Friday, January 23, 2015

Lữ đường di cảo thi tập, Quách Tấn.

THƠ CHỮ HÁN THÁI THUẬN
Tác giả: Sinh 1440, ngày mất không rõ. Đỗ tiến sĩ 1475, quê ở Siêu Loại, Bắc Ninh, được Lê Thánh Tông đặc cách ban phong “Tao Đàn Phó nguyên súy” (tức chỉ sau vua trong làng thơ thời bấy giờ. Ông tổ của dòng họ Thái Bá ở Nghệ An sau này, mà dịch giả Thái Bá tân của tập thơ này là một hậu duệ. Tác phẩm có “Lã Đường di cảo thi tập”, được dịch in ở miền Nam trước giải phóng, năm 1972, và ở miền bắc năm 1974, 1990.
Tập Lã Đường di cảo hiện nay chỉ còn 264 bài thơ chữ Hán. Gần đây, thơ ông được thi sĩ Quách Tấn tuyển dịch, đặt tên là Lữ đường thi, và đã được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2001.
Bến Hoàng Giang
Hoàng Giang, thuyền ghé bến.
Nhà tranh khói bập bồng.
Trẻ con, ba bốn đứa
Tìm bắt cáy ven sông.
Tiễn biệt
Sớm - oanh hót vườn cấm.
Chiều - yến bay gần xa.
Đầu hè chơi thỏa thích,
Chợt muốn về vườn nhà
Oán mùa xuân ở Tây Hồ
Đêm đêm thấm lạnh ánh trăng tà.
Không thuộc nhà nào, xuân cứ qua.
Cuộc vui đã hết, buồn ngơ ngác,
Buồn không ai đến hỏi mua hoa.
Đi thuyền trên sông La, ngẫu nhiên làm thơ
Trên sông trăng gió gọi xa xa.
Chong đèn bên sách thức mình ta.
Chim cuốc từ đâu kêu da diết.
Muốn ngủ nằm mơ thấy ở nhà.
Nhìn khói xuân buổi sáng sớm
Nguyệt lặn, xa xa hửng sáng dần.
Hoa lồng bóng nguyệt múa ngoài sân
Theo mặt trời lên, trăng xạm tối,
Trao hàng liễu biếc cái sầu xuân.
Làng ven núi
Mưa tạnh, đường làng ngập xác hoa.
Nhao nhác quạ bay giữa nắng tà.
Ông lão bạc đầu hờ hững quét
Cánh đỏ cánh vàng chẳng xót xa.
Chiều muộn bên sông
Bãi sông, nhân nước ngập,
Nhà nông tranh thủ cày,
Giục trâu đi, cò trắng
Giật mình, nháo nhác bay.
Đêm thu
Như nước, trời xanh ngỡ rất gần.
Ngô đồng không gió, rụng đầy sân.
Một mình ngồi ngắm cầu ô thước,
Thuyền thơ cập bến giữa sông Ngân.
Buổi sáng, xuất phát sớm từ làng ven sông
Xóm chài gà gáy rộn đâu đây.
Trăng mờ khói nước phía trời tây.
Gió thổi bờ lau, thu vạn dặm.
Mờ mờ bãi cát cánh chim bay.
Đêm xuân
Trăng chiếu qua rèm, trắng lẫn đen.
Không người dệt gấm để hàn huyên.
Chợt tỉnh, như nghe ai khẽ gọi -
Sau bụi cúc vàng, tiếng đỗ quyên.
Xóm nhỏ ven sông
Trên sông triều rút, lộ cát lầy.
Từng đàn chim trắng rủ nhau bay.
Một chiếc áo tơi che khói lạnh.
Trên trời gió thổi, cuốn sông mây.
Trên đường Bồn Man lúc đi chinh tây
Xuống lên, đường núi một màu xanh.
Hoàn toàn im lặng bốn xung quanh.
Chỉ tiếng mùa thu đang lặng lẽ
Rơi theo từng nhịp trống quân hành.
Trào lộng
Giữ mình, luôn đóng cửa phòng the.
Kín đáo rèm châu phủ bốn bề.
Nhưng sao giữ được trăng và gió
Lọt vào tình tự lúc đêm khuya?
Đầu xuân
Năm cũ hết rồi, sương mới tan.
Đào chưa ra nụ, liễu yếu tàn.
Đa tình đám cỏ ngoài sân vắng
Đã kịp xanh rờn, chạy trước xuân.
Ngày hè
Công danh, phú quí chẳng bền lâu.
Rượu ngon hãy uống để xua sầu.
Chín chục ngày hè râm mát lạ.
Gió trời ai thổi, đến từ đâu ?
Đêm thứ năm tại nhà Trực Kim Phong
Tiếng chày đập vải phía xa xa.
Bên hiên chênh chếch mảnh trăng tà.
Gối lạnh đêm khuya không ngủ được.
Vạn Xuân, man mác nỗi nhớ nhà.
Lui triều
Chuông lầu Ngũ Phượng vọng về đây.
