http://thohanviet.tripod.com/bachanh.htm
|
||
|
Thăng Long (1)
Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng Bạch đầu (2) do đắc kiến Thăng Long Thiên niên cự thất thành quan đạo Nhất phiến tân thành một cố cung Tương thức mỹ nhân khan bão tử Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung |
Thăng
Long
Núi Tản sông Lô vẫn núi sông Bạc đầu còn được thấy Thăng Long Nghìn năm cự thất thành quan lộ Một giải tân thành lấp cố cung Người đẹp buổi xưa đều bế trẻ Bạn chơi thưở nhỏ thảy thành ông Thâu đêm chẳng ngủ lòng thêm bận Địch thổi trăng trong tiếng não nùng (Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995) |
Chú thích :
1 Thăng Long : Từ đời Lý, kinh đô Việt Nam đóng tại Thăng Long. Thăng Long nghĩa đen là rồng hiện lên. Đến đời Nguyễn, Gia Long đóng đô tại Huế, và đổi chữ LONG là rồng ra chữ LONG là thịnh vượng. Nhưng trong văn thơ, cổ nhân vẫn viết chữ Long là rồng. 2 Bạch đầu : Nguyễn Du mới ba mươi tuổi đã bạc đầu. Nhưng chữ bạch đầu này dùng để nói tuổi già. Bởi Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mất (1789). Lúc ấy Nguyễn Du mới 25 tuổi. Đến khi Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc ấy Nguyễn Du 37 tuổi. Đến khi vâng mệnh đi sứ Trung Hoa (1813), Nguyễn Du đến Thăng Long một lần nữa. Bài thơ này làm lúc ra Thăng Long để sang Trung Quốc. Lúc đó Nguyễn Du đã gần ngũ tuần. Cho lên mới nói Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long. |
||
|
Thăng Long
(II)
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành (1) Do thị Thăng Long cựu đế kinh Cù hạng tứ khai mê cựu tích Quản huyền nhất biến tạp tân thanh Thiên niên phú quí cung tranh đoạt Tảo tuế thân bằng bán tử sinh Thế sự phù trầm hưu thán tức Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh
Chú thích :
1 Tân thành : Thành mới. Năm Gia Long thứ tư (1805), nhà vua hạ lệnh phá thành Thăng Long cũ và xây lại thành mới nhỏ hơn, với mục đích thay cũ đổi mới. |
Thăng Long
(II)
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa Điệu mới xô bồ nhịp trúc tơ Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt Bạn bằng lớp trước sống lơ thơ Nổi chìm thế sự đừng than nữa Mái tóc mình đây cũng bạc phơ (Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995) |
|
||
|
Ngô gia đệ (1) cựu ca cơ
Phồn hoa nhân vật loạn lai phi Huyền hạc (2) qui lai kỷ cá tri Hồng tụ (3) tằng văn ca uyển chuyển Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly Phúc bồn (4) dĩ hĩ nan thu thủy Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử Khả liên do trước khứ thời y |
Gặp người ca
cơ cũ của em
Loạn rồi nhân vật đổi thay, Phồn hoa chốn cũ ai hay hạc về. Áo hường tưởng dạng cung Nghê, Tiếng ca uyển chuyển từng nghe những ngàỵ Tuổi già gặp lại nhau đây, Bước đường lưu lạc lệ đầy thương đaụ Đã đành nước đổ khôn thâu, Than ôi ! Ngó đứt dễ dầu dứt tơ ! Có chồng đã mấy con thơ, Áo hường ngày cũ bây giờ còn mang ! (Quách Tấn dịch, Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995) |
Chú thích :
1 Gia đệ : Đây là chỉ người em cùng mẹ là Nguyễn Úc được tập ấm là Hoàng Tín đại phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Úc chạy theo không kịp, về ngụ nơi quê vợ, làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm Tân Vị (1811), Gia Long nghe ông có tài khéo, xuống chiếu triệu vào kinh, bổ làm Thiêm Sự bộ Công, tước Hầu. Những miếu điện ở kinh thành đều do ông sáng chế kiểu thức. 2 Huyền hạc : Hạc đen. Truyền rằng hạc vốn sắc trắng, tu nghìn năm thành sắc vàng, tu nghìn năm nữa ra sắc đen. Câu này tác giả nói mình : Xa Thăng Long lâu ngày, trở lại ít người biết. 3 Hồng tụ : Tay áo hồng. Người ca nữ sang trọng thường mặc áo hồng rộng tay để múa cho đẹp. 4 Phúc bồn : Chậu nước đổ. Tục có câu : "Phúc thủy nan thâu" nghĩa là nước đổ rồi khó hốt lên được. Ý nói là người ca cơ đã xa em mình rồi không sao tụ hợp đuợc nữa (Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 181-183). |
||
|
Quỉ Môn quan (1)
Liên phong cao sáp nhập thanh vân Năm bắc quan đầu tựu thử phân Như thử hữu danh sinh tử địa Khả liên vô số khứ lai nhân Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ Bố dã yên lam tụ quỉ thần Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt Kỳ công hà thủ Hán Tướng quân (2) |
Quỉ Môn quan
Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây Ải chia Nam Bắc chính là đây Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ Qua lại người không ngớt tháng ngày Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói Rập rình cọp rắn núp rừng cây Bên đường gió lạnh luồng xương trắng Hán tướng công gì kể bấy nay ? |
(Quách Tấn dịch, Tố
Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris, France, 1995)
|
||
Chú thích :
