Sunday, June 8, 2014

TỐ NHƯ THI - Quách Tấn.

http://thohanviet.tripod.com/bachanh.htm


Thăng Long (1)

Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng
Bạch đầu (2) do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung 




Thăng Long  

Núi Tản sông Lô vẫn núi sông
Bạc đầu còn được thấy Thăng Long
Nghìn năm cự thất thành quan lộ
Một giải tân thành lấp cố cung
Người đẹp buổi xưa đều bế trẻ
Bạn chơi thưở nhỏ thảy thành ông
Thâu đêm chẳng ngủ lòng thêm bận
Địch thổi trăng trong tiếng não nùng
 

(Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995)
Chú thích :
Thăng Long : Từ đời Lý, kinh đô Việt Nam đóng tại Thăng Long. Thăng Long nghĩa đen là rồng hiện lên. Đến đời Nguyễn, Gia Long đóng đô tại Huế, và đổi chữ LONG là rồng ra chữ LONG là thịnh vượng. Nhưng trong văn thơ, cổ nhân vẫn viết chữ Long là rồng.
Bạch đầu : Nguyễn Du mới ba mươi tuổi đã bạc đầu. Nhưng chữ bạch đầu này dùng để nói tuổi già. Bởi Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mất (1789). Lúc ấy Nguyễn Du mới 25 tuổi. Đến khi Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc ấy Nguyễn Du 37 tuổi. Đến khi vâng mệnh đi sứ Trung Hoa (1813), Nguyễn Du đến Thăng Long một lần nữa. Bài thơ này làm lúc ra Thăng Long để sang Trung Quốc. Lúc đó Nguyễn Du đã gần ngũ tuần. Cho lên mới nói Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long.


Thăng Long (II)

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành (1)
Do thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quí cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán tức
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh

Chú thích :
Tân thành : Thành mới. Năm Gia Long thứ tư (1805), nhà vua hạ lệnh phá thành Thăng Long cũ và xây lại thành mới nhỏ hơn, với mục đích thay cũ đổi mới.
Thăng Long (II)

Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Điệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bằng lớp trước sống lơ thơ
Nổi chìm thế sự đừng than nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ


(Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995)



Ngô gia đệ (1) cựu ca cơ

Phồn hoa nhân vật loạn lai phi
Huyền hạc (2) qui lai kỷ cá tri
Hồng tụ (3) tằng văn ca uyển chuyển
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly
Phúc bồn (4) dĩ hĩ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử
Khả liên do trước khứ thời y





Gặp người ca cơ cũ của em

Loạn rồi nhân vật đổi thay,
Phồn hoa chốn cũ ai hay hạc về.
Áo hường tưởng dạng cung Nghê,
Tiếng ca uyển chuyển từng nghe những ngàỵ
Tuổi già gặp lại nhau đây,
Bước đường lưu lạc lệ đầy thương đaụ
Đã đành nước đổ khôn thâu,
Than ôi ! Ngó đứt dễ dầu dứt tơ !
Có chồng đã mấy con thơ,
Áo hường ngày cũ bây giờ còn mang !


(Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995)
Chú thích :
Gia đệ : Đây là chỉ người em cùng mẹ là Nguyễn Úc được tập ấm là Hoàng Tín đại phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Úc chạy theo không kịp, về ngụ nơi quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm Tân Vị (1811), Gia Long nghe ông có tài khéo, xuống chiếu triệu vào kinh, bổ làm Thiêm Sự bộ Công, tước Hầu. Những miếu điện ở kinh thành đều do ông sáng chế kiểu thức.
Huyền hạc : Hạc đen. Truyền rằng hạc vốn sắc trắng, tu nghìn năm thành sắc vàng, tu nghìn năm nữa ra sắc đen. Câu này tác giả nói mình : Xa Thăng Long lâu ngày, trở lại ít người biết.
Hồng tụ : Tay áo hồng. Người ca nữ sang trọng thường mặc áo hồng rộng tay để múa cho đẹp.
Phúc bồn : Chậu nước đổ. Tục có câu : "Phúc thủy nan thâu" nghĩa là nước đổ rồi khó hốt lên được. Ý nói là người ca cơ đã xa em mình rồi không sao tụ hợp đuợc nữa
(Tố Như thiQuách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 181-183).


Quỉ Môn quan (1)

Liên phong cao sáp nhập thanh vân
Năm bắc quan đầu tựu thử phân
Như thử hữu danh sinh tử địa
Khả liên vô số khứ lai nhân
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ
Bố dã yên lam tụ quỉ thần
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt
Kỳ công hà thủ Hán Tướng quân (2)
Quỉ Môn quan

Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây
Ải chia Nam Bắc chính là đây
Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ
Qua lại người không ngớt tháng ngày
Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói
Rập rình cọp rắn núp rừng cây
Bên đường gió lạnh luồng xương trắng
Hán tướng công gì kể bấy nay ?
 
(Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995)
Chú thích :
Quỉ Môn quan : Ở phía Nam xã chi lăng tỉnh Lạng Sơn. Địa thế hiểm trở. Có núi hình như đầu quỉ. Do đó mà mệnh danh là Quỉ Môn quan. Cổ thi có câu :
Quỉ Môn quan ! Quỉ Môn quan !
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn
Người Việt đi sứ Trung Quốc có câu :
Rạng ngày đến Quỉ Môn quan
Tiếng xưa "thập khứ nhất hoàn' là đây
Hán Tướng quân : Chỉ Mã Viện. Mã Viện đem quân đánh hai bà Trưng, tuy đắc thắng nhưng quân lính chết dọc đường không biết bao nhiêu. Như thế có gì là chiến công đắng khen ngợi. Cũng có ý nói : Kỳ công của tướng quân nhà Hán không có chi hơn là "đống xương trong gió lạnh bên đường ".
(Tố Như thiQuách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 184-186).


