QUÍ VỊ CÓ BIẾT ĐÓ LÀ THỊT CỦA AI KHÔNG?
Khi tôi thực tập tại khoa ngoại, mỗi ngày tôi đều phải sử dụng dao mổ mấy lần. Mỗi lần giải phẫu, tôi đều phải cắt bỏ một số bộ phận hoặc một số phần của chúng trong cơ thể bệnh nhân, như cắt bỏ một phần dạ dày, cắt đi một khúc ruột, hoặc cắt bỏ túi mật, hoặc lấy tử cung đi, thậm chí cưa một chân, thậm chí dùng cưa điện mà cưa xương đầu gối … Y viện sẽ đem một số phần cắt nhỏ để gửi đi kiểm tra, các phần còn lại thì không dùng làm gì, giao cho người chuyên môn xử lý.
Một hôm, tôi về nhà bằng cổng sau của y viện thì gặp người chuyên môn xử lý ấy, anh ta mang một túi ni lông lớn, bên trong đựng các thứ được cắt ra từ thân thể người ta, như bao tử, ruột, mật … anh mang các thứ ấy mà ra cổng sau của y viện. Bên ngoài cổng sau của y viện chúng tôi có một quày bán thịt heo, anh giơ cái bao ấy lên mà đi ngang qua trước quầy thịt, tôi thấy bỗng rợn người! Vì thật giống quá! Giả sử có người giở trò đùa đem dạ dày, ruột hoặc thận bị cắt của mình mà để vào quầy thịt heo kia, lẫn lộn với bao tử, ruột và các thứ nội tạng heo, thì có thể các người cũng nhận không ra, đó là chưa kể mua về mà khen ăn rất ngon!
Khi học năm thứ hai ở Đại học Y, chúng tôi phải nghiên cứu môn “Nhân thể giải phẫu học”, rất nhiều bạn đồng học tự nhiên không dám ăn thịt, vì sao? Thịt động vật và thịt người giống nhau quá! Khi chúng tôi giải phẫu tử thi, rồi sau đó đến quán ăn, trông thấy thịt, cho dù ai đó lúc bình thường vẫn thích ăn thịt thì đều không muốn ăn, cảm thấy thịt ở đây có bề ngoài và mùi vị y hệt với thịt của tử thi trên bàn giải phẫu.
Nếu chúng ta bị cắt thịt thì chúng ta sẽ đến rợn người, nhưng khi ăn thịt bị cắt của động vật thì chúng ta lại bảo: “Thơm thật! Ngon thật! Không ăn không được, không đủ dinh dưỡng.”
Điều này khiến tôi nghĩ đến bài thơ:
Chớ có xem thường mạng chúng sanh
Cũng là xương cốt thịt da thành
Đem chính thân mình mà tự hỏi
Ai chịu đem dao cắt thịt mình.
Chúng ta không nên cho rằng sinh mạng của chúng sinh là nhỏ nhặt không đáng nói đến, không đáng tôn trọng. Da thịt xương cốt của chúng sanh đều giống của chúng ta, biết đau đớn, chúng ta hãy đặt và địa vị mình mà tự hỏi: Có ai dám cầm dao tự cắt thịt của mình cho người ta ăn không?
Có lúc người ta thật kỳ quặc, giả như biết được ai đó bị bệnh thì cho dù là người thân cũng không dám dùng chén đũa của người bệnh, thậm chí còn sợ ăn đồ thừa, sợ ăn nhầm một chút nước miếng của người ấy. Lại nữa, khi ăn chung với người ta thì thường quan trọng hóa quá đáng “đũa anh muỗng tôi”, mọi người cho rằng như thế là “đúng pháp vệ sinh”. Nếu người thân bị ung nhọt, phần lớn người ta đều không dám kê miệng hút lấy máu mủ của người ấy.
Thế nhưng người ta lại bỏ vào mồm và nhai nuốt từng khối thi thể động vật mà người ta không biết chúng có mắc bệnh hay không, lại còn bỏ vào mồm nuốt nước thịt, nước máu (so với nước miếng thì nghiêm trọng hơn nhiều), rồi bảo ngon quá mà hoàn toàn không đắn đo. Thế phải chăng là phù hợp với “quan niệm vệ sinh” của mình đối với người? Có lẽ động vật sạch sẽ khỏe mạnh hơn người chăng!
Nhiều người ban đêm không dám đến phòng giải phẫu tử thi, cũng không dám một mình đến kho đông lạnh Tang Nghi Quán, bảo là sợ tử thi, mà không biết là trong tủ lạnh của nhà mình nhiều tử thi hơn, lại có cả đầu bị cắt, chân bị cắt.
Cũng có nhiều người ban đêm không dám một mình đến mồ mả bảo là sợ quỉ lộng, không biết rằng bụng mình cũng đã từng là mồ mả, nhà quỉ, lại còn tùy tiện chôn cất mà không xem phong thủy.
Trước đây có thầy Lâm Thế Mẫn là người rất vui vẻ, ông bảo chúng tôi: “Giả như các vị muốn khuyên người ta ăn chay, thì dứt khoát chớ nói: “Hộp cá anh ăn là quan tài của cá”, cũng chớ nói “Miếng dồi anh ăn, vốn là ruột chứa phân heo” (chắc hẳn nếu dùng “ống phân” mà chế biến thành thức ăn ngon thì anh sẽ không ăn thức ăn ấy) để khỏi khiến người ta phản cảm … các đồng học cười vang nhà, cũng là trong tiếng cười mà giác tỉnh vậy …
A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật.
---o0o---
HUNG THỦ BIẾN THÀNH BỒ TÁT
TÔI KHÔNG DÁM LÀM KẺ ÁC NỮA
Tôi có một chị bạn vốn là tín đồ Cơ Đốc giáo. Chị lớn lên ở vùng ven biển, thường thích ăn đồ biển. Thậm chí chị còn lặn xuống biển để bắt cá, cá tôm thì phải đang còn sống chị mới thích ăn, chứ nấu khi chúng đã chết thì chị chê không ngon. Chị là người rất trầm tĩnh và nhiệt tâm, có lần chúng tôi muốn đi phóng sinh, chị phát tâm lái xe cho chúng tôi. Bấy giờ là lúc có vụ án Bạch Hiểu Yến đang gây sự chú ý của mọi người. Con gái của Bạch Băng Băng là Bạch Hiểu Yến bị bắt cóc, tử thi bị ném xuống nước, khi tìm thấy thì người ta phát hiện cô bị chặt một ngón tay. Tôi vốn không có thói quen đọc báo, chị bạn này xem báo thấy ảnh của Bạch Băng Băng đang khóc, chị rất cảm động nên nói với tôi rằng chị rất đồng tình với Bạch Hiểu Yến và Bạch Băng Băng, cho rằng hung thủ thật quá tàn nhẫn và đáng sợ.
Hôm ấy, chúng tôi đến bờ biển để phóng sinh cua. Dọc đường chị kể cho tôi nghe về vụ án này. Đến bờ biển chúng tôi mở dây cho từng con cua đang bị trói chặt và niệm Phật cho chúng đưa chúng về nhà dưới biển. Trong qúa trình bọn cua bị bắt, bị trói, chân cẳng bị gãy rơi xuống đáy giỏ. Trong khi chúng tôi cắt dây trói cho bọn cua, tôi hỏi chị bạn ấy: “chị xem, mấy con cua này bị bắt nhốt ở đây, chân cẳng bị gãy lìa có giống cô Bạch Hiểu Yến đáng thương chăng? Chị đọc báo thấy Bạch Băng Băng khóc lóc thảm thiết vì mất con, chị có biết mẹ của mấy con cua ở dưới biển cũng đang khóc lóc thảm thiết hay không?
Chị bạn nghe thế thì mở to hai mắt, rất xúc động liền nói với tôi: “Tôi không còn dám làm kẻ ác nữa!” từ hôm đó trở đi chị không những giới sát, phóng sinh mà từ đó ăn chay. Chị vốn là người “không ăn thịt thì đầu choáng váng” nhưng từ hôm ấy, hễ ngửi thấy mùi thịt thì chị không nhẫn tâm mà trái lại chị bị choáng váng đầu. Chỉ trong chớp mắt chị hiểu được nỗi khổ của bọn cua, cũng giống như nỗi khổ của Hiểu Yến đáng thương. Chị không còn lặn xuống nước bắt cá nữa! Trái lại chị khuyên các bạn trong hội bơi lặn nên ăn chay, phóng sinh, thả xuống biển cá tôm bị bắt. Trong chớp mắt, đối với mẹ của bọn cá tôm, chị từ kẻ ác biến thành Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn! Hằng năm chị vốn bị xuất huyết đường ruột, phải nằm viện để tiếp máu trị liệu, nhưng từ nay không phải thế nữa, chị đã được khỏe mạnh!
Rất nhiều người đã phí nhiều sức để thảo luận, để cho các động vật nào đó được sống thì đối với người, đối với sinh thái là có hại hay có lợi? Mặt khác, rất ít người dùng tâm kiểm điểm xem mình sống thì đối với loài người, xã hội và sinh thái là có hại hay có lợi? Mỗi bệnh nhân đến y viện đều mong muốn các bác sĩ dù thế nào cũng cứu mình, chữa lành mình; xưa nay không có người nào bảo bác sĩ: “nếu bác sĩ cho rằng tôi có ích cho xã hội thì hãy cứu tôi (để cho tôi được sống).” Lòng người là “ham sống sợ chết”, thì các động vật khác đâu có tâm nào ngoài tâm này? Bác sĩ đã không nên xét xem bệnh nhân là thiện ác, công tội, để rồi quyết định có cứu người ấy hay không, cũng không nên lấy sự thương ghét, vui giận chết hay sống. Cái tâm của người phóng sinh đâu khác gì tâm của bác sĩ? Chỉ là bác sĩ cứu người thì nên rành phương pháp chữa bệnh, vận dụng cả từ bi và trí tuệ; phóng sinh thì cũng rành về “đạo phóng sinh”. Đã không thể giao ước dự định mua, khiến người gây nghiệp kia cố ý đi bắt các động vật mà tăng nguy cơ cho chúng, thì cũng nên chú ý tìm cách cho an toàn, cho chúng đủ dưỡng khí để thở; trước hết phải hiểu rõ sinh vật được phóng sinh và địa điểm phóng sinh, xem hoàn cảnh có phù hợp hay không, làm sao để cho chúng được sống thoải mái. Điều quí là toan tính chu đáo cho chúng được thế thì việc thiện tuy nhỏ mà từ tâm thì rộng lớn, tràn ngập cả thời không.
Chúng tôi có một số kinh nghiệm về phóng sinh. Bọn ếch khi được thả thì quay lại chắp tay.
Bọn cá thì tụ thành bầy, bơi quanh thuyền mà gật đầu; thậm chí khi trì chú Đại bi thì cá trong thùng để trên bờ nhảy vọt lên mà phóng xuống nước. Cư sĩ Tô Thiệu Hưng khi phóng sinh cua thì thấy cua dùng hai càng chắp lại mà cảm ơn. Như thế đủ biết chúng sinh biết “được phóng sinh”, cũng biết mang ơn, biết cảm ơn; các chúng sinh ấy hẳn cũng biết “bị bắt”, biết oán hận. Chúng sinh đều có Phật tính, cho nên đối với chúng sinh mà có một niệm “tâm cứu sống” thì nhân duyên sẽ khác biệt vô cùng.
Một niệm “tâm sát hại”, hay một niệm “tâm cứu sống” thì nhân duyên sẽ khác biệt vô cùng, quả báo cũng khác biệt vô cùng.
Một niệm “tâm sát hại” biến thành “tâm thả cho đi”, “tâm từ bi phóng sinh, kẻ ác biến thành Bồ Tát. Kẻ ác và Bồ Tát chỉ khác nhau một niệm mà thôi”.
Phóng sinh, ngoại trừ việc phóng sinh các động vật nhỏ, còn có cái điều quan trọng là phóng thả cho cái tâm từ bi của chúng ta được khởi sinh. Thế mà có nhiều người lại phản đối việc phóng sinh. Lý do của họ là “phóng thả các động vật kia thì sẽ có người tìm bắt chúng”. Thậm chí có người nói: “việc phóng sinh có ảnh hưởng tới sự cân bằng sinh thái.” Tôi chỉ muốn hỏi: "nếu con của họ bị bắt cóc, có người phát hiện thì có nên đến cứu, giải thoát nó không? Hay là nghĩ rằng “giải thoát nó xong thì bọn xấu cũng bắt nó lại, vậy không nên giải thoát nó, cứ để cho nó bị giết”? hay là nên nghĩ: “số người trên thế giới đã quá nhiều, giải cứu một người bị bắt có thể ảnh hưởng đến quân bình sinh thái”? vạn nhất là người bị bắt cóc, bị giết là người nhà thân yêu của mình, thì sao? Nếu như con của chúng ta cần được cứu, cần được giải thoát thì tại sao các động vật khác không được cứu, không được giải thoát chứ? Chúng cũng biết đau, biết khổ, biết sợ chết vậy!
Trước đây có một người trẻ tuổi bị ung thư máu, một hôm, sau khi bạn anh đến thăm, anh khóc mà sám hối với tôi về một chuyện. Anh nói: “người bạn mập mạp vừa đến, trước đây thường phóng sinh, tôi thường cười, bảo anh ta là khờ dại, khờ dại vì có cá mà không ăn, lại phóng sinh làm gì! Hơn nữa, khi anh phóng sinh thì tôi đi theo sau mà câu, tự nhiên tôi cảm thấy mình rất thông minh, rất khoái chí, đem cá câu được về nhà, bỏ vô thùng, lại câu nữa. Tôi thấy cá lại mắc câu nữa thì cười nhạo mấy con cá ngu ấy! Nay tôi phải trị liệu hóa học, miệng bị lở, thậm chí răng còn bị lung lay, tôi mới biết rằng miệng mồm bị rách, té ra là khổ như thế này, rồi ân hận vì sao tôi lại có lang tâm như thế, khiến cho mấy con cá kia, con nào cũng bị lủng rách mồm miệng hai lần! Bây giờ có đánh chết tôi, tôi cũng không câu cá nữa … anh bạn khờ dại kia lại đến thăm tôi, bây giờ tôi mới biết anh không ngốc, mà chính tôi mới là ngốc …” anh khóc đến rung cả thân, bảo tôi nên lấy những gì mà anh đã trải qua để khuyên răn mọi người, không nên để cho chúng sinh chịu khổ, hầu tránh quả báo cho chính thân mình … anh cũng là người tu hạnh Bồ Tát, tự thân đã chịu khổ đau kịch liệt như thế, nên khuyên chúng ta …
---o0o---
CỰC KHỔ TRỞ THÀNH CỰC LẠC
CHƯƠNG ĐẶC BIỆT VỀ BỒ TÁT HOAN HỶ
Chúng ta từng có một chuyên đề (băng từ và sách) giới thiệu người thật, việc thật về Bồ Tát hoan hỷ. Có người cho rằng: “Bồ Tát hoan hỷ đại khái là do có chồng thiện lành, con hiếu thảo, gia đình tốt đẹp, kinh tế như ý, cho nên mới hàng ngày hoan hỷ. Nếu như người ấy gặp nghịch cảnh thì có lẽ không hoan hỷ được!” thực ra thì ngược lại, sự hoan hỷ của chị có được là do từ việc chân thành niệm Phật trong lúc đau khổ nhất, cho nên mới thật là quý báu. Qúa trình của cuộc đời chị chính là điển hình của sự nguy khốn trở thành hoa sen báu.
Mười mấy năm trước tôi quen biết chị, gặp chị bên giường bệnh của y viện. Bấy giờ chị mang vẻ mặt buồn bã thẫn thờ, mang đứa con gái 15 tuổi bị ung thư vào thời kỳ cuối, từ làng quê ở Nam bộ, bôn ba đến Đài Trung để xin chữa trị tại y viện. Chị hoàn toàn không có người thân thích, ngơ ngác không biết phải làm sao, lại thêm ói mửa vì say xe, mặt mày tái nhợt, tiều tụy. Chị nói với tôi: “Tôi dùng xe đạp chở đứa con bị bệnh nặng, đi từ đường ruộng trong làng, không biết phải đi tới đâu để xin chữa bệnh, ngơ ngác như mất hồn …” nói xong đôi mắt chị đầy lệ của người từ mẫu trước số phận của đứa con.
Khi con chị mới nhập viện, có lần chị vô nhà tắm thì đúng lúc bà cụ nằm ở giường bên kia sắp té xuống đất mà không có ai đỡ. Đứa con gái bà thấy thế, nhưng chính em đang được truyền dịch, không cử động được nên vội kêu lên: “Má …”. Chị ở trong nhà tắm nghe được ngỡ con mình có chuyện gì nguy biến, liền vội chạy ra, nhưng vì chị quá sợ hãi nên đôi chân chị nhũn ra, chị mới ra đến cửa phòng tắm liền khuỵu xuống, hai đầu gối bị vỡ. Đó là tâm cảnh của chị khi chưa học Phật.
Mũi, họng con gái chị bị sưng lại nữa, theo sơ chẩn thì bệnh đã nhập tới tủy sống và não bộ, hạch cổ cũng sưng to. Đã thế gia cảnh chị lại rất khốn quẫn. Nhà vốn trồng dưa hấu, nhưng không hiểu sao năm ấy, cả đám ruộng chẳng có lấy một trái dưa nào; lạ hơn nữa là gà vịt nuôi trong nhà cứ lần hồi chết sạch. Để trả tiền thuốc men chữa trị, ắt chị phải bán hết ruộng vườn, nếu không thì phải vay nợ, kinh tế thật khốn đốn … chị trải qua cảnh khổ này, mà nếu người khác thì đã oán trời trách người, nhưng chị không hề có lời than vãn nào, đi đâu chị cũng cảm ơn, giữ lòng thiện lành. Bấy giờ tôi phát hiện rằng đối với đứa con bệnh khổ này, có lúc chị cũng rơm rớm nước mắt, nhưng sau đó chị liền tỏ ra vui vẻ, kiên định và từ ái mà an ủi con mình.
Bấy giờ bác sĩ chủ trị quyết định đặc biệt trị liệu hóa học, truyền dịch cho em liên tục bảy ngày, bảy đêm. Rất nhiều người lớn trải qua sự trị liệu này đều phải ói mửa, khổ sở khôn xiết, huống chi là một em bé! Em bé nhỏ tuổi như thế mà phải xa nhà, xa quê đến y viện khác lạ, lại thấy giường bệnh bên cạnh có nhiều người bị bệnh nặng và lần thứ nhất phải truyền dịch quả là đáng sợ. Em phải mở mắt lớn chịu đựng bảy ngày, bảy đêm không dám nhắm mắt ngủ.
Bấy giờ, tôi kể chuyện cho mẹ con chị nghe, khuyên họ yên tâm mà niệm Phật. Có thể do căn lành đời trước sâu dày, mẹ con chị nghe được liền rất tin tưởng không nghi ngờ, và bắt đầu thành tâm niệm Phật. Người mẹ (sau này là Bồ Tát hoan hỷ) trong lúc đang khổ sở nhất, đã đem toàn tâm toàn lực chuyên chú vào câu Thánh hiệu A Di Đà Phật, một lòng giúp con niệm Phật. Do thương yêu con vô cùng, chị quên mình, quên thân, quên mệt mà ngủ, không nghỉ để niệm Phật bên giường bệnh, niệm suốt bảy ngày bảy đêm, tinh tấn và dũng mãnh còn hơn chúng tôi niệm Phật ở chùa. Về sau chị nói với tôi: “bấy giờ khổ cực gì tôi cũng đều quên hết, cũng không cảm thấy thân mình ở đâu, chỉ còn lại một câu “A Di Đà Phật”. Chị nhờ vào bốn chữ ấy mà thoát khỏi “nước Cực Khổ”!
Chồng chị là công nhân xi măng, hằng ngày khi hết giờ làm việc thì đáp xe lửa từ Nam bộ, rồi đổi xe đến Đài Trung săn sóc đứa con gái đang nằm bệnh viện. Mỗi tối ông ngồi ngủ trên một cái ghế dài. Đến khi trời còn chưa sáng, ông rời y viện để chuẩn bị đáp xe đi làm; ngày nào cũng như vậy. Ông cũng đã từng vì mệt quá mà ngủ quên trên xe, khi tỉnh ra thì mới biết là qua khỏi trạm, đành phải quay về … lúc ấy tôi là bác sĩ thường trực, nữa đêm đi khám bệnh nhân. Mỗi khi đi qua phòng bệnh bé gái ấy, tôi đều vô cùng cảm động khi thấy hai vợ chồng thương yêu, săn sóc con mình trong gian khổ. Bao nhiêu lần nhìn thấy người cha mệt mỏi, ngày nào, đêm cũng đến, sáng thì đi, tôi thành tâm kính lễ hình bóng của ông. Nét mặt của ông trong gian khổ mà vẫn thuần hậu, thật thà, chất phác, quả thật đã thấy tôi vừa tôn kính, vừa chua xót.
Bồ Tát hoan hỷ kể lại: năm ấy khi chị đưa con xuất viện về nhà, gặp lúc gió bão. Về đến nhà chị thấy nhà đã bị tróc mái, nhiều chỗ bị gió cuốn bay mất, may nhờ các thân hữu giúp đỡ, đem gạch đá dằn cột lại, mới giữ được mái nhà, nhưng vẫn không tránh khỏi mưa dột, nước đọng … mấy đứa con quá sợ mưa to gió lớn, phải ngồi dưới đất, tình cảnh thật đáng thương.
Đứa con vừa mới xuất viện về nhà chưa yên, chị còn phải lo đêm nay không biết cả nhà phải trú thân ở chỗ nào, thật là “nhà dột mà gặp mưa suốt đêm!” Điều đáng quý là chị không có nước mắt như mưa rơi, lòng tin cũng không bị gió cuốn! Mưa suốt đêm chị niệm Phật như mưa tuôn, niệm như hạt lớn, hạt nhỏ rơi xuống mâm ngọc; gió mạnh thổi, chị niệm Phật còn mạnh hơn, an định hơn gió, lấy tâm niệm như hư không, không sợ gió.
Chị không phải ở trong thuận cảnh mà niệm Phật, chị ở trong khốn cảnh “nhà hư gió thổi, mưa dột, con bệnh, gà vịt đều chết hết, ruộng vườn không thu hoặch được, con cái đều sợ hãi, không chỗ an thân; khổ đến cực điểm, dũng mãnh nêu Phật hiệu, giao tất cả cho Đức Phật A Di Đà. Vào lúc sức người hoàn toàn không làm gì được, chị toàn tâm tin cậy Đức Phật A Di Đà
mà niệm Phật hết sức chân thành, hết sức khẩn thiết!”
Như trên đã nói rõ ràng công đức niệm Phật thì không thể nghĩ bàn. Chị đã phá bỏ các khổ đau mà thoát nhiên bừng tỏ, liễu mờ hoa sáng một làng đây! Chương “Đại Thế chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông” có ghi: “Nếu lòng chúng sinh niệm Phật, nhớ Phật, tương lai trước mắt nhất định thấy Phật, đến Phật không xa, không nhờ phương tiện, tự được tâm khai, như người nhiễm hương thân có hương khí, như thế gọi là hương quang trang nghiêm.” Tôi nhận thấy Bồ Tát Hoan Hỷ đã được tâm khai, trong chỗ khổ cùng cực, đã dụng tâm niệm Phật, lấy tâm chuyển cảnh, tâm khai vận khai, cuộc sống vui vẻ. Chị nói: “Đức Phật A Di Đà đã giúp tôi khai phát trí tuệ, mở rộng cửa tâm, chuyển đổi ưu sầu, phiền não đang có thành sự hoan hỷ và sức mạnh!” Một phụ nữ nông dân không biết chữ mà nói ra lời như thế, có được công phu thực tiễn như thế, quả thực khiến tôi thâm tâm tôn kính, tự than mình không bằng được.