1 Quỉ Môn quan : Ở phía Nam xã chi lăng tỉnh Lạng Sơn. Địa thế hiểm trở. Có núi hình như đầu quỉ. Do đó mà mệnh danh là Quỉ Môn quan. Cổ thi có câu : Quỉ Môn quan ! Quỉ Môn quan ! Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn Người Việt đi sứ Trung Quốc có câu : Rạng ngày đến Quỉ Môn quan Tiếng xưa "thập khứ nhất hoàn' là đây 2 Hán Tướng quân : Chỉ Mã Viện. Mã Viện đem quân đánh hai bà Trưng, tuy đắc thắng nhưng quân lính chết dọc đường không biết bao nhiêu. Như thế có gì là chiến công đắng khen ngợi. Cũng có ý nói : Kỳ công của tướng quân nhà Hán không có chi hơn là "đống xương trong gió lạnh bên đường ". (Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 184-186). |
||
|
Lạng Thành (1) đạo trung
Quần phong dũng lãng thạch minh đào Giao hữu u cung, quyên hữu sào Tuyền thủy hợp lưu giang thủy khoát Tử sơn bất cập Mẫu sơn (2) cao Đoàn thành (3) vân thạch tịch tương hậu Hồng Lĩnh thân bằng nhật tiệm dao Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn Khuông trung huề hữu bút như đao
Chú thích :
1 Lạng Thành : Thành Lạng Sơn 2 Mẫu sơn : Công Mẫu sơn, ngọn núi cao nhất ở huyên Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn, giáp giới Trung quốc. 3 Đoàn Thành : Thành Lạng Sơn |
Trên đường
đi Lạng Thành
Núi trập trùng, sóng kêu trên đá Tổ nương chim, hang đã có rồng Suối gom dòng nhỏ thành sông Núi con đọ núi Mẹ không cao bằng Chiều Lạng Sơn, mây giăng đá ngóng Hồng Lĩnh thân sao chóng cách xa Lạ chưa, dứt nhẹ tình nhà Đoạn sầu ngọn bút theo ta bạn đường ... |
|
||
|
Lưu biệt cựu khế Hoàng (1)
Táp niên cố hữu trùng phùng nhật Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ Đạo lộ nhật lai tình vị cánh Vân sơn biệt hậu ý hà như Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại Lão hỷ toàn thân bách chiến dư Tha nhật Nam qui tương hội phỏng Lục Đầu (2) giang thượng hữu tiều ngư
Chú thích :
1 Cựu khế Hoàng : Bạn cũ họ Hoàng. Có lẽ là một võ tướng (bách chiến dư). 2 Lục Đầu giang : Sông Lục Đầu. |
Từ biệt bạn
cũ họ Hoàng
Ba mươi năm cũ gặp đây Lên đường vạn dặm cũng ngày tôi đi Tình thâm ơi, biết nói gì Núi mây ly biệt ý thì ra sao ? Muôn trùng quan ải tay chào Mừng người bách chiến không sao tuổi già Về Nam mai mốt lân la Lục Đầu bến nước hỏi tra ngư tiều |
|
||
|
Nam Quan (1) đạo trung
Ngọc thư (2) phủng há ngũ vân đoan (3) Vạn lý đan xa độ Hán quan (4) Nhất lộ giai lai duy bạch phát Nhị tuần (5) sở kiến đãn thanh san Quân ân tự hải hào vô báo Xuân vũ như cao cốt tự hàn Vượng đạo (6) đãng bình hưu vấn tấn Minh Giang (7) bắc thượng thị Trường An (8) |
Trên đường
Nam Quan
Tầng mây năm sắc chiếu vua ban Muôn dặm xe đơn vượt Hán quan Một mạch đường dài trơ tóc bạc Hai mươi ngày mỏi rặt non xanh Mưa xuân như mỡ, xương thêm buốt Ơn nước bằng trời, nợ nặng mang Rộng phẳng đường vua thôi thắc mắc Minh Giang lên bắc ấy Trường An |
Chú thích :
1 Nam Quan : Tên một cửa ải ở biên giới Việt-Trung từ tỉnh Lạng Sơn sang tỉnh Quảng Tây. 2 Ngọc thư : Sắc chiếu nhà vua 3 Ngũ vân đoan : Từng mây năm sắc, chỉ triều đình. 4 Hán quan : Cửa ải trên đường sang Trung quốc. Tức trấn Nam Quan. 5 Nhị tuần : Hai mươi ngàỵ Ngày xưa, một tháng có ba tuần, mỗi tuần 10 ngàỵ 6 Vương đạo : Đường của nhà vua. Ở đây chỉ đường đến Trường An, kinh đô Trung quốc. 7 Minh Giang : Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Đông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa. 8 Trường An : Chỉ kinh đô nhà Thanh ở Yên Kinh (Bắc Kinh bây giờ). |
||
|
Minh Giang (1) chu phát
Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn Vạn sơn trung đoạn nhất sà bôn Phù vân xạ tán thạch dung sấu Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn Biệt hậu quan sơn tư đệ muội Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá Phạ hữu thanh thanh trường đoạn vôn (viên) |
Thuyền ra đi
trên sông Minh Giang
Chiêng trống tùng tùng ra cửa sông Một thuyền lướt sóng giữa muôn trùng Mây tan bất chợt hao gày núi Nước lụt mới về vẩn đục dòng Dặm biệt, anh em đà tưởng nhớ Đá chồng, con cháu cứ ngờ trông Hoa Sơn chớ vượt khi chiều xế Sợ vẳng bên tai vượn não nùng |
Chú thích :
1 Minh Giang : Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Đông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa. Đoàn sứ Nguyễn Du đi theo sông này qua núi Hoa Sơn, thuộc tỉnh Quảng Tây, lên phía bắc. |
||
|
Ninh Minh giang (1) chu
hành
Việt Tây sơn trung đa giản tuyền Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên Tự cao nhi hạ như bát thiên Than thượng hà sở văn ? Ưng long kích nộ lôi điền điền Than hạ hà sở kiến ? Nỗ cơ kịch phát thỉ ly huyền Nhất tả vạn lý vô đình yên Cao sơn giáp ngạn như tường viên Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên Hữu như long, xà, hổ, báo, ngưu, mã la kỳ tiền Đại giả như ốc, tiểu như quyền Cao giả như lập, đê như miên Trực giả như tẩu, khúc như tuyền Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn Giao ly xuất một thành trùng uyên Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyền Hạ lạo sơ trướng phí như tiên Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền Tâm huyền huyền đa sở úy Nguy hồ đãi tai cốt một vô để Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình Trung Hoa đạo trung phù như thị Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý Cao tài mỗi vị văn chương đố Nhân nhục tối vi ly mị hỷ Phong ba na đắc tận năng bình Trung tín đáo đầu vô túc thị Bất tín "xuất môn giai úy đồ" (2) Thí vọng thao thao thử giang thủy
