Kopi Luwak.
Saturday, January 31, 2015
Special treatment specific illness pain by acupressure (Master Lý Phước Lộc)
Tiểu đêm, chân lạnh, Mắt mờ do viêm gan C, Mộng thịt ở mắt.
Đau đầu lâu năm, cấp cứu huyết áp cao, tai biến
Đau Gót chân.
Run tay.
Tim, Gout (gút), Chuột rút, Thốn gót chân.
Tê tay, Đau vai, mất ngủ, Tay không dơ lên được.
Đau mỏi Gáy, Đau gót chân, Dịch Cân kinh.
Huyết áp cao, nhiều nước mũi, Đờm, Mụn lưỡi.
Viêm Xoang lâu năm, ngẹt mũi tắc mũi.
lạnh chân tay, Táo bón, Gai gót chân,Tư thế con rắn.
THỐN GÓT CHÂN,TÊ CHÂN,GIÃN TĨNH MẠCH, PHÙ CHÂN.
Wednesday, January 28, 2015
CHINH PHỤ NGÂM KHÚC DẪN GIẢI.
Nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn 鄧 陳 琨
Bản dịch chữ Nôm tương truyền của Đoàn Thị Điểm 段 氏 點
天 地 風 塵
Thiên địa phong trần
紅 顏 多 屯
Hồng nhan đa truân
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
烽 火 影 照 甘 泉 雲
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
九 重 按 劍 起 當 席
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
清 平 三 百 年 天 下
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
從 此 戎 衣 屬 武 臣
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
使 星 天 門 催 曉 發
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
行 人 重 法 輕 離 別
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
弓 箭 兮 在 腰
Cung tiễn hề tại yêu
妻 孥 兮 別 袂
Thê noa hề biệt khuyết
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
有 怨 兮 分 攜
Hữu oán hề phân huề
有 愁 兮 契 闊
Hữu sầu hề khế khoát
|
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Nước thanh bình ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ từ đây
Sứ trời sớm giục đường mây
Phép công là trọng, niềm tây sá nào
Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
|
良 人 二 十 吳 門 豪
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
投 筆 硯 兮 事 弓 刀
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
直 把 連 城 獻 明 聖
Trực bả liên thành hiến minh thánh
願 將 尺 劍 斬 天 驕
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
丈 夫 千 里 志 馬 革
Trượng phu thiên lý chí mã cách
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
便 辭 閨 閫 從 征 戰
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
西 風 鳴 鞭 出 渭 橋
Tây phong minh tiên xuất Vị kiều
渭 橋 頭 清 水 溝
Vị kiều đầu thanh thuỷ câu
清 水 邊 青 草 途
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
送 君 處 兮 心 悠 悠
Tống quân xứ hề tâm du du
君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
清 清 有 流 水
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
不 洗 妾 心 愁
Bất tẩy thiếp tâm sầu
青 青 有 芳 草
Thanh thanh hữu phương thảo
不 忘 妾 心 憂
Bất vong thiếp tâm ưu
語 復 語 兮 執 君 手
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
步 一 步 兮 牽 君 襦
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
妾 心 隨 君 似 明 月
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
君 心 萬 里 千 山 箭
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
君 穿 壯 服 紅 如 霞
Quân xuyên trang phục hồng như hà
君 騎 驍 馬 白 如 雪
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
驍 馬 兮 鸞 鈴
Kiêu mã hề loan linh
征 鼓 兮 人 行
Chinh cổ hề nhân hành
須 臾 中 兮 對 面
Tu du trung hề đối diện
頃 刻 裡 兮 分 程
Khoảnh khắc lý hề phân trình
|
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
Nhủ rồi tay lại trao liền
Bước đi một bước lại vin áo chàng
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
|
分 程 兮 河 梁
Phân trình hề hà lương
徘 徊 兮 路 旁
Bồi hồi hề lộ bàng
路 旁 一 望 兮 旆 央 央
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
前 車 兮 北 細 柳
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu
後 騎 兮 西 長 楊
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
騎 車 相 擁 君 臨 塞
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
楊 柳 那 知 妾 斷 腸
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
去 去 落 梅 聲 漸 遠
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
行 行 征 旆 色 何 忙
Hành hành chinh bái sắc hà mang
望 雲 去 兮 郎 別 妾
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
望 山 歸 兮 妾 思 郎
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang
郎 去 程 兮 濛 雨 外
Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
妾 歸 處 兮 昨 夜 房
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
歸 去 兩 回 顧
Quy khứ lưỡng hồi cố
雲 青 兮 山 蒼
Vân thanh hề sơn thương
郎 顧 妾 兮 咸 陽
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
妾 顧 郎 兮 瀟 湘
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
相 顧 不 相 見
Tương cố bất tương kiến
青 青 陌 上 桑
Thanh thanh mạch thượng tang
陌 上 桑 陌 上 桑
Mạch thượng tang mạch thượng tang
妾 意 君 心 誰 短 長
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường
|
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
Ðoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
|
自 從 別 後 風 沙 隴
Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
明 月 知 君 何 處 宿
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
古 來 征 戰 場
Cổ lai chinh chiến trường
萬 里 無 人 屋
Vạn lý vô nhân ốc
風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
今 朝 漢 下 白 登 城
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