Nhà ngọc, chầu tan, đợi suốt ngày.
Mùa đông giá lạnh, mây sà thấp.
Xế chiều gió thổi, cánh mai bay.
Nhớ nhà
Phía đông, sông Nhị đợi người về.
Quán trọ một mình, buồn ủ ê.
Thêm một mùa xuân đành lỗi hẹn,
Phụ tình chim cuốc gọi về quê.
Buổi chiều ở Tân Yên, nhìn ra xa
Mờ mờ nắng tắt phía trời tây.
Điếm canh như thấp, khác mọi ngày.
Đất khách cái buồn còn trĩu nặng,
Thêm buồn trăng gió kéo vào đây.
Ngắm cảnh xuân ở Thuận An
Như gấm, khói giăng bụi trúc già.
Cây cam, khóm mía mọc bên nhà.
Ngắm cảnh thái bình vui mắt thật.
Một làn gió thổi, nở muôn hoa.
Trên đường Thái Nguyên
Thưa thớt dân cư, cỏ mọc dày.
Đất cằn, gió nóng sém rừng cây.
Ngày trước tai nghe, nay mắt thấy,
Làm gì để giúp đất này đây ?
Ngày thu lên chùa trên núi ở Đông Triều
Mưa tạnh, mây tan, nắng xế tà.
Mái chùa thấp thoáng phía xa xa.
Vài tiếng chim kêu, rừng tịch mịch.
Thu về, cây quế đã ra hoa.
Đêm thu ở thành Thanh Hoa
Đêm vắng một mình bên góc sân
Ngắm cầu Ô Thước bắc sông Ngân.
Một vành trăng sáng soi thiên hạ.
Chày vải đêm thu rộn cõi trần.
Ngày đông ở Chí Linh
Xế chiều, mai nở trắng khắp nơi.
Rượu nhạt mà ngon, uống ấm người.
Sương giá mùa đông chưa kịp tới,
Bốn bề cây cối vẫn xanh tươi.
Tạm đậu thuyền ở Bình Hà
Tháng Tám, trời trong, rộn tiếng gà.
Thuyền thơ đậu tạm bóng cây đa.
Ruộng lúa, bãi dừa, ăm ắp nước.
Triều dâng, trời hửng phía xa xa.
Đến bến đò Đại Than
Cây đa soi bóng nước xanh trong.
Bâng khuâng đi hết quãng đường đồng.
Tù túng mười năm ngồi một chỗ,
Bây giờ có dịp ngắm non sông.
Đề thơ ở đình Bến Chiền
Bụi đời chưa sạch, sáng hôm nay
Nhàn, buộc thuyền thơ ở bến này.
Núi sông cảnh đẹp lên thăm thú.
Chắc gì có dịp lại về đây!
Thơ để lại ở quan phủ Hải Dương
Chiều bến Bình Than, tiếng sáo thuyền.
Đêm chùa Phả Lại, Phật chong đèn.
Quan khách tới đây, thăm với viếng,
“Lo trước vui sau” mấy bậc hiền?
Thơ đề am Vân Tiên
Xuyên rừng, đường nhỏ uốn quanh quanh.
Lơ lửng trên cao, sáng một vành.
Gặp sư muốn hỏi mà không hỏi -
Ngại làm xáo động chốn rừng xanh.
Thơ đề tức cảnh chùa Tùng Nghiêm
Chuông chiều, trong núi quạ kêu ran.
Trùng điệp núi xanh, cây bạt ngàn.
Nhà chùa thanh đạm, không tơ trúc,
Chỉ tiếng thông reo như tiếng đàn.
Xuất phát từ Đại Than, làm thơ lưu biệt
các bạn ở Hải Dương
Kinh đô phía trước, vệt mờ xa.
Thuyền con một chiếc, chẳng nề hà.
Thân thiết như nhau, nam với bắc.
Nước ở Đại Than giống Nhị Hà.
Sáng sớm, đi Đông Triều
Gà còn chưa báo sáng,
Thuyền đã đi, lúc này
Triều đang lên, nước đục,
Nhợt nhạt mảnh trăng gầy.
Gió lạnh thổi ngoài bãi.
Bến cá chìm trong mây.
Khúc Thương Lang ai hát,
Chim giật mình trên cây.
Thương xuân
Mặt trời lặng lẽ chạy về tây.
Chín chục thiều quang còn mấy ngày.
Oanh sầu, yến thảm thôn Hoa Rụng.
Bến đò, bãi cỏ phủ đầy mây.
Giấc mộng Nam Hoa thường dễ mắc.
Ai như Bắc Hải ở đời này?
Mờ mịt khói sông, trời chạng vạng.
Ngoái lại nhìn đời, buồn lắm thay.
Chiều xuân
Bèo nổi thân này, nghĩ xót xa.
Xuân đến, xuân đi, ai chẳng già.
Bên cầu nước chảy, buông tơ liễu,
Trên sông não ruột tiếng đa đa.
Vô cớ, tán cây lồng bóng nguyệt.
Gió quyện hương thơm vẫn mặn mà.
Thiều quang chín chục không còn nữa.