Chú thích :
1 Ninh Minh Giang : Sông chảy qua Ninh Minh. 2 Trung Tín : Đường Giới đời Tống Bình có câu : Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba (mỗi ngày giữ trung tín, hôm nay không sợ sóng gió). |
Đi thuyền
trên sông Ninh Minh
Núi Việt Tây có nhiều khe suối Bao nhiêu năm tụ hội thành sông Trời cao đổ xuống đùng đùng Từ trên thác tựa như rồng nổi cơn Nghe như thể ầm ầm sấm nổ Vuột khỏi dây tên nỏ bật tung Một dòng vạn dặm không ngừng Bên bờ núi dựng như tường chênh vênh Ở trong nước đá hình quái lạ Như rắn, rồng, hổ, báo, trâu, ngựa liệt la Nhỏ tay nắm, lớn như nhà Cao như đứng, thấp như là ngủ say Cong như xoay, thẳng như đuổi chạy Muôn vẻ kỳ nói mấy cho vừa Thuồng luồng vực thẳm ghê chưa Ngày đêm ầm ĩ sóng đùa bọt phun Lụt mùa hè nước dâng sôi sục Đi ba ngày một mạch, chơi vơi Chơi vơi vì sợ ai ơi Nước sâu không đáy đi đời nhà ma Mọi người nói Trung Hoa bằng phẳng Đường Trung Hoa thật chẳng ai ngờ Như lòng người lắm quanh co Nguy vong nghiêng đổ đều do ý trời Văn chương đời tài cao hay ghét Thịt người ma quỷ thích vô cùng Làm sao yên lặng bão bùng Giữ trung tín mấy cũng không đủ nhờ Không tin "ra cửa, nguy cơ" Nhìn sông cuồn cuộn đó ngờ nữa thôi ! |
|
||
|
Vọng Quan Âm miếu
Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài Phạt tận tùng chi trụy hạc thai Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá Kim thân (1) tiền dạ khước phi lai (2) Đình vân xứ xứ tăng miên định Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai Nhất chú đàn hương (3) tiêu tuệ nghiệp ( 4) Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai
Chú thích :
1 Kim thân : Mình vàng, chỉ tượng Phật. 2 Phi lai : Do chữ ‘phi lai thạch‘. Lấy tích chùa Tương Sơn có hòn đá bay đến thành Phật. 3 Đàn hương : Hương làm bằng gỗ chiên đàn. 4 Tuệ nghiệp : Nghiệp chướng do trí tuệ gây ra. |
Trông miếu
Quan Âm
Đình đài ai dựng tận nơi đây Trứng hạc rơi tùng chặt hết cây Hang đá năm nào vừa đục phá Tượng vàng đêm trước mới qua bay Mây ngưng chốn chốn sư an giấc Chiều rụng non non vượn oán ai Đốt nén hương đàn tiêu tuệ nghiệp Muôn trùng đã cách thoáng đầu quay |
|
||
|
Tam Giang
khẩu đường dạ bạc
Tây Việt (1) trùng sơn nhất thủy phân Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân Viên đề thụ diểu nhược vô lộ Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân Tứ vọng vân sơn nhân độc lão Đồng chu Hồ Việt các tương lân Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ Ná đắc gia hương nhập mộng tần |
Đêm đậu
thuyền ở cửa sông Tam Giang
Một dòng nước xẻ núi muôn trùng Hai dãy nhìn nhau đá chất chồng Vượn hú ngọn cây dường lạc lối Chó kêu rừng thẳm chắc gần thôn Núi mây bốn ngả tình cô quạnh Hồ Việt chung thuyền mối thiết thân Làng cũ mười năm quên mất hướng Quê nhà nẻo mộng nhớ về thăm |
Chú thích :
1 Tây Việt : Vùng Quảng Tâỵ |
||
|
Chu hành tức sự
Tây Việt (1) sơn xuyên đa hiểm hi Hành hành tòng thử hướng thiên nhi (nhai) Băng nhai quái thạch nộ tương hướng Thủy điểu cầm sa hiệp bất phi Thiên địa biên chu phù tự diệp (2) Văn chương tàn tức nhược như ti Vị liên thượng quốc phong quang hảo Quan tỏa hương tình vị phóng qui |
Đi thuyền
hứng viết
Tây Việt non sông hiểm trở đầy Chân trời nhắm hướng kể từ đây Đá kỳ núi quái nhìn hung tợn Chim nước cò bờ ngó chẳng bay Trời đất mênh mông thuyền lá nổi Văn thơ thoi thóp sợi tơ lay Bởi yêu phong cảnh xứ người đẹp Khóa chặt tình quê chửa vút bay |
Chú thích :
1 Tây Việt : Vùng Quảng Tâỵ 2 Bùi Giáng dịch : 'Thuyền con chiếc lá giữa trời 'Thơ văn tiếng thở như lời tơ than 'Trông vời hồng rụng ngổn ngang 'Tìm đâu chốn cũ muôn vàn dưới kia. Hai câu đầu rút từ bài ‘Chu hành tức sự ‘, hai câu sau từ bài ‘Dương Phi cố lý'. |
||
|
Thái Bình mại ca giả
Thái Bình cổ sư thô bố y Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi Vân thị thành ngoại lão khất tử Mại ca khất tiền cung thần xuy Lân chu thời hữu hiếu âm giả Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ Thử thời thuyền trung ám vô đăng Khí phạn bát thủy thù lang tạ Mô sách dẫn thân hướng tọa ngung Tái tam cử thủ xưng đa tạ Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh Thả đàn thả ca vô tạm đình Thanh âm thù dị bất đắc biện Đãn giác liêu lượng thù khả thinh Chu tử tả tự vị dư đạo Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành Quan giả thập số tịnh vô ngữ Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh Khẩu phún bạch mạt, thủ toan súc Khước tọa, liễm huyền, cáo chung khúc Đàn tận tâm lực cơ nhất canh Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục Tiểu nhi dẫn đắc há thuyền lai Do thả hồi cố đảo đa phúc Ngã sạ kiến chi, bi thả tân Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão Trung Hoa diệc hữu như thử nhân Quân bất kiến sứ thuyền triêu lai cung đốn lệ Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ Hành nhân bão thực tiện khí dư Tàn hào lãnh phạn trầm giang để. |
Người hát