Lạng Thành (1) đạo trung

Quần phong dũng lãng thạch minh đào
Giao hữu u cung, quyên hữu sào
Tuyền thủy hợp lưu giang thủy khoát
Tử sơn bất cập Mẫu sơn (2) cao
Đoàn thành (3) vân thạch tịch tương hậu
Hồng Lĩnh thân bằng nhật tiệm dao
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn
Khuông trung huề hữu bút như đao

Chú thích :
Lạng Thành : Thành Lạng Sơn
Mẫu sơn : Công Mẫu sơn, ngọn núi cao nhất ở huyên Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, giáp giới Trung quốc.
Đoàn Thành : Thành Lạng Sơn
Trên đường đi Lạng Thành

Núi trập trùng, sóng kêu trên đá
Tổ nương chim, hang đã có rồng
Suối gom dòng nhỏ thành sông
Núi con đọ núi Mẹ không cao bằng
Chiều Lạng Sơn, mây giăng đá ngóng
Hồng Lĩnh thân sao chóng cách xa
Lạ chưa, dứt nhẹ tình nhà
Đoạn sầu ngọn bút theo ta bạn đường ...


Lưu biệt cựu khế Hoàng (1)

Táp niên cố hữu trùng phùng nhật
Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ
Đạo lộ nhật lai tình vị cánh
Vân sơn biệt hậu ý hà như
Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại
Lão hỷ toàn thân bách chiến dư
Tha nhật Nam qui tương hội phỏng
Lục Đầu (2) giang thượng hữu tiều ngư


Chú thích :
Cựu khế Hoàng : Bạn cũ họ Hoàng. Có lẽ là một võ tướng (bách chiến dư).
Lục Đầu giang : Sông Lục Đầu.
Từ biệt bạn cũ họ Hoàng

Ba mươi năm cũ gặp đây
Lên đường vạn dặm cũng ngày tôi đi
Tình thâm ơi, biết nói gì
Núi mây ly biệt ý thì ra sao ?
Muôn trùng quan ải tay chào
Mừng người bách chiến không sao tuổi già
Về Nam mai mốt lân la
Lục Đầu bến nước hỏi tra ngư tiều


Nam Quan (1) đạo trung

Ngọc thư (2) phủng há ngũ vân đoan (3)
Vạn lý đan xa độ Hán quan (4)
Nhất lộ giai lai duy bạch phát
Nhị tuần (5) sở kiến đãn thanh san
Quân ân tự hải hào vô báo
Xuân vũ như cao cốt tự hàn
Vượng đạo (6) đãng bình hưu vấn tấn
Minh Giang (7) bắc thượng thị Trường An (8)
Trên đường Nam Quan

Tầng mây năm sắc chiếu vua ban
Muôn dặm xe đơn vượt Hán quan
Một mạch đường dài trơ tóc bạc
Hai mươi ngày mỏi rặt non xanh
Mưa xuân như mỡ, xương thêm buốt
Ơn nước bằng trời, nợ nặng mang
Rộng phẳng đường vua thôi thắc mắc
Minh Giang lên bắc ấy Trường An
Chú thích :
Nam Quan : Tên một cửa ải ở biên giới Việt-Trung từ tỉnh Lạng Sơn sang tỉnh Quảng Tây.
Ngọc thư : Sắc chiếu nhà vua
Ngũ vân đoan : Từng mây năm sắc, chỉ triều đình.
Hán quan : Cửa ải trên đường sang Trung quốc. Tức trấn Nam Quan.
Nhị tuần : Hai mươi ngàỵ Ngày xưa, một tháng có ba tuần, mỗi tuần 10 ngàỵ
Vương đạo : Đường của nhà vua. Ở đây chỉ đường đến Trường An, kinh đô Trung quốc.
Minh Giang : Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Đông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa.
Trường An : Chỉ kinh đô nhà Thanh ở Yên Kinh (Bắc Kinh bây giờ).


Minh Giang (1) chu phát

Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn
Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn
Phù vân xạ tán thạch dung sấu
Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn
Biệt hậu quan sơn tư đệ muội
Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn
Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá
Phạ hữu thanh thanh trường đoạn vôn (viên)
Thuyền ra đi trên sông Minh Giang

Chiêng trống tùng tùng ra cửa sông
Một thuyền lướt sóng giữa muôn trùng
Mây tan bất chợt hao gày núi
Nước lụt mới về vẩn đục dòng
Dặm biệt, anh em đà tưởng nhớ
Đá chồng, con cháu cứ ngờ trông
Hoa Sơn chớ vượt khi chiều xế
Sợ vẳng bên tai vượn não nùng
Chú thích :
Minh Giang : Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Đông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa. Đoàn sứ Nguyễn Du đi theo sông này qua núi Hoa Sơn, thuộc tỉnh Quảng Tây, lên phía bắc.

http://thohanviet.tripod.com/ninh1.gif


Ninh Minh giang (1) chu hành

Việt Tây sơn trung đa giản tuyền
Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên
Tự cao nhi hạ như bát thiên
Than thượng hà sở văn ?
Ưng long kích nộ lôi điền điền
Than hạ hà sở kiến ?
Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền
Nhất tả vạn lý vô đình yên
Cao sơn giáp ngạn như tường viên
Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên
Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền
Đại giả như ốc, tiểu như quyền
Cao giả như lập, đê như miên
Trực giả như tẩu, khúc như tuyền
Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn
Giao ly xuất một thành trùng uyên
Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyền
Hạ lạo sơ trướng phí như tiên
Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền
Tâm huyền huyền đa sở úy
Nguy hồ đãi tai cốt một vô để
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình
Trung Hoa đạo trung phù như thị
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm
Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý
Cao tài mỗi vị văn chương đố
Nhân nhục tối vi ly mị hỷ
Phong ba na đắc tận năng bình
Trung tín đáo đầu vô túc thị
Bất tín "xuất môn giai úy đồ" (2)
Thí vọng thao thao thử giang thủy






Chú thích :
Ninh Minh Giang : Sông chảy qua Ninh Minh.
Trung Tín : Đường Giới đời Tống Bình có câu : Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba (mỗi ngày giữ trung tín, hôm nay không sợ sóng gió).
Đi thuyền trên sông Ninh Minh

Núi Việt Tây có nhiều khe suối
Bao nhiêu năm tụ hội thành sông
Trời cao đổ xuống đùng đùng
Từ trên thác tựa như rồng nổi cơn
Nghe như thể ầm ầm sấm nổ
Vuột khỏi dây tên nỏ bật tung
Một dòng vạn dặm không ngừng
Bên bờ núi dựng như tường chênh vênh
Ở trong nước đá hình quái lạ
Như rắn, rồng, hổ, báo, trâu, ngựa liệt la
Nhỏ tay nắm, lớn như nhà
Cao như đứng, thấp như là ngủ say
Cong như xoay, thẳng như đuổi chạy
Muôn vẻ kỳ nói mấy cho vừa
Thuồng luồng vực thẳm ghê chưa
Ngày đêm ầm ĩ sóng đùa bọt phun
Lụt mùa hè nước dâng sôi sục
Đi ba ngày một mạch, chơi vơi
Chơi vơi vì sợ ai ơi
Nước sâu không đáy đi đời nhà ma
Mọi người nói Trung Hoa bằng phẳng
Đường Trung Hoa thật chẳng ai ngờ
Như lòng người lắm quanh co
Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời
Văn chương đời tài cao hay ghét
Thịt người ma quỷ thích vô cùng
Làm sao yên lặng bão bùng
Giữ trung tín mấy cũng không đủ nhờ
Không tin "ra cửa, nguy cơ"
Nhìn sông cuồn cuộn đó ngờ nữa thôi !