Thẹn lòng hiếu thảo kẻ đi xa.
Đi sớm
Ra đi trời chưa sáng,
Trăng gặp người trên sông.
Ảo mờ như trong mộng.
Mây là là trên đồng.
Trước hoa đỗ quyên hót.
Mập mờ đèn bãi nông.
Đi qua hết chợ cũ
Mới nghe chuông chùa Bồng.
Đầu xuân
Ba tháng đông qua, xuân lại về.
Khí trời chuyển ấm, gió se se.
Giá lạnh còn vương trên mặt nước,
Sắc xuân trên lá đã tràn trề.
Liễu lại xanh tươi, oanh chửa hót.
Chớm nụ hoa đào, vắng tiếng ve.
Hoàng hôn, ngoái lại nhìn quê cũ,
Du tử bùi ngùi những tái tê.
Đêm thu ở Tràng An
Tiếng chày đập vải vọng từ đâu.
Một mình quán trọ giữa thu thâu.
Khí mát đầy sân, cơn gió thổi.
Lạnh lẽo trăng soi nửa gác lầu.
Tiếng tù và thổi trên thành vắng.
Tiếng dế buồn buồn ngoài bãi dâu.
Trăm mối cảm thương không nén được.
Chỉ sợ sáng mai bạc trắng đầu.
Chiều xuân ở Tràng An
Tự biết tài hèn, chẳng dám khoe.
Tràng An sống uổng, phí đam mê.
Nhà quan buồn vắng như nhà sãi.
Mùa đông vất vả giống mùa hè.
Thương con bướm múa nơi vườn uyển.
Phụ lòng chim cuốc gọi về quê.
Mua rượu, trong lưng tiền chẳng có.
Vợ con cơm cháo khổ trăm bề.
Quán khách đêm thu
Nhà tranh che khuất vệt sao mờ.
Tiếng dế kêu hoài, buồn vẩn vơ.
Lá rụng một sân, thu sắp hết.
Nửa gối gió lùa, tỉnh giấc mơ.
Kẻ bắc người nam, nhiều nước mắt.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Bao bận tương tư, thi hứng tắt.
Cảm hoài quán khách chẳng thành thơ.
Thơ đề ở chùa Phổ Lại
Núi đến đây gặp suối.
Núi chạy từ phía đông.
Tiếng chuông xuôi về biển.
Trăng thu soi xuống sông.
Rồng ngâm nước ngoài bãi.
Cò đứng ngủ bên song.
Thỉnh thoảng sư thức giấc
Vì tiếng sáo ngư ông.
Đêm thu tức sự
Mưa tạnh, sân đường hết bụi nhơ.
Đang đêm thu hứng đến bất ngờ.
Ngô đồng lá úa bay theo gió.
Lưa thưa bóng liễu dưới trăng mờ.
Sương lạnh, tiếng trùng như thấm nước.
Không cháy thành tro, cỏ đốt hờ.
Bắt chước người xưa Đào Bành Trạch,
Ngắm hoa, uống rượu, hứng - làm thơ.
Núi Vọng Phu
Đầu non hóa đá, ngày lại ngày
Chờ gặp lại chồng, chồng có hay?
Mỏi mắt bao năm nhìn phía trước,
Để hồn lặng lẽ thấm vào mây.
Sương đọng trong hoa như nước mắt.
Như tiếng thở dài, khói trên cây.
Nếu biết có người đau khổ thế,
Tương Phi chắc đến khóc nơi này.
Chinh phụ ngâm
Cỏ đã lại xanh, lúa trĩu bông.
Bao lâu mới hết cảnh chờ chồng?
Một tiếng quyên kêu, rơi nước mắt.
Nửa rèm trăng úa, lạnh đêm đông.
Bóng nhạn cút côi bên ải bắc.
Sông nam xuân héo, nước xuôi dòng.
Mấy bận tương tư trong giấc mộng,
Thiếp đến với chàng, chàng biết không?
Nhìn mây trắng
Lớp lớp quê nhà mây trắng bay.
Động lòng thương nhớ, ngắm từ đây.
Quê hương nghìn dặm, nhìn heo hút.
Trăm năm mẫu tử một tình này.
Gạt lệ, tự tin ngày báo đáp.
Ai người múa áo ngũ sắc đây?
Vẹn tròn trung hiếu xưa nay hiếm.
Trời xanh chứng kiến tấm lòng ngay.
Ở ẩn
Mỏi mệt, buồn lo bởi bụi trần,
Chọn rừng lập xóm để nương thân.
Núi sông là cảnh, hoa là khách.
Không người, không ngựa đợi ngoài sân.
Đồng Giang câu cá, quên cung Hán.
Chí Lĩnh cày mây, lành nạn Tần.
Bắt chước Đào Tiềm, xong việc lớn,
Ngũ Hồ du ngoạn thật nhàn thân.
Dậy sớm
Tam Thiên giấc mộng vẫn còn đây.
Mùi thơm sách cổ vấn vương bay.
Dế khóc ngoài vườn, sương đã tạnh.