dạo ở Thái Bình
Ở phủ Thái Bình có ông lão Hai mắt mù mặc áo vải thô Nắm tay trẻ dắt ngoại ô Ven sông hát dạo lần mò kiếm ăn Thuyền bên có kẻ ham nghe hát Dẫn ông già xuống sát cửa thuyền Lúc này thuyền tối không đèn Cơm thừa canh cặn đổ tràn tứ tung Lò dò vô trong cùng, một góc Hai ba lần lóc ngóc cám ơn Miệng ca, tay nắn dây đàn Một hơi đàn hát chẳng lần nghỉ ngơi Thanh âm lạ, lẽ lời không hiểu Lắng nghe ra thì điệu cũng hay Nhà thuyền viết chữ : khúc này Thế Dân tranh đoạt quyền oai Kiến Thành (1) Chục người xem mà đành phăng phắc Gió ru trăng vằng vặc trên sông Miệng sùi, tay mỏi lão ông Cất đàn, ngồi lại, thưa rằng đã xong Gần một canh, hết lòng hết sức Năm sáu đồng kiếm được thế thôi Đứa em dẫn khỏi thuyền rồi Còn quay đầu lại gửi lời chúc may Chợt nhìn thấy cảnh này đau xót Phàm người ta chết tốt hơn nghèo Trung Hoa no ấm, nghe nhiều Trung Hoa cũng có người nghèo thế ư Kìa không thấy sứ từ xa lại Gạo thịt đầy thuyền cái thuyền con Người ăn no ứ vẫn còn Đáy sông cơm ngọt món ngon đổ chìm. |
Chú thích :
1 Kiến Thành và Thế Dân : Con Đường Cao Tổ. Kiến Thành là Thái tử. Thế Dân lập mưu giết Kiến Thành, đoạt ngôi Thái Tử, sau thành vua Đường Thái Tông (627-649). |
||
|
Đề Đại Than (1) Mã Phục
Ba (2) miếu
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm (3) khư Cái thế công danh tại sử thư Hướng lão đại niên căng quắc thước (4) Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư (5) Đại Than phong lãng lưu tiền liệt Cổ miếu tùng sam cách cố lư Nhật mộ thành tây (6) kinh cức hạ Dâm Đàm (7) di hối cánh hà như |
Đề miếu Mã
Phục Ba ở thác Đại Than
Chiếm Nam đục núi đắp đường Công danh sử sách lẫy lừng khắc ghi Tuổi cao quắc thước khoe gì Ngoài cơm áo có cần chi với đời Đại Than sóng gió một thời Miếu xưa tùng bách xa vời cố hương Tây thành gai góc tà dương Dâm Đàm nỗi hận quay cuồng tới đâu ? Hạt Cát 79 dịch |
Chú thích :
1 Đại Than : Một ghềnh lơn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện. 2 Mã Phục Ba : Tức Mã Viện, danh tướng nhà Hán, thời vua Quang Vũ được phong là Phục Ba tướng quân. 3 Viêm : Nóng. Viêm bang chỉ những xứ nóng phía Nam Trung Hoạ 4 Quắc thước : Mã Viện ngoài 60 tuổi còn xin vua đi đánh giặc. Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựạ Vua cười khen : "Ông này quắc thước lắm !" (Quắc thước tại thị ông !). 5 Tẫn doanh dư : Thiếu Dư, em họ của Mã Viện, nói : "Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, ở quê hương trông nom mồ mả rung vườn. Cần gì vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân". 6 Thành Tây : Mộ Mã Viện chôn ở Tây Thành. |
||
|
Vãn há Đại Than,
tân lạo bạo trướng, chư hiểm câu thất Ngân hà tạc dạ tự thiên khuynh Giang thủy mang mang giang ngạn bình Vị tín quỉ thần năng tướng hựu Tẫn giao long hổ thất tinh linh Bình cư bất hội giảng "trung tín" (1) Đáo xứ vô phương "tề tử sinh" Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội Ngô tương hà dĩ khấu thần minh ? |
Chiều xuống
Đại Than, lũ mới trào về,
tất cả các quãng nguy hiểm đều ngập nước Ngân hà trút xuống đêm qua Mênh mông sông nước gần xa không bờ Quỉ thần đâu đó bây giờ Rồng thiêng, cọp dữ cũng chờ bó tay "Tín Trung" không nghĩ thường ngày Thì "Sinh Tử" biết vần xoay đường nào Chỗ trăm lần hiểm cao sâu Lấy gì đây để dập đầu khấn xin ! |
Hạt Cát 79 dịch
|
||
Chú thích :
1 Trung tín : Đường Giới Tống nói : Bình sinh thượng trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba (ngày thường giữ trung tín, hôm nay mặc kệ phong ba) |
||
|
||
|
|
|
|
Sơn Đường dạ bạc
Ngọ mộng tỉnh lai vãn Tà nhật yểm song phi Phong kính duy thuyền tảo Sơn cao đắc nguyệt trì Ỷ bồng thiên lý vọng Hợp nhãn cách niên ti (tư) Mạc cận thương nhai túc Đề viên triệt dạ bi |
Đêm đậu
thuyền ở Sơn Đường
Mộng trưa tỉnh giấc muộn Bóng xế ngậm song tây Gió mạnh neo thuyền sớm Non cao ngắm trăng chầy Dựa mui trông dặm trở Chớp mắt nhớ năm đầy Chớ ngủ gần bên núi Thâu đêm vượn oán ai |
|
||
|
Hạ than hỷ phú
Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ (1) (từ) Nhất trạo trung lưu tứ sở chi Đáo xứ giang sơn như thức thú Hỷ nhân xà hổ bất thi uy Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc Nhất đái hàn yên Yến Tử ky (cơ) Tịch tịch thuyền song vô cá sự Ngư ca giang thượng khán tà huy |
Mừng xuống
khỏi thác
Thành khẩn dâng hương vái trước đền Một thuyền theo nước cứ lênh đênh Mừng người rắn cọp không làm dữ Thích cảnh non sông như đã quen Muôn cụm tùng xanh sư trú ngụ Một Hòn Én lạnh khói dâng lên Bên song lặng lẽ không gì bận Nghe khúc chài ca, ngó nắng nghiêng |
|
Chú thích :
1 Tướng quân từ : Chỉ đền thờ Mã Viện. |
|
|
||
|
Thương Ngô (1) tức sự
Ngu Đế (2) nam tuần cánh bất hoàn Nhị phi (3) sái lệ trúc thành ban Du du trần tích thiên niên thượng Lịch lịch quần thư nhất vọng gian Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy Phù vân bất biện Cửu Nghi (4) san Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ Thiên lý thanh sam (5) bất nại toàn |
Tức cảnh ở
Thương Ngô