Vọng Quan Âm miếu

Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá
Kim thân (1) tiền dạ khước phi lai (2)
Đình vân xứ xứ tăng miên định
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai
Nhất chú đàn hương (3) tiêu tuệ nghiệp ( 4)
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai

Chú thích :
Kim thân : Mình vàng, chỉ tượng Phật.
Phi lai : Do chữ ‘phi lai thạch‘. Lấy tích chùa Tương Sơn có hòn đá bay đến thành Phật.
Đàn hương : Hương làm bằng gỗ chiên đàn.
Tuệ nghiệp : Nghiệp chướng do trí tuệ gây ra.
Trông miếu Quan Âm

Đình đài ai dựng tận nơi đây
Trứng hạc rơi tùng chặt hết cây
Hang đá năm nào vừa đục phá
Tượng vàng đêm trước mới qua bay
Mây ngưng chốn chốn sư an giấc
Chiều rụng non non vượn oán ai
Đốt nén hương đàn tiêu tuệ nghiệp
Muôn trùng đã cách thoáng đầu quay


Tam Giang khẩu đường dạ bạc

Tây Việt (1) trùng sơn nhất thủy phân
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân
Viên đề thụ diểu nhược vô lộ
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão
Đồng chu Hồ Việt các tương lân
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ
Ná đắc gia hương nhập mộng tần
Đêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang

Một dòng nước xẻ núi muôn trùng
Hai dãy nhìn nhau đá chất chồng
Vượn hú ngọn cây dường lạc lối
Chó kêu rừng thẳm chắc gần thôn
Núi mây bốn ngả tình cô quạnh
Hồ Việt chung thuyền mối thiết thân
Làng cũ mười năm quên mất hướng
Quê nhà nẻo mộng nhớ về thăm
Chú thích :
Tây Việt : Vùng Quảng Tâỵ


Chu hành tức sự

Tây Việt (1) sơn xuyên đa hiểm hi
Hành hành tòng thử hướng thiên nhi (nhai)
Băng nhai quái thạch nộ tương hướng
Thủy điểu cầm sa hiệp bất phi
Thiên địa biên chu phù tự diệp (2)
Văn chương tàn tức nhược như ti
Vị liên thượng quốc phong quang hảo
Quan tỏa hương tình vị phóng qui
Đi thuyền hứng viết

Tây Việt non sông hiểm trở đầy
Chân trời nhắm hướng kể từ đây
Đá kỳ núi quái nhìn hung tợn
Chim nước cò bờ ngó chẳng bay
Trời đất mênh mông thuyền lá nổi
Văn thơ thoi thóp sợi tơ lay
Bởi yêu phong cảnh xứ người đẹp
Khóa chặt tình quê chửa vút bay
Chú thích :
Tây Việt : Vùng Quảng Tâỵ
2 Bùi Giáng dịch :
'Thuyền con chiếc lá giữa trời
'Thơ văn tiếng thở như lời tơ than
'Trông vời hồng rụng ngổn ngang
'Tìm đâu chốn cũ muôn vàn dưới kia.
Hai câu đầu rút từ bài ‘Chu hành tức sự ‘, hai câu sau từ bài ‘Dương Phi cố lý'.






Thái Bình mại ca giả

Thái Bình cổ sư thô bố y
Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi
Vân thị thành ngoại lão khất tử
Mại ca khất tiền cung thần xuy

Lân chu thời hữu hiếu âm giả
Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ
Thử thời thuyền trung ám vô đăng
Khí phạn bát thủy thù lang tạ

Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung
Tái tam cử thủ xưng đa tạ
Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh
Thả đàn thả ca vô tạm đình

Thanh âm thù dị bất đắc biện
Đãn giác liêu lượng thù khả thinh
Chu tử tả tự vị dư đạo
Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành

Quan giả thập số tịnh vô ngữ
Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh
Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc
Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc

Đàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục
Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc

Ngã sạ kiến chi, bi thả tân
Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần
Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân

Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.
Người hát dạo ở Thái Bình

Ở phủ Thái Bình có ông lão
Hai mắt mù mặc áo vải thô
Nắm tay trẻ dắt ngoại ô
Ven sông hát dạo lần mò kiếm ăn

Thuyền bên có kẻ ham nghe hát
Dẫn ông già xuống sát cửa thuyền
Lúc này thuyền tối không đèn
Cơm thừa canh cặn đổ tràn tứ tung

Lò dò vô trong cùng, một góc
Hai ba lần lóc ngóc cám ơn
Miệng ca, tay nắn dây đàn
Một hơi đàn hát chẳng lần nghỉ ngơi

Thanh âm lạ, lẽ lời không hiểu
Lắng nghe ra thì điệu cũng hay
Nhà thuyền viết chữ : khúc này
Thế Dân tranh đoạt quyền oai Kiến Thành (1)

Chục người xem mà đành phăng phắc
Gió ru trăng vằng vặc trên sông
Miệng sùi, tay mỏi lão ông
Cất đàn, ngồi lại, thưa rằng đã xong

Gần một canh, hết lòng hết sức
Năm sáu đồng kiếm được thế thôi
Đứa em dẫn khỏi thuyền rồi
Còn quay đầu lại gửi lời chúc may

Chợt nhìn thấy cảnh này đau xót
Phàm người ta chết tốt hơn nghèo
Trung Hoa no ấm, nghe nhiều
Trung Hoa cũng có người nghèo thế ư

Kìa không thấy sứ từ xa lại
Gạo thịt đầy thuyền cái thuyền con
Người ăn no ứ vẫn còn
Đáy sông cơm ngọt món ngon đổ chìm.
Chú thích :
Kiến Thành và Thế Dân : Con Đường Cao Tổ. Kiến Thành là Thái tử. Thế Dân lập mưu giết Kiến Thành, đoạt ngôi Thái Tử, sau thành vua Đường Thái Tông (627-649).