明 日 胡 窺 青 海 曲
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
青 海 曲 青 山 高 復 低
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
青 山 前 青 溪 斷 復 續
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
青 山 上 雪 蒙 頭
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
青 溪 下 水 沒 腹
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
可 憐 多 少 鐵 衣 人
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
思 歸 當 此 愁 顏 蹙
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
錦 帳 君 王 知 也 無
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
艱 難 誰 為 畫 征 夫
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
料 想 良 人 經 歷 處
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
蕭 關 角 瀚 海 隅
Tiêu Quan giác hãn hải ngung
霜 村 雨 店虎 落 蛇 區
Sương thôn vũ điếm, hổ lạc xà khu
風 餐 露 宿 雪 脛 冰 鬚
Phong xan lộ túc, tuyết hĩnh băng tu
登 高 望 雲 色
Đăng cao vọng vân sắc
安 復 不 生 愁
An phục bất sinh sầu
|
Chàng từ đi vào nơi gió cát
Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
Ôm yên, gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
Hình khe, thế núi gần xa
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như giội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
Lên cao trông thức mây lồng
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
|
自 從 別 後 東 南 徼
Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu
東 南 知 君 戰 何 道
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
古 來 征 戰 人
Cổ lai chinh chiến nhân
性 命 輕 如 草
Tính mệnh khinh như thảo
鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
祈 山 舊 塚 月 茫 茫
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
淝 水 新 墳 風 裊 裊
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
風 裊 裊 空 吹 死 士 魂
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
征 夫 貌 兮 誰 丹 青
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
死 士 魂 兮 誰 哀 弔
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
可 憐 爭 鬪 舊 江 山
Khả lân tranh đấu cựu giang sơn
行 人 過 此 情 多 少
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
古 來 征 戰 幾 人 還
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
班 超 歸 時 鬢 已 斑
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
料 想 良 人 馳 騁 外
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
三 尺 劍 一 戎 鞍
Tam xích kiếm nhất nhung yên
秋 風 沙 草
Thu phong sa thảo
明 月 關 山
Minh nguyệt quan san
馬 頭 鳴 鏑
Mã đầu minh đích
城 上 緣 竿
Thành thượng duyên can
功 名 百 忙 裏
Công danh bách mang lý
勞 苦 未 應 閒
Lao khổ vị ưng nhàn
勞 與 閒 誰 與 言
Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
君 在 天 涯 妾 倚 門
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
|
Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu
Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
Phận trai già cõi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
Xông pha gió bãi trăng ngàn
Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
Áng công danh trăm đường rộn rã
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
|
倚 門 固 妾 今 生 分
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
天 涯 豈 君 平 生 魂
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
自 信 相 隨 魚 水 伴
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
那 堪 相 隔 水 雲 村
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
妾 身 不 想 為 征 婦
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
君 身 豈 學 為 王 孫
Quân thân khởi học vi vương tôn
何 事 江 南 與 江 北
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
令 人 愁 曉 更 愁 昏
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
一 個 是 風 流 少 年 客
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
一 個 是 深 閨 少 年 婚
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
可 堪 兩 年 少
Khả kham lưỡng niên thiếu
千 里 各 寒 暄
Thiên lý các hàn huyên
憶 昔 與 君 相 別 時
Ức tích dữ quân tương biệt thời
柳 條 猶 未 囀 黃 鸝
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
問 君 何 日 歸
Vấn quân hà nhật quy
君 約 杜 鵑 啼
Quân ước đỗ quyên đề
杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
青 柳 樓 前 語 鷾 鴯
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
憶 昔 與 君 相 別 中
Ức tích dữ quân tương biệt trung
雪 梅 猶 未 識 東 風
Tuyết mai do vị thức Ðông phong
問 君 何 日 歸
Vấn quân hà nhật quy
君 指 桃 花 紅
Quân chỉ đào hoa hồng
桃 花 已 伴 東 風 去
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
老 梅 江 上 又 芙 蓉
Lão mai giang thượng hựu phù dung
與 我 約 何 所
Dữ ngã ước hà sở
乃 約 隴 西 岑
Nãi ước Lũng Tây sầm
日 中 兮 不 來
Nhật trung hề bất lai
墜 葉 兜 我 簪
Trụy diệp đâu ngã trâm
竚 立 空 涕 泣
Trữ lập không thế khấp
荒 邨 喧 午 禽
Hoang thôn huyên ngọ cầm
與 我 約 何 所
Dữ ngã ước hà sở
乃 約 漢 陽 橋
Nãi ước Hán Dương kiều
日 晚 兮 不 來
Nhật vãn hề bất lai
谷 風 吹 我 袍
Cốc phong xuy ngã bào
竚 立 空 涕 泣
Trữ lập không thế khấp
寒 江 起 暮 潮
Hàn giang khởi mộ trào
|
Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
Những mong cá nước sum vầy
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục, oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió Ðông
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông
|