Vua Ngu đi mất không về Trúc xanh đốm lệ hai phi khóc tìm Nghìn năm cách biệt cổ kim Lật trang phương cảo nỗi niềm rưng rưng Lụt về ba thước triều dâng Mây mờ che phủ mấy tầng Cửu Nghi Xa nghe réo rắt tiếng tỳ Áo xanh từ tạ còn đi nghìn trùng |
Chú thích :
1 Thương Ngô : Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày naỵ 2 Ngũ Đế : Vua Thuấn đi tuần ở phương nam, chết ở núi Thương Ngộ 3 Nhị phi : Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo bên dòng sông Tương. 4 Cửu Nghi : Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam. 5 Thanh sam : Trong Tỳ bà hành có câu : "Giang châu tư mã thanh sam thấp" (Quan Tư mã châu Giang khóc ướt vạt tràng áo xanh), Nguyễn Du dịch là : "Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng, Giọt châu tầm tã, đẫm tràng áo xanh". |
||
|
Thương Ngô (1) mộ vũ
Vũ trệ Tầm Giang (2) hiểu phát trì Ngô thành bạc mộ thượng phi phi Nhất giang tân lạo bình Tam Sở (3) Đại bán phù vân trú Cửu Nghi (4) Trách trách tiểu chu nan quá Hạ (5) Sam sam trường phát tự tri Di (6) Bình ba nhật mộ Tương Đàm (7) viễn Bôi tửu bằng lan điếu nhị phi (8) |
Mưa chiều ở
Thương Ngô
Mưa phủ Tầm Giang, sáng đã chầy Thành Ngô chiều đến vẫn mưa bay Cửu Nghi đỉnh núi mây vần vũ Tam Sở lòng sông nước lụt đầy Thuyền bé long đong miền đất Hạ Tóc dài búi tó khác người đây Sóng êm, trời tối, Tương Đàm cách Rượu viếng nhị phi một chén này |
Chú thích :
1 Thương Ngô : Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày naỵ 2 Tầm Giang : Sông chảy qua Thương Ngô vào Quảng Đông. 3 Tam Sở : Ba miền Đông Sở, Tây Sở và Nam Sở. 4 Cửu Nghi : Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn tỉnh Hồ Nam. 5 Hạ : Đất Hoa Hạ. 6 Di : Người Trung Hoa ngày xưa gọi những dân tộc ở phía đông là man di. 7 Tương Đàm : Tức Trường Sa ở Hồ Nam, có sông Mịch La là nơi Khuất Nguyên tự trầm (Xem bài Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu). 8 Nhị phi : Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngộ Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo chồng bên dòng sông Tương. (Xem bài Thương Ngô tức sự). |
||
|
||
|
Thương Ngô Trúc Chi ca
(IV)
Thanh sơn lâu các nhất tầng tầng Trú kiến yên hà dạ kiến đăng Cổ tự vô danh nan vấn tấn Bạch vân thâm xứ ngoạ sơn tăng |
Ca điệu Trúc
Chi đất Thương Ngô (IV)
Núi xanh lầu gác lắm tầng Ngày nhìn khói ráng, đêm trông ánh đèn Chùa xưa khó hỏi tìm tên Núi cao mây trắng, sư yên chốn nằm |
|
||
|
Thương Ngô Trúc Chi ca
(IX)
Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng Thành nam thùy liễu bất câm phong Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản Nhất dạ tùy lưu đáo Quảng Đông |
Ca điệu Trúc
Chi đất Thương Ngô (IX)
Bắc thành sơn lựu đỏ hoa Nam thành liễu chắn gió qua như thường Tơ bay, hoa rụng ai thương Quảng Đông một tối theo trường giang đi |
|
||
|
Thương Ngô Trúc Chi ca
(XI)
Thập chích long chu nhất tự trần Xao la qua cổ điếu Linh quân (2) Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân |
Ca điệu Trúc
Chi đất Thương Ngô (XI)
Mười chiếc thuyền rồng thẳng một hàng Vang rền chiêng trống điếu Linh quân Ham vui cô gái cài hoa cúc Nhảy vọt đầu thuyền chẳng nể nang |
|
||
|
Thương Ngô (1) Trúc Chi
ca (XIV)
Trường quần tập tập duệ khinh tiêu Vân kế nga nga ủng thúy kiều Doanh đắc quỉ đầu (2) mãn nang khẩu Bằng quân vô phúc dã năng tiêu |
Ca điệu Trúc
Chi đất Thương Ngô (XIV)
Quần là, áo lượt thướt tha bay Tóc búi đầu cao, trâm thúy cài Tiền bạc kiếm về mang chật túi Dù cho vô phúc cứ vung xài |
|
Chú thích :
1 Thương Ngô : Đất thuộc tỉnh Hồ Nam ngày naỵ 2 Quỉ đầu : Tiền cổ. |
|
|
||
|
Ngũ nguyệt quan cạnh độ
Hoài vương (1) qui táng, Trương Nghi (2) tử Sở quốc từ nhân ký bội lan (3) Thiên cổ chiêu hô chung bất phản (4) Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan Yên ba diểu diểu không bi oán La cổ niên niên tự tiếu hoan (5) Hồn nhược qui lai dã vô thác Long xà quỉ vực biến nhân gian |
Tháng năm
xem đua thuyền
Hoài Vương chôn xác, Trương Nghi chết Tưởng nhớ người thơ giắt ngọc lan Nghìn thuở kêu gào không trở lại Đầy sông đua vượt lắm lăng xăng Đau thương khói sóng về đâu bến Nô giỡn trống kèn diễn mỗi năm Hồn có về đây thêm lạc lõng Rắn rồng quỉ quái khắp nhân gian |
Chú thích :
1 Hoài Vương : Vua nước Sở. Hoài Vương không nghe lời can gián của Khuất Nguyên, cứ đi hi với vua Tàn, bị Tần bắt, sau chết mới được đem xác về nước chôn. 2 Trương Nghi : Thuyết khách, dùng mưu dèm pha Khuất Nguyên với vua Sở Hoài Vương. Khuất Nguyên bị đi đày, Trương Nghi thành tướng quốc. Sau Trương Nghi bị mưu, bỏ chạy, cuối cùng chết ở nước Ngụỵ 3 Sở quốc từ nhân : Tức Khuất Nguyên, nhà thơ nước Sở. Khuất Nguyên thường đeo hoa lan, hoa tiêu để tỏ lòng cao khiết. 4 Chiêu hô chung bất phản : Tống Ngọc, học trò của Khuất Nguyên, làm bài Chiêu hồn để gọi hồn ông. 5 La cổ niên niên : Hằng năm, vào ngày 5 tháng 5, để kỷ niệm ngày Khuất Nguyên mất, người Trung Hoa có lệ tổ chức đua thuyền tượng trưng sự đi tìm xác nhà thơ đả tự trầm ở sông Mịch La. |
||
|
Dương Phi (1) cố lý