Dưới hồ trăng sáng, nước lung lay.
Chủ khách trước đèn lưu luyến mãi.
Hão huyền danh vọng chẳng hề hay.
Thôn nam, thôn bắc gà đang gáy.
Ngước mắt nhìn sao, đã rạng ngày.
Tiễn Đỗ Minh Phủ
Áo mỏng, quạt lông, đã mấy lần
Tây Hồ tôi bác dạo chơi xuân.
Đình viện đu tiên, hoa với bướm.
Lâu đài tiếng sáo, tiếng đàn ngân.
Một sớm gió mưa, thành cách biệt.
Đôi ngả hai người sông núi ngăn.
Hôm nay ngoái lại, thầm đau xót:
Đình Châu chỉ có bãi rau tần.
Hoàng Giang tức cảnh
Sóng yên, tĩnh lặng một dòng sông.
Mắt nhìn trời đất rộng mênh mông.
Làng quê đây đó đèn le lói.
Hai phía triều dâng ngập lút đồng.
Bãi lau trăng chiếu, thuyền đơn độc.
Bến đò tiếng sáo nhẹ như không.
Lữ khách ngả lưng, vừa chợp mắt,
Canh ba giấc mộng đã say nồng.
Cầu Mặc Động
Khe sâu, cầu ván bắc ngang qua,
Gần con đường nhỏ chạy bên nhà.
Trên núi trăng lên, tre đổ bóng.
Trong làng gió vẳng tiếng đàn ca.
Như thể bờ đi, thuyền đứng lặng.
Nước trong như muối, chảy hiền hòa.
Con cáy dưới cầu đang nghịch cát,
Dút dát, thấy người, vội lánh xa.
Sáng sớm, qua cửa biển Trần Hào
Côi cút ngọn đèn ở bến sông.
Gió yên, mây đứng lặng trên không.
Sóng gợn lăn tăn, cây khói nhạt.
Như mưa, mờ mịt cỏ trên đồng.
Khua nhẹ mái chèo, tôm cá quẫy.
Đàn cò quần tụ cạnh ngư ông.
Đầu thuyền uống rượu, quên không rót,
Ngồi xem nước cuộn, chảy về đông.
Thành Thuận Hóa tức sự
Thuyền thuyền cập bến những miền xa.
Cửa sông cầu mống bắc ngang qua.
Mùi thơm sóng biển hòa trong gió.
Núi núi liền nhau giữa nắng tà.
Chợ chiều đông khách, quần áo đẹp.
Sáo vẳng thuyền đêm, tiếng mượt mà.
Dẫu không biết chuyện Giang Nam hận,
Người thổi thổi bài Lạc Mai Ba.
Buổi chiều đến Triều Tân, xúc cảm thành thơ
Chiều buông, gió lạnh thổi trên không.
Ở đây lắm chuyện, ngẫm đau lòng.
Mất mùa, dân đói, làng xơ xác.
Lâu ngày nắng hạn, đất khô cong.
Mây bay từng tụm như lông phượng.
Ruộng hoang khói bốc, giống râu rồng.
Gặp ta, ba bốn ông già hỏi:
Ngày nào trở lại đất Thăng Long?
Hoa cúc
Thu muộn, một mình với gió sương,
Mấy bông cúc nở đẹp bên đường.
Bãi cỏ đêm đêm đom đóm lượn.
Thập thò bụi trúc giống chồn hương.
Hoa đẹp thường không quen giá lạnh.
Một lòng hoa cúc đợi Trùng Dương.
Ngắm hoa, chợt nhớ Đào Bành Trạch,
Tự nhiên thanh thản thật khác thường.
Sáo chài
Không màng phú quí lẫn công danh,
Chỉ cần ống sáo giữa đêm thanh.
Ba khúc thổi lên, thu héo lá.
Một tiếng du dương, xuân thắm cành.
Tha hương, chim nhạn về bến cũ.
Nhớ quê người đứng, nắng xuyên mành.
Không biết về đâu, thi hứng hết.
Nước vẫn xuôi dòng, núi vẫn xanh.
Cảm xúc mùa xuân
Giận mình từ thuở mới sinh ra
Chưa thể làm gì giúp mẹ cha.
Mười hai tầng lầu xây mộng ảo.
Ba ngàn thế giới úa tàn hoa.
Gió ấm không tan sương trắng tóc.
Đêm mưa làm mắt lệ thêm nhòa.
Không lẽ thân này như thế mãi?
Chiếc thuyền vô định giữa sông xa.
Chiều xuân
Cây đứng so le, khói biếc lồng.
Bóng chiều bảng lảng có mà không.
Trong tiếng sáo đàn, mưa lất phất.
Hoa rụng ngoài vườn theo gió đông.
Sách vở làm ta say giống rượu.
Thời gian khiến tóc rối tơ mòng.
Nghĩa lớn mẹ cha chưa báo được,
Từ quê chợt thấy cánh chim hồng.
***
LỜI GIỚI THIỆU 