Đề Đại Than (1) Mã Phục Ba (2) miếu

Tạc thông lĩnh đạo định Viêm (3) khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hướng lão đại niên căng quắc thước (4)
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư (5)
Đại Than phong lãng lưu tiền liệt
Cổ miếu tùng sam cách cố lư
Nhật mộ thành tây (6) kinh cức hạ
Dâm Đàm (7) di hối cánh hà như
Đề miếu Mã Phục Ba ở thác Đại Than

Chiếm Nam đục núi đắp đường
Công danh sử sách lẫy lừng khắc ghi
Tuổi cao quắc thước khoe gì
Ngoài cơm áo có cần chi với đời
Đại Than sóng gió một thời
Miếu xưa tùng bách xa vời cố hương
Tây thành gai góc tà dương
Dâm Đàm nỗi hận quay cuồng tới đâu ?


Hạt Cát 79 
dịch
Chú thích :
Đại Than : Một ghềnh lơn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
2 Mã Phục Ba : Tức Mã Viện, danh tướng nhà Hán, thời vua Quang Vũ được phong là Phục Ba tướng quân. 3 Viêm : Nóng. Viêm bang chỉ những xứ nóng phía Nam Trung Hoạ
Quắc thước : Mã Viện ngoài 60 tuổi còn xin vua đi đánh giặc. Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựạ Vua cười khen : "Ông này quắc thước lắm !" (Quắc thước tại thị ông !).
Tẫn doanh dư : Thiếu Dư, em họ của Mã Viện, nói : "Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, ở quê hương trông nom mồ mả rung vườn. Cần gì vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân".
Thành Tây : Mộ Mã Viện chôn ở Tây Thành.


Vãn há Đại Than,
tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất


Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh
Giang thủy mang mang giang ngạn bình
Vị tín quỉ thần năng tướng hựu
Tẫn giao long hổ thất tinh linh
Bình cư bất hội giảng "trung tín" (1)
Đáo xứ vô phương "tề tử sinh"
Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội
Ngô tương hà dĩ khấu thần minh ?
Chiều xuống Đại Than, lũ mới trào về,
tất cả các quãng nguy hiểm đều ngập nước
 

Ngân hà trút xuống đêm qua
Mênh mông sông nước gần xa không bờ
Quỉ thần đâu đó bây giờ
Rồng thiêng, cọp dữ cũng chờ bó tay
"Tín Trung" không nghĩ thường ngày
Thì "Sinh Tử" biết vần xoay đường nào
Chỗ trăm lần hiểm cao sâu
Lấy gì đây để dập đầu khấn xin !
Hạt Cát 79 dịch
Chú thích :
Trung tín : Đường Giới Tống nói : Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba (ngày thường giữ trung tín, hôm nay mặc kệ phong ba)


  
  

Sơn Đường dạ bạc

Ngọ mộng tỉnh lai vãn
Tà nhật yểm song phi
Phong kính duy thuyền tảo
Sơn cao đắc nguyệt trì
Ỷ bồng thiên lý vọng
Hợp nhãn cách niên ti (tư)
Mạc cận thương nhai túc
Đề viên triệt dạ bi
Đêm đậu thuyền ở Sơn Đường

Mộng trưa tỉnh giấc muộn
Bóng xế ngậm song tây
Gió mạnh neo thuyền sớm
Non cao ngắm trăng chầy
Dựa mui trông dặm trở
Chớp mắt nhớ năm đầy
Chớ ngủ gần bên núi
Thâu đêm vượn oán ai


Hạ than hỷ phú

Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (1) (từ)
Nhất trạo trung lưu tứ sở chi
Đáo xứ giang sơn như thức thú
Hỷ nhân xà hổ bất thi uy
Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc
Nhất đái hàn yên Yến Tử ky (cơ)
Tịch tịch thuyền song vô cá sự
Ngư ca giang thượng khán tà huy
Mừng xuống khỏi thác

Thành khẩn dâng hương vái trước đền
Một thuyền theo nước cứ lênh đênh
Mừng người rắn cọp không làm dữ
Thích cảnh non sông như đã quen
Muôn cụm tùng xanh sư trú ngụ
Một Hòn Én lạnh khói dâng lên
Bên song lặng lẽ không gì bận
Nghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng

Chú thích :
Tướng quân từ : Chỉ đền thờ Mã Viện.


Thương Ngô (1) tức sự

Ngu Đế (2) nam tuần cánh bất hoàn
Nhị phi (3) sái lệ trúc thành ban
Du du trần tích thiên niên thượng
Lịch lịch quần thư nhất vọng gian
Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy
Phù vân bất biện Cửu Nghi (4) san
Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ
Thiên lý thanh sam (5) bất nại toàn
Tức cảnh ở Thương Ngô

Vua Ngu đi mất không về
Trúc xanh đốm lệ hai phi khóc tìm
Nghìn năm cách biệt cổ kim
Lật trang phương cảo nỗi niềm rưng rưng
Lụt về ba thước triều dâng
Mây mờ che phủ mấy tầng Cửu Nghi
Xa nghe réo rắt tiếng tỳ
Áo xanh từ tạ còn đi nghìn trùng
Chú thích :
Thương Ngô : Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày naỵ
Ngũ Đế : Vua Thuấn đi tuần ở phương nam, chết ở núi Thương Ngộ
Nhị phi : Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo bên dòng sông Tương.
Cửu Nghi : Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam.
Thanh sam : Trong Tỳ bà hành có câu : "Giang châu tư mã thanh sam thấp" (Quan Tư mã châu Giang khóc ướt vạt tràng áo xanh), Nguyễn Du dịch là : "Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng, Giọt châu tầm tã, đẫm tràng áo xanh".