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh Tự thị cử triều không lập trượng (2) Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành Tiêu tiêu Nam Nội (3) bồng cao biến Mịch mịch Tây Giao (4) khâu lũng bình Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ Đông phong thành hạ bất thăng tình |
Làng cũ
Dương Quí Phi
Mây ngàn hoa bến nước lung linh Dương Quí Phi xưa đất ấy sinh Bởi nỗi cả triều tài phỗng đá Để cho muôn thuở tội nghiêng thành Cấm cung bỏ phế, bồng hiu hắt Mồ cũ san bằng, cảnh vắng tanh Gió lạnh dưới thành ngơ ngẩn bóng Tìm đâu cho thấy cánh hoa tàn |
Chú thích :
1 Dương Quí Phi : tức Dương Ngọc Hoàn là Quí Phi của Đường Minh Hoàng. Quê ở làng Hoàng Nông, huyện Hòa Âm, tỉnh Thiểm Tây ngày naỵ An Lộc Sơn nổi loạn. Đường Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục. Đến đèo Mã Ngôi, quân lính đòi giết Dương Quí Phi và anh họ Dương Quốc Trung, là những người làm Đường Minh Hoàng mê muội mà mất nước (Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành). Dương Quí Phi bị thắt cổ chết ở đâỵ 2 Lập trượng : Đứng như gậy, chỉ quan bù nhìn. Do lệ thiết triều nhà Đường, có tám con ngựa phải đứng chầu trong hàng gậỵ Con nào kêu hoặc đụng đậy không đúng phép là bị thay thế. 3 Nam Nội : Tức cung Hưng Khánh, nơi Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi thường ra chơị 4 Tây Giao : Cánh đồng ở phía tây Tràng An, chỉ cánh đồng Mã Ngôi nơi Dương Quí Phi bị thắt cổ chết. 5 Tàn hồng : Bùi Giáng dịch : Trông vời hồng rụng ngổn ngang, Tìm đâu chốn cũ muôn vàn dưới kia (Tố Như thi, Quách Tấn dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang bìa 2) |
||
|
Triệu Vũ Đế (1) cố cảnh
Bạo Sở cường Tần tương kế tru Ung dung ấp tốn bá nam tu Tự ngu tận khả xưng hoàng đế Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu (2) Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu (3) Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu (4) Khả liên thế đại tương canh điệt Bất cập man di nhất lão phu (5) |
Đất cũ của
Triệu Vũ Đế
Sở bạo Tần cường nối diệt vong Phương nam làm chủ cứ ung dung Cho vui tự chiếm ngôi hoàng đế Ưa thiện đành thua chú khách thường Trăm thước đài cao nghiêng Lĩnh Biểu Nghìn năm mộ cổ mất Phiên Ngung Bao nhiêu triều đại thay nhau đổi Với lão Man di chẳng sánh cùng |
Chú thích :
1 Triệu Vũ Đế : Tức Triệu Đà (258-137, trước Công Nguyên). Năm Quí Tị (207) Triệu Đà đánh được An Dương Vương, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ. 2 Thụ nhu : Chỉ Lục Giả. Hán Văn Đế sai Lục Giả sang thuyết phục Triệu Đà nên giao hảo với nhà Hán. 3 Lĩnh Biểu : Đất ở ngoài Ngũ Lĩnh, ở miên nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây và Nam Việt). 4 Phiên Ngu : Tức Phiên Ngung, nơi Triệu Đà đóng độ 5 Man di lão phu : Triệu Đà đáp thư Hán Văn Đế tự xưng lả Man di đại trưởng lão phu (ông lão Man di). |
||
|
Quế Lâm công quán
Hoang thảo nhạ lưu huỳnh Nhàn giai dạ khí thanh Hàn đăng lưu quỉ ảnh Hư trướng tụ văn thanh Lao lạc xuân vô phận Sa đà lão tự kinh Thành đầu văn họa giác Tự ngữ đáo thiên minh |
Trong công
quán ở Quế Lâm
Cỏ hoang đom đóm loạn bay Hơi đêm thanh mát thềm ngoài vắng tanh Bóng ma đèn lạnh lung linh Màn thưa đàn muỗi mặc tình vo ve Buồn lo xuân chẳng muốn về Tháng năm lần lữa mà ghê tuổi già Đầu thành vẳng tiếng tù và Một mình mình nói sáng mà không hay |
|
||
|
Quá Thiên Bình
Phân thủy (1) sơn tiền nhị thủy phân Thiên Bình (2) thủy diện tự lân tuân Nhất bôi không điện lâm giang miếu Thiên cổ thùy vi xế thạch nhân Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở Mãn châu bi kệ dĩ phi Tần Chu nhân tranh chỉ gia hương cận Não sát thù phương lão sứ thần |
Qua Thiên
Bình
Phân Thủy chia hai nước một dòng Thiên Bình sóng tựa đá tràn sông Rượu suông một chén lễ dâng miếu Đá tảng nghìn xưa ai góp công Núi nửa suối khe vào đất Sở Bãi đầy bia đá hết bên Tần Nhà thuyền tranh chỉ quê hương họ Não ruột phương xa lão sứ thần |
|
Chú thích :
1 Phân Thủy : Tên núi, có lẽ ở huyện Nam Chiếu, tỉnh Hồ Nam. 2 Thiên Bình : Tên sông ở trước núi Phân Thủỵ |
|
|
||
|
Phản Chiêu hồn (1)
Hồn hề ! hồn hề ! hồ bất qui ? Đông tây nam bắc vô sở y Thướng thiên há địa giai bất khả Yên, Dĩnh (2) thành trung lai hà vi ? Thành quách do thị, nhân dân phi Trần ai cổn cổn ô nhân ỵ Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì (3) Bất lộ trảo nha dữ giác độc Giảo tước nhân nhục cam như di ! Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì Hồn hề ! hồn hề ! suất thử đạo Tam Hoàng (4) chi hậu phi kỳ thì Tảo liễm tinh thần phản Thái cực Thận vật tái phản linh nhân xi Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan (5) Đại địa xứ xứ giai Mịch La (6) Ngư long bất thực, sài hổ thực Hồn hề ! hồn hề ! nại hồn hà ? |
Chống lại
bài Chiêu hồn
Hồn ơi ! sao chẳng trở về ? Đông tây nam bắc chở che chốn nào Dù đất thấp trời cao chẳng ổn Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau Thành đây, dân cũ còn đâu Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưạ Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon ! Hồ Nam kia thấy không trăm xóm Toàn những người gầy ốm xanh xao Hồn ơi ! lối ấy theo nhau Đời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời Thu tinh thần về nơi Thái cực Chớ về đây người chực mỉa mai Thượng quan thời buổi ai ai Khắp trên đất rộng sông dài Mịch La Cá rồng nuốt, sói hùm tha Hồn ơi ! hồn hỡi ! hồn mà làm sao ? |