Mười mấy năm trước, khi ân sư Sám Công (pháp sư thượng Sám Hạ Vân) là chủ nhiệm Học hội Sinh Viên Trai Giới, tôi mời mẹ con chị lên núi tùy hỷ tham gia. Mẹ con chị chính thức qui y cửa Phật; sau khi được sư phụ khai thị, chị sám hối rất khẩn thiết về việc trước đây do không biết, chị đã giết rất nhiều gà vịt. Chị ứa nước mắt nói: khi chị trông thấy con gái chị bệnh nặng, sau khi trị liệu phóng xạ, da cổ em bầm đen, rách lột, khi nuốt rất khó khăn, chị mới hiểu rõ con dao của mình ngày trước đã làm đau đớn cổ gà.
Sau đó, chị vẫn khư khư nắm lấy câu A Di Đà Phật mà thể hiện sự vô lượng quang minh của câu A Di Đà Phật ấy. Làm ruộng chị cũng niệm, nhổ cỏ chị cũng niệm, dọn dẹp nhà cửa chị cũng niệm, nấu cơm cũng niệm, phơi lúa cũng niệm, ho hen cũng niệm, buồn cũng niệm, khổ cũng niệm, ngày cũng niệm, đêm cũng niệm. Dần dần ánh sáng phật, âm thanh Phật tràn đầy lòng chị, vẻ tươi cười, hoan hỷ tràn đầy mặt chị. Cảnh giới thuận, nghịch chị cũng hoan hỷ niệm Phật, cười hà hà.
Vào năm con gái của chị được 17 tuổi, em đoán biết thời của mình sắp đến mọi thứ thật tốt để vãng sanh Tây Phương. Sau khi xuất viện, em lo làm lụng để dành tiền. Trước khi vãng sanh, em còn lo sắm trước tặng vật cho từng người trong gia đình. Em mua một giường mới cho cha mẹ, đối với người anh thích uống nước mát, em gửi cho một tủ lạnh, em còn cho các chị của em một tủ sách. Vào buổi chiều hôm em vãng sanh, em còn hăng hái giúp người cô cắt lúa; tối đến em bảo với người nhà rằng em muốn gội đầu thay quần áo. Hoan hỷ Bồ Tát cảm thấy em có vẻ khác lạ, liền gọi chồng cùng chị hộ niệm cho em, em vẫn giống như đang ngủ mà mỉm cười, an nhiên vãng sinh. Tám giờ sau, thân thể em vẫn mềm mại, sắc mặt như người đang sống. Sau đó có chư Tăng Ni và Phật tử tới hộ niệm cho em. Người anh cả của em vốn thương tiếc em gái mình thông minh, lanh lợi như thế mà vãng sanh sớm, đau đớn như muốn đấm ngực dậm chân mà than khóc; nhưng Bồ Tát hoan hỷ vẫn thường rất kiên cường, vẫn vuốt mặt, lau mắt cho con gái mà khuyên: “An định niệm Phật, hoan hỷ giúp đỡ chị em thì được sinh vào thế giới an lạc của Đức Phật.”
Sau đó, đứa con gái út của Bồ Tát Hoan Hỷ nằm mơ thấy chị mình theo Bồ Tát Quán Thế Âm mà bay đi. Bấy giờ người con trai trưởng của Bồ Tát Hoan Hỷ sắp thi vào đại học, nhưng bận việc nhà không có thời giờ chuẩn bị, nằm mộng thấy Bồ Tát dẫn em đến Đại học Phùng Giáp mà nói: “Đây chính là trường của con”. Sau đó trường treo bảng kết quả, quả nhiên em được trúng tuyển Đại học Phùng Giáp! Trong làng có người khác cũng nằm mộng thấy cảm ứng của việc em vãng sanh Tây Phương.
Qua những điềm ứng lành của việc con gái chị vãng sinh, Bồ Tát hoan hỷ lại càng kiên định niệm Phật, không những niệm ra cái ánh sáng từ bi, mà còn niệm ra ánh sáng hoan hỷ, ánh sáng, trí tuệ, ánh sáng giải thoát, không những chị giải thoát được những sầu khổ của chính mình, chị còn biến sự thiếu sót của sinh mạng thành một đóa sen quí. Còn hơn nữa, chị đem thân tâm mình mà giữ gìn, thương yêu giúp đỡ toàn thế giới, phát tâm biến xã hội hỗn loạn thành Hải hội liên trì.
Chị hưởng ứng lời kêu gọi của Pháp sư Chứng Nghiêm (hội Từ tế công đức), không những chị hoan hỷ đem đất của mình làm nơi thu góp các vật liệu, mà cái khó đáng quý nữa là hầu như mỗi đêm chị đều làm công tác nghĩa vụ tại chỗ, thu góp đến mười một, mười hai giờ khuya. Nếu chồng chị không bảo chị ngừng thì chị quên mất thời gian, bỏ ngủ quên ăn mà làm mãi. Ngày qua ngày, năm qua năm, chị vẫn tươi vui mà tiếp tục công việc! Chị vừa niệm Phật, vừa phân loại phế liệu! Nhặt một cái lon, chị niệm một tiếng A Di Đà Phật, xem những cái lon hư bỏ, chất cao như núi ấy là những đóa hoa sen, xem chỗ thu góp phế liệu ấy là Hải hội Liên Trì, cùng với tâm của Phật và Bồ Tát gặp gỡ nhau trong mình, tự mình đạt được niềm vui trong âm thanh của Phật. Đây quả là đạo trường hiếm có trên đời, là khóa lễ buổi tối tốt đẹp hiếm có! Chẳng những chị vì muốn xây dựng y viện cho hội từ tế, mà biến đồ phế liệu thành vàng ròng để cống hiến vô điều kiện, chị còn nhằm cải biến tương lai của thế giới.
Chị cười mà nói: “trong khi tôi xử lý đống phế liệu như núi ấy, tôi cũng xử lý những phế liệu trong tâm tôi!” Thì ra hàng ngày chị đều công phu dụng tâm! Không những chị thu góp các vật phế liệu (phế liệu biến thành vàng ròng), chị cũng thu hồi phế liệu tâm linh (phiền não biến thành Bồ Đề). Hàng ngày chị mượn công việc mà luyện tâm, chị luyện được tín tâm và định lực, nghị lực kim cương tại chỗ thu góp phế liệu. Chị cũng từ trong chỗ bùn lầy của: sinh, già, bệnh, chết, yêu thương mà phải xa lìa … của cuộc đời mà tạo ra những đóa sen vàng siêu thoát, thâu góp được sự hoan hỷ và trí tuệ vô hạn.
Chị vốn là một phụ nữ nông dân không biết chữ, cũng chưa hề đọc kinh Phật, một hôm chị nói với tôi rằng khi niệm Phật, chị nghe âm nhạc rất kỳ diệu từ trong không trung truyền đến.
Chị hỏi tôi: “Vậy là sao?” chị bảo nghe như thế thì càng thích niệm phật, càng niệm càng hoan hỷ. Tôi nghĩ đến sự miêu tả trong kinh, nhạc trời vang lừng không trung; trăm ngàn thứ nhạc được tấu lên cùng lúc, tự nhiên sinh khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Tôi cảm thấy rất hổ thẹn, có khi nghe tiếng niệm Phật êm tai mà vẫn còn nghĩ bậy, hiềm đông, hiềm tây, hiềm cao, hiềm thấp, còn chị thì lượm lon sắt trong phế liệu mà niệm Phật, dùng âm thanh lon chạm nhau mà thành tiếng chuông, tiếng mõ, lại có thể đem cái tâm thanh tịnh hoan hỷ mà nghe, càng thích thú niệm Phật tưởng như có nhạc trời vang không trung …
http://www.phapthihoi.org/kinh/Ebooks/Than-Benh/Ung-Thu/
http://www.quangduc.com
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Lời giới thiệu
A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
---o0o---
Lời giới thiệu
Bác sĩ Quách Huệ Trân là một bác sĩ chuyên khoa ung thư, bà rất nhiệt
thành và tận tâm trong công việc. Lòng từ bi và thuần thành của bà không
những đã đem lại sự khích lệ to lớn cho bệnh nhân mà còn cảnh giác cho
những người khỏe mạnh, làm cho nhiều người phát tâm học Phật và niệm
Phật. Sau đây là bài nói chuyện với các bạn học ở Huệ Trí Phật Học Xã của
Đại học Trung Nguyên, nội dung rất phong phú cảm động. Tuy là đang bị
bệnh ung thư trầm trọng, bác sĩ Trân vẫn ráng chịu đau và dùng Tín, Nguyện
niệm Phật vô cùng kiên cố của mình để lên giảng đài thuyết pháp. Khi tuyên
bố bị bệnh bà nói: “Bây giờ vừa đúng lúc để tôi nhất tâm niệm Phật và
chuẩn bị vãng sinh”. (Sau lần nói chuyện này bác sĩ Trân từ chức và lên núi
xuất gia). Trong cuộc sống trầm luân khổ ải này, chúng ta không chịu buông xả và
tham luyến tất cả những gì “của mình”; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt
cuộc đời, đến phút cuối cùng nhìn lại chỉ là một con số không to lớn rồi âu
sầu than thở. Thưa quý vị, quý vị muốn cuộc đời của mình như thế nào?
Làm sao để vượt qua khỏi sự trói buộc của luân hồi sinh tử? Chúng tôi hy
vọng bài này sẽ đem nhiều tư duy và chất liệu có thể giúp quý vị tìm ra
phương hướng (về quê hương) của mình!
---o0o---
Lắng nghe tiếng hát sông Hằng
Kính thưa quý thầy cô, kính thưa quý bạn!
Khi lên giảng đài này, tôi cảm thấy rất bối rối và xấu hổ khi nhìn thấy
phía dưới phần đông đều là những người trong hàng tiền bối, bậc thầy cô của
mình. Trước hết xin giải thích tại sao một người mạt học dở ẹc như tôi cũng
lên giảng đài nói chuyện với quý vị? Đây là do ảnh hưởng của một bệnh
nhân cho nên tôi thường kể lại câu chuyện của bệnh nhân này và nói lên lý
do người này đã giúp cho tôi hiểu được nhiều vấn đề. Chúng ta thường phải
trả một giá rất đắt mới có thể hiểu được một câu nói trong Kinh, nhiều khi
chỉ một câu Kinh thật đơn giản. Cô này mới có ba mươi mấy tuổi thì bị ung
thư ruột già. Khi cô đến bệnh viện cứ khóc hoài không thôi. Lúc đó tôi mới
làm bác sĩ tập sự thuộc khoa ung thư, xem bệnh lý mới biết cô đã mổ qua hai
lần nhưng ung thư vẫn tái phát trở lại, đúng là vô phương cứu chữa. Cô khóc
hoài nên nói không ra tiếng nữa, thật là không biết làm sao, muốn tìm bác sĩ
để hỏi rõ bệnh trạng cũng khó. Hôm đó tôi hết ca trực liền đến phòng bệnh
để thăm cô và cũng nhân tiện giới thiệu sơ lược một ít Phật pháp cho cô biết.
Không ngờ cô nghe xong, xúc động, mở mắt thật to, nói:“ Tại sao bấy lâu
nay không có ai nói cho tôi biết về những chuyện này? Tại sao tôi đã sống
ba mươi mấy năm đầy phiền não và đến lúc sắp lìa đời tôi mới được nghe
Phật pháp?”. Tuy chỉ có mấy câu nói thật ngắn nhưng hình như đã xoi thủng
tim tôi. Sau đó cô bật khóc và làm tôi cũng khóc theo, khóc một cách thật
bức rức. Lúc bấy giờ Tuyết Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam) còn tại
thế và giảng kinh vào ngày thứ tư mỗi tuần. Mỗi ngày khi làm xong việc tôi
thường ở lại bệnh viện để nói chuyện và an ủi bệnh nhân, ngoại trừ ngày thứ
tư vì phải đi nghe Tuyết Công giảng kinh. Cô thấy mỗi thứ tư tôi đều rất vui chuẩn bị đi nghe giảng nên nói: “Tôi cũng hy vọng có thể đi theo (nghe
giảng) nhưng rất tiếc không có cơ hội”. Tôi đáp: “Trong tương lai cô cũng
có dịp đi được”. Cuối cùng cô cũng được đi nghe kinh. Lúc đến giảng đường
Hoa Nghiêm ở thư viện Từ Quang, tôi thấy cô ngồi ở vài hàng ghế phía
trước. Nhưng đến nửa buổi giảng cô vừa ôm bụng vừa khóc và đi về, bệnh
tình của cô biến chứng nặng nên cô đau quá không thể tiếp tục nghe kinh.
Lúc đó tôi chợt hiểu được một câu trong bài “khai kinh kệ”:
“Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa”.
Vì ảnh hưởng của cô nên từ hôm đó trở đi tôi không ngại sự hiểu biết
còn thô thiển của mình, luôn luôn cố gắng, tích cực hơn, và muốn mau mau
giới thiệu cho mọi người những điều trọng yếu trong Phật pháp mà mình
hiểu được; nói cho đại chúng biết sự hạnh phúc mà Phật pháp có thể đem lại
cho mọi người. Hạnh phúc này tiền tài mua không được, kẻ ăn trộm cũng
không thể lấy mất. Trong bất cứ trường hợp và cảnh giới nào, không kể
người ta dùng quan niệm “phước” hay “họa” trong thế gian để đo lường
những cảm nhận về hạnh phúc đó, trong nội tâm của chúng ta đều luôn đầy
đủ sự an tịnh, hạnh phúc, và sáng tươi.
Tôi hỏi các vị đạo hữu ở Phật học xã nghiên cứu đề mục hay Kinh điển
gì trong khóa học này, bác Hứa trả lời là đang thảo luận “Kinh Bát Đại Nhân
Giác”. Chắc ai cũng đã xem qua Kinh này và có thể học thuộc lòng rồi. Điều
giác ngộ thứ nhất:
“Thế gian vô thường, quốc độ mong manh, tứ đại khổ không, năm ấm vô
ngã, sinh diệt đổi dời, hư ngụy không chủ…”
Tuy là biết thuộc lòng nhưng phần đông chúng ta không tin như vậy.
Tuy Phật nói thế gian vô thường, nhưng bạn lại cảm thấy thế gian rất vui
sướng! Mỗi sáng thức dậy ăn bánh uống cà phê… ngước mắt nhìn lên, ôi
chao trời trong mây trắng, đời sao mà sung sướng thế! Nếu như vậy thì cũng
thường thôi, nhưng những lúc như vậy trôi qua rất nhanh. Giả sử một lúc
nào đó, chuyện khó khăn thử thách thình lình xảy ra, khi đó bạn sẽ không
thấy trời trong mây trắng, không thấy trăm hoa đua nở, trong lòng của bạn sẽ không còn cảm thấy vui sướng nữa. Ở đây tôi xin kể một vài câu chuyện thật
mà tôi đã gặp khi làm việc ở bệnh viện. Trong những câu chuyện này, mỗi
người đều kể cho tôi một đạo lý mà đức Phật đã nói trong Kinh điển, họ ấn
chứng (chứng minh) những điều Phật dạy, họ làm cho tôi hết lòng tin tưởng
lời Phật nói và tin đức Phật là “người nói lời chân thật, không bao giờ nói
dối”.
Có nhiều bệnh nhân hỏi tôi: “Bác sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?”. Tôi trả
lời: “Ba mươi hai tuổi”. Lại hỏi: “Bác sĩ lập gia đình chưa? Tôi làm mai
cho”. Tôi liền hỏi họ: “Cuộc sống của bà rất sung sướng phải không?”.
Thật kỳ lạ không có người nào đáp là “phải” hết! Cho đến một hôm tôi
gặp một bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung, mỗi lần đến khám bệnh đều trang
điểm thật là đẹp, thoa môi son thật đỏ, móng tay chân đều có sơn màu rất
đẹp. Khám bệnh xong bà muốn làm mai cho tôi. Bà nói: “Cháu tôi làm việc
ở bệnh viện Quốc Thái, người rất lịch sự, đàng hoàng”. Tôi hỏi bà: “Bà thật
là rất sung sướng phải không?”. Bà nói: “Phải, chồng tôi đối xử rất tốt, con
cái rất có hiếu, nhà cửa rất sung túc”.
Như vậy thật là sung sướng, xin chúc mừng cho bà. Bà là người duy
nhất nói mình có hạnh phúc, thật là mừng giùm cho bà. Tại vì khi bệnh nhân
bước chân vào bệnh viện thì thường khóc và than: “Bác sĩ không biết đâu,
tôi phải mượn tiền của người ta để lại đây khám bệnh, con cái không vui
chút nào”, hoặc là: “Ôi chao, lúc về nhà không ai đếm xỉa tới, mang bệnh lâu
quá rồi người ta không chịu chăm sóc nữa”, cũng không ai thăm hỏi: “Thưa
ba ăn cơm chưa?”, hoặc là: “Từ lúc tôi mắc bệnh này, chồng tôi bỏ đi luôn”.
Phần lớn là thuộc vào loại này, tình tiết tuy không giống nhau nhưng nội
dung hoàn toàn tương tợ; chỉ có bà này thật may mắn có được hạnh phúc.
Nhưng qua một thời gian ngắn sau đó, y tá coi báo ngạc nhiên nói bà đó đã
tự tử. Cô y tá nói: “Trong báo đăng tin bà được vớt lên từ bờ sông ở… Bà bỏ
nhà ra đi hết năm ngày, sau đó thì tự tử”.
Tôi tự hỏi: “Bà đó rất sung sướng, rất hạnh phúc, sao lại tự tử?”.
Thưa quý vị, chúng ta thử nghĩ xem, tại sao lúc đó niềm thương yêu của
chồng không thay đổi được tâm niệm muốn tự tử của bà? Tại sao sự hiếu
thảo của con cái cũng không kéo bà lại được? Tại sao tiền bạc không mua
được sự an ổn của tinh thần? Chồng thương yêu cho mấy và con cái hiếu
thảo đến đâu cũng không thay thế được sự đau đớn trên thân thể của bà. Một
người đàn bà xinh đẹp như thế tại sao lại phải trốn ra khỏi nhà đi lang thang rồi cuối cùng phải nhảy vào dòng nước đen tối? Có lẽ vì trước đó bà cảm
thấy cuộc đời quá xinh đẹp, chưa nếm qua mùi vị của sự khổ, bà chưa biết
qua “thế gian vô thường, quốc độ mong manh”, cho nên trong tâm không có
chuẩn bị tâm lý, gặp chuyện thử thách trong đời chịu không nổi, không có
“chích ngừa” để phòng bị, không có khả năng đề kháng, chịu đựng khổ
không được nên mới tự tử. Tôi rất hối hận trước đó không giới thiệu Phật
pháp để cho bà thay đổi quan niệm và hướng về quang minh, hướng về Di
Đà. Những sự khổ này có lẽ mọi người sẽ nghĩ: “Đó chỉ là thiểu số, người tự
tử rất ít”. Thật ra người tự tử rất nhiều, tôi làm việc trong khoa ung thư, nếu
có ngày nào không gặp bệnh nhân muốn tự tử thì ngày đó phải được kể là rất
tốt, rất hiếm! Thật đó, mỗi ngày tôi thường nghe câu: “Tôi nên chết sớm thì
tốt hơn”. Khi người ta cầu mong khỏe mạnh và sự quan tâm chăm sóc mà
không được toại nguyện thì thường thường sẽ tự sát. Ban đêm trong bệnh
viện, tôi thường phải đi giải quyết những chuyện tự tử này. Không phải là họ
cố ý không muốn sống nhưng bị bệnh đau khổ quá nên không biết cách nào
để chịu đựng nữa.
Ngoài ra còn có người cầu sống không được, cầu chết cũng không xong,
nằm trên gường bệnh rên siết. Có một người bệnh nguyên phần phía dưới
bụng bị ung thư lở loét ra hết, bác sĩ phải mổ và làm một hậu môn tạm trên
bụng, nhưng không cách nào trị lành được. Chất bài tiết trong ruột rỉ thẳng
ra. Phòng của người này ở lầu ba, từ lầu hai đã nghe mùi hôi bay đến. Không
phải người này có gì đặc biệt nhưng bất cứ ai trong chúng ta khi gặp phải
trường hợp này đều như vậy. Khi con bà săn sóc cho mẹ, bất đắc dĩ phải
dùng một miếng vải để bịt miệng và mũi lại. Mỗi ngày bà đều muốn tự tử
nhưng chưa gặp cơ hội. Một hôm, nhân dịp con bà đi ra chợ mua đồ ăn sáng,
bà ráng hết sức mình ngồi dậy, leo qua cửa sổ từ lầu ba của bệnh viện nhảy
xuống. Vừa đúng lúc đó người con về đến, nhìn thấy mau mau chạy tới để
đỡ bà. Kết cuộc bà nhảy xuống không chết mà còn bị thương. Vốn là đã quá
đau khổ bây giờ còn bị thương thêm, mỗi ngày đau đớn không thể nào diễn
tả được, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong; mạng chưa hết tự
tử cũng không chết. Cho dù tự tử chết đi rồi, vĩnh viễn trầm luân trong lục
đạo luân hồi, sự khổ não vô tận lại tái diễn trở lại!
Nhà thơ Rabindranath Tagore có nói:
“Sinh thời lệ tợ hạ hoa, tử thời mỹ như thu nguyệt” (lúc sống đẹp như
hoa mùa hạ, lúc chết đẹp như trăng mùa thu). Bạn muốn sống đẹp như hoa mùa hạ có lẽ cũng không khó lắm; nhưng
muốn chết đẹp như trăng mùa thu thì phải ra sức chuẩn bị công phu mới
được! Lắm lúc có nhiều người phê bình những người học theo Phật và nói:
“Ôi chao, sao quí vị ưa nói chuyện “chết”, ưa nói chuyện “lâm chung” quá,
hình như đã xem thường cả cuộc đời. Trong cuộc sống có rất nhiều chuyện
phải làm, đặc biệt là những người tu theo Tịnh độ như quí vị, ngày ngày cứ
niệm “A DI ĐÀ PHẬT, chuẩn bị để vãng sinh Tây phương, thật là quá tiêu
cực”. Thật ra cuộc sống chúng ta giống như quá trình vẽ một con rồng, mỗi
nét vẽ, mỗi màu sắc đều rất quan trọng. Lúc lâm chung cũng như nét vẽ cuối
cùng vào mắt rồng. Lúc sinh lúc tử đều rất quan trọng, không có nét vẽ nào
có thể cẩu thả được. Niệm Phật là tâm niệm tối thiện nhất, tích cực làm cho
lúc sống và lúc chết đều là chí thiện chí mỹ (tốt đẹp nhất).
Nói chuyện từ nãy đến giờ nhưng chưa nói vào đề tài chính hôm nay:
“Lắng nghe bài ca bên sông Hằng”. Mấy năm trước tôi có dịp đi qua Ấn Độ
và ngồi thuyền đi dọc theo bờ sông Hằng. Lúc đó trong lòng tôi rất an tịnh;
âm thanh trên sông cứ cuồn cuộn nổi dậy làm tôi có cảm giác như là đang đi
trong dòng nước “sinh tử”. Khi lắng tai nghe những âm thanh này, tôi nghe
thấy trong đó có âm thanh của trẻ con, của người lớn, có tiếng khóc, có tiếng
cười vui… Tất cả những âm thanh này trộn lẫn vào nhau biến thành một câu
vạn đức hồng danh “A Di Đà Phật”. Bạn hãy nhìn hình ảnh của sông Hằng,
của từng làn sóng nhấp nhô, hình bóng của chính bạn, của người thân, bạn
bè, mặt trời lặn, con chim và làn mây đang bay lơ lửng ở cuối chân trời, tất
cả những hình bóng này hòa hợp lẫn nhau làm thành con sông “sinh mạng”.
Chúng ta hãy cùng nhau xem những hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông
Hằng này, từ bài ca “luân hồi sinh tử của sông Hằng” cho đến bài ca “đức
Phật giác ngộ”. Đối với chúng ta, sông Hằng là một con sông rất quen thuộc,
vì trong Kinh đức Phật thường dùng danh từ “cát sông Hằng” để hình dung ý
nghĩa “vô lượng vô biên”. Trong con sông Hằng sinh mạng này, chúng ta
đều là những người bơi lội qua sông...
Con thuyền cứ tiếp tục tiến tới và đi ngang một chỗ dùng để hỏa táng ở
bờ sông. Phong tục mai táng người chết của Ấn Độ rất đơn giản, họ không
cần quan tài, chỉ dùng vải bao bọc thi thể lại rồi đem thiêu ở bờ sông, cho
đến bà Gandhi cũng không ngoại lệ (bà được dùng lá Quốc kỳ để bao).
Người giàu thì có đủ củi lửa nên có thể thiêu thành tro rồi đem bỏ xuống
sông. Người nghèo thì thiêu qua loa một chút rồi đem thi thể bỏ xuống sông.
Lúc tôi ngồi thuyền đi ngang một chỗ thiêu người chết này, dưới đống tro
tàn còn thấy được một cái chân đen kịt thiêu chưa thành tro. Chúng ta thử
hỏi cái chân thiêu nữa chừng này là của ai? Không lâu trước đó nó cũng có làn da rất mềm mại và được ôm ấp trong lòng mẹ. Có lúc nào đó cái chân
này đang rảo bước trên bải cỏ xanh mướt, cũng có thể là có rất nhiều thanh
niên muốn thân cận nó. Rồi theo thời gian trôi qua nó bắt đầu chai cứng và
khô khốc khi người chủ của nó già đi. Rốt cuộc rồi nó biến thành một cái
chân thiêu nữa chừng, đen kịt, nằm dưới đống tro tàn. Sau một thời gian nữa
thì nó sẽ biến thành một đống cát trong sông Hằng. Thêm một lần nữa chúng
ta hãy nhìn kỹ hình ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng. Những hình ảnh
này của người Ấn Độ mà cũng có thể là của chúng ta!
Có một ông thường ngày rất thích ăn trầu, hút thuốc, uống rượu rồi sau
này bị ung thư trong miệng. Khi đến bệnh viện khám thì chỗ bị ung thư đã
lan rộng ra, lở loét đến quai hàm và gò má lủng lỗ. Chỗ lở cứ chảy nước
vàng ra hoài, khi ông ăn uống thì thức ăn đều lọt ra ngoài. Cho dù ông uống
rượu ngon trước đó ông thích nhất cũng rất đau, khi ăn trầu vào cũng đau
như “nuốt viên sắt nóng”. Thân thể cường tráng của ông dần dần tiều tụy vì
ăn uống không được; chúng tôi phải đút một ống dẫn đồ ăn từ mũi vô đến
bao tử. Vợ ông rất hối hận và nói lúc trước hai vợ chồng họ cứ cãi lộn hoài.
Bà kể lại: “Được rồi, ông chửi tôi thì ông sẽ bị ung thư miệng. Tôi trù cho
ông bị ung thư miệng. Ai ngờ rằng ổng bị ung thư miệng thật, người khổ
nhất lại là tôi; ngoài việc phải chăm sóc vết thương cho ổng, đi khắp nơi
kiếm bác sĩ trị cho ổng, tôi còn phải lo kiếm tiền để trang trải… thật là khổ
không cách nào diễn tả được”. Nếu bà biết trước được cảnh khổ bây giờ thì
sẽ trân trọng những lúc còn khỏe mạnh và còn nói: “Lúc ổng chửi tôi, tôi thà
đi lạy Phật một trăm lạy chúc phúc cho ổng, mời ổng ăn đồ ngon, tôi cũng
không dùng lời ác độc để trù ổng”.
Hai người cùng nhau niệm Phật trong ánh sáng từ bi trí tuệ của đức Phật
thì không tốt hơn là cãi lộn hay sao? Rất tiếc là chúng ta thường chọn lấy
những phương thức đối xử để gây đau khổ lẫn nhau; lúc chưa bệnh thì mặc
sức hành hạ thân thể này, đến lúc mang bệnh rồi thì lại than trời than đất. Hy
vọng là chúng ta trong những nhân duyên tương ngộ rất ngắn ngủi này, hãy
dùng tâm từ bi chân thành đối đãi với nhau. Sự giận tức oán hờn chỉ giúp tạo
ra con đường đầy chông gai đau khổ ở phía trước. Ông rất thích đi câu cá;
lúc tay mang trầu, rượu và cần câu đi ra bờ sông thì ông cảm thấy rất thích
thú. Nhưng đến khi bị ung thư loét hết miệng thì mới giật mình sực tỉnh, mới
biết được cảm giác của con cá khi bị lưỡi câu đâm thủng miệng. Vì miệng
ông lở loét nên ông nói chuyện rất khó khăn. Lúc tôi săn sóc vết thương cho
ông, ông ráng chịu đau và nói ra những lời hối hận này, cảm nhận được khi
trước vì một chút khoái lạc nhất thời mà gây đau khổ cho những con cá. Sự
đau khổ đó bây giờ quay ngược lại đến với ông, cũng là đau khổ khi miệng bị lủng lỗ. Khi miệng nuốt đồ ăn giống như cuống họng đang bị thiêu đốt,
đang bị đâm bằng dao, đau quá cũng muốn giằng co giãy giụa như con cá
cắn câu ráng hết sức mình để thoát khỏi lưỡi câu. Ông dạy cho tôi một bài
học nhớ hoài không quên, đúng là “nhân quả tơ hào chẳng sai!”. Có bài thơ
như sau:
Mạc đạo quần sinh tánh mạng vi,
Nhất ban cốt nhục nhất ban bì,
Khuyên quân mạc đã chi đầu điểu,
Tử tại sào trung vọng mẫu quy.
Tạm dịch:
Mạng vật yếu ớt đừng khinh
Thịt, da, xương xẩu như mình khác chi!
Chớ bắn chim trên cành kia
Chim non trong tổ đang mong mẹ về.
Có một bác bị ung thư miệng và cũng phải mổ để cắt bỏ tế bào ung thư ở
gò má. Cuộc giải phẫu này rất phức tạp, phải chia ra mấy lần mới xong, phải
cắt da ngực để đắp lại vết mổ ở gò má, và đòi hỏi rất nhiều sức chịu đựng.
Ban đêm, khi tôi đi tuần phòng bệnh nhân, tôi thấy đôi mắt của bác mở thao
láo nhìn lên trần nhà, đêm đã khuya rồi mà bác ngủ không được. Ngoài trời
đêm tối lạnh, nước mắt của bác cũng rất lạnh lẽo thê lương. Chúng ta phải
làm sao để an ủi những bệnh nhân này? Bác đang đợi để mổ lần thứ nhì
nhưng không sống được đến lần mổ cuối cùng. Có lẽ chúng ta thường chờ
đợi để làm một công việc gì đó nhưng chưa chắc có thể sống đến lúc đó, cho
nên chuyện tốt phải mau mau làm, niệm Phật phải niệm ngay bây giờ!
Lúc chăm sóc những người bị ung thư miệng, tôi thường nghĩ đôi lúc
mình bị mụt nước lở trong miệng thì rất đau, nhất là khi ăn những thức ăn
chua cay vào thì rất rát, huống chi vết thương lở loét cả hàm của những
người này, khi uống nước lạnh cũng phải đau đến run. Khi chúng ta mở
miệng nói lời không tao nhã thì chỉ dùng năm sáu giây để nói một câu mà
câu nói đó có thể làm cho người nghe đau lòng cả đời, và khi quả báo hiện ra
thì cũng đau đớn như những người bị ung thư hàm này! Trầu và rượu có thể
đem lại cho người ta một chút khoái lạc nhất thời nhưng cũng đem đến
những sự đau khổ không thể nào giảm nhẹ khi mang bệnh vào thân. Chúng ta phải nên cẩn thận, một giây phút vui sướng ngắn ngủi đi qua rất nhanh,
thời gian chịu đau trên giường bệnh một ngày dài như một trăm năm vậy!
Phòng khám bệnh số 1 và số 2 của bệnh viện nối liền nhau bằng một
cánh cửa tự động. Một hôm tôi thấy có một bà khoảng năm mươi mấy tuổi
nằm ở phòng 1. Bà bị ung thư vú và cần một loại thuốc nhưng bảo hiểm lao
động chưa chịu trả tiền cho thuốc này, nên ngoài việc đau bệnh, bà phải lo
kiếm tiền trang trải chi phí thuốc men. Bà thường khóc thầm vì chịu đựng
không nổi áp lực quá lớn. Lúc đó bên phòng 2 có một cô mới ba mươi mấy
tuổi và cũng bị ung thư vú. Nghe được chuyện của bà bên phòng 1 nên lấy
hết tiền trong túi rồi nói với tôi: “Nhờ bác sĩ trao cho bà ở phòng kế bên”.
Cô vừa khóc vừa nói: “Chúng tôi đều chịu chung cái khổ này”. Tôi rất cảm
động và khen ngợi tinh thần Bồ tát vị tha của cô. Tôi hiểu rõ hoàn cảnh của
cô còn thiếu thốn hơn bà kia rất nhiều. Con của cô còn nhỏ nên phải gởi
người ta nuôi giùm, tiền lương của chồng cô rất thấp, lại không có bảo hiểm,
tiền dành dụm đã xài hết để trả tiền bệnh viện và mổ xẻ. Khi cô được giới
thiệu đến bệnh viện để trị liệu phóng xạ, cô tính bỏ mặc vận mạng đẩy đưa
và không trị bệnh nữa vì không có tiền. Nhưng khi cô nhìn thấy dòng chữ
trên tường: “Cho dù ngày mai là ngày tận thế, tối nay tôi cũng phải trồng
đầy hoa sen trong vườn” nên mới nghĩ lại, đi về nhà má mượn tiền, tiếp tục
trị bệnh và duy trì mạng sống. Cô nói: “Sinh mạng thật là vô thường và có
nhiều thử thách đầy đau khổ, tuy tôi không có khả năng lớn lao gì nhưng tôi
có một chút tâm nguyện là hy vọng làm hết sức mình, giúp đỡ cho những
người đồng cảnh ngộ cho họ sớm lìa khổ được vui”. Tôi rất cảm động; hai
người này đều bị bệnh ung thư nhưng một người thì âu sầu khổ não, còn một
người thì vượt thoát sự bi ai của mình. Giúp đỡ, an ủi và lau nước mắt cho
người khác, phát huy tiềm năng của mình. Khi còn sống thì mỗi ngày trồng
một hoa sen, dần dần có nguyên hồ sen thơm phức. Thử nghĩ, trị bệnh nan y
đòi hỏi bao nhiêu sức chịu đựng và bao nhiêu sự giày vò; nếu đem sự giày
vò này đổi lấy mạng sống âu sầu khổ não có phải là rất đáng tiếc không? Tại
sao không “trồng hoa sen thanh khiết” trong tâm khảm của mình, cho dù chỉ
nở một nụ cười thì cũng là bố thí, có thể làm cho mình và người khác đều
được vui! Có câu là: “Chỉ cần một niệm từ bi phát khởi, tật bệnh cùng khốn
cũng đều qua!”.
Có một bé trai mới sáu tuổi đã bị ung thư tuyến lâm ba (lymphatic
cancer), mới có bây lớn đã phải trải qua rất nhiều đau khổ. Mỗi khi lượng
bạch huyết cầu của em lên cao thì bác sĩ phải chích một loại thuốc có tác
dụng phụ là ói mửa. Việc làm cho em vui nhất là khi lượng bạch huyết cầu
giảm xuống quá thấp, thấp đến độ không thể làm trị liệu hóa học được, bác sĩ sợ độ bạch huyết cầu quá thấp thì dễ bị nhiễm trùng, có thể nguy hiểm đến
tánh mạng. Đối với em, mỗi lần như vậy thì em vui sướng như ở tù được thả
ra, tạm thời có thể “miễn bị hành hình!”. Em nói với tôi: “Mỗi ngày ngoại
trừ xem ti vi thì cũng là xem ti vi”. Nhà em cũng khá giả nên em được ở một
phòng bệnh riêng. Em nói: “Cô em gần lập gia đình rồi, cô mời em làm “em
bé cầm bông” trong hôn lễ của cô. Phải chi em có thể trưởng thành thì tốt
biết mấy, nhưng không biết có thể lớn nổi không?”. Đây là lời nói của một
em bé mới sáu tuổi, thật là làm cho người nghe được không khỏi ngậm ngùi.
Có lúc em ngồi ở phòng để chờ chích thuốc, trước đó em rất vui khi mang
đồ chơi đến đó, nhưng đến cửa phòng thì nhớ lại “đau khổ gần đến, gần bắt
đầu rồi” cho nên cụt hứng ngay. Đôi khi em cắn chặt răng đưa tay tự mình
tìm ra một mạch máu rồi nói: “Lấy chỗ này đi”. Đôi lúc em cũng buồn hiu
không chịu đi vô, em không khóc ra tiếng, chỉ khóc khe khẽ, lệ ướt đẫm mi.
Lần đầu tiên đến để rút máu từ vành tai, em đã khóc hết hai giờ đồng hồ.
Cho đến nay đã chịu khổ quá nhiều lần rồi, em thừa hiểu khóc hoặc là nhõng
nhẽo thì cũng không giúp ích được gì nên em rất dũng cảm để chịu đựng.
Thật là một em bé quá đáng thương. Trong đời sống chúng ta không muốn
già nua thì phải đoản mạng (chết yểu), nếu không muốn chết yểu thì phải già
nua!
Có một người mới ba mươi mấy tuổi đã bị ung thư mũi vào thời kỳ chót.
Thường thường nếu ba mươi mấy tuổi đã chết thì có lẽ bạn nói là đoản
mạng. Nhưng cô này chỉ mới ba mươi mấy tuổi đã làm cho người nhà của cô
cảm thấy không thể chịu đựng nổi nữa. Chồng cô phải vừa lo cho con, vừa
lo cho cô nên phải xin nghỉ hoài, và cũng vì vậy nên đã mất chỗ làm. Cả nhà
lâm vào hoàn cảnh thiếu thốn và phải đến hội Từ Tế xin giúp đỡ. Hội Từ Tế
đồng ý cho cô một số tiền to lớn để trợ giúp cô trả tiền nhà thương. Má cô
đợi lâu quá nên than: “Tại sao lâu quá còn chưa đem tiền lại. Lâu quá!”. Tôi
nói: “Người ta không phải thiếu tiền bà đâu. Tiền này là do hội viên dành
dụm, ăn xài tiện tặn, từ bi đem đi giúp người. Họ không nhẫn tâm thấy bà
chịu khổ chứ không phải người nào cũng giàu có gì đâu”. Bà thở dài ra!
Không phải lo tiền bạc nữa! Nhưng không khí trong gia đình còn quá ngột
ngạt. Bệnh nhân cũng không an tâm tiếp tục sống, má cô lo cho cô đã quá
mệt mỏi nên nói: “Mày sao không mau chết cho rồi, làm hại tụi tao phải chịu
khổ theo!”. Chồng cô khổ quá thường lại hỏi tôi: “Cổ còn ‘kéo dài’ được
bao lâu nữa?”. Tôi nói: “Xin đừng dùng chữ ‘kéo dài’ được không? Sống
được một ngày trong cuộc đời này thật là rất quý, tương ngộ một ngày thật
là hiếm có”. Nếu chỉ chú trọng vào sự khổ và để ý đến chỗ tối tăm trong đời
sống của mình, cho dù không có bệnh thì cũng là ‘kéo dài’ mạng sống. Nếu
tích cực nghĩ về những chuyện tốt, cho dù đời sống rất khó khăn thì cũng đáng sống. Nếu trân trọng đời sống, ba mươi mấy tuổi so với mười lăm tuổi
cũng là trường thọ gấp đôi, so với người sáu tuổi thì cũng trường thọ hơn
gấp năm lần.
Tâm địa có thể cải tạo vận mạng. Tôi có người bạn mới ba mươi mấy
tuổi thì bị ung thư xương, trước sau tổng cộng đã phải giải phẫu hai mươi
lần. Sau một lần động mạch ra máu không ngừng nên phải cưa đứt một chân.
Đời sống của cô còn khó khăn hơn người kể ở trên nhưng nhờ biết áp dụng
Phật pháp, lấy tâm biết ơn đối đãi với nhau, cả nhà sinh sống còn vui hơn lúc
chưa bị bệnh.
Cô nói với tôi: “Tôi rất may mắn, tôi mất đi một chân mà có thể nghe
được Phật pháp. Nếu không nghe được thì không biết phải tạo ra bao nhiêu
nghiệp tội, phải chịu bao nhiêu khổ đau”.
Chồng cô ở bên ngoài phòng mổ đợi qua hai mươi lần giải phẫu, quý vị
biết được tâm trạng của ông chồng này không? Ông nâng đỡ chăm sóc cô
như một vị Bồ tát, không hề than thở chút nào. Sau khi biết Phật pháp, cô
chống nạng cùng chồng nấu đồ ăn đem cho những người cùng bị bệnh và
khuyên họ niệm Phật. Tôi hẹn với cô: “Cô học thuộc lòng Kinh A Di Đà rồi
chúng ta cùng nhau đi lên núi vừa đi vừa lạy để hồi hướng cho những người
bị bệnh ung thư”. Do đó cả nhà cùng với cô học kinh, con cô mới học đến
tiểu học nói với cô: “Má học thuộc lòng Kinh A Di Đà một chữ không sai thì
con cho má năm trăm đồng tiền thưởng”. Cô ở nhà vừa làm đồ thủ công vừa
học kinh hoặc niệm Phật, đến tối thì trả bài cho mọi người nghe. Đến ngày
cô học thuộc hết quyển Kinh, cô nói: “Cả nhà tôi từ trước đến giờ, chưa khi
nào vui mừng giống như hôm đó”. Kể cả tiền thưởng của con và tiền công
kiếm được trong thời gian học kinh cô có được bốn ngàn đồng, cô đem toàn
bộ đi cúng dường Tam bảo. Vì muốn đi lên núi, mỗi đêm, khi cả nhà đã ngủ
yên giấc, cô phải tập luyện lạy Phật, bạn thấy cô dùng một chân để lạy Phật.
Nếu bạn sẽ cảm động đến rơi lệ. Chồng cô tìm cách quyên tiền để làm cho
cô một cái chân giả. Cô nói: “Nếu ông có thể quyên được mười vạn đồng thì
xin đưa tiền này cho tôi để tôi bố thí; tại vì một cái chân cũng đủ dùng rồi”.
Cô chỉ hai cây nạng rồi nói: “Tôi không phải là thiếu một chân mà ngược lại
tôi dư một chân”. Khi cô nói câu này là lúc tế bào ung thư đã lan đến phổi
nên phải mổ và trị liệu hóa học thêm một lần nữa. Nét mặt cô hồng hồng và
thường có nụ cười thật tươi, nhiều khi còn tươi hơn những không bệnh nữa.
Cô nói: “Nhà tôi tuy là không giàu có gì nhưng bây giờ còn vui hơn lúc
trước khi chưa cưa chân nữa.” Người niệm Phật ngay đời này đã có thể sống
trong Tịnh độ, trong không khí vui vẻ hòa thuận của cuộc sống hằng ngày. Như phần đông người bệnh ung thư khác, cô cũng không tránh khỏi tình
trạng kinh tế thiếu thốn. Có người mời cô mở tiệm làm trò chơi điện tử cho
trẻ em có thể kiếm rất nhiều tiền. Cô nói: “Tôi muốn thử chồng nên cố ý
đem việc này hỏi ý kiến của chồng”. Và cô rất vui khi nghe ông nói: “Chúng
ta là người niệm Phật, sợ con mình bị trò chơi điện tử mê hoặc thì làm sao
lại có thể làm hại con cái của người khác!”. Tôi rất khâm phục hai vợ chồng
này, tuy là trong hoàn cảnh khó khăn mà họ vẫn có những hành động rất cao
thượng. Có nhiều gia đình cũng vì kinh tế khó khăn nên phải sa vào hoàn
cảnh đen tối, ngược lại gia đình của cô nhờ bị bệnh mà có thể hướng về đức
Phật, đem những chướng ngại khó khăn của mình biến thành những đóa hoa
sen thơm ngát, rất xứng đáng làm gương cho mọi người.
Có một người bị bệnh ung thư hàm miệng phải giải phẩu để cắt bỏ tế
bào ung thư và phải cắt bỏ luôn xương ở hàm dưới. Bác sĩ phải cắt da trên
ngực để đắp chỗ mổ và bất đắc dĩ ông trở thành người không có môi. Ông
không thể ăn cơm, chỉ có thể uống súp hoặc thức ăn lỏng. Ông không thể
ngồi ăn như người thường, phải nằm xuống để ăn, nếu không thì thức ăn sẽ
đổ ra. Vì không có môi cho nên đối với ông không có chuyện ‘ngậm miệng
lại’. Bạn hãy nhìn những người này làm thế nào ráng hết sức mình để chịu
đựng và chống chọi với bệnh tật; có nhiều lúc tôi tự hỏi tại sao mình lại
được may mắn hơn họ? Trong lúc chịu khổ đau như vậy, ai nỗ lực thì cũng
có thể vượt qua; tuy họ có hoàn cảnh, tâm trạng không giống nhau và có cái
nhìn đời sống khác biệt nhau, nhưng tất cả đều tin sâu những gì Phật nói.
Lúc tôi giải thích những điều Phật dạy cho người trẻ tuổi, nhiều khi phải nói
đến khô cuống họng luôn mà họ cũng không tin; nhưng đối với những người
đang chịu đau khổ trong bệnh viện, không cần nói gì hết, chỉ hỏi: “Khó chịu
đau khổ không?”.
Họ đáp: “Rất khó chịu, rất đau khổ”.
Tôi nói: “Phật nói thế gian là biển khổ, hãy niệm A Di Đà Phật, đem tâm
niệm hướng về phía quang minh, sẽ lìa khổ được vui”.
Họ không nói thêm câu nào nữa, lập tức bắt đầu niệm A Di Đà Phật.
Hèn chi mới có câu: “Thập phương ba đời chư Phật đều lấy tám thứ khổ làm
thầy”. Khổ là vị thầy tốt nhất, nhưng chúng ta phải đợi cho đến lúc này sao?
Lại thêm một người bị ung thư hàm miệng, ông đã bị mù, tế bào ung thư
đã phát triển đến cổ. Nước vàng không ngừng từ gò má chảy xuống. Con
dâu của ông nói: “Ở nhà tôi xịt không biết bao nhiêu dầu thơm, cũng không làm những mùi hôi này bay mất”. Tôi nghe rồi mới nói riêng với cô: “Tôi
thấy cô thường dẫn ba chồng của cô đi khám bệnh, cô rất có hiếu thảo.