Thái Thuận, tên chữ là Nghiã Hoà, tên hiệu Lục Khê, biệt hiệu Lữ Đường, là một danh nhân thời Lê, sinh năm 1440, đỗ tiến sĩ năm 1475.
Ông quê ở làng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành), tỉnh Bắc Ninh, nhưng có thời gian dài sống và làm việc ở đất Thăng Long, nên có thể coi ông là danh nhân Kinh Bắc, đồng thời là danh nhân đất kinh kỳ Thăng Long. Ông từng làm quan ở Viện Nội các hơn 20 năm, rồi được bổ nhiệm Tham chính tỉnh Hải Dương, về sau với tài thơ nổi tiếng, ông được vua Lê Thánh Tông đặc cách giữ chức Phó Nguyên suý Hội Tao Đàn.
Thơ chữ Hán của Thái Thuận được người đời sau ca ngợi không hề thua kém thơ Đường của các nhà thơ cổ đại nổi tiếng Trung Quốc. Tác phẩm còn lại đến nay của Thái Thuận là tập “Lữ Đường thi di cảo” do con trai là Thái Khác và học trò là Đỗ Chính sưu tầm, biên soạn. 
Năm 2001, Nhà Xuất bản Văn học đã xuất bản cuốn sách “Lữ Đường thi” do Quách Tấn tuyển chọn, dịch và viết lời giới thiệu. Cụ Quách Tấn là người gốc Hoa sống ở miền Nam. Bản dịch của Quách Tấn được nhiều bạn đọc miền Nam ưa thích vì sử dụng ngôn ngữ địa phương miền Nam. 
Người dịch thơ Thái Thuận trong cuốn sách lần này là người miền Bắc, cùng quê Thuận Thành, Bắc Ninh với Thái Thuận. Dịch giả là người thích làm thơ Đường luật, đã  tốt nghiệp Đại học tiếng Trung, từng có hơn 20 đầu sách dịch từ tiếng Hán, nguyên phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Bắc Kinh. Các bài thơ dịch lần này đã cố gắng giữ nghệ thuật thơ Đường luật vốn có, đặc biệt là thể loại thất ngôn bát cú (100% thơ thất ngôn bát cú đều dịch theo đúng thể thơ này), đồng thời sử dụng từ ngữ tiếng Việt gần gũi hơn với ngôn ngữ quê hương Thái Thuận; phần dịch nghĩa và chú thích điển tích được biên dịch lại ngắn gọn, dễ hiểu, có tham khảo bản của Quách Tấn. 
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc./. 

Nhà xuất bản 

征妇吟

庭草成巢柳又丝
征夫何日是归期
半帘残月伤心夜
一枕啼鹃落泪时
塞北云长孤燕影
江南春尽老蛾眉
昨来几度 相思梦
曾到 君边知不知

CHINH PHỤ NGÂM 

Đình thảo thành sào liễu hựu ty 
Chinh phu hà nhật thị quy kỳ? 
Bán liêm tàn nguyệt thương tâm dạ 
Nhất chẩm đề quyên lạc lệ thì 
Tái Bắc vân trường cô nhạn ảnh 
Giang Nam xuân tận lão nga my 
Sạ lai kỷ độ tương tư mộng 
Tằng đáo quân biên tri bất tri 

Dịch nghĩa: 

KHÚC NGÂM NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG RA TRẬN 

Cỏ nơi sân đã um tùm, liễu lại buông tơ 
Ngày nào là ngày về của người đi chinh chiến? 
Rèm vén nửa, trăng tàn đó là đêm thương tâm 
Một gối đơn, chim cuốc kêu, đó là lúc rơi nước mắt 
Bên kia ải Bắc mây vầng bóng nhạn đơn côi 
Bên này sông Nam xuân hết chân mày nhợt nhạt 
Từ trước đến nay giấc mộng tương tư đã mấy lần 
Thường đến bên chàng, chàng có biết hay không ? 

Dịch thơ: 

Sân đầy cỏ dại liễu buông tơ 
Chàng đi chinh chiến đến bao giờ? 
Trăng xế, nửa rèm lòng sao tủi 
Cuốc kêu, một gối lệ nào khô 
Ải Bắc mây dày, chim nhạn lẻ 
Sông Nam xuân úa, nét ngài thưa 
Chàng có hay chăng bao thương nhớ 
Đằng đẵng theo chàng mỗi giấc mơ. 

Chú thích: 
- Tái Bắc (phía bắc biên giới): Xưa chỉ vùng biên giới Trung Hoa giáp với xứ  Hung Nô, nơi hay xảy ra chiến tranh. 
- Giang Nam: Vùng đất nam sông Trường Giang, có nhiều cảnh đẹp. 
***

No comments:

Post a Comment