Chú thích :
1 Chiêu hồn : Tên một bài từ của Tống Ngọc để gọi hồn Khuất Nguyên. 2 Yên, Dĩnh : Tên hai thành nước Sở, thời Chiến Quốc (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc). 3 Cao, Quì : Tên hai bậc hiền thần đời Ngu Thuấn. 4 Tam Hoàng : Chỉ Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế, ba vị vua cổ nhất của Trung Quốc. 5 Thượng quan : Tức Thượng quan Ngân Thượng, người dèm pha Khuất Nguyên với Sở Hoài Vương. 6 Mịch La : Khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La. Nay ở phía bắc huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam. Sau người ta còn gọi là Khuất Đàm (Vì Khuất Nguyên tự trầm ở đây). |
||
|
Sơ thu cảm hứng (II)
Giang thượng tây phong mộc diệp hy Hàn thiền chung nhật táo cao chi Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu (1) Bất thị sầu nhân bất hứa tri |
Cảm hứng đầu
thu (II)
Sông cây thưa lá gió tây, Cành cao ve lạnh suốt ngày kêu cạ Điệu buồn trong tiếng đưa xa, Không buồn ai có nghe ra ve sầu. |
|
Chú thích :
1 Thanh thương điệu : Âm điệu buồn nhất trong ngũ âm của nhạc cổ. |
|
|
||
|
Sở (1) vọng
Kinh (2), Tương (3) thiên lý cổ danh đô Nhất bán khâm giang nhất đái hồ Thiên giả phú cường cung bách chiến Địa lưu khuyết hãm hạn Tam Ngô (4) Thu phong lạc nhật giai hương vọng Lưu thủy phù vân thất bá đồ Tôn sách Lưu phân hà xứ tại (5) Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu |
Trông vời
đất Sở
Kinh, Tương
nghìn dặm cựu danh đô
Một nửa bọc sông, một nửa hồ Giàu mạnh trời cho, tiêu bách chiến Quanh co đất vạch, rõ Tam Ngô Gió thu ngày xế vời quê cũ Nước chảy mây trôi sạch bá đồ Đâu đất Tôn, Lưu giành giựt mãi Một vùng cây cỏ mọc hoang vu |
Chú thích :
1 Sở : Tên một nước lớn thời Chiến Quốc. 2 Kinh : Nước Sở, vốn tên là Kinh, còn gọi là Kinh Sở. 3 Tương : Đất Tương Dương (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc). 4 Tam Ngô : Ba miền nước Ngô (Tôn Quyền) : Ngô Hưng, Ngô Quận và Cối Kê thời Tam Quốc. 5 Tôn, Lưu : Tức Tôn Quyền và Lưu Bị, cùng tranh đất Kinh Châụ |
Kinh Tương
ngàn dặm đô xưa
Nửa sông vây một dải hồ mênh mông Mạnh giàu trăm trận như không Tam Ngô để trống một vùng biên cương Gió thu chiều ngóng cố hương Nước mây tan tác bá vương mộng đồ Tranh dành đâu đất Tôn Lưu Xanh xanh bến bãi hoang vu một trời ! Hạt Cát 79 dịch |
|
|
||
|
Hán Dương (1) vãn diểu
Bá Vương trần tích thuộc du du (2) Hán Thủy thao thao trú dạ lưu Qui Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu (3) Thi thành thảo thụ giai thiên cổ (4) Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu (5) Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ (6) Bạch tần hồng liệu mãn đinh châu |
Chiều ngắm
Hán Dương
Bá Vương dấu bụi lấp đầy Dờn dờn sông Hán đêm ngày chảy xuôi Đôi bờ Qui Hạc sánh đôi Thần tiên khuất bóng mồ côi bóng lầu Thi thành cây cỏ nghìn thu Trời chiều chung một mối sầu hương quan Tưởng nghe tiếng địch đêm tàn Trực nhìn tần trắng liễu vàng đây doi. Quách Tấn dịch (7)
Chiều Hán Dương
Bụi mờ phủ dấu Bá Vương Ngày đêm sông Hán vẫn cuồn cuộn trôi Bờ Qui bến Hạc có đôi Thần tiên đi mất ngậm ngùi lầu không Có thơ cây cỏ vô cùng Chiều hôm chung một tấc lòng hoài hương Tưởng ai thổi địch đêm trường Ngờ đâu tần trắng lục hồng đầy ven ! Hạt Cát 79 dịch |
Chú thích :
1 Hán Dương : Một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc, cách Võ Xương một con sông. Trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu : Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Tản Đàdịch : Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. 2 Bá Vương : Hán Dương cũng là nơi tranh bá đồ vương ngày trước. 3 Không lâu : Chỉ lầu Hoàng Hạc ở bên kia sông. 4 Thảo thụ giai thiên cổ : Cây cỏ nhờ có thơ của Thôi Hạo mà bất hủ. Cây đây là cây ở Hán Dương, cỏ đây là cỏ ở Anh Vũ trong bài Hoàng Hạc lâu của họ Thôị Mà cây đây cỏ đây cũng là cây cỏ trước mắt và trong thơ của tác giả Nguyễn Dụ Trong bài Hoàng Hạc Lâu của Nguyễn Du có câu : Nhãn trung thảo thụ thượng y y. Ý nói "cây cỏ trước mắt vẫn còn y như cây cỏ nghìn xưa tả trong thơ Thôi Hạo". Nhờ thơ Thôi Hạo mà Nguyễn Du còn thấy được cây cỏ nghìn xưa trên cây cỏ ngày naỵ Và cây cỏ ngày nay sẽ nhờ thơ Nguyễn Du mà còn trong mắt người hậu thế. Cho nên mới nói Thi thành ... giai thiên cổ. 5 Nhật mộ hương quan : Trong thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu : Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Tản Đà dịch : Quê nhà khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng thêm buồn lòng đây. Nguyễn Du mượn chữ trong câu đó. Ý nói đối với quê hương người xưa cũng như người nay, người Hoa cũng như người Việt, đề tha thiết như nhau, đều cộng nhất sầụ 6 Xuy địch dạ : Đêm thổi địch. 7 Quách Tấn : Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995 (trang 205-207). |