   

Thương Ngô (1) mộ vũ

Vũ trệ Tầm Giang (2) hiểu phát trì
Ngô thành bạc mộ thượng phi phi
Nhất giang tân lạo bình Tam Sở (3)
Đại bán phù vân trú Cửu Nghi (4)
Trách trách tiểu chu nan quá Hạ (5)
Sam sam trường phát tự tri Di (6)
Bình ba nhật mộ Tương Đàm (7) viễn
Bôi tửu bằng lan điếu nhị phi (8)
Mưa chiều ở Thương Ngô

Mưa phủ Tầm Giang, sáng đã chầy
Thành Ngô chiều đến vẫn mưa bay
Cửu Nghi đỉnh núi mây vần vũ
Tam Sở lòng sông nước lụt đầy
Thuyền bé long đong miền đất Hạ
Tóc dài búi tó khác người đây
Sóng êm, trời tối, Tương Đàm cách
Rượu viếng nhị phi một chén này
Chú thích :
Thương Ngô : Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày naỵ
Tầm Giang : Sông chảy qua Thương Ngô vào Quảng Đông.
Tam Sở : Ba miền Đông Sở, Tây Sở và Nam Sở.
Cửu Nghi : Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam.
Hạ : Đất Hoa Hạ.
Di : Người Trung Hoa ngày xưa gọi những dân tộc ở phía đông là man di.
Tương Đàm : Tức Trường Sa ở Hồ Nam, có sông Mịch La là nơi Khuất Nguyên tự trầm (Xem bài Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu).
Nhị phi : Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngộ Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo chồng bên dòng sông Tương. (Xem bài Thương Ngô tức sự).


Thương Ngô Trúc Chi ca (IV)

Thanh sơn lâu các nhất tầng tầng
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng
Cổ tự vô danh nan vấn tấn
Bạch vân thâm xứ ngoạ sơn tăng
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (IV)

Núi xanh lầu gác lắm tầng
Ngày nhìn khói ráng, đêm trông ánh đèn
Chùa xưa khó hỏi tìm tên
Núi cao mây trắng, sư yên chốn nằm


Thương Ngô Trúc Chi ca (IX)

Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng
Thành nam thùy liễu bất câm phong
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản
Nhất dạ tùy lưu đáo Quảng Đông
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (IX)

Bắc thành sơn lựu đỏ hoa
Nam thành liễu chắn gió qua như thường
Tơ bay, hoa rụng ai thương
Quảng Đông một tối theo trường giang đi


Thương Ngô Trúc Chi ca (XI)

Thập chích long chu nhất tự trần
Xao la qua cổ điếu Linh quân (2)
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XI)

Mười chiếc thuyền rồng thẳng một hàng
Vang rền chiêng trống điếu Linh quân
Ham vui cô gái cài hoa cúc
Nhảy vọt đầu thuyền chẳng nể nang


Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (XIV)

Trường quần tập tập duệ khinh tiêu
Vân kế nga nga ủng thúy kiều
Doanh đắc quỉ đầu (2) mãn nang khẩu
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XIV)

Quần là, áo lượt thướt tha bay
Tóc búi đầu cao, trâm thúy cài
Tiền bạc kiếm về mang chật túi
Dù cho vô phúc cứ vung xài
  
Chú thích :
Thương Ngô : Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày naỵ
Quỉ đầu : Tiền cổ.

   

Ngũ nguyệt quan cạnh độ

Hoài vương (1) qui táng, Trương Nghi (2) tử
Sở quốc từ nhân ký bội lan (3)
Thiên cổ chiêu hô chung bất phản (4)
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan
Yên ba diểu diểu không bi oán
La cổ niên niên tự tiếu hoan (5)
Hồn nhược qui lai dã vô thác
Long xà quỉ vực biến nhân gian
Tháng năm xem đua thuyền

Hoài Vương chôn xác, Trương Nghi chết
Tưởng nhớ người thơ giắt ngọc lan
Nghìn thuở kêu gào không trở lại
Đầy sông đua vượt lắm lăng xăng
Đau thương khói sóng về đâu bến
Nô giỡn trống kèn diễn mỗi năm
Hồn có về đây thêm lạc lõng
Rắn rồng quỉ quái khắp nhân gian
Chú thích :
Hoài Vương : Vua nước Sở. Hoài Vương không nghe lời can gián của Khuất Nguyên, cứ đi hi với vua Tàn, bị Tần bắt, sau chết mới được đem xác về nước chôn.
Trương Nghi : Thuyết khách, dùng mưu dèm pha Khuất Nguyên với vua Sở Hoài Vương. Khuất Nguyên bị đi đày, Trương Nghi thành tướng quốc. Sau Trương Nghi bị mưu, bỏ chạy, cuối cùng chết ở nước Ngụỵ
Sở quốc từ nhân : Tức Khuất Nguyên, nhà thơ nước Sở. Khuất Nguyên thường đeo hoa lan, hoa tiêu để tỏ lòng cao khiết.
Chiêu hô chung bất phản : Tống Ngọc, học trò của Khuất Nguyên, làm bài Chiêu hồn để gọi hồn ông.
La cổ niên niên : Hằng năm, vào ngày 5 tháng 5, để kỷ niệm ngày Khuất Nguyên mất, người Trung Hoa có lệ tổ chức đua thuyền tượng trưng sự đi tìm xác nhà thơ đả tự trầm ở sông Mịch La.

   

Dương Phi (1) cố lý

Sơn vân tước lược ngạn hoa minh
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh
Tự thị cử triều không lập trượng (2)
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành
Tiêu tiêu Nam Nội (3) bồng cao biến
Mịch mịch Tây Giao (4) khâu lũng bình
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ
Đông phong thành hạ bất thăng tình
Làng cũ Dương Quí Phi