昔 年 寄 信 勸 君 回
Tích niên ký tín khuyến quân hồi
今 年 寄 信 勸 君 來
Kim niên ký tín khuyến quân lai
信 來 人 未 來
Tín lai nhân vị lai
楊 花 零 落 委 蒼 苔
Dương hoa linh lạc ủy thương đài
蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔
Thương đài thương đài hựu thương đài
一 步 閒 庭 百 感 催
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
昔 年 回 書 訂 妾 期
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
今 年 回 書 訂 妾 歸
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
書 歸 人 未 歸
Thư quy nhân vị quy
紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
斜 暉 斜 暉 又 斜 暉
Tà huy tà huy hựu tà huy
十 約 佳 期 九 度 違
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
試 將 去 日 從 頭 數
Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
不 覺 荷 錢 已 三 鑄
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
最 苦 是 連 年 紫 塞 人
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
最 苦 是 千 里 黃 花 戍
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
黃 花 戍 誰 無 堂 上 親
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
有 親 安 可 暫 相 離
Hữu thân an khả tạm tương ly
有 婦 安 能 久 相 負
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
君 有 老 親 鬢 如 霜
Quân hữu lão thân mấn như sương
君 有 嬰 兒 年 且 孺
Quân hữu anh nhi niên thả nhụ
老 親 兮 倚 門
Lão thân hề ỷ môn
嬰 兒 兮 待 哺
Anh nhi hề đãi bộ
供 親 餐 兮 妾 為 男
Cung thân xan hề thiếp vi nam
課 子 書 兮 妾 為 父
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
供 親 課 子 此 一 身
Cung thân khóa tử thử nhất thân
傷 妾 思 君 今 幾 度
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
思 君 昨 日 兮 已 過
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
思 君 今 年 兮 又 暮
Tư quân kim niên hề hựu mộ
君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
安 得 在 君 邊
An đắc tại quân biên
訴 妾 衷 腸 苦
Tố thiếp trung trường khổ
妾 有 漢 宮 釵
Thiếp hữu Hán cung thoa
曾 是 嫁 時 將 送 來
Tằng thị giá thời tương tống lai
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ ký quân tử
表 妾 相 思 懷
Biểu thiếp tương tư hoài
妾 有 秦 樓 鏡
Thiếp hữu Tần lâu kính
曾 與 郎 初 相 對 影
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
憑 誰 寄 君 子
Bằng thùy ký quân tử
照 妾 今 孤 另
Chiếu thiếp kim cô lánh
妾 有 鉤 指 銀
Thiếp hữu câu chỉ ngân
手 中 時 相 親
Thủ trung thời tương thân
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ ký quân tử
微 物 寓 慇 懃
Vi vật ngụ ân cần
妾 有 搔 頭 玉
Thiếp hữu tao đầu ngọc
嬰 兒 年 所 弄
Anh nhi niên sở lộng
憑 誰 寄 君 子
Bằng thuỳ ký quân tử
他 鄉 幸 珍 重
Tha hương hạnh trân trọng
|
Tin thường lại, người không thấy lại
Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp chung quanh
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
Thư thường tới, người không thấy tới
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
Tiền sen này đã nẩy là ba
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
Tình gia thất nào ai chẳng có
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
Mẹ già phơ phất mái sương
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
Kể năm đã ba tư cách diễn
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
Ước gì gần gũi tấc gang
Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
Gương lầu Tần dấu đã soi chung
Cậy ai mà gửi tới cùng?
Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
Cậy ai mà gửi tới nơi
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân.
|
昔 年 音 信 有 來 時
Tích niên âm tín hữu lai thời
今 年 音 稀 信 亦 稀
Kim niên âm hy tín diệc hy
見 雁 枉 然 思 塞 帛
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
聞 霜 漫 自 製 綿 衣
Văn sương mạn tự chế miên y
西 風 欲 寄 無 鴻 便
Tây phong dục ký vô hồng tiện
天 外 憐 伊 雪 雨 垂
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
雪 寒 伊 兮 虎 帳
Tuyết hàn y hề hổ trướng
雨 冷 伊 兮 狼 幃
Vũ lãnh y hề lang vi
寒 冷 般 般 苦
Hàn lãnh ban ban khổ
天 外 可 憐 伊
Thiên ngoại khả lân y
錦 字 題 詩 封 更 展
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
金 錢 問 卜 信 還 疑
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
幾 度 黃 昏 時
Kỷ độ hoàng hôn thời
重 軒 人 獨 立
Trùng hiên nhân độc lập
幾 回 明 月 夜
Kỷ hồi minh nguyệt dạ
單 枕 鬢 斜 攲
Đơn chẩm mấn tà khi
不 關 酖 與 酣
Bất quan trầm dữ hàm
惛 惛 人 似 醉
Hôn hôn nhân tự tuý
不 關 愚 與 惰
Bất quan ngu dữ nọa
懵 懵 意 如 癡
Mộng mộng ý như si
簪 斜 委 鬌 髼 無 奈
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
裙 褪 柔 腰 瘦 不 支
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
晝 沈 沈 午 院 行 如 墜
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
燈 知 若 無 知
Đăng tri nhược vô tri
妾 悲 只 自 悲
Thiếp bi chỉ tự bi
悲 又 悲 兮 更 無 言
Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
燈 花 人 影 總 堪 憐
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham lân
咿 喔 雞 聲 通 五 夜
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
披 拂 槐 陰 度 八 磚
Phi phất hòe âm độ bát chuyên
愁 似 海 刻 如 年
Sầu tự hải, khắc như niên
強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
此 意 春 風 若 肯 傳
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
千 金 借 力 寄 燕 然
Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
燕 然 未 能 傳
Yên Nhiên vị năng truyền
憶 君 迢 迢 兮 路 如 天