||
|
||
|
Nhiếp Khẩu (1) đạo trung
Thu mãn phong lâm (2) sương diệp hồng Tiểu oa hào xuất đoản ly đông Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại Nhất đái mao từ dương liễu trung Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong Mang nhiên bất biện hoàn hương lộ Xúc mục phù vân xứ xứ đồng |
Trên đường
Nhiếp Khẩu
Thu ngậm rừng phong lá đỏ sương Chó con sủa rộn mé rào đông Vài sào lúa tám thêm gà lợn Một dãy nhà tranh khuất bóng dương Tóc trắng gió thu ngàn dặm ruổi Non Hồng mộng mị cách năm trường Mênh mang mây nổi tràn lên mắt Lấp dấu đường quê lạc cố hương |
Chú thích :
1 Nhiếp Khẩu : Thị trấn ở cửa sông Nhiếp Giang, phía đông thành Vũ Hán. Nguyễn Du qua đây vào lúc mùa thu chín. Những túp lều tranh, ruộng lúa, gà lợn, tiếng chó sủa vang bên hàng giậu : cảnh làng mạc Trung Hoa mang ít nhiều hơi hướm Việt Nam. 2 Lâm phong : Rừng phong. Truyện Kiều : 'Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san'. |
||
|
||
|
Vũ Thắng (1) quan
Cốc khẩu hùng quan Vũ Thắng danh Cổ thời (2) thử địa hạn Man Kinh (3) Nhất binh bất thiết tự hùng tráng Bách tải thừa bình vô chiến tranh Bán nhật thụ âm tùy mã bối Thập phần thu ý đáo thiền thanh Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ Mãn mục Sở sơn vô hạn thanh |
Vũ Thắng
hùng quan vốn nổi danh
Thuở xưa ranh giới đất Man Kinh Đâu cần binh lính tự hùng tráng Thừa hưởng đời đời chẳng chiến tranh Rừng mát rợp che lưng ngựa chạy Ý thu chan chứa tiếng ve ran Đau lòng dặm ruổi quay đầu lại Ngợp mắt muôn trùng núi Sở xanh
Hùng quan Vũ
Thắng nổi danh
Ngàn xưa đất ấy Man Kinh biên thùy Không binh tướng vẫn uy nghi Thái bình an lạc suốt kỳ trăm năm Nửa ngày lưng ngựa bóng râm Ve kêu thu ý mười phần nỉ non Ngoảnh đầu muôn dặm thêm buồn Xanh xanh núi Sở ngút ngàn mắt trông ! Hạt Cát 79 dịch |
Chú thích :
1 Vũ Thắng : Cửa ải phía nam tỉnh Hà Nam. 2 Cốc khẩu : Núi thuộc huyện Lạc Dương. 3 Man Kinh : Nước Sở, vốn tên là Kinh, thuộc miền Nam Man, nên gọi là Man Kinh. |
||
|
Tín Dương (1) tức sự
Hà Nam thủ Tín Dương Thiên hạ thử trung ương (2) Phiến thạch tồn Thân (3) quốc Trùng sơn hạn Sở cương Mã minh tư tự mạt Dân thực bán tì khang Bạch phát thu hà hận Tây phong biến dị hương |
Tức cảnh ở
Tín Dương
Tín Dương đầu tỉnh Hà Nam Là đây thiên hạ trung tâm cổ thời Nước Thân ghi dấu đá rời Núi non trùng điệp muôn đời Sở xưa Ngựa kêu ăn lúa hay chưa Dân cơm trộn cám cho vừa hẩm hiu Thu về giận biết bao nhiêu Gió tây tóc trắng đìu hiu quê người |
Chú thích :
1 Tín Dương : Tên huyện ở phía nam tỉnh Hà Nam. 2 Trung ương : Thời cổ, Hà Nam ở giữa chín châu (tức Trung Quốc). 3 Thân quốc : Nước do nhà Chu lập ra để phong cho con cháu Bá Di, Thúc Tề (theo Đào Duy Anh). |
||
|
Cựu Hứa Đô (1)
Hứa Châu thành, Hán đế đô Tào thị vu thử di Hán đồ Thụ thiện đài cơ dĩ bất kiến Phong vũ dạ dạ do hào hô
Tự cổ đắc quốc đương dĩ
chính
Nại hà vụ quả nhi khi cô (2) Ngụy thụ Hán thiện, Tấn thụ Ngụy (3) Tiền hậu sở xuất như nhất đồ
Ngụy vong Tấn tục canh
triều đại
Tự thử hất kim kỷ thiên tải Kỳ trung hưng phế tri kỷ nhân Nga nga thành điệp hà tằng cải
Thành ngoại thanh sơn tự
cựu thì
Gian hùng soán thiết nhân hà tại ? Hán nhân tông miếu dĩ vô tung Ngụy nhân viên lăng diệc đồi bại
Đãng đãng thành trung
nhất phiến thổ
Đình ngọ thị nhân xu mại mãi Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự (4) Nhân khẩu thành bi chung bất hoại
Viễn lai sử ngã đa trầm
ngâm
Di xú lưu phương giai cổ câm (kim) Đột ngột danh thành đương đại đạo Cự gian đáo thử ưng hàn tâm |
Thành Hứa Đô
cũ
Thành Hứa Châu xưa Hán đế đô Nơi đây Tào Tháo đoạt cơ đồ Nền đài phong đế không còn nữa Chỉ có đêm đêm khóc gió mưa
Được nước tự
xưa nhờ chính nghĩa
Sao lừa vợ góa dối con côi ? Hán nhường cho Ngụy, Ngụy nhường Tấn Trước sau chỉ một lối mà thôi
Ngụy mất Tấn
thay, triều đại đổi
Đến nay đã biết mấy nghìn năm Bao kẻ dấy lên rồi lụn bại Cao ngất thành xưa gội tháng năm
Ngoài thành
núi vẫn xanh thời cũ
Soán đoạt gian hùng nay ở đâu ? Nhà Hán miếu đền không thấy dấu Mả vườn họ Ngụy nát từ lâu
Trong thành
cùng họp nhau đất rộng
Giữa trưa người mua bán bon chen Hăm lăm việc cũ Kiến An 'Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trớ
Từ xa đến
làm ta trăn trở
Tiếng thối thơm đều có xưa nay Giữa đường thành lớn đứng ngay Đại gian hùng bước đến đây lạnh hồn |
Chú thích :
1 Hứa Đô : Đất nước Hứa thời xưa, nay ở phía Đông huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam. Năm Kiến An nguyên niên (196) Tào Tháo dời đô nhà Hán từ Lạc Dương đến đó nên gọi là Hứa Độ 2 Quả, cô : Chỉ vợ và con của Linh Đế. 3 Ngụy, Tấn : Tào Phi (187-226) bắt Hiến Đế (con của Linh Đế nhường ngôi cho mình, đổi quốc hiệu là Ngụỵ Sau đó, họ Tư Mã Viêm lại bắt vua Ngụy nhường ngôi, lập nên nhà Tấn. 4 Kiến An nhị thập ngũ niên : Năm thứ 25 (220, Tây lịch thời Kiến An, Tào Phi ép Hiến Đế nhường ngôị |
Sunday, June 8, 2014
TỐ NHƯ THI - Quách Tấn.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment