném trên dĩa là một con quái vật dạng con tép và con tôm như tôi đã từng thấy kèm nuớc sốt chua ngọt nằm trên dĩa đồ biển. Tôi không dám nhìn khi Tatiana khều ra những miếng thịt vụn dấu trong bộ xuơng con tôm.
*Lý do số 10: Tôi ghét cái ghế, con gián và bệnh dịch tả ở Việt Nam
Tôi biết rằng dân Việt nhỏ con nhưng tại sao tôi lại thuờng bị buộc khi đang ăn thì phải ngồi trên cái ghế dành cho trẻ con 4 tuổi?
Gián trên khắp đuờng phố, gián trên các phuơng tiện di chuyển, gián trong đồ ăn đã đuợc nấu. Đúng là đồ khùng cả lũ. Chẳng ngạc nhiên chút nào khi quốc gia này vẫn còn bệnh dịch tả.
Trích nguồn tin từ Hà Nội (Reuters):
Bệnh dịch tả hoành hành tại miền bắc Việt Nam với trên 200 nguời bị bệnh.
Báo Nhân Dân, một tờ báo quốc doanh của đảng cộng sản ghi chú lời nói của bộ truởng y tế Nguyễn quốc Triệu có trên 1,600 nguời bị ói mữa và ỉa chảy, 200 nguời trong số họ bị nhiểm vi khuẩn dịch tả từ 23 tháng 10. Những báo cáo không thấy nói gì đến xem có ai bị chết vì ỉa chảy cấp tính trong 13 tỉnh thành trong số 64 tỉnh thành ở Việt Nam. Đuợc biết bệnh dịch tả lan rộng khắp nuớc năm 2004.
*Lý do số 11: Tôi ghét cái nón cối thuờng đuợc dùng ở Việt Nam
Nón cối ở Việt Nam được đội giống như nón chơi baseball ở Mỹ. Đàn ông con trai mọi lứa tuổi thuờng xuyên đội nón cối. Hình ảnh đó làm tôi xốn xang bực bội con mắt, có cảm giác như tôi đang ở sau trận tuyến quân thù, bị bao vây bởi quân đội bắc Việt Nam – và trạng thái tôi lúc đó, tôi có lẽ sẽ không ngần ngại lượm cây súng lên chỉa vào hình ảnh đầy gây hấn như thế, chỉ là để xem cái vật tuợng trưng cho Việt cộng của một cuộc chiến đã qua rớt xuống duới đất.
*Lý do số 12: Tôi ghét tài xế tải ở Việt Nam
Tôi không phải là một thằng ngốc với taxi. Cửa xe, kiếng chắn xe luôn luôn khóa chặt và tôi thường thường xem bản đồ đường đi nước bước cho đoạn đường tôi muốn tới trước khi tôi gọi taxi. Khi người ta không chú ý họ thường bị lường gạt, bị bị ăn chận, hay tệ hơn thế nữa. Tài xế taxi nước nào cũng thế toàn bọn đá cá lan dưa.
Ở Việt Nam, thật sự là nơi tệ hại nhất cho mỗi cuốc taxi. Đây là một quốc gia được biết chuyên gắn đồng hồ tính giờ giả mạo (mà đếm giờ phút cao hơn). Mẹ kiếp, người ta luôn tìm mọi cách trấn lột bạn trên đường phố thì không có lý do nào tài xế taxi lại không ngoại lệ.
Tôi cho bạn biết bằng cách nào mà một tài xế taxi tính tiền tôi đến trên 8 phút cho đoạn đường 2km lòng vòng Phố Cổ thay vì lái trực tiếp thẳng đến địa điểm chúng tôi muốn đến. Tôi kêu hắn ta dừng lại nửa đường, và nhìn xem hắn ta nói cho biết vì xe cộ đông đúc nên không cho phép xe đi thẳng mà phải chạy lòng vòng. Tôi biết thừa rằng có nhiều dịp cho hắn nếu hắn ta muốn đi thẳng. Người ta cứ chạy lòng vòng và giả đò không biết đường đi đến (cũng có thể họ ngu như thế).