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
|
Trải mấy thu, tin đi tin lại
Tới xuân này tin hãy vắng không
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
Màn mưa trướng tuyết xông pha
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
Há như ai, hồn say bóng lẫn
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
|
天 遠 未 易 通
Thiên viễn vị dị thông
憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮
Ức quân du du hề tứ hà cùng
懷 人 處 傷 心 胸
Hoài nhân xứ thương tâm hung
樹 葉 青 霜 裡
Thụ diệp thanh sương lý
蛩 聲 細 雨 中
Cùng thanh tế vũ trung
霜 斧 殘 兮 楊 柳
Sương phủ tàn hề dương liễu
雨 鋸 損 兮 梧 桐
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
鳥 返 高 舂
Điểu phản cao thung
露 下 低 叢
Lộ há đê tùng
寒 垣 候 虫
Hàn viên hậu trùng
遠 寺 曉 鐘
Viễn tự hiểu chung
蟋 蟀 數 聲 雨
Tất suất sổ thanh vũ
芭 蕉 一 院 風
Ba tiêu nhất viện phong
風 裂 紙 窗 穿 帳 隙
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
月 移 花 影 上 簾 櫳
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
花 前 月 照 月 自 白
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
月 下 花 開 花 自 紅
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
月 花 花 月 兮 影 重 重
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
花 前 月 下 兮 心 忡 忡
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung
千 般 懶 萬 事 慵
Thiên ban lãn, vạn sự dung
慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
慵 粧 對 曉 空 施 粉
Dung trang đối hiểu không thi phấn
慵 語 終 朝 悶 倚 窗 倚 窗
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
倚 窗 復 倚 窗
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
郎 君 去 兮 誰 為 容
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
誰 為 容 兮 空 盤 桓
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
郎 君 去 兮 隔 重 關
Lang quân khứ hề cách trùng quan
何 啻 天 帝 孫
Hà thí Thiên đế tôn
冷 落 泣 銀 渚
lãnh lạc khấp Ngân Chử
何 啻 姮 娥 婦
Hà thí Hằng Nga phụ
凄 凉 坐 廣 寒
thê lương tọa Quảng Hàn
藉 愁 兮 為 枕
Tạ sầu hề vi chẩm
煮 悶 兮 為 餐
Chử muộn hề vi xan
欲 將 酒 制 愁
Dục tương tửu chế sầu
愁 重 酒 無 力
Sầu trọng tửu vô lực
欲 將 花 解 悶
Dục tương hoa giải muộn
悶 壓 花 無 顏
Muộn áp hoa vô nhan
愁 悶 總 為 愁 悶 誤
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
悶 愁 化 作 九 泉 灘
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
|
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
Nương song luống ngẩn ngơ lòng
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
Khác gì ả Chức, chị Hằng
Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi
|
試 瓊 笙 兮 不 成 響
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
抱 銀 箏 兮 不 忍 彈
Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
思 遠 塞 兮 行 路 難
Tư viễn tái hề hành lộ nan
念 征 夫 兮 囊 索 單
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
鵑 聲 啼 落 關 情 淚
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝
Tiều cổ xao tàn đái bại can
不 勝 憔 悴 形 骸 軟
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
始 覺 睽 離 滋 味 酸
Thủy giác khuê ly tư vị toan
滋 味 酸 兮 更 辛 酸
Tư vị toan hề toan cánh tân
酸 辛 端 的 為 良 人
Toan tân đoan đích vị lương nhân
為 良 人 兮 雙 妾 淚
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
為 良 人 兮 隻 妾 身
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
妾 身 不 到 君 征 帳
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
妾 淚 不 到 君 征 巾
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
惟 有 夢 魂 無 不 到
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
尋 君 夜 夜 到 江 津
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
尋 君 兮 陽 台 路
Tầm quân hề Dương Đài lộ
會 君 兮 湘 水 濱
Hội quân hề Tương thuỷ tân
記 得 幾 番 歡 會 處
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
無 非 一 枕 夢 中 春
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân
此 身 反 恨 不 如 夢
Thử thân phản hận bất như mộng
隴 水 函 關 與 子 親
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
夢 去 每 憎 驚 更 斷
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
夢 回 又 慮 幻 非 真
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
惟 有 寸 心 真 不 斷
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
未 嘗 頃 刻 少 離 君
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
心 不 離 君 未 見 君
Tâm bất ly quân vị kiến quân
凭 高 幾 度 望 征 輪
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
江 洲 滿 白 蘋
Giang châu mãn bạch tần
燕 草 披 青 縷
Yên thảo phi thanh lũ
秦 桑 染 綠 雲
Tần tang nhiễm lục vân
南 來 井 邑 半 兵 塵
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
落 日 平 沙 鷺 一 群
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
官 路 短 長 亭
Quan lộ đoản trường đình
雲 間 吳 樹 暗
Vân gian Ngô thọ ám
天 際 蜀 山 青
Thiên tế Thục sơn thanh
北 來 禾 黍 半 荒 城
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
微 雨 江 樓 笛 一 聲
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
|
Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
Xót người hành dịch bấy nay
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
Trống tiều khua, như đốt buồng gan
Võ vàng đổi khác dung nhan
Khuê ly mới biết tân toan dường này
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
Chua cay này, há có vì ai?
Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
Duy còn hồn mộng được gần
Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
Sum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
Duy có một tấm lòng chẳng dứt
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
Lòng theo song chửa thấy người
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
Trông bến Nam, bãi che mặt nước
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
Rườm rà xanh cây ngất núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu |
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
崆 山 葉 做 堆
Không sơn diệp tố đôi
自 飛 青 野 雉
Tự phi thanh dã trĩ
自 舞 隔 江 梅
Tự vũ cách giang mai
東 去 煙 嵐 慘 不 開
Đông khứ yên lam thảm bất khai
西 風 飄 薄 鳥 聲 哀
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
望 君 何 所 見
Vọng quân hà sở kiến
河 水 曲 如 鉤
Hà thủy khúc như câu
長 空 數 點 雁
Trường không sổ điểm nhạn
遠 浦 一 歸 舟
Viễn phố nhất quy châu
西 去 松 楸 接 斷 蕪
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
行 人 微 沒 隔 蒼 洲
Hành nhân vi một cách thương châu
望 盡 天 頭 又 地 頭
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
幾 日 登 樓 更 下 樓
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
凍 雲 阻 盡 相 思 眼
Đống vân trở tận tương tư nhãn
何 處 玉 關 征 戰 陬
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu
恨 無 長 房 縮 地 術
Hận vô trường phòng súc địa thuật
恨 無 仙 子 擲 巾 符
Hận vô tiên tử trịch cân phù
有 心 誠 化 石
Hữu tâm thành hóa thạch
無 淚 可 登 樓
Vô lệ khả đăng lâu
回 首 長 堤 楊 柳 色
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
Hối giao phu tế mịch phong hầu
不 識 離 家 千 里 外
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
君 心 有 似 妾 心 不
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
君 心 倘 與 妾 心 似
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
妾 亦 於 君 何 怨 尤
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
妾 心 如 花 常 向 陽
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
只 怕 君 心 如 流 光
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
流 光 一 去 不 復 照
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
花 為 流 光 黃 又 黃
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
花 黃 更 向 誰 邊 笑
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
流 光 不 肯 一 迴 照
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
黃 花 卻 為 流 光 老
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
黃 花 老 兮 落 滿 墻
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường
花 落 如 今 經 幾 霜
Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
|
Non Ðông thấy lá hầu chất đống
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
Ngàn thông chen chúc khóm lau
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
Trông bốn bề chân trời mặt đất
Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
Gậy rút đất dễ khôn học chước
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu
Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
Hoa để vàng bởi tại bóng dương
Hoa vàng hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
|
庭 蘭 兮 已 摘
Đình lan hề dĩ trích
江 藻 兮 又 芳
Giang tảo hề hựu phương
攝 衣 步 前 堂
Nhiếp y bộ tiền đường
仰 目 觀 天 章
Ngưỡng mục quan thiên chương
纖 雲 時 彷 彿
Tiêm vân thời phảng phất
北 斗 忽 低 昂
Bắc đẩu hốt đê ngang
河 水 翻 明 滅
Hà thuỷ phiên minh diệt
參 躔 乍 現 藏
Sâm triền sạ hiện tàng
月 照 兮 我 床
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
風 吹 兮 我 牆
Phong xuy hề ngã tường
玉 顏 隨 年 削
Ngọc nhan tuỳ niên tước
丈 夫 猶 他 方
Trượng phu do tha phương
昔 為 形 與 影
Tích vi hình dữ ảnh
今 為 參 與 商
Kim vi Sâm dữ Thương
君 邊 雲 擁 青 絲 騎
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
妾 處 苔 生 嚮 屧 廊
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
廊 內 春 風 日 將 歇
Lang nội xuân phong nhật tương yết
可 憐 誤 盡 良 時 節
Khả lân ngộ tận lương thời tiết
良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
昨 日 未 笄 西 家 娘
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
今 年 已 歸 東 鄰 倩
Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
可 怜 兔 守 一 空 房
Khả linh thố thủ nhất không phòng
年 年 誤 盡 良 時 節
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
良 時 節 兮 忽 如 梭
Lương thời tiết hề hốt như thoa
人 世 青 春 容 易 過
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
別 愁 秋 恨 兩 相 磨
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
蒲 柳 青 青 能 幾 何
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
空 嘆 惜 淚 咨 嗟
Không thán tích lệ tư ta
只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
嘆 惜 何 以 為 顏 色 猶 紅 如 嫩 花
Thán tích hà dĩ vi Nhan sắc do hồng như nộn hoa
咨 嗟 何 以 為
Tư ta hà dĩ vi
光 陰 一 擲 無 回 戈
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
咨 命 薄 惜 年 花
Tư mệnh bạc tích niên hoa
紛 紛 少 婦 幾 成 皤
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
香 閣 重 懷 陪 笑 臉
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
花 樓 尚 記 解 香 羅
Hoa lâu thượng ký giải hương la
恨 天 不 與 人 方 便
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
底 事 到 今 成 坎 坷
Để sự đáo kim thành khảm kha
坎 坷 坎 坷 知 奈 何
Khảm kha khảm kha tri nại hà
為 妾 嗟 兮 為 君 嗟
Vị thiếp ta hề vị quân ta
|
Chồi lan nọ trước sân đã hái
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
Sửa xiêm dạo bước tiền đường
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
Thức mây đòi lúc nhạt hồng
Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
Bừng mắt trông sương gội cành khô
Lạnh lùng thay, bấy nhiêu thu
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
Một năm một nhạt mùi son phấn
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
Xưa sao hình ảnh chẳng rời
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
Gió Xuân ngày một vắng tin
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
Thương một kẻ phòng không luống giữ
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
Xuân thu để giận quanh ở dạ
Hợp ly đành buồn quá khi vui
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
E đến khi đầu bạc mà thương
Mặt hoa nọ gã Phan Lang
Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
Trách trời sao để nhỡ nhàng
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên
|
君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦
Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
甘 心 不 忍 兩 分 張
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
又 不 見 樑 間 雙 燕 燕
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
白 首 何 曾 忘 眷 戀
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
鶼 鶼 也 無 情
Kiêm kiêm dã vô tình
比 翼 相 隨 過 一 生
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
蛩 蛩 也 無 知
Cùng cùng dã vô tri
並 驅 到 老 不 相 違
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
路 柳 曾 傳 連 理 處
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
池 蓮 亦 有 並 頭 時
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
負 蟨 兮 駏 驉
Phụ quyết hề cự hư
抱 蘿 兮 菟 絲
Bão la hề thố ty
何 人 生 之 相 違
Hà nhân sinh chi tương vi
嗟 物 類 之 如 斯
Ta vật loại chi như tư
安 得 在 天 為 比 翼 鳥
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
在 地 為 連 理 枝
Tại địa vi liên lý chi
寧 甘 死 相 見
Ninh cam tử tương kiến
不 忍 生 相 離
Bất nhẫn sinh tương ly
雖 然 死 相 見
Tuy nhiên tử tương kiến
曷 若 生 相 隨
Hạt nhược sinh tương tuỳ
安 得 君 無 老 日
An đắc quân vô đáo lão nhật
妾 常 少 年
Thiếp thường thiếu niên
願 為 影 兮 隨 君 邊
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
君 有 行 兮 影 不 遠
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
君 依 光 兮 妾 如 願
Quân y quang hề thiếp như nguyện
願 君 許 國 心 如 丹
|
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
Chẳng xem chim yến trên rường
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
Liễu, sen là thức cỏ cây
Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
Ấy loài vật tình duyên còn thế
Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
Thiếp xin về kiếp sau này
Như chim liền cánh, như cây liền cành
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
Mọi bề trung hiếu, thiếp xin vẹn tròn
|
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
願 君 庇 民 身 如 鐵
Nguyện quân tỳ dân thân như thiết
饑 來 吞 下 月 氏 頭
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
渴 來 飲 下 單 于 血
Khát lai ẩm hạ Thiền Vu huyết
何 幸 期 門 鋒 刃 中
Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
老 天 著 意 護 英 雄
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
護 英 雄 百 戰 功
Hộ anh hùng bách chiến công
長 驅 駟 馬 靜 關 東
Trường khu tứ mã tịnh Quan Ðông
關 東 關 北 休 傳 箭
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn
山 尾 山 頭 早 掛 弓
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
捷 色 旌 旗 辭 塞 月
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
凱 歌 將 士 背 邊 風
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
勒 詩 兮 燕 然 石
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
獻 馘 兮 未 央 宮
Hiến quắc hề Vị Ương cung
未 央 宮 兮 向 天 朝
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
挽 銀 河 兮 洗 刀 弓
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
詞 人 刪 下 平 淮 頌
Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
樂 府 歌 傳 入 漢 謠
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
天 長 地 久 茅 苴 券
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
子 蔭 妻 封 爵 祿 標
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
有 愁 兮 此 日
Hữu sầu hề thử nhật
得 意 兮 來 時
Đắc ý hề lai thời
|
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
Sức tý dân dường sắt trơ trơ
Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
Ðã lòng trời gìn giữ người trung
Hộ chàng trăm trận nên công
Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
Ðỉnh non kia, đá đề danh
Triều thiên vào trước cung đình dâng công
Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
Nền huân tướng nên công rạng vẻ
Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
Ơn trên: tử ấm thê phong
Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
|
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
君 亦 洛 陽 好 男 兒
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
歸 來 倘 佩 黃 金 印
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
肯 學 當 年 不 下 機
Khẳng học đương niên bất há ky
願 為 君 兮 解 征 衣
Nguyện vi quân hề giải chinh y
願 為 君 兮 捧 霞 巵
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
為 君 梳 櫛 雲 鬟 髻
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
為 君 粧 點 玉 臙 脂
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
取 君 看 兮 舊 淚 帕
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
Tố quân thính hề cựu tình từ
舊 情 詞 兮 換 新 聯
Cựu tình từ hề hoán tân liên
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
淺 斟 兮 慢 慢
Thiển châm hề mạn mạn
底 唱 兮 連 連
Đê xướng hề liên liên
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
唱 不 唱 兮 紫 騮 篇
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
交 頸 成 雙 到 老 天
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
償 了 功 名 離 別 債
Thường liễu công danh ly biệt trái
相 憐 相 守 太 平 年
Tương liên tương thủ thái bình niên
太 平 年 願 君 止 戈 置
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
若 然 此 別 妾 何 淚
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
將 會 之 期 將 寄 言
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Ta hồ trượng phu đương như thị.
|
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
Khi về đeo quả ấn vàng
Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng giũ lớp phong sương
Vì chàng tay chuốc chén vàng
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
Câu vui đổi với câu sầu
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
Sẽ rót vơi lần lần từng chén
Sẽ ca dần ren rén từng thiên
Liên ngâm đối ẩm đòi phen
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
Ngâm nga mong gửi chữ tình
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!
|
Nguồn:
(1) Bản Chinh phụ ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú thích, Tân Việt, 1950. (Ghi tác giả bản dịch chữ nôm là Đoàn Thị Điểm.)
(2) Bản Chinh phụ ngâm diễn âm tân khúc của Nguyễn Văn Xuân, Lá Bối, Saigon, 1972. (Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Xuân, tác giả bản nôm là Phan Huy Ích, không phải là Đoàn Thị Điểm.)
http://thuviengdpt.info/quoc-hon-quoc-tuy/van-hoa-viet/van-chuong-thi-phu/chinh-phu-ngam-khuc-nguyen-tac-han-viet-dich-nghia/
Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748)_ nguyên tác Ðặng Trần Côn (1715-1745)
001 Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
002 Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
003 Xanh kia thăm thẳm tầng trên
004 Vì ai gây dựng cho nên nỗi này
005 Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
006 Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
007 Chín tầng gươm báu trao tay
008 Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
009 Nước thanh bình ba trăm năm cũ
010 Áo nhung trao quan vũ từ đây
011 Sứ trời sớm giục đường mây
012 Phép công là trọng, niềm tây sá nào
013 Ðường giong ruổi lưng đeo cung tiễn
014 Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa
015 Bóng cờ tiếng trống xa xa
016 Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng
017 Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
018 Xếp bút nghiên theo việc đao cung
019 Thành liền mong tiến bệ rồng
020 Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời
021 Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
022 Gieo Thái Sơn như tựa hồng mao
023 Giã nhà đeo bức chiến bào
024 Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu
025 Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
026 Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
027 Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
028 Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền
029 Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửa
030 Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó quên
031 Nhủ rồi tay lại trao liền
032 Bước đi một bước lại vin áo chàng
033 Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
034 Dạ chàng xa ngoài cõi Thiên San
035 Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
036 Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
037 Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử
038 Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba
039 Áo chàng đỏ tựa ráng pha
040 Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in
041 Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống
042 Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
043 Hà Lương chia rẽ đường này
044 Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi
045 Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu
046 Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương
047 Quân đưa chàng ruổi lên đường
048 Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
049 Tiếng địch trổi nghe chừng đồng vọng
050 Hàng cờ bay trong bóng phất phơ
051 Dấu chàng theo lớp mây đưa
052 Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
053 Chàng thì đi cõi xa mưa gió
054 Thiếp lại về buồng cũ gối chăn
055 Ðoái trông theo đã cách ngăn
056 Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh
057 Chốn Hàm Dương chàng còn ngảnh lại
058 Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
059 Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
060 Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
061 Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
062 Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
063 Ngàn dâu xanh ngắt một màu
064 Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
065 Chàng từ đi vào nơi gió cát
066 Ðêm trăng này nghỉ mát phương nao?