Mây ngàn hoa bến nước lung linh
Dương Quí Phi xưa đất ấy sinh
Bởi nỗi cả triều tài phỗng đá
Để cho muôn thuở tội nghiêng thành
Cấm cung bỏ phế, bồng hiu hắt
Mồ cũ san bằng, cảnh vắng tanh
Gió lạnh dưới thành ngơ ngẩn bóng
Tìm đâu cho thấy cánh hoa tàn
Chú thích :
1 Dương Quí Phi : tức Dương Ngọc Hoàn là Quí Phi của Đường Minh Hoàng. Quê ở làng Hoàng Nông, huyện Hòa Âm, tỉnh Thiểm Tây ngày naỵ An Lộc Sơn nổi loạn. Đường Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục. Đến đèo Mã Ngôi, quân lính đòi giết Dương Quí Phi và anh họ Dương Quốc Trung, là những người làm Đường Minh Hoàng mê muội mà mất nước (Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành). Dương Quí Phi bị thắt cổ chết ở đâỵ
Lập trượng : Đứng như gậy, chỉ quan bù nhìn. Do lệ thiết triều nhà Đường, có tám con ngựa phải đứng chầu trong hàng gậỵ Con nào kêu hoặc đụng đậy không đúng phép là bị thay thế.
Nam Nội : Tức cung Hưng Khánh, nơi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra chơị
4 Tây Giao : Cánh đồng ở phía tây Tràng An, chỉ cánh đồng Mã Ngôi nơi Dương Quí Phi bị thắt cổ chết.
Tàn hồng : Bùi Giáng dịch : Trông vời hồng rụng ngổn ngang, Tìm đâu chốn cũ muôn vàn dưới kia (Tố Như thi, Quách Tấn dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang bìa 2)


Triệu Vũ Đế (1) cố cảnh

Bạo Sở cường Tần tương kế tru
Ung dung ấp tốn bá nam tu
Tự ngu tận khả xưng hoàng đế
Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu (2)
Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu (3)
Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu (4)
Khả liên thế đại tương canh điệt
Bất cập man di nhất lão phu (5)
Đất cũ của Triệu Vũ Đế

Sở bạo Tần cường nối diệt vong
Phương nam làm chủ cứ ung dung
Cho vui tự chiếm ngôi hoàng đế
Ưa thiện đành thua chú khách thường
Trăm thước đài cao nghiêng Lĩnh Biểu
Nghìn năm mộ cổ mất Phiên Ngung
Bao nhiêu triều đại thay nhau đổi
Với lão Man di chẳng sánh cùng
Chú thích :
Triệu Vũ Đế : Tức Triệu Đà (258-137, trước Công Nguyên). Năm Quí Tị (207) Triệu Đà đánh được An Dương Vương, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ.
Thụ nhu : Chỉ Lục Giả. Hán Văn Đế sai Lục Giả sang thuyết phục Triệu Đà nên giao hảo với nhà Hán.
Lĩnh Biểu : Đất ở ngoài Ngũ Lĩnh, ở miên nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Việt).
Phiên Ngu : Tức Phiên Ngung, nơi Triệu Đà đóng độ
Man di lão phu : Triệu Đà đáp thư Hán Văn Đế tự xưng lả Man di đại trưởng lão phu (ông lão Man di).


Quế Lâm công quán

Hoang thảo nhạ lưu huỳnh
Nhàn giai dạ khí thanh
Hàn đăng lưu quỉ ảnh
Hư trướng tụ văn thanh
Lao lạc xuân vô phận
Sa đà lão tự kinh
Thành đầu văn họa giác
Tự ngữ đáo thiên minh
Trong công quán ở Quế Lâm

Cỏ hoang đom đóm loạn bay
Hơi đêm thanh mát thềm ngoài vắng tanh
Bóng ma đèn lạnh lung linh
Màn thưa đàn muỗi mặc tình vo ve
Buồn lo xuân chẳng muốn về
Tháng năm lần lữa mà ghê tuổi già
Đầu thành vẳng tiếng tù và
Một mình mình nói sáng mà không hay

   

Quá Thiên Bình

Phân thủy (1) sơn tiền nhị thủy phân
Thiên Bình (2) thủy diện tự lân tuân
Nhất bôi không điện lâm giang miếu
Thiên cổ thùy vi xế thạch nhân
Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở
Mãn châu bi kệ dĩ phi Tần
Chu nhân tranh chỉ gia hương cận
Não sát thù phương lão sứ thần
Qua Thiên Bình

Phân Thủy chia hai nước một dòng
Thiên Bình sóng tựa đá tràn sông
Rượu suông một chén lễ dâng miếu
Đá tảng nghìn xưa ai góp công
Núi nửa suối khe vào đất Sở
Bãi đầy bia đá hết bên Tần
Nhà thuyền tranh chỉ quê hương họ
Não ruột phương xa lão sứ thần

Chú thích :
Phân Thủy : Tên núi, có lẽ ở huyện Nam Chiếu, tỉnh Hồ Nam.
Thiên Bình : Tên sông ở trước núi Phân Thủỵ



Phản Chiêu hồn (1)

Hồn hề ! hồn hề ! hồ bất qui ?
Đông tây nam bắc vô sở y
Thướng thiên há địa giai bất khả
Yên, Dĩnh (2) thành trung lai hà vi ?
Thành quách do thị, nhân dân phi
Trần ai cổn cổn ô nhân ỵ
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì (3)
Bất lộ trảo nha dữ giác độc
Giảo tước nhân nhục cam như di !
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì
Hồn hề ! hồn hề ! suất thử đạo
Tam Hoàng (4) chi hậu phi kỳ thì
Tảo liễm tinh thần phản Thái cực
Thận vật tái phản linh nhân xi
Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan (5)
Đại địa xứ xứ giai Mịch La (6)
Ngư long bất thực, sài hổ thực
Hồn hề ! hồn hề ! nại hồn hà ?
Chống lại bài Chiêu hồn

Hồn ơi ! sao chẳng trở về ?
Đông tây nam bắc chở che chốn nào
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau
Thành đây, dân cũ còn đâu
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưạ
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon !
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm
Toàn những người gầy ốm xanh xao
Hồn ơi ! lối ấy theo nhau
Đời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời
Thu tinh thần về nơi Thái cực
Chớ về đây người chực mỉa mai
Thượng quan thời buổi ai ai
Khắp trên đất rộng sông dài Mịch La
Cá rồng nuốt, sói hùm tha
Hồn ơi ! hồn hỡi ! hồn mà làm sao ?
Chú thích :
Chiêu hồn : Tên một bài từ của Tống Ngọc để gọi hồn Khuất Nguyên.
Yên, Dĩnh : Tên hai thành nước Sở, thời Chiến Quốc (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc).
Cao, Quì : Tên hai bậc hiền thần đời Ngu Thuấn.
Tam Hoàng : Chỉ Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế, ba vị vua cổ nhất của Trung Quốc.
Thượng quan : Tức Thượng quan Ngân Thượng, người dèm pha Khuất Nguyên với Sở Hoài Vương.
Mịch La : Khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La. Nay ở phía bắc huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam. Sau người ta còn gọi là Khuất Đàm (Vì Khuất Nguyên tự trầm ở đây).


Sơ thu cảm hứng (II)

Giang thượng tây phong mộc diệp hy
Hàn thiền chung nhật táo cao chi
Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu (1)
Bất thị sầu nhân bất hứa tri
Cảm hứng đầu thu (II)

Sông cây thưa lá gió tây,
Cành cao ve lạnh suốt ngày kêu cạ
Điệu buồn trong tiếng đưa xa,
Không buồn ai có nghe ra ve sầu.

Chú thích :
Thanh thương điệu : Âm điệu buồn nhất trong ngũ âm của nhạc cổ.


Sở (1) vọng

Kinh (2), Tương (3) thiên lý cổ danh đô
Nhất bán khâm giang nhất đái hồ
Thiên giả phú cường cung bách chiến
Địa lưu khuyết hãm hạn Tam Ngô (4)
Thu phong lạc nhật giai hương vọng
Lưu thủy phù vân thất bá đồ
Tôn sách Lưu phân hà xứ tại (5)
Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu
Trông vời đất Sở
Kinh, Tương nghìn dặm cựu danh đô
Một nửa bọc sông, một nửa hồ
Giàu mạnh trời cho, tiêu bách chiến
Quanh co đất vạch, rõ Tam Ngô
Gió thu ngày xế vời quê cũ
Nước chảy mây trôi sạch bá đồ
Đâu đất Tôn, Lưu giành giựt mãi

Một vùng cây cỏ mọc hoang vu
Chú thích :
Sở : Tên một nước lớn thời Chiến Quốc.
Kinh : Nước Sở, vốn tên là Kinh, còn gọi là Kinh Sở.
Tương : Đất Tương Dương (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc).
Tam Ngô : Ba miền nước Ngô (Tôn Quyền) : Ngô Hưng, Ngô Quận và Cối Kê thời Tam Quốc.
Tôn, Lưu : Tức Tôn Quyền và Lưu Bị, cùng tranh đất Kinh Châụ
Kinh Tương ngàn dặm đô xưa
Nửa sông vây một dải hồ mênh mông
Mạnh giàu trăm trận như không
Tam Ngô để trống một vùng biên cương
Gió thu chiều ngóng cố hương
Nước mây tan tác bá vương mộng đồ
Tranh dành đâu đất Tôn Lưu
Xanh xanh bến bãi hoang vu một trời !

Hạt Cát 79 
dịch


Hán Dương (1) vãn diểu

Bá Vương trần tích thuộc du du (2)
Hán Thủy thao thao trú dạ lưu
Qui Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn
Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu (3)
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ (4)
Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu (5)
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ (6)
Bạch tần hồng liệu mãn đinh châu
Chiều ngắm Hán Dương 

Bá Vương dấu bụi lấp đầy
Dờn dờn sông Hán đêm ngày chảy xuôi
Đôi bờ Qui Hạc sánh đôi
Thần tiên khuất bóng mồ côi bóng lầu
Thi thành cây cỏ nghìn thu
Trời chiều chung một mối sầu hương quan
Tưởng nghe tiếng địch đêm tàn
Trực nhìn tần trắng liễu vàng đây doi.

Quách Tấn
 dịch (7)
Chiều Hán Dương 

Bụi mờ phủ dấu Bá Vương
Ngày đêm sông Hán vẫn cuồn cuộn trôi
Bờ Qui bến Hạc có đôi
Thần tiên đi mất ngậm ngùi lầu không
Có thơ cây cỏ vô cùng
Chiều hôm chung một tấc lòng hoài hương
Tưởng ai thổi địch đêm trường
Ngờ đâu tần trắng lục hồng đầy ven !

Hạt Cát 79
 dịch
Chú thích :
Hán Dương : Một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc, cách Võ Xương một con sông. Trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu : Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châuTản Đàdịch : Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Bá Vương : Hán Dương cũng là nơi tranh bá đồ vương ngày trước.
Không lâu : Chỉ lầu Hoàng Hạc ở bên kia sông.
Thảo thụ giai thiên cổ : Cây cỏ nhờ có thơ của Thôi Hạo mà bất hủ. Cây đây là cây ở Hán Dương, cỏ đây là cỏ ở Anh Vũ trong bài Hoàng Hạc lâu của họ Thôị Mà cây đây cỏ đây cũng là cây cỏ trước mắt và trong thơ của tác giả Nguyễn Dụ Trong bài Hoàng Hạc Lâu của Nguyễn Du có câu : Nhãn trung thảo thụ thượng y y. Ý nói "cây cỏ trước mắt vẫn còn y như cây cỏ nghìn xưa tả trong thơ Thôi Hạo". Nhờ thơ Thôi Hạo mà Nguyễn Du còn thấy được cây cỏ nghìn xưa trên cây cỏ ngày naỵ Và cây cỏ ngày nay sẽ nhờ thơ Nguyễn Du mà còn trong mắt người hậu thế. Cho nên mới nói Thi thành ... giai thiên cổ.
Nhật mộ hương quan : Trong thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu : Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầuTản Đà dịch : Quê nhà khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng thêm buồn lòng đây. Nguyễn Du mượn chữ trong câu đó. Ý nói đối với quê hương người xưa cũng như người nay, người Hoa cũng như người Việt, đề tha thiết như nhau, đều cộng nhất sầụ
Xuy địch dạ : Đêm thổi địch.
Quách Tấn : Tố Như thiQuách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 205-207).


Nhiếp Khẩu (1) đạo trung

Thu mãn phong lâm (2) sương diệp hồng
Tiểu oa hào xuất đoản ly đông
Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại
Nhất đái mao từ dương liễu trung
Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng
Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong
Mang nhiên bất biện hoàn hương lộ
Xúc mục phù vân xứ xứ đồng
Trên đường Nhiếp Khẩu

Thu ngậm rừng phong lá đỏ sương
Chó con sủa rộn mé rào đông
Vài sào lúa tám thêm gà lợn
Một dãy nhà tranh khuất bóng dương
Tóc trắng gió thu ngàn dặm ruổi
Non Hồng mộng mị cách năm trường
Mênh mang mây nổi tràn lên mắt
Lấp dấu đường quê lạc cố hương
Chú thích :
Nhiếp Khẩu : Thị trấn ở cửa sông Nhiếp Giang, phía đông thành Vũ Hán. Nguyễn Du qua đây vào lúc mùa thu chín. Những túp lều tranh, ruộng lúa, gà lợn, tiếng chó sủa vang bên hàng giậu : cảnh làng mạc Trung Hoa mang ít nhiều hơi hướm Việt Nam.
Lâm phong : Rừng phong. Truyện Kiều : 'Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san'.

   

Vũ Thắng (1) quan

Cốc khẩu hùng quan Vũ Thắng danh
Cổ thời (2) thử địa hạn Man Kinh (3)
Nhất binh bất thiết tự hùng tráng
Bách tải thừa bình vô chiến tranh
Bán nhật thụ âm tùy mã bối
Thập phần thu ý đáo thiền thanh
Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ
Mãn mục Sở sơn vô hạn thanh
Vũ Thắng hùng quan vốn nổi danh
Thuở xưa ranh giới đất Man Kinh
Đâu cần binh lính tự hùng tráng
Thừa hưởng đời đời chẳng chiến tranh
Rừng mát rợp che lưng ngựa chạy
Ý thu chan chứa tiếng ve ran
Đau lòng dặm ruổi quay đầu lại
Ngợp mắt muôn trùng núi Sở xanh
Hùng quan Vũ Thắng nổi danh
Ngàn xưa đất ấy Man Kinh biên thùy
Không binh tướng vẫn uy nghi
Thái bình an lạc suốt kỳ trăm năm
Nửa ngày lưng ngựa bóng râm
Ve kêu thu ý mười phần nỉ non
Ngoảnh đầu muôn dặm thêm buồn
Xanh xanh núi Sở ngút ngàn mắt trông !


Hạt Cát 79 
dịch
Chú thích :
Vũ Thắng : Cửa ải phía nam tỉnh Hà Nam.
Cốc khẩu : Núi thuộc huyện Lạc Dương.
Man Kinh : Nước Sở, vốn tên là Kinh, thuộc miền Nam Man, nên gọi là Man Kinh.


Tín Dương (1) tức sự

Hà Nam thủ Tín Dương
Thiên hạ thử trung ương (2)
Phiến thạch tồn Thân (3) quốc
Trùng sơn hạn Sở cương
Mã minh tư tự mạt
Dân thực bán tì khang
Bạch phát thu hà hận
Tây phong biến dị hương
Tức cảnh ở Tín Dương

Tín Dương đầu tỉnh Hà Nam
Là đây thiên hạ trung tâm cổ thời
Nước Thân ghi dấu đá rời
Núi non trùng điệp muôn đời Sở xưa
Ngựa kêu ăn lúa hay chưa
Dân cơm trộn cám cho vừa hẩm hiu
Thu về giận biết bao nhiêu
Gió tây tóc trắng đìu hiu quê người
Chú thích :
Tín Dương : Tên huyện ở phía nam tỉnh Hà Nam.
Trung ương : Thời cổ, Hà Nam ở giữa chín châu (tức Trung Quốc).
Thân quốc : Nước do nhà Chu lập ra để phong cho con cháu Bá Di, Thúc Tề (theo Đào Duy Anh).




Cựu Hứa Đô (1)

Hứa Châu thành, Hán đế đô
Tào thị vu thử di Hán đồ
Thụ thiện đài cơ dĩ bất kiến
Phong vũ dạ dạ do hào hô
Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính
Nại hà vụ quả nhi khi cô (2)
Ngụy thụ Hán thiện, Tấn thụ Ngụy (3)
Tiền hậu sở xuất như nhất đồ
Ngụy vong Tấn tục canh triều đại
Tự thử hất kim kỷ thiên tải
Kỳ trung hưng phế tri kỷ nhân
Nga nga thành điệp hà tằng cải
Thành ngoại thanh sơn tự cựu thì
Gian hùng soán thiết nhân hà tại ?
Hán nhân tông miếu dĩ vô tung
Ngụy nhân viên lăng diệc đồi bại
Đãng đãng thành trung nhất phiến thổ
Đình ngọ thị nhân xu mại mãi
Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự (4)
Nhân khẩu thành bi chung bất hoại
Viễn lai sử ngã đa trầm ngâm
Di xú lưu phương giai cổ câm (kim)
Đột ngột danh thành đương đại đạo
Cự gian đáo thử ưng hàn tâm
Thành Hứa Đô cũ

Thành Hứa Châu xưa Hán đế đô
Nơi đây Tào Tháo đoạt cơ đồ
Nền đài phong đế không còn nữa
Chỉ có đêm đêm khóc gió mưa
Được nước tự xưa nhờ chính nghĩa
Sao lừa vợ góa dối con côi ?
Hán nhường cho Ngụy, Ngụy nhường Tấn
Trước sau chỉ một lối mà thôi
Ngụy mất Tấn thay, triều đại đổi
Đến nay đã biết mấy nghìn năm
Bao kẻ dấy lên rồi lụn bại
Cao ngất thành xưa gội tháng năm
Ngoài thành núi vẫn xanh thời cũ
Soán đoạt gian hùng nay ở đâu ?
Nhà Hán miếu đền không thấy dấu
Mả vườn họ Ngụy nát từ lâu
Trong thành cùng họp nhau đất rộng
Giữa trưa người mua bán bon chen
Hăm lăm việc cũ Kiến An
'Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trớ
Từ xa đến làm ta trăn trở
Tiếng thối thơm đều có xưa nay
Giữa đường thành lớn đứng ngay
Đại gian hùng bước đến đây lạnh hồn
Chú thích :
Hứa Đô : Đất nước Hứa thời xưa, nay ở phía Đông huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam. Năm Kiến An nguyên niên (196) Tào Tháo dời đô nhà Hán từ Lạc Dương đến đó nên gọi là Hứa Độ
Quả, cô : Chỉ vợ và con của Linh Đế.
Ngụy, Tấn : Tào Phi (187-226) bắt Hiến Đế (con của Linh Đế nhường ngôi cho mình, đổi quốc hiệu là Ngụỵ Sau đó, họ Tư Mã Viêm lại bắt vua Ngụy nhường ngôi, lập nên nhà Tấn.
Kiến An nhị thập ngũ niên : Năm thứ 25 (220, Tây lịch thời Kiến An, Tào Phi ép Hiến Đế nhường ngôị


No comments:

Post a Comment