Khi chúng tôi biết thừa ra rằng đoạn đường như thế chỉ giá 18,000 đồng, và cái đồng hồ, và địa điểm đến của chúng tôi nói giá 25,000 đ, 48,000 đ, hay 55,000 đ. Chúng tôi từ chối trả tiền theo như họ đòi và chúng tôi ném tờ giấy 20,000 vào mặt tài xế rồi bỏ đi. Hắn ta không chịu rồi chạy bộ đuổi theo chúng tôi.
Chúng tôi gọi cả 2 hãng taxi, hãng mắc tiền và rẻ tiền nhưng kết quả đều tuơng tự. Chính sách hiệu quả nhất là kệ mẹ họ nói gì làm gì mình cứ trả đúng số tiền mà mình nghỉ là công bằng nhất không cần biết cái đồng hồ tính tiền nằm trên cái dashboard nó ghi bao nhiêu kệ mẹ bọn nó.
*Lý do số 13: Tôi ghét món ăn ở Việt Nam
Những món ăn Việt ngon nhất mà tôi từng nếm qua thì không thấy có ở Việt Nam. Taniana có gấp đôi cảm nghĩ của tôi như thế.
Tôi biết miền Nam rất khác với miền Bắc, nhưng nguyên tắc là “nếu thấy nghi ngờ, hảy thử trước cái đã xem sao” nhưng rất khó mà tin được ở một nơi nào khác trên đất nước này có chỗ ăn khá hơn.
Rất dễ ăn luôn 3 bữa món ăn Thái mỗi ngày cho cả tháng, nhưng khó làm được như thế nếu ăn món Việt ở Việt Nam.
*Lý do số 14: Tôi ghét thói vô ý vô tứ của dân Việt Nam
Có nhiều dị biệt giữa du khách và dân địa phuơng ở quốc gia này. Tatiana than phiền với tôi rằng nàng rất ghét khi người ta đụng chạm đến người nàng. Nàng hiểu rằng đó là một phần của dân tộc tính khi nắm tay, kéo tay người ta trên đường phố để mời chào người ta mua hàng.
“Tôi hiểu tại sao họ làm thế, nhưng tại sao họ không chịu hiểu cho điều đó làm tôi khó chịu?”
Với tư cách cá nhân tôi không cho phép làm như thế từ một tên ăn mày hay một tên đội cái nón cối. Tôi đã vỗ tay xua đuổi cách chừng vài phân vào mặt một người đàn ông để chứng tỏ quan điểm của tôi – thay vì vỗ vào mặt hắn ta, giống như Tatiana đã làm trong một đêm nọ với trường hợp tuơng tự.
Tatiana cũng ghét nhân viên bán hàng trong tiệm cứ đi theo đuôi nàng quá gần “rằng nàng cảm giác hơi thở của hắn ta trên cần cổ”.
*Lý do số 15: Tôi ghét sự thiếu khả năng về kiến thức, thông tin, hay sự diễn đạt vấn đề của người Việt
Như tôi đã từng nhắc đến trong bài trước, nhưng không phải từ nước Ba Tây về sự thiếu khả năng giao tiếp , nói chuyện. Tôi nhấn mạnh đến việc trách họ về sự thiếu khả năng diễn đạt ý tưởng luôn cả bằng tay – vì người Việt thường không nói chuyện bằng tay – và sự thiếu thông minh tổng quát. Vâng, phải rồi! Tatiana và tôi nghĩ phần nhiều họ thuần túy dưới mức trung bình trong khoa bệnh tâm thần. “Nhiều trong số họ rất tốt, nhưng bọn họ ngu đần như những hòn đá.” Tatiana nói như thế.
Đầu tiên là nỗ lực thất bại của tôi để tìm ra một trong số vật cổ nhất trên một vùng đất nào đó của thế giới mà vùng đó có đầy món này ra: Đó là một cái chày và cái cối – Một dụng cụ dùng để xay, tán nhuyễn, và trộn lại một chất liệu nào đó.
Tôi muốn xay những viên thuốc bổ cho Tatiana uống vì nàng không nuốt nổi những viên thuốc to, thay vì cứ nhìn nàng lấy kéo cắt nhỏ ra rồi hòa với nước mà uống. Tôi quyết định tìm mua một cái cối và cái chày để nghiền thuốc ra.
Bộ tự điển Bách Khoa nói rằng chày và cối xuất hiện trên trái đất cách đây hàng triệu năm và trong nhà thuốc thì họ gọi là “chày và cối” , nguyên thủy được dùng trong nhà bào chế thuốc, cái cối cái đầu của cái chày thường đuợc làm bằng sành trong khi thân chày làm bằng gổ.
Con bà nó, tôi đã đi không biết cơ man nào là tiệm thuốc tây, siêu thị đễ tìm mua nó. Ngay cả hỏi trung tâm du lịch ở Phố Cổ, tại nơi này tôi được hướng dẫn đến một địa điểm bán hàng ma ngay cả siêu cũng không thể có.
Ở tất cả các tiệm thuốc tây tôi ra sức diễn tả món tôi muốn mua, nào là “thuốc viên” “thuốc vo viên” “thuốc” và “bột”. Một tay tôi ra dấu là cái ly, tay kia như nắm đấm và làm động tác xay tròn. Tôi đã tra tự điển Anh/Việt từ “xay” và diễn tả cho người bán hàng biết, thế mà họ chẳng hiều cái gì cả.
Một lần thử thứ 2 của tôi là khi Tatiana bị ngứa, ngứa bụng vì có bầu. Chúng tôi đi từ thuốc tây này đến thuốc tây nọ, cố tìm ra kem trị ngứa. Ở một tiệm nọ, nàng cố gắng giải thích món nàng cần tìm. Nàng đã viết xuống tên cả loại kem đó – Caladryl. Tên này được viết khắp mọi nơi, nhưng ngừa phòng trường hợp, nàng cũng dùng cái tên khoa học, hydrocortisone.
Nhân viên bán hàng cái mặt ngớ ra, vì thế Tatiana giả làm như bị ngứa rồi gãi ở ngay phía cái bụng bầu. Đứa con gái bán hàng nói: “Bà có bầu hả?” Và Tantiana gật đầu nhanh nhẹn trả lời nghỉ rằng cô gái đã hiểu. Và đúng là đồ giống lừa gì đâu không á, ngu như lừa, cô gái đưa cho Tatiana hộp thuốc… ngừa thai.
*Lý do số 16 – cảm nghĩ cá nhân: Cảm tưởng cuối cùng về một quốc gia mà tôi… một thời để Ghét!
Tôi đã tới Việt Nam như nhiều quốc gia khác- với tấm lòng cởi mở trong tâm trạng hiếu kỳ. Những ý kiến mà tôi nói ở trên phản ảnh trực tiếp đến kinh nghiệm mà tôi đã từng gặp từ con người và điều kiện sinh hoạt của quốc gia đó. Thật là kỳ lạ khi gặp phải những điều bực bội như thế, nhưng đồng thời bên cạnh đó bạn đọc cũng nên biết đến những điều tuyệt vời làm hài lòng khách phuơng xa.
Một ngày nọ, tôi kinh ngạc đến lặng người khi người bán hàng ở Hà Nội trao vào tay tôi một nắm tiền rồi họ bảo rằng tiền này là tiền họ đã tính quá lố trong lần tôi đến mua hàng cách đây 2 ngày và bây giờ họ muốn trả lại. Tuyệt vời, tôi đã dùng số tiền này để mua thêm thực phẩm từ cửa hàng của họ.
Tôi cũng rất hài lòng khi thuơng lượng để tìm được phòng trọ rẻ hơn ở Bangkok. Bạn phải nỗ lực hơn nữa để có thể có được phòng trọ bao gồm luôn WiFi, tủ lạnh, phòng tắm, nước nóng, giường chiếu lớn hơn, truyền hình trực tiếp từ vệ tinh và dĩ nhiên phòng gắn máy lạnh với giá từ $7-13 US.
Thật là thú vị khi nghĩ rằng bạn có thể thả bộ lang thang thoải mái giữa lòng thủ đô của một nước vừa mới bị tàn phá bởi chiến tranh cách đây không lâu lắm. Đúng đó quý vị, tôi là một người Mỹ đang ở Hà Nội.
Tôi thật sự thích thú 1 chút khi thấy món thịt nướng trên lò than/thịt nướng vỉ trên những lối đi dành cho bộ hành. Vào ban ngày ở một góc đường nào đó bạn thấy vắng vẻ trống trơn như vào đêm khi trời vừa tắc nắng bạn sẽ ngửi được mùi xào nấu thơm lừng.
Và một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi trong những ngày ở Việt Nam là khi gặp gở được bạn gái cũ của Aaron, bạn tôi. Nàng ta trông ngọt ngào, thông minh, ăn nói duyên dáng và là một nhà văn nhà báo hạng quốc tế, cũng không dễ dàng gặp được nàng ta vì nàng thường hay đi Mỹ hay Thailand.
Tatiana và tôi rất vui mừng có được nàng trong đêm hội ngộ đó. Nàng phục vụ chúng tôi ăn uống no say đến tràn họng. Nàng cũng hiểu rõ tất cả những điều phiền toái mà tôi đã gặp phải và kể ra ở trên. Nàng tìm mọi cách để làm cho chúng tôi quên đi đồng thời tha thứ cho những chuyện đó – phần nhiều là như thế. (Ghi chú của người dịch -“almost” trong câu này có vẻ nghĩa là ông ta đã quên và tha thứ nhiều chuyện nhưng vẫn giữ lại… một ít chuyện …đến chết tuyền đài chưa tan!)
Tôi không thể nói đến tôi đã từng giới thiệu đến du khách viếng thăm quốc gia này cho bất kỳ ai. Nếu bạn có ý dịnh tò mò muốn khám phá cái gì mới mẽ thì đó sẽ là kinh nghiệm cho chính bạn, ngoài ra chẳng có gì khác. Tôi không thể kể ra đây hết được vô số những điều bực xà bội mà tôi đã từng chịu đựng. Vì thế bạn cứ đi đi rồi biết, hãy đi Việt Nam chừng vài ba tuần lễ gì đó để rồi khi trở về… trở về … chàng về… chàng về nay đã… cụt chân… ưu ừ!!! (nguyên văn “return home with enough horror stories to choke a small horse.)
*Đọc nguyên văn từ Nguồn tiếng Anh :
http://travelogue.travelvice.com/v…//

Võ Tắc Thiên.

http://thientong.com/thientong/phat-gia-thien-tong-vo-tac-thien-may-ai-hieu-het-ve-nguoi/

Câu chuyện thứ nhất về vua Võ Tắc Thiên:
Cô Nguyễn Thị Xuân Trang, sanh năm 1974, cư ngụ nhà số 138/5D, Tam Đông, xã Thới Tam Thông, huyện Hóc Môn, TP.HCM, hỏi soạn giả Nguyễn Nhân:
– Thưa chú, thường thường người tu theo đạo Phật là phải làm lễ qui y, vậy tu theo Thiền tông có làm lễ qui y không?
Soạn giả Nguyễn Nhân trả lời:
– Người tu theo đạo Phật, mà tu các pháp môn có thành tựu  trong vật lý, là phải qui y, còn tu theo pháp môn Thiền tông của Đức Phật dạy, thì không có buổi lễ này. Nếu vị nào tu theo pháp môn Thiền tông mà đạt các tầng bậc như sau thì được cấp giấy hay bằng chứng nhận:
1– Hiểu rõ ràng pháp môn Thiền tông, thì được cấp giấy chứng nhận giác ngộ “Yếu chỉ Thiền tông”. Không làm lễ, nhưng được danh hiệu là “Phật tử Thiền tông” và gọi tên thật của người đó. Ví dụ cô đã đạt được thì được gọi là “Phật tử Thiền tông Nguyễn Thị Xuân Trang”.
2– Giải thích được tất cả những lời dạy của Đức Phật, dù ẩn ý hay không, mà có kệ hay thơ xuất phát từ trong tánh thanh tịnh Phật Tánh của chính mình, thì được cấp bằng chứng nhận đạt được “Bí mật Thiền tông”. Được truyền “Bí mật Thiền tông” bằng một buổi lễ trang nghiêm tại một trong hai nơi như sau:
  • Tại chánh điện chùa Thiền tông.
  • Hoặc tại Thiền tông thất.
Và được gọi là “Phật gia Thiền tông” kèm  theo tên thật của người đó. Nếu như cô đã đạt được thì được gọi danh hiệu như sau: “Phật gia Thiền tông Nguyễn Thị Xuân Trang”.
Trong Thiền sử Thiền tông của Phật giáo, còn lưu lại danh từ “Phật gia” cho đến ngày hôm nay là “Phật gia Thiền tông Võ Tắc Thiên”.

Câu chuyện ấy như sau:
Khi vua Võ Tắc Thiên đọc 9 chữ uống “Trà đạo”, do Đức Lục Tổ Huệ Năng đọc cho ông Tiết Giản là Bộ Trưởng Văn hóa ghi lại, đem về triều đình trình lên cho vua Võ Tắc Thiên. Vua Võ Tắc Thiên đọc 9 chữ này, Nhà vua  đạt được “Bí mật Thiền tông”.
 Sau 2 tháng, Nhà vua được Đức Lục Tổ Huệ Năng truyền “Bí mật Thiền tông” cho Nhà vua và gọi Nhà vua là “Phật gia Thiền tông Võ Tắc Thiên”.
Cũng từ khi Nhà vua Võ Tắc Thiên được truyền “Bí mật Thiền tông”, Đức Lục Tổ gọi Nhà vua là “Phật gia Thiền tông” và tặng Nhà vua  câu kệ:
      Thiền tông đã chảy theo dòngĐức vua nhận được Thiền tông Phật Đà      Khi xưa lời dạy Thích CaKhông tu mà được, “Phật gia” gọi người.
      Hôm nay, Ta tặng cho NgườiDanh hiệu ngộ đạo, đạt thời Thiền tông      Phật gia nên giữ trong lòngĐến khi rời thế, thong dong về Nguồn.
Tám câu kệ của Đức Lục Tổ Huệ Năng tặng cho vua Võ Tắc Thiên có hàm ý 2 phần:
1/- Đức Lục Tổ chánh thức gọi vua Võ Tắc Thiên là “Phật gia”.
2/- Huyền ký cho “Phật gia Thiền tông Võ Tắc Thiên”, khi Phật gia hết duyên sống nơi thế giới này, Phật gia được tự tại và an nhiên rời thế giới vật lý Âm Dương này trở về Phật giới.
Thật  may mắn thay! Danh hiệu Phật gia Thiền tông gọi tên người Cư sĩ đạt được “Bí mật Thiền tông” còn lưu danh cho hậu thế.
3- Vị nào giúp cho từ 30 người trở lên giác ngộ “Yếu chỉ Thiền tông”, và từ 15 người trở  lên đạt được “Bí mật Thiền tông”, thì vị này được cấp 2 Bằng Công nhận:
  • Bằng phong “Thiền tông sư”, gọi tắt là “Thiền sư”, nếu là tu sỹ. Bằng phong “Thiền tông gia”, gọi tắt là “Thiền gia”, nếu là cư sỹ.
  • Bằng Công nhận đủ tư cách truyền “Bí mật Thiền tông” cho người khác.
Hai phần trên, đều được làm lễ trước Tôn tượng Thiền tông của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại chùa Thiền tông hoặc tại Thiền tông thất.

Câu chuyện thứ hai về vua Võ Tắc Thiên:
– Khi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn tịch, Thượng tọa Thần Tú được đức vua Võ Tắc Thiên mời về triều đình làm Quốc sư. Vua Võ Tắc Thiên là người hiểu rất thông Thiền tông học.
Đức vua có hỏi Quốc sư Thần Tú:
– Khi còn sanh tiền, Đức Ngũ Tổ có dạy đạo “Nhất thừa”, vậy Quốc sư hãy nói đạo ý nghĩa đạo “Nhất thừa” cho Trẫm nghe thử?
Ý đức vua Võ Tắc Thiên lấy câu truyện trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa về xe trâu trắng mà Đức Phật dạy như sau:
Nhất thừa là cổ xe trâu.
Đổ đi sanh tử, còn đâu luân hồi
Bạch ngưu hiện rõ ra rồi
Luân hồi sinh tử là “Thôi” với mình.
Còn Thiền tông, các vị Tổ sư thiền có dạy:
Thiền tông là “Nhất tự thiền”
Đưa người thanh tịnh về miền quê xưa
“Nhất tự” không dụng sớm trưa
“Buông, Dừng, Thôi, Dứt” quê xưa thấy liền.
Đạo “Một chữ” Quốc sư Thần Tú không biết, nên vua Võ Tắc Thiên hỏi thêm câu thứ hai:
– Nay Trẫm đã già, mắc phải bệnh của người lớn tuổi, trong thiên hạ, nhiều người bảo: Nếu biết uống trà đạo sẽ trị được bệnh thân và bệnh tâm, vậy Quốc sư có thể chỉ cho Trẫm được không?
Câu hỏi đạo “Nhất thừa” Quốc sư Thần Tú không trả lời được, lại bị câu hỏi thứ hai, quốc sư Thần Tú đành thưa với vua Võ Tắc Thiên:
– Về chỗ sâu mầu này, thật tình Thần không hiểu, kính xin Bệ hạ cử người về phương Nam hỏi Lục Tổ Huệ Năng ắt sẽ rõ.
Đức vua, sai ông Tiết Giản về phương Nam hỏi Đức Lục Tổ. Đức Lục Tổ Huệ Năng không giảng dạy mà chỉ đọc có 9 chữ để ông Tiết Giản ghi, đem về trình lên vua Võ Tắc Thiên. Chín chữ ấy như sau:
     – Không trà, không tâm, biết uống là hết bệnh!
Ông Tiết Giản về triều tâu trình lên vua Võ Tắc Thiên. Đọc xong thư, đức vua biết cách uống trà đạo để trị bệnh thân và bệnh tâm, liền xuất khẩu thành bài thơ bốn câu:
     – Tay bưng lấy một tách trà     – Trà vừa vô miệng hết đà bệnh tâm     – Ơn Thầy chỉ dạy rất thâm     – Nhờ vậy, Trẫm thấy bệnh thân không còn.
Bốn câu thơ nói trên, là bốn câu thơ đã nói lên Nhà vua ngộ được lý Thiền tông, chứ không phải tầm thường. Cũng nhờ chín chữ ấy, vua Võ Tắc Thiên đã nhận ra Phật tánh của chính mình và sống với Phật tánh ấy. Nhờ vậy, khi đến 80 tuổi, vua ngồi kiết già rồi thị tịch tự bỏ xác thân mình. Người sống được trong Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh mới có khả năng này.
Xin nhấn mạnh về chín chữ mà Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy vua Võ Tắc Thiên:
“Không trà, không tâm, biết uống là hết bệnh!”
Đức vua nhận ra chỗ thâm sâu này, tức khắc nhận ra được Phật tánh Thanh tịnh của chính Ngài. Lúc này câu “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, mà trong Bát Nhã Tâm Kinh thường lặp đi lặp lại. Trước kia Nhà vua mờ mịt, nay đã hiện rõ nghĩa chân thật, như dưới ánh sáng ban ngày, đồng nghĩa Nhà vua nhận ra được Phật tánh chân thật của chính Ngài rõ ràng thanh tịnh, không phải là cái tâm lăng xăng của vật lý; còn sự học hỏi của tâm vật lý và xác thân tứ đại của Nhà vua chỉ là của sinh diệt luân hồi. Hai thứ này, Nhà vua biết cách tách rời ra nên tự bỏ xác thân một cách rất dễ dàng và hòa nhập vào Niết bàn Thanh tịnh của Mười Phương Chư Phật.
Khi đức vua ngộ được lý Thiền tông qua chín chữ dạy của Đức Lục Tổ Huệ Năng, đức vua Võ Tắc Thiên có Sắc Chỉ cám ơn Đức Lục Tổ Huệ Năng, với các lời văn kệ như sau:
– Sở dĩ, suốt đời làm vua của Trẫm được trên thuận dưới  hòa, giải quyết được tất cả công việc nước, dù có khó đến đâu, cũng  được vượt qua. Đó là Trẫm nhờ ân đức lớn: Trong nước của Trẫm có vị tu hành đạt đạo. Hôm nay, Trẫm mới biết, người đạt được đạo ấy chính là Thầy. Nhờ lời dạy của Thầy, Trẫm đã nhận ra Bản Lai Diện Mục của chính mình và sống được với Bản Lai Diện Mục ấy. Để đáp lại công ơn trời biển của Thầy, nay Trẫm có Sắc Kệ bốn câu, kính dâng lên Thầy, trước, cám ơn Thầy, sau, là trình kiến giải của Trẫm đã nhận ra được chỗ thâm sâu mà Chư Phật đã dạy, mong Thầy chứng minh”:
Sắc Kệ rằng:
      – Lời dạy của Phật rất cao sâu      — Tỷ đời triệu kiếp con tìm cầu      – Hôm nay nghe được lời Thầy dạy      – Rõ nghĩa Như Lai rất nhiệm mầu!
Đức Lục Tổ nhận và ấn chứng cho vua Võ Tắc Thiên đã triệt ngộ được “Bí mật Thiền tông”. Nên bài Sắc Kệ này được công bố khắp trong nước. Vì vậy, tất cả các chùa trước khi khai kinh tụng đều lấy bài kệ của vua Võ Tắt Thiên tụng để khai kinh.
Sắc Kệ này có 28 chữ, ban đầu các chùa tụng đúng nguyên bản gốc. Dần dần về sau này, tụng lệch đi 6 chữ, nên làm mất đi ý nghĩa chánh của bài kệ khai kinh. Bài kệ của vua Võ Tắc Thiên là trình kiến giải về đạt “Bí mật Thiền tông” và được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” của chính bà.
Còn bài kệ hiện nay các chùa đang tụng để khai kinh, là bài kệ cầu nguyện mong đạt được ý sâu mầu lời của Đức Phật dạy, thật là đáng tiếc!
Bài kệ mà hiện nay đại đa số các chùa thường được đọc tụng để khai kinh như sau:
Hán Văn:
“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiện nghĩa”
dịch nghĩa Tiếng Việt:
“Phật pháp rộng sâu lại thăm thẳm
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu 
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng, 
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
Vì sao có sự sai lệch này?
Vì người sau này dịch kệ thiền mà họ không giác ngộ “Yếu chỉ Thiển tông” là phải sai! Tất cả kệ thiền hay kinh nói về thiền, ẩn chứa ý sâu mầu trong từng chữ, từng câu, không thể thêm hay bớt một chữ hay một nét nào được! Nếu đem cái tri thức suy ngẫm của học thức mà giải về thiền học, thì chắc chắn phải bị sai!
Người ngộ thiền giống như người trước kia bị mù mà nay được sáng mắt. Còn người dịch kinh hay kệ thiền mà chưa ngộ thiền, giống như người còn đang mù mắt, nương theo cái suy nghĩ của học thức của mình mà dịch kinh hay kệ thì giải làm sao đúng được!
Xin nhấn mạnh thêm:
Người muốn dịch kinh hay kệ thiền, ít nhất người đó phải giác ngộ “Yếu chỉ Thiền tông”; chứ không giác ngộ Yếu chỉ Thiền tông mà dịch kinh hay kệ thiền, là phải mang lỗi với người xưa và với người nghiên cứu, tụng hay đọc! Hai lỗi ấy, Đức Phật và các vị Tổ sư Thiền tông không chấp nhận!
Đó là việc của quá khứ!
Còn hiện tại, ở nước Việt Nam chúng ta, nếu vị nào quyết chí tu theo đạo Phật để được giác ngộ và tìm đường giải thoát, thì hãy tìm cho được một vị Thiện tri thức, đã đạt được “Bí mật Thiền tông”, nhờ vị ấy giúp đỡ thì người tu mới mong thành công được. Còn không tìm được vị này, dù chúng ta có đi nghe người chưa biết Thiền tông học là gì, dù chúng ta có nghe họ giảng 100 năm cũng không khi nào giác ngộ, chứ đừng nói chi giải thoát.
Xin mách người đạt được “Bí mật Thiền tông”:
Người đạt được “Bí mật Thiền tông”, vị này không khi nào đứng trước đông người nói, mà vị này chỉ cần nhìn người đối diện nói chỉ 1 câu, là vị này biết người đối diện có muốn tu giải thoát hay không, tự vị này nói cho người đối diện biết.
PHẬT GIA THIỀN TÔNG VÕ TẮC THIÊN (17/2/624 – 16/2/705). Ảnh: minh họa.

Câu chuyện thứ ba về vua Võ Tắc Thiên:
Còn vào thời vua Võ Tắc Thiên trị vì nước Trung Hoa, khi Nhà vua đạt được “Bí mật Thiền tông” và được danh hiệu là “Phật Gia Thiền tông Võ Tắc Thiên”, Nhà vua có qui định cho những vị lãnh đạo Giáo hội Phật giáo:
“Khi có vị nào muốn cất chùa để truyền bá các pháp môn tu của Đức Phật dạy, phải thực hiện đúng như sau:
– Bất cứ ai muốn cất chùa cũng được, nhưng phải qua sự kiểm tra của những vị có trách nhiệm ở địa phương:
A- Tiền tài vật chất do đâu mà có.
B- Tu theo pháp môn gì của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy, phải có văn bản giải thích về pháp môn tu của chính mình.
C- Không được cất chùa để kinh doanh, hay cất chùa làm bình phong để người khác đem tiền của cho mình xài. Chính quyền địa phương phải kiểm soát thật chặt chẽ việc cất chùa này”.
Nhà vua có công văn gởi các địa phương như sau:
– Các ông là chính quyền địa phương, là đại diện cho Trẫm. Trẫm đã hiểu thật rõ các pháp môn tu của Như Lai dạy. Vậy, khi có vị nào muốn cất chùa để tu, các ông phải yêu cầu vị đó phải giải trình về pháp môn của mình tu. Lời giải trình ấy, phải trình lên tự Trẫm xem xét, nếu Trẫm bận, Trẫm nhờ những vị có trách nhiệm trong Giáo hội xem xét giùm. Nếu vị nào cất chùa để tu đúng với các pháp môn tu của Đức Phật dạy, Trẫm sẽ cấp phép xây dựng chùa rất nhanh.
Trẫm cũng lưu ý các địa phương: vị nào cất chùa với các mục đích như dưới đây, các ông phải dẹp bỏ ngay, để không làm ô danh những pháp môn mà Đức Phật dạy nơi thế giới này:
1- Cất chùa để truyền bá mê tín.
2- Cất chùa để làm bình phông, ngồi đó để người khác đem tiền hay vật chất đến cho mình xài.
3- Ông, Bà nào nói mình tu chứng được cái này hay đạt được cái kia, Ông, Bà đó phải tự đi làm mà ăn.
Sự thật, Đức vua Võ Tắc Thiên đưa ra rất nhiều qui định, nhưng chúng tôi chỉ nêu vài qui định căn bản để quý vị độc giả hiểu rõ hơn.
Vì vậy, tất cả các chùa ở nước Trung Hoa thời đó, vị nào tu, dù già hay trẻ đều phải lao động để có thức ăn  để nuôi thân. Đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn nghe câu của Thiền sư Bá Trượng dạy: “Một ngày không làm là một ngày không ăn”.
Chính vì những qui định chặt chẽ của Đức vua Võ Tắc Thiên như vậy, nên lợi dụng sau khi nhà vua viên tịch, những kẻ thủ đoạn, những người mê tín, ham danh lợi, địa vị, v.v…, đã tranh thủ sự việc này để vu khống nhà vua Võ Tắc Thiên về tội loạn luân, dâm loạn, vu khống bà không tiếc lời, v.v…
Thế nhưng, cho đến ngày hôm nay, có mấy ai hiểu được sự chân thật như chúng tôi đã đề cập ở trên, về một vị vua lừng danh một thời đã đạt danh hiệu là “Phật Gia Thiền Tông Võ Tắc Thiên” cao quí và không ai khác, chính bà đã biết tự cắt được dòng điện Âm Dương trong cơ thể, để an nhiên thị tịch và nhập Niết Bàn của Chư Phật ở tuổi 80.
Trích bộ sách về Thiền tông học  – tác giả Nguyễn Nhân.