067 Xưa nay chiến địa dường bao
068 Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu
069 Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
070 Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
071 Ôm yên, gối trống đã chồn
072 Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh
073 Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại
074 Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua
075 Hình khe, thế núi gần xa
076 Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao
077 Sương đầu núi buổi chiều như giội
078 Nước lòng khe nẻo suối còn sâu
079 Não người áo giáp bấy lâu
080 Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây
081 Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ
082 Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
083 Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
084 Chẳn nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan
085 Ðã trắc trở đòi ngàn xà hổ
086 Lại lạnh lùng những chỗ sương phong
087 Lên cao trông thức mây lồng
088 Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
089 Chàng từ sang Ðông Nam khơi nẻo
090 Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
091 Những người chinh chiến bấy lâu
092 Như xem tính mệnh như màu cỏ cây
093 Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước
094 Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
095 Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
096 Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
097 Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
098 Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
099 Chinh phu tử sĩ mấy người
100 Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
101 Dấu binh lửa, nước non như cũ
102 Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
103 Phận trai già cõi chiến trường
104 Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về
105 Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ
106 Ba thước gươm, một cỗ nhung yên
107 Xông pha gió bãi trăng ngàn
108 Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành
109 Áng công danh trăm đường rộn rã
110 Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi
111 Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai
112 Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
113 Trong cửa này đã đành phận thiếp
114 Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
115 Những mong cá nước sum vầy
116 Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời
117 Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
118 Chàng há từng học lũ vương tôn
119 Cớ sao cách trở nước non
120 Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
121 Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
122 Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên
123 Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
124 Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành
125 Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
126 Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
127 Nay quyên đã giục, oanh già
128 Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
129 Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió
130 Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông
131 Nay đào đã quyến gió Ðông
132 Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
133 Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy
134 Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
135 Ngập ngừng, lá rụng cành trâm
136 Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
137 Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ
138 Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
139 Ngập ngừng gió thổi chéo bào
140 Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông
141 Tin thường lại, người không thấy lại
142 Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh
143 Rêu xanh mấy lớp chung quanh
144 Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ
145 Thư thường tới, người không thấy tới
146 Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
147 Bóng dương mấy buổi xuyên ngang
148 Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai
149 Thử tính lại diễn khơi ngày ấy
150 Tiền sen này đã nẩy là ba
151 Xót người lần lữa ải xa
152 Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài
153 Tình gia thất nào ai chẳng có
154 Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương
155 Mư già phơ phất mái sương
156 Con thơ măng sữa, vả đương phù trì
157 Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
158 Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm
159 Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
160 Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
161 Nay một thân nuôi già dạy trẻ
162 Nỗi quan hoài mang mể biết bao!
163 Nhớ chàng trải mấy sương sao
164 Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dư
165 Kể năm đã ba tư cách diễn
166 Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang
167 Ước gì gần gũi tấc gang
168 Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay
169 Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá
170 Gương lầu Tần dấu đã soi chung
171 Cậy ai mà gửi tới cùng?
172 Ðể chàng thấu hết tấm lòng tương tư
173 Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía
174 Ngọc cài đầu thuở bé vui tươi
175 Cậy ai mà gửi tới nơi
176 Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?
177 Trải mấy thu, tin đi tin lại
178 Tới xuân này tin hãy vắng không
179 Thấy nhàn, luống tưởng thư phong
180 Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng
181 Gió tây nổi không đường hồng tiện
182 Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
183 Màn mưa trướng tuyết xông pha
184 Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài
185 Ðề chữ gấm, phong thôi lại mở
186 Gieo bói tiền tin dở còn ngờ
187 Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
188 Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai
189 Há như ai, hồn say bóng lẫn
190 Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
191 Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
192 Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo
193 Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
194 Bức rèm thưa rủ thác đòi phen
195 Ngoài rèm thước chẳng mách tin
196 Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
197 Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết
198 Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
199 Buồn rầu nói chẳng nên lời
200 Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
201 Gà eo óc gáy sương năm trống
202 Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên
203 Khắc giờ đằng đẵng như niên
204 Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
205 Hương gượng đốt, hồn đà mê mải
206 Gương gượng soi, lệ lại chứa chan
207 Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
208 Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
209 Lòng này gửi gió đông có tiện
210 Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
211 Non Yên dù chẳng tới miền
212 Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
213 Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
214 Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
215 Cảnh buồn người thiết tha lòng
216 Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
217 Sương như búa bổ mòn gốc liễu
218 Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
219 Giọt sương phủ bụi chim gù
220 Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi
221 Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
222 Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên
223 Lá màn lay ngọn gió xuyên
224 Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
225 Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
226 Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông
227 Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
228 Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
229 Ðâu xiết kể, muôn sầu nghìn não
230 Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi
231 Biếng cầm kim, biếng đưa thoi
232 Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa
233 Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
234 Sớm lại chiều, dòi dõi nương song
235 Nương song luống ngẩn ngơ lòng
236 Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
237 Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi
238 Xót nỗi chàng, ngoài cõi trùng quan
239 Khác gì ả Chức, chị Hằng
240 Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng
241 Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối
242 Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm
243 Mượn hoa, mượn rượu giải buồn
244 Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi
245 Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng
246 Ôm đàn tranh mấy phím rời tay
247 Xót người hành dịch bấy nay
248 Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi
249 Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
250 Trống tiều khua, như đốt buồng gan
251 Võ vàng đổi khác dung nhan
252 Khuê ly mới biết tân toan dường này
253 Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ
254 Chua cay này, há có vì ai?
255 Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
256 Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề
257 Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng
258 Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn
259 Duy còn hồn mộng được gần
260 Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
261 Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ
262 Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
263 Sum vầy mấy lúc tình cờ
264 Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân
265 Giận thiếp thân lại không bằng mộng
266 Ðược gần chàng bến Lũng, thành Quan
267 Khi mơ những tiếc khi tàn
268 Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
269 Duy có một tấm lòng chẳng dứt
270 Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi
271 Lòng theo song chửa thấy người
272 Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe
273 Trông bến Nam, bãi che mặt nước
274 Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh
275 Nhà thôn mấy xóm chông chênh
276 Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
277 Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách
278 Rườm rà xanh cây ngất núi non
279 Lúa thành thoi thóp bên cồn
280 Nghe thôi địch ngọc véo von bên lầu
281 Non Ðông thấy lá hầu chất đống
282 Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai
283 Khói mù nghi ngút ngàn khơi
284 Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
285 Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc
286 Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu
287 Ngàn thông chen chúc khóm lau
288 Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về
289 Trông bốn bề chân trời mặt đất
290 Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen
291 Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn
292 Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
293 Gậy rút đất dễ khôn học chước
294 Khăn gieo cầu nào được thấy tiên
295 Lòng này hóa đá cũng nên
296 E không lệ ngọc mà lên trông lầu
297 Lúc ngảnh lại ngắm màu dương liễu
298 Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
299 Chẳng hay muôn dặm ruổi giong
300 Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
301 Lòng chàng ví cũng bằng như thế
302 Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa
303 Hướng dương lòng thiếp như hoa
304 Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
305 Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái
306 Hoa để vàng bởi tại bóng dương
307 Hoa vàng hoa rụng quanh tường
308 Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần
309 Chồi lan nọ trước sân đã hái
310 Ngọn tần kia bên bãi đưa hương
311 Sửa xiêm dạo bước tiền đường
312 Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ
313 Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ
314 Ðộ Khuê Triền buổi có buổi không
315 Thức mây đòi lúc nhạt hồng
316 Chuôi sao Bắc Ðẩu thôi Ðông lại Ðoài
317 Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
318 Bừng mắt trông sương gội cành khô
319 Lạnh lùng thay, bấy nhiêu Thu
320 Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi
321 Một năm một nhạt mùi son phấn
322 Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi
323 Xưa sao hình ảnh chẳng rời
324 Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương
325 Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ
326 Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in
327 Gió Xuân ngày một vắng tin
328 Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì
329 Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy
330 Trước gió xuân vàng tía sánh nhau
331 Nọ thì ả Chức chàng Ngâu
332 Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông
333 Thương một kẻ phòng không luống giữ
334 Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau
335 Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
336 Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
337 Xuân thu để giận quanh ở dạ
338 Hợp ly đành buồn quá khi vui
339 Oán sầu nhiều nỗi tơi bời
340 Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân
341 Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước
342 E đến khi đầu bạc mà thương
343 Mặt hoa nọ gã Phan Lang
344 Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
345 Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở
346 Tiếc quang âm lần lữa gieo qua
347 Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa
348 Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng
349 Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
350 Lầu hoa kia phảng phất mùi hương
351 Trách trời sao để nhỡ nhàng
352 Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên
353 Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội
354 Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương
355 Chẳng xem chim yến trên rường
356 Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau
357 Kìa loài sâu đôi đầu cùng cánh
358 Nọ loài chim chắp cánh cùng bay
359 Liễu, sen là thức cỏ cây
360 Ðôi hoa cũng dính, đôi dây cũng liền
361 Ấy loài vật tình duyên còn thế
362 Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
363 Thiếp xin về kiếp sau này
364 Như chim liền cánh, như cây liền cành
365 Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy
366 Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau
367 Thiếp xin: “Chàng chớ bạc đầu
368 Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung”
369 Xin: “làm bóng theo cùng chàng vậy,
370 “Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên
371 “Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền
372 “Mọi bề trung hiều, thiếp xin vẹn tròn”
373 Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt
374 Sức tý dân dường sắt trơ trơ
375 Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi
376 Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn
377 Mũi đòng vác đòi lần hăm hở
378 Ðã lòng trời gìn giữ người trung
379 Hộ chàng trăm trận nên công
380 Buông tên ải Bắc, treo cung non Ðoài
381 Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
382 Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh
383 Ðỉnh non kia, đá đề danh
384 Triều thiên vào trước cung đình dâng công
385 Nước Ngân Hán vác đòng rửa sạch
386 Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen
387 Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền
388 Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân
389 Nền huân tướng nên công rạng vẻ
390 Chữ đồng hưu bia thẻ nghìn đông
391 Ơn trên: tử ấm thê phong
392 Phần vinh thiếp cũng đượm chung hương trời
393 Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ
394 Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương
395 Khi về đeo quả ấn vàng
396 Trên khung cửi dám rẫy ruồng làm cao
397 Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
398 Xin vì chàng giũ lớp phong sương
399 Vì chàng tay chuốc chén vàng
400 Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
401 Mở khăn lệ, chàng trông từng tấm
402 Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu
403 Câu vui đổi với câu sầu
404 Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời
405 Sẽ rót vơi lần lần từng chén
406 Sẽ ca dần ren rén từng thiên
407 Liên ngâm đối ẩm đòi phen
408 Cùng chàng lại kết mối duyên đến già
409 Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ
410 Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
411 Ngâm nga mong gửi chữ tình
412 “Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!”.
https://honeyfunnyhellie.wordpress.com/2013/04/25/chinh-phu-ngam-khuc/
Subscribe to:
Posts (Atom)