Chăm sóc cho người bệnh ung thư rất khổ, nhưng Phật có nói: “Trong tám
phước điền, chăm sóc cho người bệnh là phước điền hạng nhất”. Nếu cô tận
tâm chăm sóc cho ông làm cho ông được hoan hỷ, tự nhiên phước báo sẽ vô
lượng. Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ già đi, sẽ sinh bệnh, chúng ta đối
xử với người già như thế nào, con cái của chúng ta cũng sẽ bắt chước theo
để đối xử với chúng ta. Chúng ta phải để ý, cho dù một hành động lời nói rất
nhỏ nào cũng vậy, cũng phải thương xót và tội nghiệp cho người bệnh.
Người bệnh không muốn có những mùi hôi như vậy. Ngày nay, một trong ba
bốn người sẽ có một người bị ung thư, nếu người đó là mình thì cũng không
thể nào không có mùi hôi; họ bất đắc dĩ phải như vậy mà. Nếu cô có thể bao
dung một chút thì cô sẽ có thêm phước báo”.
Vì ông bị mù nên thường hỏi bác sĩ bệnh trạng rất kỹ: “Bệnh của tôi thật
sự ra sao? Bác sĩ nói thật cho tôi biết đi, không hề gì đâu. Điều tôi lo nhất
bây giờ là con tôi còn một đứa chưa lấy vợ!”. Ôi chao, người ta đúng là có
vô biên phiền não, một mình bệnh nặng mà không lo lại lo cho ‘đứa con
chưa cưới vợ!’.
Khi một người không có năng lực lo cho mình thì thật ra không có khả
năng và biện pháp gì để lo cho người khác. Nếu không vượt qua biển khổ
của mình thì không thể nào độ người khác và giúp họ vượt qua biển khổ
được.
Có một bệnh nhân ở trước ngực có xâm hình rồng và cọp, chắc trước kia
là người trong băng đảng gì đó. Từ ngày bị ung thư hóc miệng trở đi, ông
bắt đầu chân thành sám hối. Ông nói: “Tôi thật đáng đời”, không một lời
trách móc, chân thành ăn năn giúp đỡ bệnh nhân, tận lực tu thiện. Trải qua
rất nhiều hoàn cảnh khổ nạn, cuối cùng ông cũng đã vượt qua…
Tôi thường nghe bệnh nhân than thở: “Cả đời tôi đâu có làm ác, đâu có
làm hại ai đâu, đúng là ông trời không có mắt; tại sao để cho tôi bị bệnh khổ
như vầy?”. Lời này làm tôi suy nghĩ có thật như vậy hay không? Có thật là
chưa làm việc ác không? Nếu đúng như vậy thì chúng ta đều là Thánh nhân
hết. Xem lời Phật dạy, chúng ta từ nhỏ đến lớn khi gặp chuyện không vừa ý
thì nổi giận, mở miệng thì chửi mắng. Vì dục vọng, khi ăn uống không đoái
hoài gì đến gà con mất mẹ, không màng gì đến heo con một nhà sinh ly tử
biệt. Không nói lời thành thật, làm việc không tích cực, thường cãi lời cha,
mẹ v.v... Tất cả không có thứ nào không bị tham, sân, si chi phối. Người có trồng cải rồi đều biết hột cải tuy nhỏ nhưng lúc mọc ra cây cải thì không
nhỏ. Lúc quả báo chưa hiện ra, chúng ta còn dám nói xấu người khác, hoặc
là trong lúc giận dữ, nói lời xúc phạm đến người khác, dám mời khách ăn
hải sản sống. Khi quả báo hiện ra mới biết khổ không chịu đựng nổi, đến lúc
bị khổ nạn mới cầu nguyện để tiêu nghiệp chướng.
Lão Hòa thượng Quảng Khâm có nói: “Phải từ thân, khẩu, ý mà tiêu trừ
căn bản của nghiệp chướng”.
Nói một cách khác, khi tham ăn, nghĩ đến con cá chép, con cá trê này
cũng là một chúng sinh mà mười phương chư Phật thương xót, nói như vậy
thì đó cũng là huynh đệ của mình, chư Phật đang thương xót, má nó đang
trông đợi nó. Khi gặp chuyện muốn nổi giận nhưng vì hiểu đó đều là mộng
huyễn cho nên không sinh tâm sân hận nữa. Nhịn không được nên muốn
chửi người, nhưng phải nghĩ đến họ cũng là chúng sinh mà đức Phật A Di
Đà ngày đêm trông mong để cứu độ và tiếp dẫn. Họ cũng bị nghiệp lực trói
buộc và có sự khổ não, cho nên mới chuyển tâm niệm để nghĩ đến Phật và
niệm Phật.
Nếu có thể sửa đổi mình một cách tích cực, không bị ngôn ngữ, hành
động, ý niệm của thói quen làm chướng ngại, nghiệp chướng có thể tiêu trừ.
Sự khổ của bệnh tật cũng nhờ tâm niệm từ bi nhu nhuyễn hóa giải và giảm
dần đi.
Tôi gặp một giáo sư trung học, ông là một bệnh nhân rất phi thường.
Mỗi lần đi ngang giường bệnh tôi đều dùng tâm niệm tìm tòi học hỏi để
quan sát ông. Khi ông vào bệnh viện thì ung thư đã lan đến tủy xương sống,
đè đến dây thần kinh cho nên hai chân không thể cử động được nữa. Trải
qua một thời gian dùng phóng xạ trị liệu thì miễn cưỡng có thể chống nạng
đi được. Nhà cầu ở ngay kế bên giường, đối với ông là một khoảng cách rất
xa. Ông thường phải phấn đấu rất khó khăn mới có thể ngồi dậy và đi vào
nhà cầu. Mặc dù thân thể của ông rất yếu nhưng hai mắt ông rất có tinh thần.
Ông nói chuyện rất khó khăn vì thần kinh trong não cũng bị ung thư. Lúc
ngủ hai mắt nhắm không được, rồi sau đó xương chân bị gãy luôn. Trong lúc
bị bệnh nặng như vậy mà ông nói: “Rất tiếc là bây giờ tôi không thể dạy học
được nữa!” (Ông đã là một giáo sư rất nhiệt tâm dạy học trò). Ông nói:
“Từng trải qua cơn bệnh quá đau khổ này làm cho tôi hiểu thêm về cuộc đời,
hiểu rõ được sự khổ đau của mọi người, tôi sẽ càng thương yêu chăm sóc
học sinh của tôi, rất tiếc là tôi không còn cơ hội nữa!”. Tôi nói: “Ông là một
giáo sư rất đáng kính trọng, chỉ xem nguyện vọng của ông khi bị bệnh như vậy thì biết được”. Ông từ trên giường phấn đấu để ngồi dậy, nhưng chỉ có
thể ngước đầu lên ba tấc. Chúng ta lúc ngồi dậy thì lập tức ngồi dậy. Ông
phấn đấu đến cả người đổ mồ hôi ướt đẫm áo cũng chỉ ‘gần’ ngồi dậy được;
nhưng ông rất vui và nói: “Tôi hôm nay có thể nhích được khoảng cách như
thế này”. Đối với tôi, khi ông ngồi dậy được khoảng 30 đến 40 độ còn đáng
nể phục hơn lực sĩ nhảy xa ở Thế Vận Hội. Ngoài sự phấn đấu về thể lực ra,
ông còn có tâm nguyện muốn tiếp tục dạy học và tiếp tục chăm sóc cho học
sinh. Ngày thường, chúng ta khỏe mạnh đầy đủ tinh thần, nhưng thường tính
toán chuyện nhỏ nhặt để đem phiền não đến cho mình, chúng ta thường than
trách công việc trong chỗ làm, có sức lực khả năng mà không làm chuyện
tốt. Ông là một bệnh nhân nằm chịu đau trên giường nhưng lại có nguyện
vọng đi dạy học trở lại để chăm sóc dạy dỗ thêm cho học sinh. Tuy ông
không thể làm vậy được, nhưng tâm nguyện rộng lớn chân thành của ông đã
đem ông lên giảng đài vĩnh viễn và trở nên giáo sư của hàng vạn người.
Có một người bị ung thư lưỡi đang trong thời kỳ cuối cùng. Tế bào ung
thư từ lưỡi đã lan rộng đến cả hàm dưới. Lúc đầu còn khỏe thì có thể tự
mình đi đứng được, sau đó phải có hai người vịn ở hai bên mới đi được, rồi
phải ngồi xe lăn, cuối cùng thì không cử động được nữa. Nước vàng từ
những chỗ bị ung thư rỉ ra hoài; mỗi khi tôi đến thay thuốc, ông thường hỏi:
“Tại sao càng ngày càng lớn vậy?”. Ông nói chuyện không rõ ràng; khi tôi
rửa vết thương thay thuốc cho ông, ánh mắt của ông nhìn tôi hình như là
đang hỏi: “Không biết bệnh của tôi có thể lành được không? Tôi gần chết rồi
phải không?”. Cái tâm trạng sợ hãi đó chính là tấm ảnh của ‘sinh tử trên
sông Hằng’.
Khi chúng sinh đối đầu với sinh tử, ai cũng cảm thấy rất cô độc, sợ hãi,
khủng bố. Cho dù là một bà mẹ tám mươi mấy tuổi cũng co ro vào lòng tôi
khóc nức nở như một đứa bé… Một hôm tôi đi nghe giảng kinh và đi ngang
qua đường T.H. Trời lúc đó rất lạnh, quán bán thịt nai bên đường vừa mới
khai trương. Tôi lái xe mô tô đi ngang nhìn thấy có ba con nai đang đứng
khép nép trong lồng. Ánh mắt của con nai đó rất quen thuộc, rất giống ánh
mắt của những bệnh nhân đang nằm trong bệnh viện, hình như họ đang nói:
“Tôi sắp chết phải không? Mau mau cứu tôi với; không kể dùng thuốc gì,
phương pháp gì…”. Tội nghiệp ba con nai. Hãy thả chúng ra! Thả cho chúng
về rừng đi. Một khi hô hấp của chúng ngừng lại thì không có cách gì có thể
làm cho chúng nó chạy nữa, mau mau kiếm người chủ van xin đừng giết
chúng nó! Khi quay trở lại, tôi ghé qua và mua mấy con nai đó đi phóng
sinh. Khi người chủ nghe chúng tôi muốn mua nai đem đi phóng sinh, cảm
động mà nói: “Tôi là người nuôi nai, rất thương yêu chúng, không bao giờ giết hại chúng, nhưng vì kinh tế khó khăn, bắt đắc dĩ hôm nay phải bán
chúng làm thịt, tôi cũng rất đau lòng!”. Nghe xong tôi rất xúc động, chúng
sinh tạo nghiệp thọ báo đều có những sự khổ não bất đắc dĩ như vậy. Thật ra
mỗi người đều có Phật tánh; đây cũng là lý do mà đức Phật A Di Đà luôn
luôn khoan dung, thương xót, chờ đợi đến lúc chúng ta có một niệm quay
đầu trở về với quang minh. Chúng tôi mua nai xong, đem chúng đi quy y
Tam bảo rồi thả vào rừng, hy vọng là chúng không bị bắt trở lại. Và cũng
nguyện cho những người đi săn có thể phát Bồ đề tâm, gặp nhân duyên thiện
có thể đổi nghề nghiệp, chấm dứt nghiệp sát để khỏi chịu khổ báo nữa.
Bệnh nhân thường để một con cá trê hay cá chép trong nồi hay thau
nước ở dưới giường hoặc trên bàn để ăn cho bổ. Khi tôi đến thăm bệnh thì
thấy hình như những con cá này đang vùng vẫy. Có một hôm tôi đến giường
bệnh của một cô bị bệnh ung thư vú. Cô là một tín đồ Cơ Đốc giáo rất trẻ,
mới hai mươi bảy tuổi đã bị bệnh này; bạn có thể tưởng tượng được khổ tâm
của cô không? Hai tay cô lúc nào cũng lạnh. Ở dưới giường cô có để một
con cá; tôi nói với cô:
“Có người đang kêu cứu ở dưới giường cô”. Cô mở mắt thật lớn và tỏ vẻ
rất ngạc nhiên. Tôi hỏi cô: “Lúc cô biết được cô mắc phải bệnh này thì cô rất
hy vọng sẽ có người cứu cô hết bệnh phải không?”. Cô gật đầu, tôi nói tiếp:
“Con cá dưới giường biết nó sắp sửa vô chảo nóng, cảm tưởng của nó giống
cảm tưởng của cô bây giờ. Cô chịu làm Chúa Giê Su đi cứu con cá này
không? Con cá đang cầu cứu cô đó. Cô hãy xem!”.
Mắt của cô đỏ lên (muốn khóc).Tôi mới nói thêm: “Cô phát tâm cứu nó,
lúc cô bị chuyện khó khăn hay tai nạn, tự nhiên sẽ có người lại cứu cô”. Cô
vui mừng chịu đem cá đi phóng sinh. Sau đó một vị đạo hữu ở trường đại
học Chuyên Khoa Đài Trung giúp cô đem cá đi phóng sinh…
Nhiều khi tôi nói với bệnh nhân: “Bán cho tôi nồi cá sống này được
không?”. Bệnh nhân thường nói: “Nếu bác sĩ thích ăn thì tôi tặng cho bác
sĩ”. Tôi trả lời: “Tôi ăn chay, không ăn cá, tôi muốn mua những con cá này
đi phóng sinh, đem công đức phóng sinh này hồi hướng cho bạn, hy vọng là
bạn cũng giống như con cá này, cũng được giải thoát, khôi phục lại sức
khỏe, sớm lành bệnh để về nhà đoàn tựu với gia đình”.
Thông thường, những bệnh nhân đã chịu quá nhiều đau khổ hoặc có
kinh nghiệm đi gần đến cánh cửa sinh tử, đều hiểu rõ ‘tình cảm của mình
cũng giống như của con cá’. Họ thường phát tâm từ bi đem cá đi phóng sinh. Tâm niệm đem cá đi phóng sinh thường có thể làm cho họ có cảm giác vui
vẻ, cổ vũ sự yêu đời của họ, và làm tươi nhuận đời sống họ nhiều hơn là ăn
cá.
Có một người trẻ tuổi khi đi trên phố, nửa đêm bị kẻ bất lương đâm vào
bụng bị thương nằm ngã qụy ở bên đường. Sau đó được người ta chở vào
nhà thương, vết thương quá lớn nên lòi ruột ra, gan và mật cũng bị thương.
Chúng tôi nửa đêm phải giúp anh giải phẫu và khi đó anh không có người
nhà đi theo nên chúng tôi phải chụp hình vết thương trước khi giải phẫu để
ngừa trường hợp giải phẫu có trục trặc gì phải có bằng chứng bị thương
trước… (Trong xã hội hiện nay, chúng ta cứu người cũng không phải là
chuyện dễ dàng!). Anh này mới đính hôn không bao lâu. Bạn có thể tưởng
tượng được sự bối rối, lo lắng của người vợ sắp cưới khi nghe tin anh bị
thương không? Những thứ trong bụng chúng ta thật không phải là vật gì tốt
đẹp, đức Phật nói với chúng ta về ‘quán bất tịnh’, chúng ta có thể quán
tưởng thử xem. Nếu lúc đính hôn mà lấy một tấm hình vết thương bụng máu
me tùm lum đem cho người ta xem, chắc rất ít người sẽ chịu đính hôn với
bạn!
Có một bệnh nhân nọ vào bệnh viện để trị bệnh xương, phía trên chân có
gắn một cây kim bằng kim loại xuyên qua xương và qua luôn cả bắp thịt
phía bên kia. Phía dưới chân cũng xỏ thêm một cây như vậy. Bạn có thể
tưởng tượng khuôn mặt và tiếng hét kêu đau của người này lúc đút cây vào
xương. Nếu người đó là bạn thì bạn có thể mỉm cười được không? Chúng ta
thử đoán xem? Bạn thấy những chỗ bán chim nướng ở chợ đêm không? Có
cả năm mười con chim xỏ chung vô một xâu treo lủng lẳng trước quầy hàng.
Sự đau khổ gì gây ra cho những chúng sinh khác, một ngày nào đó cũng có
thể xảy ra đến thân thể chúng ta. Khi chuyện đó xảy ra thì chúng ta sẽ cảm
thấy vô cùng đau đớn, một chút xíu cũng không dễ chịu. Nhưng chúng ta
thường đem sự đau khổ này gây cho chúng sinh khác một cách vô tình và
xem như không có gì xảy ra. Hãy nghĩ đến sự khổ của chúng sinh, và cũng
nên nghĩ đến hạnh phúc lâu dài. Xin tất cả mọi người đừng làm vậy nữa, để
khỏi ‘hý tiếu sát tha mạng, bi khốc nhập địa ngục’ (cười vui khi giết mạng
sống của con vật, rồi khóc than lúc vào địa ngục).
Có một người bị ung thư tử cung, mỗi lần gặp tôi đều khóc. Bà đã ly dị
và một mình nuôi mấy đứa con rất cực khổ; đứa nhỏ mới học tiểu học thì bà
bị bệnh này. Mỗi ngày âu sầu phiền muộn cứ diễn ra… Thật ra, trước đó bà
đã trị bệnh gần hết rồi; nếu bà có chút ít trí tuệ trong đời sống… thì cũng có
thể sinh sống vui vẻ. Người ta có thể trị hết bệnh ung thư, nhưng sự đau khổ trong tâm nếu không dùng trí tuệ và nghe Phật pháp thì không trừ hết. Bà đã
được trị liệu bằng phóng xạ, bằng giải phẫu, chỉ thiếu một chuyện là không
thỉnh đức Phật mổ cho tâm bà. Sự giải phẫu có hiệu quả nhất là phải giải
phẫu trong tâm. Bứng tận gốc rễ của phiền não, để bà đừng ôm cứng cây cổ
thụ phiền não mỗi ngày mà cứ tưởng là cây phiền não quấn chặt lấy bà.
Có một bà lão lúc vào bệnh viện băng kín vải trên mắt. Lúc tôi mở băng
ra trong tâm cảm thấy đau nhói! Bà lão này có gương mặt rất hiền hậu, tròng
mắt bà đã bị móc ra vì bị ung thư nên phải làm như vậy. Chúng ta có khi nào
nghĩ đến lúc dùng đũa để gắp tròng mắt của con cá trên bàn ăn? Chúng ta
thử nghĩ đến Helen Keller, một vĩ nhân bị điếc, câm và mù đã viết như vầy:
“Nếu mắt tôi có thể sáng lại được chỉ ba ngày thôi, chỉ ba ngày thôi…”
Chúng ta có thể trong một trường hợp nào đó sẽ bị mất đi đôi mắt, vậy mà
lúc còn đôi mắt thì lại nhìn Đông, nhìn Tây và tự mình sinh ra phiền muộn?
Tại sao chúng ta không nhìn ánh mắt từ bi của đức Phật? Tại sao không nhìn
về phía có vô lượng hào quang? Chúng ta thường dùng cặp mắt quý báu để
nhìn rác rến ở chung quanh; đem rác rến của người khác bỏ vào tâm khảm
của mình. Để lâu rồi thì cả nội tâm giống như một cái thùng rác hôi thối, nên
phải xa cách với chúng Bồ tát trong thanh tịnh đại hải. Xin hãy mở rộng con
mắt của nội tâm, nhân lúc còn nhìn thấy được, hãy nhìn cái tốt đẹp của
người khác, học tập ưu điểm của người khác; hãy cảm nhận thêm một chút,
hãy nhìn thêm “Cám mục trừng thanh tứ đại hải” của đức Phật A Di Đà, hãy
nhìn phong cảnh cực kỳ xinh đẹp của thế giới Cực lạc, và tấm lòng rộng lớn
của chư Bồ tát.
Có một người bị ung thư ở thực quản, hô hấp bị khó khăn, phải đút một
ống từ mũi vào phổi để giúp sự hô hấp và một ống để đút đồ ăn vào bao tử.
Có khi bà phải ráng sức để ho, mỗi lần ho thì đau như xé ruột gan, toàn thân
run rẩy vì đau đớn. Chồng bà nhìn thấy cảnh tượng đau lòng như vậy chịu
không nỗi nên chạy ra hành lang mà khóc. Đôi lúc tôi đi chợ nhìn thấy
những con gà bị treo trên quầy thịt cũng tội nghiệp như vậy. Trên cổ của con
gà nào cũng có khoét một lỗ để treo, rất ít người thương hại sự đau đớn của
chúng nó; nhưng đến khi người đút ống thở vào mũi là vợ, là con, hoặc là
mẹ của bạn thì bạn cũng sẽ đau nhói ruột mỗi khi họ ho và thở mạnh.
Có một người làm nghề bán thịt heo, ông bị ung thư phổi được một thời
gian thì qua đời. Tôi nghe vợ và con ông kể lại, khi ông về nhà mấy ngày
hôn mê không tỉnh nhưng miệng cứ la hét và nói: “Mau mau đem những gan
heo treo trên tường đi chỗ khác”. Hoặc là: “Mau đem đầu heo đi chỗ khác”. Ông cứ kêu la như vậy suốt mấy ngày đêm, mọi người trong nhà sợ đến
lông tóc dựng đứng nhưng không hiểu ông nói cái gì. Cảnh tượng lúc ông
chết rất là dễ sợ, ông chịu rất nhiều đau khổ. Từ đó người nhà của ông mới
biết nhân quả báo ứng của sự sát sinh. Khi ông nằm bệnh viện, tôi đã khuyên
người nhà ông niệm Phật, nhưng họ nói trong lúc buồn khổ như thế thì làm
sao niệm được? Tuy đức Phật A Di Đà có lòng đại từ bi tiếp dẫn người niệm
được mười danh hiệu Phật lúc lâm chung vãng sinh về cõi Cực lạc, nhưng
lúc còn khỏe mạnh người ta rất khó niệm được vì bị mê hoặc bởi vì tình ái
của thế gian. Huống chi là lúc gần chết, bị sự bệnh khổ giày vò hành hạ thì
làm sao có thể niệm được! Nguyện cho sự thị hiện thuyết pháp của người
bệnh này làm cho người khác nghe thấy được và rút tỉa kinh nghiệm để tránh
khỏi sự đau khổ tương tự. Và cũng nguyện công đức cảnh giác chúng sinh
của ông có thể giúp ông lìa cảnh khổ và được Phật tiếp dẫn. Và cũng nguyện
cho những chúng sinh bị ông giết hại nương vào nước cam lồ của Phật pháp,
cởi mở gút mắc trong lòng, đồng niệm Di Đà, đồng sinh Tây phương, đồng
thành Phật đạo.
Người khỏe mạnh thường than ngủ không đủ. Trong bệnh viện có quá
nhiều nước mắt, sự đau khổ kéo dài lây lất! Người chưa tới số, nằm nướng
trên giường và nói đồng hồ reo báo thức quá ồn. Người tới số, suốt đêm
chiến đấu và dằng co với sinh tử. Có một người bị ung thư ở hàm dưới và
lan đến cuống họng. Ông không thể nuốt được, hô hấp cũng khó khăn, cho
nên bác sĩ phải khoét một lỗ ở bụng để dẫn thức ăn vào dạ dày, và khoét một
lỗ ở cổ để giúp sự hô hấp. Chúng ta có thể ăn uống không cần khoét lỗ để
đút đồ ăn và hô hấp không cần khoét lỗ để đút ống thì thật là rất quý. Vài
ngày trước khi ông mất, có thể nói mỗi ngày máu đều chảy một chút, cách
hai ba ngày lại chảy máu nhiều; máu từ miệng và mũi chảy ra, từ chỗ đút
ống thở chảy ra. Những người y tá và bác sĩ trực muốn cứu ông nhưng chỉ
có thể đứng một bên cầm cái thau để hứng máu từ trong thân ông chảy ra,
rồi phải chuyền máu cho ông tại vì máu trong thân ông chảy ra từ những chỗ
không thể cầm được. Có một lúc máu ông chảy ra dính vào người tôi. Đôi
mắt ông đỏ ngầu và sưng lớn lên rất dễ sợ. Cả đêm chúng tôi ở bên cạnh
chăm sóc và hứng máu cho ông. Sáng ngày hôm sau còn tiếp tục khám bệnh
nên tôi mới nhờ một người bạn đem áo lại cho tôi thay. Áo của tôi thì có thể
thay nhưng áo của ông thì không thể thay được! Bạn biết không, mỗi lần ông
cử động mạnh một chút là máu chảy ra nhiều thêm nữa. Chúng tôi phải
không ngừng tiếp máu vào cho ông nhưng cũng không nhanh bằng máu từ
người ông tuôn ra; thuốc men gì cũng hết công hiệu; thân thể ông cứ chảy
máu như vậy và hành hạ ông cả ngày cả đêm. Người ta muốn nhắm mắt một
cách êm đềm thật không phải là một việc đơn giản! Từ hôm đó tôi hiểu thêm một chút về vấn đề sinh tử, cái hình bóng phản
chiếu trên sông Hằng rất có thể cũng là hình bóng của chính mình!
Có một em trai 16 tuổi, là một học sinh hạng nhất trong lớp; em bị bệnh
ung thư não. Em đã phải mổ não bốn lần mà ba lần mổ được tiến hành trong
cùng một năm. Em vào bệnh viện lần này để trị liệu phóng xạ, xương não
của em bị cắt đi một khoảng cho nên cái đầu bị lõm vô một bên. May mà
tánh mạng còn duy trì và có cơ hội nghe được Phật pháp. Một hôm tôi nhận
được một bức thiệp cám ơn của ba em gởi. Trong đó ông nói là em nhờ ông
viết và hy vọng nếu thuận tiện thì xin gởi cho em một tượng Phật để em lễ
lạy. Ông rất khách sáo sợ làm phiền tôi, và làm như là bất đắc dĩ lắm mới
xin tượng Phật. Tôi cảm động đến chảy nước mắt nên lập tức đi thỉnh một
tượng Phật A Di Đà cho em. Ông ở Phong Nguyên, tôi quá bận nên phải nhờ
một cô y tá đem cho ông. Cô y tá này kể lại khi cô vừa đến thì em từ trên
giường ngồi bật dậy, vì nữa thân người dường như cử động không được nên
đi cà nhắc, nhưng rất hăng hái và có tinh thần để đi lạy Phật. Nhìn cảnh
tượng như vậy nên cô cảm động và nói: “Tứ chi tôi còn khỏe mạnh nhưng từ
trước đến nay không bao giờ có ý muốn lạy Phật. Nhìn thấy em chí thành
như vậy, phấn đấu hết sức lực yếu ớt của mình để lạy Phật, tôi rất xấu hổ”.
Khi người ta còn khỏe mạnh đi đứng cử động được, thì cứ nghĩ đó là tự
nhiên, ít khi nào quý trọng. Thời gian thân thể khỏe mạnh không thể kéo dài
hoài được, những đoạn trước tôi có kể người ta có thể mất đi miệng, mất
cuống họng, thậm chí đến mất bộ não. Ngày nay chúng ta còn có miệng,
chúng ta nên học những lời nói ôn hòa tốt đẹp, cùng nhau khuyên nhủ giúp
đỡ, cùng nhau niệm câu vạn đức hồng danh ‘A Di Đà Phật’. Chúng ta không
biết khi nào có thể mất đi bộ não, ngày hôm nay còn thì chúng ta nên dùng
nó để nghĩ đến hào quang và lòng từ bi của đức Phật.
---o0o---
A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!
Khi tôi làm bác sĩ nội trú vào năm thứ nhất, có một đêm trực ở phòng
cấp cứu. Nửa đêm có một người bị nghẽn động mạch cơ tim, đã ngừng hô
hấp và hôn mê không tỉnh. Mặt và lưỡi đã biến thành màu tím ngắt. Máy đo
tim và kết quả thử máu cho biết là tim đã bị hư hoại trầm trọng. Theo kinh
nghiệm của bác sĩ chủ nhiệm thì bệnh trạng nhẹ hơn người này cũng không
cứu được nữa huống chi là tình trạng nặng như người này, nên nói cho người
nhà phải ‘chuẩn bị tinh thần’. Tôi cứ theo lệ thường, vừa niệm Phật vừa lo
cấp cứu bệnh nhân. Dùng hết nhiều thứ thuốc rồi nhưng huyết áp của ông không thể nào đo được, ông vẫn còn hôn mê và không thể tự mình hô hấp.
Vợ của ông đau lòng nói với tôi: “Người ta nói ông trời thương và giúp đỡ
người hiền lương, nhưng tại sao ông trời không thương tôi? Xin bác sĩ tìm
mọi cách để cứu ông, cho dù ông biến thành ‘người thực vật’ thì tôi cũng
chịu chăm sóc cho ông”.
Tôi cảm thấy là bà rất đôn hậu và thật thà nên mới khuyên bà: “Lúc
người gặp tai nạn lớn, phải phát đại nguyện niệm Phật thì hy vọng có thể
vượt qua”.
Bà nói: “Làm sao phát đại nguyện?”.
Tôi nói: “Dùng tâm chí thành của mình mà phát đại nguyện”. Bà liền
nói: “Từ nay trở đi hai vợ chồng chúng tôi sẽ ăn chay trường và niệm Phật;
ông ta là thầy giáo, khi hết bệnh có thể hoằng dương Phật pháp”.
Tôi đưa bà và mấy người con mỗi người một xâu chuỗi và nói: “Đêm
nay quý vị nóng lòng chờ đợi trong phòng cấp cứu thì cũng không ích lợi gì,
không bằng đem tâm bồn chồn này lắng xuống để niệm một vạn danh hiệu
Phật A Di Đà, cầu Phật gia bị, Phật lực không thể nghĩ bàn. Chúng tôi ráng
hết sức để cứu ông. Quý vị vì ông mà niệm Phật, nếu thọ mạng của ông hết
thì ông cũng có thể vãng sinh Cực lạc”. Đêm đó ba người bác sĩ chúng tôi cứ
nhìn các điện đồ đo tim và đo máu, điều chỉnh lượng thuốc từ 7 giờ chiều
đến 3 giờ khuya. Một trong ba bác sĩ than là: “Chúng ta ba người trực cả
đêm để lo cho một người mà không đo áp suất máu được!”. (Nghĩa là người
này nếu không có gắn máy thì không thể tự mình hô hấp được). Điều kỳ lạ là
đến khoảng bốn năm giờ sáng thì áp suất máu của ông từ từ tăng lên, ông
cũng từ từ tỉnh lại. Tôi lập tức đi thông báo cho người nhà của ông. Tôi rất
cảm động khi mở cửa nhìn thấy cả nhà ngồi xếp thành một hàng đang niệm
Phật một cách rất chí thành. Con của ông viết trên một trang giấy: “Thưa ba,
con rất muốn ba mở đôi mắt hiền từ ra”.
Có một thanh niên đến thăm ông và khóc sướt mướt làm tôi cứ tưởng là
con của ông. Người thanh niên đó nói: “Ông là thầy tôi, lúc trước ổng ở
trong một chái nhà lụp sụp, dùng hết tiền lương để cung cấp lo cho đám học
sinh chúng tôi, nếu không có thầy thì hôm nay không có tôi, xin bác sĩ nhất
định phải cứu sống ông”. Lời nói chưa dứt thì lại khóc tiếp; sau đó tôi mới
biết ông đã được chọn là một trong ‘mười người thầy có lòng thương lớn
nhất đối với học sinh’. Sau khi ông tỉnh lại phải tiếp tục dùng máy để trợ
giúp hô hấp thêm ba ngày nữa. Lúc đó ông bắt đầu niệm Phật; ngoài bệnh bị nghẽn động mạch cơ tim, ông còn bị bệnh phổi nữa. Cuối cùng ông cũng
lành bệnh và tự mình bước đi ra khỏi bệnh viện. Sau đó ông trở lại bệnh viện
kiếm tôi để hợp tác in Kinh. Những bác sĩ xem qua tâm điện đồ và kết quả
thử máu và thấy sức khỏe ông từ từ bình phục đều không thể tưởng tượng
nổi.
Có một cô gái rất đẹp, lúc trước từng là hoa khôi trong trường. Trên mặt
bị bệnh ung thư sưng lớn lên khoảng gần bằng ba cái đầu chụm lại. Lúc tôi
mới gặp và nhìn thấy cô thì có cảm tưởng như là có đứa bé đang ngồi trên
đầu. Tuy cô phải chịu đựng sự đau khổ to lớn như vậy, nhưng nghĩ lại cũng
còn may. Trong thời gian đau khổ này, cô biết đến Phật pháp, cô than là:
“Rất tiếc tôi nghe được quá trễ!”. Nhưng nếu kịp thời phát tâm thì cũng
không trễ. Trong trường hợp đau khổ như vậy, nếu người khác thì đã kêu
trời kêu đất rồi, ngược lại cô còn có thể niệm Phật. Cô đem sự đau khổ biến
thành nước cam lồ của lòng từ bi, đổi sự áo não buồn rầu thành ánh sáng
thanh lương, tâm cô đã nương dựa vào đức Phật A Di Đà. Cô đem tất cả tài
sản của cô ra để cúng dường cho mọi người và dặn dò chuyện lâm chung đại
sự. Rất nhiều Pháp sư và liên hữu cũng cảm động và từ bi niệm Phật tiếp cô.
Một hôm, cô đưa năm trăm đồng nhờ tôi mua một giống hoa đem gieo trong
chùa hoặc phía trước cửa Tịnh Nghiệp Tinh Xá Niệm Phật Đường; cô nói là
để khi nào hoa có thể cúng Phật, có hoa nở ra hoài để cúng Phật. Chúng ta là
người khỏe mạnh nhưng không ai có tâm niệm đẹp như cô. Có lẽ bạn sẽ nói
mặt của cô rất xấu xí, diện mạo không còn đẹp như xưa nữa, nhưng nghĩ lại
chúng ta có tâm niệm đẹp như cô không? Cô đưa tôi sợi dây chuyền quý
nhất mà má cô tặng cho cô lúc trước và nói: “Nhờ bác sĩ bán sợi dây chuyền
này xong rồi đem tiền đi in Kinh, cúng dường Tam bảo… tùy tiện làm thế
nào cũng được, miễn là có thể làm lợi ích cho chúng sinh”. Thật là hiếm có,
trong lúc cô chịu đựng muôn vàn đau khổ mà lại có được tâm niệm đẹp như
vậy, bạn đã thể hội được sức lực của Phật pháp hay không? Rất nhiều người
vào thăm cô, cô nói: “Tôi bị bệnh này là do nghiệp báo của những chuyện
mà tôi làm lúc trước, quý vị thăm tôi rồi sau này phải đừng làm việc ác, nên
làm việc lành, luôn luôn nhớ như vậy, phải biết dự trữ đồ ăn phòng khi đói
kém. Mau sớm niệm Phật thì mới không uổng chuyến đi thăm tôi lần này”.
Có một ông già tám mươi tuổi bị ung thư phổi từ viện dưỡng lão đến.
Ông nói: “Lúc ông năm tuổi thì cha ông mất, tám tuổi thì mẹ mất, một người
sống cô đơn đến nay đã 80 năm”. Có thể nói là ông đã nếm đủ hết mùi vị
vui, buồn, ly, hiệp trong đời. Đến nay đã già lại mắc phải bệnh nặng, suốt
ngày phải nằm trên giường. Có một đêm ông ngồi dậy ôm gối tự nói chuyện
với mình: “Tôi muốn đi về, tôi muốn đi về”. Giọng nói rất thê lương, nhưng lúc đứng dậy thì đứng không vững và lại té bị thương. Răng trong miệng đã
bám đầy bựa, mỗi ngày y tá phí bao nhiêu sức lực để kêu ông chà răng, ông
nhất định không chịu chà và nói: “Người muốn chết rồi, chà răng để làm gì
nữa!”. Đã gần hai tháng ông không chịu ăn gì hết nên gần kiệt lực vì đói. Rất
khó khăn lắm tôi mới để thuốc và thức ăn vào miệng ông, nhưng ông nhất
định không chịu nuốt và quyết tâm muốn chết. Sau đó đại và tiểu tiện cũng
không khống chế và điều khiển được, đi đại tiểu tiện ngay trên giường bệnh.
Ông không có gia đình, người làm trong bệnh viện không đủ, không có
người túc trực ở kế bên để thay vải, trải giường và thay quần áo. Sau đó cả
quần áo cũng không còn sức để mặc, mà cũng không chịu mặc, chỉ còn trơ
da bọc xương như vậy nằm trên giường. Vì ông không chịu ăn cơm cho nên
chỉ có thể chích thuốc. Tay ông bấy hết vì kim đâm để chích thuốc hoặc lấy
máu. Đây là cái khổ của sự già nua. Khuyên ông niệm Phật nhưng ông cũng
rất khó niệm được, mỗi lần nhìn ông thì không có bút mực nào diễn tả hết
những sự đau lòng khổ não. Ông cũng đã từng khỏe mạnh như chúng ta, đã
từng bước đi thoăn thoắt trèo non vượt suối, cũng đã từng giống như chúng
ta, khi đói thì kiếm ăn, vui thì cười tươi như hoa nở. Nhưng những đợt sóng
sinh tử của sông Hằng một giây phút, một tích tắc cũng không chịu ngừng
lại… Thân thể chúng ta cũng như căn nhà có thể bị hư hoại và bị sụp đổ;
sống trong căn nhà cũ bị hư, bị dột mưa thì rất khổ, rất khó khăn. Nếu lúc đó
chúng ta niệm Phật, đem tâm an trú tại cõi Tây phương tự do tự tại, kiên cố
thanh tịnh, bất cứ lúc nào cũng có thể dọn nhà đi thì rất trang nghiêm tốt
đẹp. Nếu buồn rầu áo não theo căn nhà cũ nát, sợ là tương lai chúng ta cũng
sẽ dọn đến căn nhà còn hư dột và cũ hơn hiện tại nữa, chịu khổ đời đời!
Có một bệnh nhân đã già, có người nói ông đã 80 tuổi, có người nói ông
đã 90 tuổi. Hình như trước kia ông là giáo sư trường đại học Bắc Kinh, diện
mạo của ông rất giống người trí thức. Ông không phải là bệnh nhân thuộc
chuyên khoa chữa trị của tôi. Từ lúc đầu tiên khi tôi gặp ông thì ông đã hôn
mê bất tỉnh. Mỗi lần đi vào phòng bệnh tôi chỉ có thể niệm ‘A Di Đà Phật, A
Di Đà Phật’ vào tai ông, cứ như vậy cả hai tháng, ông chưa khi nào có một
chút phản ứng gì hết. Sau cùng ông tỉnh lại, có chút phản ứng và nhìn tôi,
ráng hết sức hình như muốn niệm “A Di Đà Phật”, nhưng không có sức để
niệm ra tiếng. Tay ông cử động hình như muốn chắp tay. Chắp tay lại đối
với người khỏe mạnh là một chuyện rất dễ dàng, nhưng đối với ông thì lại
vô cùng khó khăn. Không phải là lúc còn trẻ da ông cũng rất hồng hào mềm
mại hay sao? Nhưng thế gian vô thường, hồng hào mập mạp trẻ trung sẽ từ
từ biến thành già nua lụm cụm! Hình như tôi đã đem hình tượng của những người lớn tuổi kéo xuống tận
đáy thẳm vực sâu, như thế có phải quá tàn nhẫn hay không? Nhưng nếu
không diễn tả rõ ràng thì mọi người không hiểu rõ những chuyện trong thế
gian, không buông xả được như vậy thì không thể đạt được hạnh phúc tự tại.
Nếu không kịp lúc hồi đầu niệm Phật, e rằng sẽ hối hận vĩnh kiếp về sau!
Phần đông khi người ta sắp chết thì hô hấp rất khó khăn. Nếu đang ở
trong ở bệnh viện thì bác sĩ sẽ đút một ống vào miệng hoặc vào mũi, vô khí
quản đến phổi để duy trì sự hô hấp. Đến lúc nguy cấp thì đẩy vào phòng có y
tá túc trực thường xuyên để theo dõi bệnh nhân. Có khi dùng dưỡng khí
chụp vào mũi để giúp cho bệnh nhân thở. Khắp nơi trên thân thể chỗ nào có
thể đút ống vào thì cũng đều đút ống, thí dụ đường tiểu thì đút ống vào để
thông tiểu, miệng thì đút ống vào để dẫn thức ăn vào bao tử, hoặc mũi thì
đút ống vào phổi, chỉ thiếu một thứ là không có một ống gì để dẫn ánh sáng
của đức Phật A Di Đà vào tâm khảm của người ta. Một phòng bệnh có y tá
túc trực (intensive care) thì cũng giống như một địa ngục ở trần gian. Có lẽ
những thiết bị tối tân này đã cứu sống rất nhiều người, nhưng thật ra đối với
bệnh nhân, không kể là chữa lành bệnh hay không, đều là địa ngục rất dễ sợ,
không người nào thích bị đưa vào thêm một lần nữa! Lúc trước, khi đọc
Kinh Địa Tạng, tôi thường nghĩ là chư Phật, Bồ tát sợ chúng sinh làm
chuyện ác, cố ý nói ra để dọa người. Đâu có chỗ nào là địa ngục thiêu đốt,
địa ngục cắt lưỡi… cái khổ gì cũng có, rất là dễ sợ, hình như đều là dọa
người ta. Đến khi tôi vô bệnh viện thì mới biết đức Phật nói câu nào cũng
đều là sự thật, và cũng hiểu được tại sao đức Phật ở trong Kinh đã nhiều
phen dặn dò và phó chúc Địa Tạng Bồ tát là: “Đừng để chúng sinh đọa vào
ác đạo cho dù chỉ là một ngày một đêm. Nhất định phải nói rõ cho chúng
sinh biết những sự khổ trong nhân quả báo ứng này, đừng để cho chúng sinh
đọa vào ác đạo chịu khổ một ngày một đêm”. Nhưng lúc bình thường chúng
ta có để ý và hiểu tâm từ bi này của Phật không?
Khi bệnh nhân kêu tôi nửa đêm, lúc tôi rất mệt và buồn ngủ nhưng phải
tỉnh dậy để đi thăm họ, săn sóc, cho thuốc hoặc là trị liệu, lúc đó thấy chúng
sinh đang chịu đựng bên bờ sinh tử, những câu trong Kinh Bát Đại Nhân
Giác liền hiện ra trong tâm: “Sinh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng, phát đại từ
tâm, phổ tế tất cả, nguyện chịu thay vô lượng khổ cho chúng sinh, làm cho
chúng sinh đến được sự sung sướng viên mãn”. Nhưng khi nhìn thấy cảnh
tượng quá khổ này, kêu bạn đi chịu khổ thay cho chúng sinh, bạn có thể làm
được không? Thử hỏi những sự khổ đã kể ở đoạn trước, bạn có thể thay thế
cho họ một đêm không? Tôi không nói chuyện “thay thế” này quá khó, chỉ
là ở một bên để săn sóc an ủi người bệnh liên tục mấy đêm liền không ngủ, cả ngày lẫn đêm thì đã quá khó rồi (thường thì bạn sẽ cảm thấy đầu nặng,
tim đập mạnh hơn lúc trước…). Tu hành trong nhà Phật, trừ tâm từ bi ra, còn
cần có lòng tin vững chắc, nguyện lực rộng lớn, niệm Phật chuyên cần thì
mới có khả năng thoát ra khỏi lục đạo sinh tử luân hồi khổ não. Thật ra
không nói là thay thế chịu khổ, chỉ ‘nghe’ thôi, cả ngày ngồi ở đó từ sáng
đến tối nghe người ta than thở: “Tôi khổ như thế nào”, “nhà tôi có sự khổ vô
cùng”, để cho bạn nghe một ngày 24 giờ, liên tục mấy ngày liền thì bạn sẽ
hiểu. Sau khi tôi ‘nghe’ một thời gian, có một hôm khi tôi đang niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát thì nghe có tiếng người khác cũng đang niệm “Nam Mô Đại
từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát”, nghe xong câu này tôi liền có một niềm
xúc động vô hạn, chảy nước mắt lúc nào không hay. Thật đúng như vậy,
đừng nói để bạn thay thế chúng sinh chịu vô lượng khổ, chỉ để bạn ‘nghe’ sự
khổ thì liền biết lòng từ bi vô biên của Bồ tát. Ngài đã phát nguyện “lắng
nghe chuyện khổ nạn trong thế gian”, chỗ nào có người chịu khổ thì liền lập
tức đến để cứu họ. Chúng ta lắng tâm để niệm Bồ tát, từ danh hiệu của một
vị Bồ tát thì biết được lòng từ bi vô cùng tận của chư Bồ tát, tâm địa rộng
lớn không thể nghĩ bàn của quý Ngài.
Khi đôi mắt tôi nhìn thấy sự buồn rầu, lo sợ, khủng bố của những người
sắp chết, đôi tai nghe vô số tiếng khóc lúc sinh ly tử biệt, quay lại niệm ‘vô
lượng quang minh và vô lượng thọ’ của đức Phật A Di Đà, tự nhiên lại tràn
đầy nước mắt và cảm nhận được sự từ bi thông cảm vô cùng thân thiết chứa
đựng trong danh hiệu đức Phật A Di Đà. Thì ra đức Phật A Di Đà, từ xưa đã
biết được những sự đau buồn đen tối và sự lo sợ trong vòng sinh tử của
phàm phu chúng ta, nên Ngài phóng vô lượng quang đến khắp mọi nơi để
cứu độ, không nhàm chán mà an ủi chúng sinh. Ngài không nghỉ ngơi,
không ‘lấy vacation!’ ngày cũng như đêm, chí nguyện vĩnh viễn không bao
giờ ngừng nghỉ để cứu giúp chúng sinh trong biển khổ sinh tử, đem sự thanh
lương ở cõi Cực lạc ban bố cho chúng sinh. Bạn có để ý những khi mưa suốt
mấy ngày liền nhưng mặt trời vẫn không mất đi. Vô Lượng Quang Thọ là
một nguồn từ bi vĩnh hằng, chiếu rọi vô tận, không bị bất an vì mất đi quang
minh, không có sự đau khổ của sinh ly tử biệt.
Có khi đêm đã khuya, thuốc ngủ và thuốc chống đau đều không còn hiệu
lực nữa, tôi thường ở bên giường bệnh nhân giúp họ niệm Phật (thật ra phải
nói là Bồ tát bệnh nhân giúp tôi niệm Phật, vì nếu không có họ ở một bên,
tôi không siêng đến nỗi nửa đêm không ngủ thức dậy niệm Phật). Hòa hợp
vào nhịp thở và tiếng niệm Phật của bệnh nhân, vừa niệm vừa nghe từng câu
từng tiếng một cách an tịnh. Khi thuốc men không còn công hiệu nữa, hết
sức thành khẩn cầu cứu đức Phật A Di có công hiệu mạnh nhất, có thể an ủi được thân tâm đau khổ của bệnh nhân. Lắng nghe được một tiếng thì ngay
khi đó liền được giải thoát, nếu an tịnh mà nghe rõ ràng từng chữ thì sự đau
khổ trong mỗi phút này liền biến mất, cũng như giọt sương tan khi mặt trời
mọc. Phật A Di Đà cũng như một công ty cung cấp điện lực miễn phí, chỉ
cần bạn đừng rút đồ cắm điện ra thì sẽ thâu nhận được nguồn năng lượng
vĩnh viễn không bao giờ chấm dứt này.
Có một người bị ung thư mũi, ở đây giới thiệu về người này là có ý
nghĩa đặc biệt. Ung thư đã lan rộng đến mức khó thở thì cô mới đến bệnh
viện, lúc đó vô cùng đau đớn. Một thời gian không lâu trước khi mất, cô
phát tâm ăn chay. Cô kéo tay tôi và nói: “Bác sĩ à, nếu bệnh tôi không có hy
vọng chữa hết thì xin cầu cho tôi được mau mau về nước của Phật A Di Đà”.
Cô từ bệnh viện khác đến bệnh viện chúng tôi để trị liệu phóng xạ. Bệnh ung
thư mũi vốn là bệnh có hiệu quả trị lành rất cao, chỉ cần phát hiện và trị liệu
sớm thì đều hết bệnh, nhưng cô phát hiện bệnh quá trễ. Vì nửa đêm, cô bị hô
hấp khó khăn nên người ta mới chở cô đến bệnh viện của chúng tôi để cấp
cứu, nhưng không cứu được. Đêm đó, tôi không có trực tại bệnh viện, cho
đến sáng hôm sau, lúc tôi đến thì cô đã ngừng thở hết một thời gian và được
xem là đã chết rồi, người nhà đang sửa soạn để xuất viện. Không biết tại sao
y tá ở phòng cấp cứu gọi tôi bằng hệ thống truyền thanh của bệnh viện. Khi
tôi đến, nhìn thấy cô thì cảm thấy rất buồn. Tôi kề bên tai cô và nói:
“Trong đời sống quá ngắn ngủi của cô đã chịu đựng quá nhiều đau khổ.
Con cô tuy còn nhỏ nhưng đã có chồng cô lo cho nó, những chuyện này cô
muốn lo cũng lo không được rồi. Bây giờ cô nhất định phải buông xả hết tất
cả mọi việc. Cô hãy cùng tôi niệm A Di Đà Phật rồi theo Ngài đi về Tây
phương Cực lạc thế giới”.
Tôi ở bên cạnh cô niệm Phật và cầu đức Phật từ bi nhiếp thọ. Lúc đó,
trong lòng tôi cảm thấy rất rõ ràng mỗi một câu niệm Phật đều từ đáy lòng
phát ra. Một điều kỳ lạ là nước mắt của cô cứ chảy ra hoài. Sau đó, tôi mời
những cô y tá trong phòng cấp cứu lại xem và nói: “Trên mặt y khoa, chúng
ta nói là cô ta đã chết, hơi thở đã đoạn dứt rồi, không còn nhịp tim đập,
không còn áp suất của máu, tất cả đều không còn nữa. Nhưng nhà Phật nói
tại vì người chết có chấp trước, thần thức của họ chưa hoàn toàn rời khỏi
thân thể, bình quân phải đợi đến tám giờ sau mới lìa khỏi thân thể. Do đó,
chúng ta phải lo cho người gần lâm chung hoặc người mới chết một cách
đàng hoàng”. Nhưng người hiện nay nếu tắt thở trong bệnh viện, phần đông là không
cho chúng ta để yên không động đến thi thể của họ, điều này thật đáng tiếc.
Là người học Phật, chúng ta phải đặc biệt chú ý. Lúc lâm chung vô cùng
quan trọng, vì lúc người ta gần tắt thở tứ đại phân ly rất đau đớn, thần thức
gần thoát ly ra khỏi thân thể, đau giống như gió rét cắt thịt hoặc như kéo mu
rùa rời khỏi thân rùa. Lúc bấy giờ tuyệt đối đừng đụng chạm đến thân thể
của người mất, phải nhắc nhở và giúp họ niệm Phật, giúp họ khởi lên chánh
niệm muốn vãng sinh cõi Cực lạc. Nếu không vãng sinh thì phải tùy theo
nghiệp báo đi đầu thai, đời đời kiếp kiếp lưu lạc trong sáu nẻo luân hồi, sự
khổ đau của sinh lão bệnh tử cứ diễn đi diễn lại mãi mãi. Cho dù bạn là ông
vua hay tổng thống cũng không tránh khỏi, thông minh không đối chọi được
với nghiệp lực, giàu sang cũng không miễn được luân hồi!
Một lần nữa xin nhắc quý vị, nếu sau này gặp những trường hợp như vậy
thì phải chú ý: Lúc lâm chung và tám giờ đồng hồ sau khi tắt thở, đều phải
nhất tâm niệm Phật, nếu Tín, Nguyện được chân thành thiết tha, đức Phật
nhất định sẽ từ bi nhiếp thọ. Trong lúc này (trong vòng tám giờ), không
được di chuyển và động chạm đến thi thể người mất, không được làm bất cứ
chuyện gì động chạm đến họ (kể cả di chuyển giường họ đang nằm).
Nếu bạn đã bị bệnh nặng thì biết trong lúc thân thể vô cùng yếu đuối và
đau đớn, cho dù chỉ nhích một tí để xoay mình lại, hoặc là thay áo thì cũng
làm cho người bệnh rất đau, thân tâm rất khó an lạc. Phần đông, người ta
cho rằng niệm Phật là để tiễn đưa người mất. Thật ra, đức Phật A Di Đà có
vô lượng quang và vô lượng thọ, niệm Phật cho người bệnh nặng là đem tâm
đang đau khổ rối loạn của người bệnh mà khế hợp (nối liền) với vô lượng
hào quang của Phật (cũng là để khôi phục lại vô lượng quang thọ trong tự
tánh mỗi người). Nếu mạng chưa hết, niệm Phật nhờ vào Phật lực gia trì, có
thể tiêu tai diên thọ. Có nhiều bệnh nhân buông xả hết vạn duyên nhất tâm
niệm Phật, vốn là bệnh rất nặng nhưng cũng lành bệnh. Nếu thọ mạng đã
hết, khi niệm Phật thì được đức Phật tiếp dẫn về cõi Cực lạc, đi ‘du học’,
được tự tại an lạc. Trong bệnh viện, tôi từng thấy rất nhiều bệnh nhân được
đưa vào phòng cấp cứu, nhưng cứu không được, bác sĩ tuyên bố đã chết rồi.
Vài giờ sau, người nhà từ phương xa đến, người mất tự nhiên ra máu mũi
hoặc chảy nước mắt. Những chuyện này làm cho tôi càng tin tưởng lời dạy
của người xưa: “Không được đụng chạm và di động người mất trong vòng
tám giờ sau khi tắt thở, hết lòng niệm Phật để trợ niệm cho người mất”. Ở
đây, xin quý vị để ý đừng nên xem thường chuyện này mà tạo nên sự sơ sót
không thể nào hàn gắn lại được. Có một bệnh nhân vốn là một người bán thịt heo, thường ngày đối xử
với mọi người rất tử tế, nghề mổ heo là do cha mẹ truyền lại, ông nói:
“Chúng tôi không thể đổi nghề và cũng không biết là nên đổi nghề gì khác”.
Thuở nhỏ, có người dạy ông niệm A Di Đà Phật, nên mỗi lần ông nhìn thấy
tượng Phật thì đều chắp tay niệm ‘A Di Đà Phật’. Điều đáng quý là ông nói
ông không cầu nguyện gì cho mình cả mà chỉ hy vọng đức Phật phò hộ cho
tất cả chúng sinh; ông nói: “Đức Phật làm sao chỉ phò hộ cho một mình tôi
được chứ”. Quan niệm này thật rất đúng. Tuy đã làm nghề này lâu rồi nhưng
tâm địa của ông rất hiền lương. Ông không biết giết heo là làm hại chúng
sinh thì phải chịu quả báo không tốt. Ông bị ung thư hàm dưới, qua một thời
gian sau, nguyên cả cuống họng cũng bị ung thư lan đến, tuy có chữa trị
nhưng cũng tái phát trở lại. Mỗi đêm, ông nằm trên giường rên rỉ, hít thở rất
khó khăn và phát ra âm thanh như kéo cưa vậy. Trong miệng có đàm nhưng
không thể khạc ra mà cũng không thể nuốt xuống, cuống họng như bị xiết
cứng lại nên mỗi lần thở mạnh thì rất đau. Ông nói lúc đó ông mới biết được
sự đau khổ của con heo vừa bị làm thịt, ông thật tâm sám hối. Ông ăn không
được nên phải đút ống vào miệng để dẫn thức ăn lỏng. Trên quan niệm thì
ông đã hiểu rõ và phát tâm niệm Phật cầu sinh Tịnh độ. Sắc mặt của ông
khác hẳn với những bệnh nhân khác, ông không thường âu sầu. Ông nói:
“Nhờ bác sĩ xem thân thể tôi có bộ phận nào còn dùng được, đôi mắt tôi có
thể quyên cho người khác không? Tim tôi còn tốt không? Có thể quyên cho
người khác không? Nếu quyên được thì xin quyên, bởi vì hy sinh một mình
tôi không quan trọng lắm, nếu có thể làm cho người khác sung sướng thì rất
quý”. Tôi nói: “Tâm của ông thật rất giống tâm địa của Bồ tát. Đời của mỗi
người có thể làm gương cho người khác, đôi mắt của ông chỉ có thể cho một
người duy nhất. Người đó có đôi mắt này sẽ nhìn thấy mọi sự vật, nhưng sau
khi nhìn thấy, không biết người đó sẽ vui hay giận. Nếu dùng đôi mắt này để
nhìn những thứ làm cho người đó phẫn nộ thì rất đáng tiếc. Một người tiếp
nhận đôi mắt thịt này chưa chắc sẽ sung sướng. Nếu không biết dùng thì giải
phẫu thay tim cũng không thể làm cho người đó hạnh phúc, nếu người đó
không hiểu rõ được đạo lý chân chánh. Ý tôi không phải phản đối không cho
người giải phẫu thay bộ phận trên thân thể. Nhưng người có thể chịu đau
trong lúc mổ xẻ mà không sinh tâm sân hận hay hối hận thì cần phải có ‘đạo
lực’ rất lớn. Hơn nữa, tuy là người bị bệnh ung thư có lòng tốt và quyên tặng
bộ phận trên thân thể của họ khi còn sống, nhưng người tiếp nhận có ngại
sau khi tiếp nhận bộ phận này sẽ bị ung thư không? Ông có lòng tốt như vậy
rất đáng quý, tôi không thể ngăn cản ông được, chỉ nói với ông là: “Bây giờ
ông nên niệm Phật gấp rút để vãng sinh đến Tây phương Cực lạc thế giới và
sau đó theo nguyện vọng trở lại độ chúng sinh. Chỉ cần lúc này ông nỗ lực
niệm Phật để đến phút cuối có thể bước chân lên đài sen, ông sẽ làm gương tốt cho rất nhiều người, và làm cho họ hiểu được sự thù thắng của cõi Cực
lạc”. Ông nói suốt đời làm nghề này, ban đầu vì tình trạng kinh tế gia đình
bắt buộc, nếu không làm (giết heo) thì không có tiền sinh sống. Sau này tính
lại, số tiền ông kiếm được làm nghề này không đủ để ông trả tiền nằm nhà
thương mà trái lại còn thiếu nợ nữa, làm cho đời sống ngày càng khó khăn
thêm. Người ta thường viện cớ ‘không làm như vậy không được’, tuy biết là
làm như vậy không đúng với Phật pháp mà vẫn tiếp tục làm. Một ngày nào
đó phát hiện ra ‘không được nữa’, quay đầu nhìn lại mới biết làm như vậy
không được bao nhiêu nhưng cuối cùng phải mang bệnh và đau khổ, phải trả
bằng một giá quá đắt, thật không đáng chút nào. Lúc ông nằm bệnh viện, có
một số liên hữu lại giới thiệu Phật pháp và giúp ông niệm Phật. Sau khi về
nhà và mấy ngày trước khi mất, ông nhờ người nhà kiếm họ tiếp tục trợ
niệm. Vài người ở Y Vương Học Xã và bà chủ nhà trọ của tôi đều đến trợ
niệm cho ông. Nghe nói ông mỉm cười và niệm Phật mà đi. Họ càng niệm
Phật thì ông cười càng tươi hơn. Xong rồi họ nói với tôi: “Chúng tôi trợ
niệm cho ông, ông mỉm cười nhìn chúng tôi, sau tám giờ ông ấy cũng vẫn
còn mỉm cười nhìn chúng tôi”.
Có câu thơ như vầy:
“Tự thị bất quy, quy tiện đắc
Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?”
Tạm dịch:
Không chịu quay về, về được ngay,
Gió trăng mây cũ kẻ nào tranh?
Nụ cười của ông khi ‘quay về cố hương’ thật là sự an ủi và khích lệ cho
những người đang vùng vẫy bàng hoàng bên bờ sinh tử. Nụ cười cuối cùng
của ông là nụ cười vô cùng hiếm hoi và trân quý.
Những câu chuyện kể trên đều là hình ảnh của sông Hằng. Tất cả các
hình ảnh của dòng sông sinh tử này đã làm cho đức Phật Thích Ca cảm thấy
rất nhức đầu. Ngài đã nhìn thấy những hình ảnh của sinh, già, bệnh, chết và
suy nghĩ để tìm cách cứu giúp chúng sinh xa lìa biển khổ sinh tử. Trải qua
một quá trình gian khổ dưới bóng cây Bồ đề, Ngài đã giác ngộ được tất cả
đạo lý của nhân sinh vũ trụ. Bắt đầu chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển,
thuyết pháp Tứ Đế (khổ, tập, diệt, đạo) cho nhóm năm Tỳ kheo đầu tiên (nhóm ông Kiều Trần Như). Ngài nói cho họ biết nhân sinh có các thứ khổ
như thế nào, nguyên nhân của khổ là gì, phương pháp thoát khổ là gì, và sau
khi thoát khổ thì sẽ ra sao. Tôi nghĩ, đây là cuộc diễn giảng về y học hoàn
hảo nhất trong lịch sử nhân loại. Đức Phật là một người thầy thuốc vĩ đại
nhất. Ngài đã giảng cho chúng ta phương pháp vĩnh viễn miễn trừ những sự
đau khổ này! Như tia sáng lóe ra từ trong đêm dài đen tối, giác ngộ là con
đường vô cùng xinh đẹp, con đường đi về cố hương, đi trở về với Phật tánh
thanh tịnh vốn sẵn có của mỗi người. Đức Phật Thích Ca mỗi ngày đều kêu
gọi chúng ta mau mau lên đường đi về quê hương, Ngài muốn chúng ta tháo
mở những phiền não đang trói buộc chúng ta để đi đến sự an lạc viên mãn.
Quý vị có muốn nối gót đức Phật đi trở về quê hương không? Có nhiều
người đi theo đức Phật và đã giác ngộ rồi. Quý vị hãy xem hình của lão Hòa
thượng Hư Vân, chỉ cần nhìn thần sắc của Ngài, chỉ cần xem phong độ phi
phàm của Ngài mà không cần xem truyện ký, chúng ta cũng cảm nhận được
tấm lòng của Ngài rộng lớn như thế nào mới có được thần sắc như vậy. Tôi
từng nghe một Pháp sư kể lại vào năm thầy của Pháp sư 36 tuổi, lão Hòa
thượng lúc bấy giờ đã 106 tuổi, hai người đi qua một con sông, cây cầu bắc
ngang con sông được làm bằng hai cây trúc hợp lại. Vị thầy trẻ tuổi này
không dám đi qua, lão Hòa thượng nắm lấy cổ áo ông nâng lên như thế rồi
khiêng ông đi qua sông. Hai chân của ông còn đá tới đá lui sợ hết hồn, lão
Hòa thượng nháy một mắt cũng không chớp thì đã khiêng ông đi qua cầu.
Nguyên câu chuyện này quý vị có thể đọc được trong niên phổ truyện ký, ở
đây, chúng ta chỉ nhắc đến một chút, mọi người có thể từ đó mà suy nghĩ.
Hãy nhìn xem những người nối gót chân đức Phật, họ làm thế nào mà ‘sinh
thời tợ lệ hạ hoa, tử thời mỹ như thu nguyệt’? Lúc sống đẹp như hoa mùa hạ,
lúc chết đẹp như trăng tròn mùa thu chiếu khắp nơi.
Thêm một vị đại đức gần đây nhất là lão Hòa thượng Quảng Khâm, mọi
người đều xưng tán Ngài là “bảo vật” trong Phật giáo. Hai ngày trước khi
vãng sinh, đôi mắt Ngài sáng và vô cùng sắc sảo. Năm lão Hòa thượng 92
tuổi, tôi có dịp theo Ngài đi lên núi, Ngài đi ở phía trước từng bước rất vững
vàng và nhanh chóng. Tôi đi theo phía sau thật rất mệt mới theo kịp. Lúc đó
chùa Thừa Thiên còn đang xây cất chưa xong, khi đi qua một đoạn đường có
nhiều vật chướng ngại, xém chút xíu tôi bị té, Ngài quay đầu lại nói: “Con
phải đi cẩn thận nghen!”. Giọng nói của Ngài khàn khàn nhưng có oai lực,
ánh mắt nghiêm nghị nhưng chứa đựng lòng từ bi vô hạn. Tôi rất hổ thẹn;
bây giờ trên đường đời đã vấp ngã bao lần, đã gặp phải nhiều chướng ngại,
nhớ lại lời Ngài nói thì tự nhiên lệ đẫm ướt mi lúc nào không biết. Có người tưởng Ngài rất là huyền bí nên muốn đi ‘điều tra’ cặn kẽ. Đến
khi nghe Ngài nói chuyện hết nửa ngày thì chỉ nghe toàn là những từ ngữ
như: ‘Niệm Phật’, ‘đừng ăn thịt’ nên trong bụng thầm nghĩ: “Tôi cũng biết
nói như vậy, cần gì phải hỏi lão Hòa thượng!”. Thật không sai, ai cũng biết
nói như vậy, nhưng chúng ta không ai đã từng trải qua sự tu hành khổ hạnh,
công phu chân thật như Ngài, lại không có đủ đức hạnh để cảm hóa người
khác. Cho dù có nhiệt tâm để khuyên người, người ta còn chê mình là ‘nhiều
chuyện’ nữa. Ngài đã hàng phục được mình, đã hạ thủ công phu rất sâu
trong sự tu niệm, nên tự nhiên cảm hóa được hàng vạn người. Lúc Ngài còn
trẻ tu hành ở trong hang trên núi, khi lương thực đem theo đã hết thì chỉ nhờ
vào khoai rừng và rễ cây để duy trì mạng sống. Ba chiếc áo vá đi vá lại đến
khi chỉ còn một chiếc, suốt sáu mươi năm chỉ ngồi không nằm, đối với vật
chất yêu cầu rất thấp. Lúc còn trẻ ở chùa Thừa Thiên, thầy của Ngài là
Chuyển Trần lão Hòa thượng có dạy Ngài như vầy: “Ăn những thứ mà
người khác không ăn, mặc những thứ mà người khác không (muốn) mặc,
làm những gì mà người khác không làm, sau này thì ông mới biết”.
Thầy của Ngài chỉ dạy Ngài tu khổ hạnh và chuyên niệm Phật. Ngài làm
theo những lời dạy này một cách rất thật thà, hạ thủ công phu trên tâm địa
mình. Rốt cuộc, Ngài trở thành một vị rất phi phàm; rất nhiều người vừa mới
gặp liền cảm động, mến phục, và rất kính trọng Ngài.
Những lời Ngài khai thị thường thường chỉ là một vài câu, nhưng có ý
nghĩa rất quan trọng; nếu chúng ta tin theo được thì nhất quyết sẽ không lãng
phí đời này. Như phía trước có nói: ‘Niệm Phật’ và ‘đừng ăn thịt’. Nếu
chúng ta trong mỗi niệm đều niệm Phật, làm cho đại quang minh, trí huệ, từ
bi, và giác ngộ của chư Phật bất kỳ lúc nào cũng tràn đầy trong tâm khảm
của mình; như vậy không phải là lúc nào cũng kiết tường hay sao? Không
còn sự đau khổ của ‘nhân, ngã, thị, phi’, không chịu sự hành hạ của tham,
sân và si nữa. Nếu giảm bớt sự ham thích ăn uống và làm theo lời dạy của
Ngài: “Đừng ăn thịt”thì từ từ sẽ thể hội được đạo lý: ‘Cùng một gốc rễ’
(cùng bản thể), sẽ thưởng thức được sự hỷ duyệt (vui sướng) của lòng từ bi.
Mỗi ngày trong lòng đều điềm đạm, bình thản, mộc mạc, tin sâu, nguyện
thiết và niệm Phật cầu sinh Tây phương, lúc lâm chung sẽ nhờ sức Phật tiếp
dẫn, thoát khỏi sự đau khổ đời đời kiếp kiếp của sinh tử luân hồi! Hai câu
nói đơn giản của Ngài đã chỉ ra con đường sáng rỡ thành Phật ngay trong
một đời. Ai thật thà chịu nghe, tin, và làm theo thì sẽ được lợi ích lớn; người
không thật thà chỉ thích nói lý thuyết cao siêu, làm những chuyện kỳ quái,
phô trương một số thần thông mà lại xem thường lời dạy quan trọng nhất
này thì sẽ đánh mất cơ hội quý báu để thoát ly sinh tử luân hồi. Đệ tử của lão Hòa thượng thuật lại lúc Ngài còn tại thế, một hôm có một
người xách cặp táp kiểu điệp viên 007 một cách rất thần bí, lên núi xin gặp
và nói chuyện “riêng” với Ngài. Vì trong quá khứ đã có người có ý muốn
làm hại Ngài cho nên các đệ tử không cho người này đơn độc gặp lão Hòa
thượng. Người này đến kề vào tai lão Hòa thượng và hỏi Ngài một cách rất
cung kính: “Kính thưa lão Hòa thượng, người ta đều nói Ngài có thần thông,
xin Ngài nói thật với tôi Ngài có thần thông hay không?”.
Sau đó lão Hòa thượng cũng thần bí kề vào tai người kia mà nói: “Tôi
nói với ông, tôi có ăn thì có thông, không ăn thì không thông!”.
Sự kỳ diệu của Phật pháp là ở chỗ rất bình thường, không lôi cuốn sự
hiếu kỳ của người ta bằng những thần thông hoặc những tướng trạng kỳ dị.
Người người đều có đầy đủ thần thông, chỉ vì bị tâm tham, sân, si, mạn,
nghi, phiền não che lấp nên không thể hiện ra được; có thần thông mà không
thể giải quyết vấn đề sinh tử thì cũng như không. Hướng ngoại tìm cầu nhờ
“những người có thần thông” cứu giúp là “bỏ gốc rễ (căn bản) mà tìm cành
nhánh”. Ngài nói: “Cầu người thì mất đi đức Phật Thích Ca”.
Tôi cảm thấy “thần thông” vĩ đại nhất rất đáng cho mọi người tán thán là
công phu nhẫn nhục của Ngài: “Nhẫn chuyện người không nhẫn được, làm
chuyện người khác không làm được”. Năm xưa khi Ngài từ hang động trên
núi về đến chùa Thừa Thiên ở Đại Lục, đầu tóc mọc ra quá dài làm cho Ngài
trông giống như một người rừng, không ai nhận biết đến, khi giải thích rõ
ràng thì mọi người mới nhận ra. Về chùa qua một thời gian sau đó, vị sư
“đương gia” (thầy giám viện) và “điện chủ” trong chùa muốn khảo nghiệm
công phu tu hành của Ngài nên cố ý đem tiền trong thùng phước sương giấu
đi, rồi giả vờ nói nghi ngờ lão Hòa thượng đã ăn cắp tiền này; từ đó mọi
người đều cho là Ngài đã ăn cắp, ai cũng đều nói nặng nói nhẹ lão Hòa
thượng. Ngài nghe những lời nói này như gió mùa xuân thổi và như uống
nước cam lồ, an nhiên tự tại, tâm lượng của Ngài thật vô cùng rộng lớn, thật
là một người tiêu diêu tự tại. Cái “thần thông” nhẫn nhục này so với những
thứ “phóng quang, lên khói” thì còn thần kỳ hơn nhiều; tại vì đốt giấy thì sẽ
lên khói, đốt đèn thì sẽ phóng quang, nhưng chúng ta tự hỏi ai bị vu oan là
người ăn cắp mà vẫn an nhiên tự tại như uống nước cam lồ và vẫn không
giải thích biện bạch rằng mình không phải (người ăn cắp!). Ai có công phu
tu hành đến mức nhìn thấu chuyện thế gian như bèo như bọt là người có đại
trí huệ, xứng đáng được người khác cung kính. Chúng ta thường biến thành
vật mà lão Hòa thượng hình dung là “thạch đầu cẩu” (con chó chạy theo cục
đá). Người ta muốn chúng ta chạy thì rất dễ, chỉ cần liện một cục đá thì mình liền chạy theo, đuổi theo đến khi mệt lả, đuối sức cũng chỉ vì đuổi theo một
cục đá ăn không được! Lão Hòa thượng mở to đôi mắt nói: “Không có chủ
trương (ý chí không cứng rắn nhất định) như vậy làm sao có thể đi về Tây
phương được?”. Ngài làm chủ được mình, sinh tử tự tại, mọi người đều kính
trọng. Ngài không cầu danh văn lợi dưỡng mà chỉ biểu hiện qua hành vi
trong đời sống thường ngày, làm cho mọi người tự nhiên tâm phục khẩu
phục.
Có lần nọ, một ký giả nhà báo lên chùa uy hiếp, đòi tiền Ngài và nói:
“Ngòi bút của tôi rất lợi hại, nếu không đưa tiền cho tôi thì tôi sẽ viết xấu về
Ngài”. Lão Hòa thượng điềm nhiên và nói: “Cứ việc đăng lên báo, tùy ý viết
như thế nào cũng được, tôi không cần người ta cung kính, nếu người ta cung
kính tôi, mỗi ngày tôi phải niệm Chú Đại Bi gia trì vào nước Đại Bi cho họ;
nếu người ta không cung kính tôi, tôi được rảnh rang thanh tịnh mà niệm A
Di Đà Phật”. Người ký giả này cũng không làm gì được và cảm than rằng
Ngài không giống người phàm, đúng là: “Sự việc đến mức không tâm thì rất
vui sướng, người có thể không mong cầu thì phẩm đức tự nhiên cao”.
Còn lần nọ, một số đệ tử theo Ngài đi nghe giảng và biết vị Pháp sư
thuyếp pháp có ý phê bình Ngài trong buổi giảng nên nổi giận và về chùa
thuật lại với Ngài. Không ngờ Ngài nghe xong, không những không nổi giận
mà còn kêu nhóm đệ tử này phải sám hối với vị Pháp sư đó, và còn giải
thích rõ (dùm vị Pháp sư) hàm ý của những ngôn từ đó. Ngài nói với nhóm
đệ tử nếu người ta lấy pháp danh của mình mà chửi mắng thì mình phải cảm
ơn người ta, huống chi là họ không có nói rõ tên mình ra! Ngài còn nghiêm
nghị mà giảng về đạo lý: “Nếu muốn Phật pháp hưng thịnh thì tăng phải
khen ngợi tăng”. Ngài khen ngợi vị Pháp sư đó: “Trong thế giới trược ác này
có thể độ chúng sinh, đúng là Bồ tát”. Và còn khiêm tốn nói: “Tôi không
dám làm”. Công phu của lão Hòa thượng đạt đến mức chúng ta không thể
suy đoán nổi, những việc xảy ra thường ngày đều nói lên tâm lượng rộng lớn
của Ngài. Mọi câu chuyện về Ngài đều làm cho tôi cảm động. Ngài như ánh
thái dương từ bi phổ chiếu từng ngọn cỏ gốc cây; tuy nhiên cũng có khi
dùng cây kiếm trí huệ của Ngài để chém sạch cành lá của phiền não, chém
sạch danh văn lợi dưỡng, giúp cho những mầm non đang lớn có thể hướng
về Tây phương thanh tịnh. Ngài thường đề ra những bài thi đột xuất, thường
rất là sôi nổi và kích thích, tài nghệ “diễn kịch” của Ngài rất xuất sắc; những
người bị khảo thí này thường bị cảnh giới chuyển dời, ngay khi đó không
cảnh giác thì không biết, lâu dần thì hiểu được và mới biết thiện ý rất từ bi
của lão Hòa thượng. Phương pháp và sự tập luyện của Ngài có thể hình dung
là: “Xay đến tróc vỏ, mài đến (gạo) trắng, nhồi đến nhuyễn, nung đến đổi màu”. Cách này làm cho một người chân chính phát tâm tu hành trở thành
“một cái bánh Thánh có thể cúng dường tất cả chúng sinh, cúng dường tất cả
chư Phật”. Quá trình này thường phải đòi hỏi rất nhiều nước mắt và mồ hôi.
Có lúc lão Hòa thượng cũng rớt nước mắt, từ bi mà nói với đệ tử đang bị
Ngài khảo thí: “Thầy dạy như vậy con có hiểu rõ chưa? Thầy sợ kết oán thù
với con, chỉ muốn giúp con phá đi những thứ chấp trước, nhưng nếu con
không hiểu rõ được hết dụng ý, thì sẽ kết thành oán thù với các con. Tạo
cảnh nghịch ra là để tập luyện cho các con mà thôi!”.
Tổ sư nói ba món tư lương cần có để vãng sinh Tây phương là “tín,
nguyện và hạnh”. Nguyện là chán ghét muốn thoát ly cõi Ta bà và ưa thích
cõi Cực lạc. (Ta bà là từ “tự tâm ác” và “tâm uế”(dơ) tạo ra, Cực lạc là do
“tự tâm thanh tịnh” hiện ra). Tuyết Công lão ân sư cũng nhấn mạnh cái tâm
“hân” (ưa thích) và tâm “yếm” (chán ghét) là pháp môn “an tâm tịnh độ”.
Phàm phu chúng ta trong cảnh thuận rất khó phát ra tâm chán ghét Ta bà, bất
đắc dĩ nên lão Hòa thượng cho đến chư Phật, Bồ tát đều “ban” cho chúng ta
những cảnh nghịch, để chúng ta “dùng khổ làm thầy”, dõng mãnh phát tâm
chán ghét Ta bà ưa thích Cực lạc mà niệm Phật, liễu sinh thoát tử, dùng sự
tinh tấn cần khổ trong đời này đổi lấy sự tự tại hạnh phúc vĩnh viễn; thật ra
đây là ân huệ không có gì quý hơn mà các Ngài “ban” cho chúng ta. Ngặt vì
chúng ta ưa thích những “mìn” nổ chậm được bao bọc đẹp đẽ bên ngoài”,
theo đuổi sự khoái lạc và danh lợi nhất thời mà đánh mất sự an lạc vĩnh cữu.
Chư Phật, Bồ tát thường rơi lệ vì những sự tổn thất lớn lao của chúng ta.
Có lần lão Hòa thượng nghiêm nghị nói: “Trong thế giới Ta bà này, chỉ
cần tham ái một ngọn cỏ thì sẽ đi vào luân hồi trở lại”. Cho nên, mặc cho
mọi người đối với Ngài vô cùng cung kính cúng dường, Ngài vẫn buông xả
một cách rất siêu thoát. Ngôi chùa có một kiến trúc vô cùng hùng vĩ trên núi,
đối với Ngài chỉ là “một công cụ dạy học nhất thời mà thôi”, Ngài mượn
những nhân duyên và cảnh giới này để giảng dạy cho những chúng sinh có
duyên. Những người buông xả hoàn toàn và thành thật niệm Phật vãng sinh
mới là đệ tử chân chánh của Ngài.
Không lâu trước khi vãng sinh, Ngài cứ lặp đi lặp lại mà nói: “Sự khổ
nạn càng ngày càng nhiều, hãy tu mau lên, phải tu mau mau; tu một phần
được một phần công đức, tu một ngàn phần được một ngàn phần công đức,
tu một vạn phần được một vạn phần công đức!”. Ngài rất nhẫn nại nhắc đi nhắc lại hoài, đây là sự khuyên nhủ vô cùng
khẩn thiết; tin lời Ngài nói thì hãy thật thà niệm Phật, một môn thâm nhập
không nên đổi tới đổi lui!
Có một vị đạo hữu kể lại khi ông đi thăm và hỏi lão Hòa thượng: “Phải
niệm Phật cách nào?”. Ngài nghe xong liền hỏi lại: “Ông niệm như thế
nào?”. Ông trả lời: “Khi tôi rảnh rang thì thường niệm Phật”.
Lão Hòa thượng đáp: “Ông “rảnh” thì niệm, không rảnh thì không niệm,
như vậy chắc ông có “quen biết lớn” (điểm đầu chi giao) với Phật phải
không? Niệm như vậy thì làm sao kỳ vọng Phật đến cứu ông trong giờ phút
sinh tử. Lại đây, mọi người đưa chân ra, chân nào là chân Phật? Nhận ra
chân của Phật không? Nếu muốn ôm chân Phật, chân Phật là chân nào cũng
không nhận ra, thì làm sao ôm được. Ông đích thật là có nhận biết được Phật
không?” (Ôm chân Phật nghĩa là cầu cứu đức Phật).
Ngài nói như vậy là để thức tỉnh người ta. Vị đạo hữu này kể tiếp, Ngài
hớp một ngụm trà rồi ngước đầu lên hỏi: “Ông thấy tôi có ‘xướng’ ra tiếng
không?”. Ông đáp: “Không có”. Ngài hỏi: “Tôi niệm Phật ông biết không?”.
Lão Hòa thượng dạy một cách rất sống động và biểu diễn niệm Phật trong
khi uống trà, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả mọi thời đều phải niệm
Phật. Nửa đêm không vặn đèn, khi nghe hai tiếng ho ‘ách xì’ thì bạn biết là
cha bạn đã về. Như vậy lúc nửa đêm nếu đức Phật A Di Đà đến thì bạn biết
là Phật đến hay không? Chúng ta hãy thử hỏi mình đã niệm đến mức nhận
biết Phật và cùng Phật rất quen thuộc hay chưa? Lão Hòa thượng đã niệm
đến mức đó rồi.
Có một lần Ngài nói với một vị bác sĩ đến thăm: “Tiếng chim hót, xe
chạy, âm thanh tạp loạn đều là tiếng niệm Phật”. Ông này hỏi: “Ngài có thể
niệm như vậy được bao lâu?”. Ngài đáp: “Trú dạ lục thời” (nghĩa là 24 giờ
mỗi ngày, bất kỳ lúc nào cũng niệm như vậy).
Mười năm trước, lão Hòa thượng đã nói với đệ tử của Ngài: “Tương lai
lúc tôi vãng sinh sẽ hiện ra tướng có bệnh” và còn nói ba người trong nhóm
đệ tử của Ngài sẽ không tiễn Ngài ra đi (hiện diện lúc Ngài ra đi). Ba người
đệ tử này đều không tin, tại vì (họ nghĩ) một trong ba người thế nào cũng có
một người luôn ở bên cạnh Ngài. Làm sao có thể nói là họ không “tiễn Ngài
ra đi” được. Quả nhiên không sai, lúc Ngài ra đi vì một lý do đặc biệt gì đó
mà cả ba người tạm thời đi khỏi thì Ngài thật đã vãng sinh rồi. Trước lúc ra đi Ngài khuyến khích đại chúng: “Thế giới Ta bà này rất
khổ! Đại chúng mau mau niệm Phật để đi về Tây phương Cực lạc thế giới”.
Cuối cùng Ngài nói: “Không đến, không đi, không có chuyện gì!” rồi an
nhiên niệm Phật và vãng sinh. Thật là đẹp, thật là siêu phàm!
Chúng ta thì ngược lại: “Đến đến, đi đi, quá nhiều chuyện!”, không có
ngày nào, không có giờ phút nào mà không có chuyện để lo lắng và bận tâm
đến. Chữ ‘sự tình’ (chuyện xấu) trong tiếng địa phương ở Đài Loan hàm ý
không kiết tường, đúng như người ta thường nói: “Bất thị nhàn nhân nhàn
bất đắc, nhàn nhân bất thị đẳng nhàn nhân” (nếu không phải người nhàn hạ
thì nhàn không được, người nhàn hạ không phải là người tầm thường).
Trong tâm chúng ta nếu thật là không có ‘chuyện gì’ hết, thật là ‘nhàn
hạ’ thì cần phải có bề dầy công phu tập luyện chứ không phải dễ!
Khoảng một tuần trước lúc Ngài vãng sinh, cả ngày lẫn đêm Ngài đều to
tiếng niệm Phật. Cách niệm của Ngài là rất thành khẩn mà niệm A Di Đà,
không phải người nào cũng có thể niệm như vậy được. Đại chúng luân phiên
nhau niệm lớn tiếng theo Ngài mà còn khan tiếng, đau ngực, chịu không nổi
huống chi Ngài đã 95 tuổi! Đa số người ta lúc gần ra đi thì hô hấp rất yếu ớt,
không thể làm chủ được, còn Ngài thì mạnh như ‘tướng quân đột phá vòng
vây thoát ra khỏi ngũ trược ác thế’. Mấy người đệ tử sợ Ngài yếu sức chịu
không nổi vì cả tháng Ngài đã không ăn gì hết, nên nói: “Để chúng con
niệm, xin sư phụ đừng niệm, chỉ nghe theo mà thôi!”.
Ngài mở to mắt ra nói một cách rất dứt khoát: “Mỗi người niệm theo
mỗi người, sinh tử của ai thì tự người đó đoạn dứt”. Nói xong liền lớn tiếng
và thành khẩn mà niệm tiếp. Vào ngày thứ sáu trong tuần đó, đột nhiên Ngài
‘biểu diễn’ một màn kịch, tôi nghĩ thật là đáng để mọi người chiêm nghiệm.
Hôm đó đột nhiên Ngài không khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật như
lúc trước mà lại lịnh cho đại chúng đem Đại tạng kinh ra tụng. Đại tạng kinh
quá dài ai cũng không biết bắt đầu từ đâu mà tụng, nên hỏi lão Hòa thượng
phải tụng quyển nào?
Ngài đáp: “Tổng tụng” (tụng hết).
Đại chúng mới đem từ quyển Đại tạng kinh ra, nội việc khiêng ra cũng
mệt đứt hơi, nhìn thấy Ngài rất có vẻ quyết tâm vãng sinh, mọi người vừa
mệt, vừa gấp, mà vừa buồn. Ngài nói: “Để coi quý vị biết quyển Kinh nào,
tất cả đều tụng cho tôi nghe!”. Vì thế cho nên đại chúng phải tụng từng bộ từng bộ: Tâm Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Dược Sư, Kinh Địa Tạng… Lúc
ở trong cửa ngõ sinh tử khẩn yếu này mới biết nội hai trăm mấy chữ trong
Tâm Kinh cũng tụng không mạch lạc; có thể nói là miệng họ tụng nhưng
tâm họ lại lo ra. Lúc mọi người tụng kinh như vậy, Ngài lại cười chúm chím
mà tiếp tục niệm: “Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật…” một tí
gì cũng không bị ảnh hưởng bởi âm thanh đại chúng đang tụng kinh. Nụ
cười này của Ngài thật là một cây gậy thật to đập vào đầu của mọi người!
Thử hỏi trong màn biểu diễn bất ngờ này, có ai đã ‘tổng tụng’ Đại tạng kinh
không? Duy chỉ có lão Hòa thượng niệm niệm phân minh, rõ ràng, niệm
niệm rất khẩn thiết mạnh mẽ, niệm A Di Đà Phật, đây mới là ‘tổng tụng’ Đại
tạng kinh!
Chúng ta xin đừng nghi hoặc tại sao lão Hòa thượng lại thay đổi tiết mục
bất ngờ như vậy. Ngài thường dùng phương pháp ‘phản diện’ rất khéo léo để
cho mọi người tỉnh giác và còn làm cho mọi người ghi nhớ vào xương vào
tủy; ý nghĩa rốt ráo của sự tu hành là phải ‘thực hành’, không phải chỉ nghe
rồi bỏ qua. Trong trường y khoa bàn luận chuyện chữa bệnh trên sách vở
hiển nhiên rất khác với chuyện gặp lúc bệnh nhân máu chảy đầm đìa! Có lẽ
các bạn sẽ nghĩ sự thị hiện của lão Hòa thượng rất giống cách nói của Tuyết
Công lão ân sư: “Sáu chữ hồng danh bao gồm hết thảy tinh hoa của vạn
pháp”.
Phần đông người ta khi lâm chung rất khổ sở, chỉ bốn chữ “A Di Đà
Phật” cũng niệm không được, huống gì là tụng kinh mà còn tụng Đại tạng
kinh nữa! Chúng ta hãy nghe theo lời dạy bảo và hãy ‘lão thật niệm Phật,
đừng thay đổi đề mục’ nữa. Đừng lâm vào tình trạng ‘luyện hết mười tám
thứ võ nghệ, đến lúc khổ đau quá không biết phải dùng thứ nào’. Mỗi ngày
thay đổi đề mục hình như có vẻ học rộng biết nhiều và hình như cũng kết rất
nhiều duyên với Phật và Bồ tát. Đến lúc cần thiết thì tâm rối nùi như tơ,
không biết phải niệm vị nào mới được. Thật ra trong Kinh A Di Đà có nói:
“Sáu phương Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán A Di Đà Phật,
khuyên chúng sinh tín thọ, cầu sinh Tây phương”. Đây là nói rõ chúng ta
niệm Phật A Di Đà thì tất cả chư Phật đều vui vẻ tán thán, đây chính là ‘tổng
tụng’ vậy!
Hai ngày trước lúc vãng sinh, lão Hòa thượng đích thân gõ mõ và kêu đệ
tử niệm Phật, trong đó có nhiều chuyện rất thú vị. Ngài đem câu “Nam mô
Tây phương Cực lạc thế giới” niệm ráp vào danh hiệu của các vị Phật và Bồ
tát. Thí dụ như Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Văn Thù Sư Lợi Bồ
tát, Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Phổ Hiền Bồ tát, Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Di Lặc Bồ tát… Tôi hiểu ý của Ngài là ‘có thể gặp
tất cả những vị Bồ tát này ở thế giới Cực lạc’, chỉ cần chuyên niệm A Di Đà
Phật cầu sinh Tây phương thì có thể sánh bước cùng họ khi đến Tây
phương!
Một hôm tôi cùng một bác sĩ lên núi để thỉnh giáo Ngài. Ông bác sĩ này
hỏi: “Làm thế nào tĩnh tọa mới có thể đả thông huyết mạch?”. Ngài đáp:
“Không cần phải đả thông huyết mạch, nhất tâm niệm Phật chứng đến niệm
Phật tam muội thì tất cả huyết mạch tự nhiên đều thông!”. Đây là lời dạy của
người đã giác ngộ và đã được đại tự tại; chúng ta hiểu được thì không cần
phải phí sức tốn công đi tìm kiếm vô ích. Mau sớm chuẩn bị tư lương như
Ngài đã nói:
“Tôi đã mua vé xe rồi! Đã xác nhận ghế ngồi rồi!
Quý vị có phải đã mua vé rồi hay chưa?
Đã xác nhận ghế rồi chưa?
Hay là không cần xác nhận chỗ ngồi?
Hay là không chịu lên xe?”.
Phải nên mua vé sớm thì hơn, đừng làm giống tôi, sau khi Ngài vãng
sinh lên núi niệm Phật, niệm hết mấy giờ đồng hồ, nước mắt cứ chảy hoài,
không thể nào niệm Phật được đàng hoàng để cúng dường lão Hòa thượng;
cúi đầu không dám ngước lên, tại vì không làm theo đúng lời dạy và lời dặn
dò của Ngài, xấu hổ và sám hối đều đau khổ; xin nguyện cho các bạn đều
sớm mua vé thượng hạng ở toa thứ nhất, lên đài sen vàng ở thượng phẩm
thượng sinh!
Tiếp theo đây chúng ta hãy xem Tuyết Công lão ân sư (lão cư sĩ Lý Bỉnh
Nam) là một vị đại đức đương thời, 97 tuổi mới vãng sinh. Ở đây tại sao
phải nhắc đến tuổi lúc Ngài vãng sinh? Vì đoạn trước có nói những người
mắc bệnh mới ba mươi mấy tuổi đã chết, người nhà còn than là mạng sống
(đau khổ) kéo quá dài. Nhưng như lão Hòa thượng 95 tuổi, và thầy Lý 97
tuổi vãng sinh, mọi người đều than là quá ngắn, ai cũng khóc lóc đòi Ngài ở
lại trụ thế mãi mãi để phổ độ chúng sinh. Tôi đi nghe kinh cũng là vì cảm
kích thầy Lý. Mười năm trước tôi có cơ hội đến nghe thầy giảng Kinh Hoa
Nghiêm ở Thư viện Từ Quang, Đài Trung. Vì thầy có giọng nói của người
miền Sơn Đông (rất khó nghe) tuy là có phiên dịch qua tiếng Đài Loan,
nhưng tiếng Đài Loan (tiếng Phước Kiến) tôi cũng thông thạo, chủ yếu là vì trình độ quá kém nên nghe cũng không hiểu và cảm thấy thời gian kéo quá
dài và cũng không thích thú. Thấy mọi người chung quanh nghe kinh và
thường cười rộ lên mà mình không biết gì hết. Lâu lâu chỉ nghe được một
câu có cảm giác quen quen hình như đã nghe ở đâu rồi nhưng cũng không
hiểu. Mấy hôm trước, nửa đêm nằm mộng thấy trăng sáng lên núi, tự nhiên
nhớ lại lời giảng của thầy mười năm trước. Lúc đó thấy giảng Kinh Hoa
Nghiêm đến đoạn ‘vô tận tạng’, thầy có nhắc đến mấy câu trong bài Xích
Bích Phú của Tô Đông Pha:
"Duy giang tự chi thanh phong
Dữ sơn gian chi minh nguyệt,
Dĩ đắc chi nhi vi thanh’
Mục ngộ chi nhi thành sắc…
Thị tạo vật giả chi vô tận tạng dã".
Một người (không rõ tên) đã dịch như vầy:
“Bụi gió mát trên sông dài
Trăng sáng chiếu non thẳm,
Tiếng thoảng qua tai,
Cảnh in vào mắt…
Kìa kho vô tận của hóa công!’
Thầy giải thích chữ ‘vô tận tạng’ trong bài thơ này là lấy từ Kinh Phật.
Nửa đêm nằm mơ nhớ lại chuyện này rồi bị điện thoại reo giật mình, tỉnh
dậy không thấy rừng núi trăng sáng gì cả, chỉ thấy bệnh nhân khó chịu nên
mấy cô y tá kêu đi khám bệnh. Sau cơn mộng này mới càng hối hận, lúc đó
tôi đi nghe kinh không hiểu nên cứ nghĩ là thầy giảng không hay; thật ra là
vì trình độ của mình quá kém (thật ra cũng không có trình độ gì cả!), cho
nên mới chê là thầy giảng không hay và không tiếp tục nghe cả mười năm
rồi, xém chút xíu thì làm hỏng pháp thân huệ mạng của mình! Cách một thời
gian sau đó thầy không ra ngoài giảng kinh; khi tôi tham gia Trai Giới Hội
Học, chịu ảnh hưởng rất lớn của Pháp sư Sám Vân nên có thể nói Trai Giới
Hội Học đã chuyển biến cả đời tôi. Trong thời công phu tối, Pháp sư đọc bài
hồi hướng cho lão Hòa thượng Quảng Khâm và lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam làm
cho tôi có ấn tượng rất sâu đậm, nên một hôm có cơ duyên đặc biệt tôi liền theo mấy vị liên hữu đi nghe giảng kinh. Hôm đó, chân thầy Lý sưng lên đến
nỗi đi đứng không vững nên người ta phải dùng kiệu để khiêng thầy lên bục
giảng. Phật pháp thật quá quan trọng và người hoằng pháp thật là vĩ đại,
chân sưng lên đi không được mà vẫn tiếp tục giảng kinh thuyết pháp. Buổi
giảng hôm đó tôi khóc từ đầu đến cuối; bài giảng ghi lại nghuệch ngoạc, nét
chữ xem không rõ, đến nay cũng không nhớ nội dung là giảng về đề tài gì,
nhưng lòng từ bi vô lượng của thầy Lý đã làm chấn động tâm tôi một cách
mãnh liệt, tôi cảm động tinh thần ‘vì pháp quên mình của thầy’, nếu không
có lòng nhiệt thành hoằng pháp của thầy thì không có cách nào cứu nỗi cái
tâm ngoan cố ngu si của tôi, kể từ đó tôi dọn nhà về Đài Trung để nghe
giảng cho thuận tiện.
Mỗi đầu tháng khi bệnh viện sắp xếp thời khóa biểu làm việc, tôi luôn
luôn yêu cầu sắp xếp tránh thời gian đi nghe giảng; tôi thà chịu liên tục làm
việc suốt mấy ngày liền và thà chịu mệt chứ không chịu bỏ qua những buổi
giảng của thầy. Tại vì “thân người khó được, đây là một nhân duyên rất
hiếm có; Phật pháp khó nghe được, cơ hội rất khó gặp trong lũy kiếp; nếu lỡ
bỏ qua, thật không ai có thể bù đắp được sự tổn thất này!”.
Mỗi ngày bệnh nhân của tôi đều than thở khóc lóc để nhắc nhở tôi tầm
mức quan trọng của chuyện này; không phải không có người khuyên tôi:
“Cô nên ăn uống có dinh dưỡng một chút, uốn tóc đẹp một chút, mặc áo đẹp
một chút”, nhưng tôi thể hội một cách rất sâu sắc rằng trong giờ phút khẩn
cấp của sự sinh tử đời người, những thứ này đều không cần thiết tí nào! Phải
nên thấy rõ, hiểu thấu, nghe kinh, thực hành theo để chuyển hóa đời sống thì
có ích lợi hơn. Cho nên mặc dù giọng nói miền Sơn Đông của thầy rất khó
nghe, nhưng nghe hiểu được câu nào thì trân quý câu đó, thật là cơ hội hiếm
hoi ngàn đời khó gặp! Huống chi là lời phiên dịch qua tiếng thổ ngữ Đài
Loan của bác Giản rất rõ ràng và lưu loát giúp đỡ rất nhiều; nếu còn chỗ nào
không hiểu thì tôi đến Đài Trung để cung kính nghe những vị trưởng thượng
trong Liên xã giảng lại. Khi nghe lại mới biết là các đạo hữu rất chăm học,
tư duy thâm nhập (giáo lý) mà lại còn nỗ lực thực hành, ai cũng cảm nhận sự
giáo huấn và đức hạnh của thầy chiêu cảm. Vào mỗi ngày thứ tư, rất nhiều
người khắp nơi như Đài Bắc, Đài Nam, và Cao Hùng lũ lượt về đến Đài
Trung để nghe giảng, cả một giải liễu châu, lục châu, tôi gặp rất nhiều người
tay cầm xâu chuỗi, mặc áo đà, thật là một cảnh tượng rất ôn nhu, đẹp đẽ,
thanh lương trong thế giới Ta bà… Tôi còn nhớ rõ ràng buổi giảng cuối
cùng của thầy, thầy dùng tấm lòng bi nguyện rộng lớn, từng câu, từng câu
khuyến khích mọi người phải nên ‘tịnh niệm tiếp nối’, đây là lời trong Chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông; nhiều người cảm động quá
không cầm được nước mắt.
Thầy ráng hết sức trong mấy hơi cuối cùng để khuyên mọi người: ‘Tịnh
niệm tiếp nối’ là điều quan trọng trong sự tu niệm’.
Chúng ta có thiết thực làm được chuyện này hay chưa? Trong Kinh Phật
thường bắt đầu bằng câu: “Tôi nghe như vầy”. Bề ngoài chúng ta đều có ‘nhĩ
văn’ (tai nghe) nhưng câu cuối cùng để “hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ” (vui
vẻ tin nhận, lễ lạy rồi lui ra) thì có mấy người làm được? Y theo lời của
Ngẫu Ích tổ sư, thân tâm vui mừng là ‘tín’, nhận chịu không quên thì gọi là
‘thọ’, cảm đại ân đức quy mạng lạy xuống thì gọi là ‘tác lễ’, y theo lời dạy
mà tu trì không lùi bước thì gọi là ‘nhi khứ’. Chúng ta có thật là ‘y giáo tu
trì, nhất vãng bất thoái’ không? Nghĩ đến đây thì rất xấu hổ, mọi người thử
xem thì biết, tôi tự biết vọng tưởng của mình có sức mạnh giống như thạch
nham từ trong núi lửa trào ra, còn tịnh niệm thì yếu ớt như xách một thùng
nước nhỏ mà đi chữa lửa. Muốn thay đổi thế lực của hai thứ này (vọng niệm
và tịnh niệm) thì phải ra sức khổ công; nếu không như vậy thì lúc thân thể
khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, tự mình còn không làm chủ mình được, tự
mình còn không biết tâm niệm kế tiếp là tâm niệm gì thì lúc lâm chung còn
tệ hại hơn nữa!
Thầy dạy chúng ta: “Niệm Phật không nên cầu niệm nhiều, niệm một
trăm lẻ tám hột chuỗi tâm không loạn, trong đó nếu có một niệm loạn, quay
xâu chuỗi niệm từ đầu trở lại”. Tôi luyện tập qua một thời gian, chỉ có ba hột
đầu tiên trong xâu chuỗi là có màu đen thôi! Không biết trong ba niệm này
có xen tạp không nữa; khi niệm một vạn, hai vạn, cho đến lúc niệm sáu vạn,
bảy vạn danh hiệu thì cũng rất khó tìm ra được ‘trăm lẻ tám tịnh niệm tiếp
nối’. Cái tâm này thật loạn đến mức quá nguy hiểm rồi, nguy hiểm nhưng tự
mình không biết, làm sao không sớm nỗ lực gia công thêm nữa! Chúng ta
hãy nhìn thầy một lần nữa và đem lời dạy này nhớ kỹ trong lòng. Ánh mắt
kiên nghị của thầy, ánh mắt nhìn về Tây phương thanh tịnh, nhìn về hư
không vô tận, và cũng nhìn chúng sinh khổ nạn vô biên. Thầy dạy chúng ta:
“Tận hư không biến khắp pháp giới đều là thân của đức Phật A Di Đà.
Chúng ta nằm trong lòng của đức Phật A Di Đà cho nên Phật tiếp dẫn chúng
ta rất dễ dàng. Điều này cũng như cái bàn ở trước mặt chúng ta, có con kiến
bò từ bên đây qua đến bên kia bàn, nếu bò theo đường thẳng thì cũng phải
bò hết một thời gian rất dài. Cũng như Phật A Di Đà, chúng ta có thể đem
con kiến từ bên này qua đến bên kia, cũng có thể đem ngược lại; chúng ta đi
và lại đã nhiều lần rồi mà con kiến cũng chưa đi đến bờ bên kia. Chúng ta niệm Phật khi đến mức có cảm ứng, đức Phật đến tiếp dẫn thì cũng như vậy.
Làm sao mới cùng đức Phật A Di Đà có cảm ứng? Phải đem ngũ dục lục
trần buông xuống; phàm những ai niệm Phật không có cảm ứng đều tại vì
các thứ này trói buộc”.
Nguyện cho chúng ta có thể thật thà làm theo lời dạy của Ngài trong đời
sống, có thể làm giống như thầy, có thể dự biết trước ngày giờ vãng sinh,
quảng độ chúng sinh, viên mãn Bồ đề nguyện.
Có thể có người sẽ nói: “Rất khó có cơ hội gặp được những người giống
như lão Hòa thượng Quảng Khâm hoặc là lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Phàm phu
như chúng ta phải làm sao?”. Xin quý vị xem xá lợi của lão cư sĩ Lại Tạ
Diệu ở Viên Lâm, có năm màu trong suốt lấp lánh giống như lưu ly, mã não,
ngọc đẹp… Bác Diệu từ khi tin Phật đến nay rất siêng năng, mỗi ngày thức
dậy đều mặc áo hải thanh (áo tràng), mở cửa nghinh đón chư Phật, Bồ tát,
ngày ngày thật thà niệm Phật, người rất từ bi, ít nói, bà cũng đã niệm đến lúc
dự biết trước ngày giờ vãng sinh. Bà nhờ liên hữu trợ niệm giúp, liên hữu
nói mùa hè trợ niệm rất là khó chịu. Bà nói: “Không sao đâu, tôi sẽ lựa một
ngày mát mẻ mà vãng sinh!”.
Quý vị xem bà có thể lựa chọn một ngày mát mẻ để vãng sinh, thật là
thong dong tự tại biết bao. Đến lúc cuối, mọi người trợ niệm giúp bà, bà
không thể niệm ra tiếng, nhưng tay có thể gõ vào giường để hòa vào tiếng
niệm Phật của mọi người, chánh niệm phân minh mà về Tây. Hỏa táng xong,
có rất nhiều xá lợi đẹp năm màu như vậy, làm tăng thêm lòng tin cho những
người đi sau! Thường ngày bà sinh sống rất đạm bạc, không cần mua châu
báu mà dùng lòng tin tha thiết và từng tiếng A Di Đà Phật tích tụ lại những
châu báu trang nghiêm tự bà sẵn có. Vì mỗi khi chúng ta niệm một câu A Di
Đà Phật thì liền đem vô lượng công đức của Phật gom về làm công đức của
mình. Tín, Nguyện, trì danh, trì một câu, một câu không thể nghĩ bàn, trì
trăm câu, ngàn câu, vạn câu danh hiệu, câu nào cũng không thể nghĩ bàn!
Người xưa có câu: ‘Thuấn hà nhân dã, Vũ hà nhân dã, hưu vi giả diệc nhược
thị’ (Thuấn là người nào, Vũ là người nào, họ làm được thì mình cũng làm
được! Đại ý: Vua Nghiêu Thuấn, vua Đại Vũ là những ông vua nổi tiếng
nhân từ hiếu thảo, tôi cũng là một người, nếu tôi ráng hết sức thì có thể làm
giống vua Thuấn, vua Vũ). Một bà lão có thể làm được như vậy, chúng ta tại
sao không nhìn mà bắt chước theo? Thật ra chúng ta có chỗ nào là thông
minh hơn (hay thua) bà lão này không? Đạo lý của pháp môn Tịnh độ vô
cùng thâm diệu, muốn chân chánh đảm đương triệt để thì chỉ có các vị Tổ sư
như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả và Vĩnh Minh; nếu chúng ta dùng vọng tưởng để đo lường thì càng suy nghĩ càng sai lầm, ngược lại không bằng bà
lão thật thà niệm Phật và có thể từ từ thâm nhập vào Phật trí, âm thầm phù
hợp với đạo lý thâm diệu.
Có thể sẽ có người hỏi: “Niệm danh hiệu A Di Đà Phật có hiệu lực lớn
như vậy sao? Đúng vậy. Hãy khoan nói công đức vô lượng của danh hiệu
đức Phật, trước hãy dùng một tên thông thường làm thí dụ: Thí dụ như tên
‘quýt’ (hay cam). Có một bác nông phu muốn trồng quýt để đến mùa thu
(đem ra chợ bán và) có người sẽ thưởng thức được mùi vị ngọt ngào giải
khát của quýt. Từ khi gieo hạt giống, vun bới, bón phân, tốn rất nhiều công
sức, cây quýt này trải qua những trận mưa mùa xuân và ánh nắng gây gắt
mùa hè, trải qua cơn bão tố, từ đất đen nở ra cây trái vàng óng ánh, tỏa ra
hương thơm ngát, trải qua thời gian rất dài và tốn nhiều công sức, thật không
phải dễ. Cây quýt có sự liên quan vô cùng mật thiết với cả thế giới này, rễ
quýt bám sâu vào lòng đất, cây quýt hít thở bầu không khí rộng lớn và hòa
vào không khí mà chúng ta hít thở hằng ngày, và cùng thọ nhận nguồn ánh
sáng mặt trời vô tư. Anh nông phu cần phải dựa vào sức lao lực và hoa trái
của những người khác để duy trì đời sống; anh phải mặc áo và khi bị bệnh
phải đi khám bác sĩ. Cây quýt này có một lai lịch thật phức tạp nhưng khi mẹ
hỏi con: “Con muốn ăn gì?”. Bạn chỉ trả lời: “Quýt” thì liền ăn được trái
quýt vô cùng ngọt ngào, hưởng thụ được thành quả mà người nông phu phải
ra sức vun bồi mới có được.
Không phải vậy sao? Trái quýt bình thường đã vậy, huống chi là câu vạn
đức hồng danh ‘A Di Đà Phật’. Quá trình thành Phật đòi hỏi bao nhiêu sự
khó khăn gian khổ, đòi hỏi bi nguyện rộng lớn chấn động đến trời đất, thêm
vào sức nhẫn nại nỗ lực qua nhiều kiếp mới thành tựu được Phật quả không
thể nghĩ bàn. Niệm danh hiệu thì cũng như nếm trái quýt; hưởng thụ được
những mùi thơm ngọt của nó; trong danh hiệu ‘A Di Đà Phật’ này, đức Phật
ban cho chúng ta hạnh phúc vô lượng vô biên, ban cho chúng ta thành quả
gặt hái được từ tất cả công phu tu hành của Ngài. Có người hấp tấp nuốt liền
và cũng có người từ từ thưởng thức hương vị; mỗi người nếm được mùi vị
khác nhau, nhưng ai cũng được đã khát. Danh hiệu ‘A Di Đà Phật’ chứa
đựng tất cả sự trang nghiêm, tốt đẹp, tự tại, thong dong của Cực lạc thế giới;
tất cả đều có sẵn nhưng chỉ có người có Tín, Nguyện thành khẩn mới có thể
tiếp nhận được. Giả sử bạn không chịu tin rằng ‘nói ‘quýt’ thì má bạn sẽ cho
bạn ăn trái quýt’, mà nhất định phải tự mình đi gieo hột giống để trồng cây
quýt. Như vậy thì cũng được nhưng sợ cây quýt chưa lớn thì bạn đã khát quá
và chết đi rồi, hoặc là bị rắn trong vườn cắn bị thương. Giống như tôi không
biết trồng cây, mạng sống lại rất ngắn ngủi thì thích nói chữ ‘quýt’ để má cho ăn và liền có thể nếm được mùi vị ngọt ngon của trái quýt, liền hấp thụ
được mùi vị ngọt ngào dinh dưỡng của trái quýt, và cũng cảm ơn sự cần khổ
của anh nông phu, tin tưởng vào Nguyện và Hành của anh nông phu đã
thành tựu, tin vào lời má nói, rất đơn giản và dễ dàng. Ăn xong trái quýt thì
có sức lực để đi khám bệnh, phục vụ xã hội, như vậy thì quá tốt! Giả sử tin
làm việc (trồng trọt) để kiếm ăn, đây là cả một vấn đề khó khăn.
Chúng ta ở trong đời ác trược này lâu quá nên rất khó có thể tin những
chuyện tốt hoặc tin chân lý. Nếu có người nói với chúng ta bên đường phía
Đông có một băng đảng tên là Kim Quang, họ chuyên môn lập kế để gạt tiền
người khác. Chúng ta sẽ tin liền, sợ họ và không dám đi về phía Đông.
Nhưng nếu nói với chúng ta Tây phương thế giới có đức Phật A Di Đà,
Quan Thế Âm Bồ tát, và Đại Thế Chí Bồ tát thường phóng hào quang và từ
bi cứu giúp chúng sinh, giúp cho họ thoát ly khổ nạn và hưởng an lạc vĩnh
viễn, chúng ta ngược lại sẽ hoài nghi cho đến chết cũng không tin. Tại sao
nhìn không thấy mà chúng ta lại tin là có băng đảng Kim Quang và sợ không
dám đi về phía Đông. Chúng ta tại sao không tin Phật, Bồ tát từ bi và có vô
lượng hào quang trí huệ, không hoan hỷ tin tưởng để có thể đi về phương
Tây? Tâm của chúng ta trầm luân đến nỗi chỉ tin ác chứ không tin thiện, chỉ
tin giả chứ không tin thật? Tôi cũng tin người trong băng đảng Kim Quang
cũng có Phật tánh, nếu chuyển ý niệm và niệm A Di Đà Phật thì cũng sẽ
thành Phật. Đức Phật A Di Đà từ bi sẽ không bao giờ bỏ rơi họ. Tôi cũng tin
Kim Quang đảng trong nội tâm tôi: tham, sân, si nhưng rồi cũng có một
ngày nào đó cũng sẽ phóng hào quang như đức Phật A Di Đà.
Tôi xin giới thiệu thêm chuyện của bác Phan Tạ Ánh Mai. Vốn là một
đêm trước tết, khi tôi mở cửa phòng khám bệnh chuẩn bị đi về thì nhìn thấy
một người trẻ tuổi nói là họ từ Mỹ trở về thăm bà má vợ bị đụng xe. Bà này
đã dặn dò chuyện ra đi của bà từ một năm trước, bà dặn khi bà qua đời thì
kêu họ mời ngài Sám Công và các vị bạn sen trong Liên xã trợ niệm cho bà.
Tại vì họ kêu điện thoại đến chùa Liên Nhân không gặp thầy và có người
kêu họ lại kiếm tôi để nhờ giúp đỡ. Tôi nghe nói bà đã thọ giới Bồ tát, rất
siêng năng niệm Phật, và đã dặn dò con cái không được di động thân thể của
bà sau khi bà lâm chung, không cho con cái khóc lóc và phải niệm Phật trợ
giúp bà. Tôi nghĩ: “Bà siêng năng tu hành như vậy mà còn gặp phải tai nạn
đụng xe, huống chi là người như tôi”, nên mau mau đi trợ niệm giúp bà, phải
làm cho bà được mãn nguyện, giúp bà vãng sinh. Khi tôi đến bệnh viện thì
gặp con bà đang nói chuyện điện thoại bàn bạc về hậu sự. Tôi cảm nhận
được sự khổ của tất cả chúng sinh đang trôi lăn trong vòng sinh, lão, bệnh,
tử. Bà nằm trong phòng cấp cứu đã mấy ngày không tỉnh. Nhưng đến khi niệm Phật cho bà thì bà chảy nước mắt. Đêm đó các bạn ở Liên xã chưa ăn
cơm xong, vừa nghe tin liền nhiệt tâm đến giúp chồng bà chuẩn bị và giải
thích rõ về việc trợ niệm. Con bà rất hiếu thảo, muốn làm cho bà được mãn
nguyện và vãng sinh Tây phương, họ đem các hình gia đình họ hàng đang
treo trên tường đem cất để cho bà khỏi động tâm lưu luyến thế giới Ta bà
này. Bà ra đi ngay đêm giao thừa; có ba bốn người bạn trong Liên xã đến để
trợ niệm dù trước đó không có người nào quen biết bà. Tôi rất xúc động khi
thấy tờ giấy viết bài phát nguyện (bài kệ phát nguyện trong phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện) đã nhuốm vàng bởi khói nhang. Con bà nói trước đó bà
thường đi trợ niệm và có viết sẵn tên của những người quen có thể đến trợ
niệm cho bà. Nhưng gặp ngay đêm giao thừa có một số đi về quê, một số
khác thì bận việc không đi đến được. Con bà rất lo không có ai đến, nhưng
không ngờ lại có nhiều người không quen biết nhiệt tâm đến để trợ niệm cho
bà. Thật là nhân quả không sai, người niệm Phật chỉ cần tu nhân, ‘nhân’
đúng thì quả chắc chắn sẽ đúng.
Người Á đông vốn rất kỵ chuyện tang lễ vào dịp tết, nhất là vào đêm
giao thừa, nhưng Phật tử thì không màng đến chuyện này, chúng ta chỉ hy
vọng có thêm một người vãng sinh thành Phật thì có thể độ được vô lượng
chúng sinh; chúng ta chỉ sợ người trong gia đình trong lúc buồn rầu làm cho
họ mất đi ‘Tín’ và ‘Nguyện’. Sau khi hỏa táng, bà để lại vài viên xá lợi màu
xanh, vàng và trắng. Chồng bà rất cảm động, trước đó ông thường phàn nàn:
“Tôi nghèo như vầy cũng vì bà bố thí hết trơn và không nấu thịt cá cho tôi
ăn!” (từ điểm này có thể biết bà là người như thế nào). Ông nói tiếp: “Mỗi
khi tôi ngồi coi truyền hình, bà đều ngồi xếp bằng, dùng gốc cây nhang để
tính số niệm Phật; nhiều lúc tôi trách bà nhưng không ngờ là bà đã tu thành
công!”. Tôi cảm thấy một việc rất không thể nghĩ bàn là xâu chuỗi của bà
làm bằng hột ‘Tinh Nguyệt Bồ đề’, sau khi hỏa thiêu xong còn lại hai hột y
nguyên không bị cháy hết. Con trai, con gái, và con rể bà đều là tiến sĩ ở Mỹ,
đối với việc này cũng nói là không thể tưởng tượng nổi. Thật thà niệm Phật,
công phu đắc lực thì sẽ thành công; nhân quả tơ hào chẳng sai.
Hồi xưa, có một đệ tử hỏi Phật: “Nếu gặp chuyện bất trắc mà chết đi bất
ngờ thì có thể vãng sinh được không?”. Phật thí dụ: “Nếu có một cây mọc
nghiêng về phía Đông, nếu bị gãy thì cũng sẽ ngã về phía Đông”. Chúng ta
niệm Phật cũng như cây mọc nghiêng về hướng Tây. Chúng ta phải tự hỏi
mình có nghiêng về hướng Tây hay không? (chỉ sợ là không có!). Cái tâm
của mình thường thường đều hướng về bốn phương tám hướng bay nhảy
tùm lum, và không nhất tâm hướng thẳng về Tây. Hai mươi bốn giờ trong
ngày, thời gian thật thà niệm Phật cũng không quá năm phút; nếu người siêng năng hơn một chút thì một ngày niệm được vài giờ, trong đó cũng
không có bao nhiêu câu niệm được đàng hoàng (không xen tạp và không
gián đoạn). Cho nên cây này đúng là mọc tùm lum, nếu bị gẫy bất ngờ rồi
ngã về hướng nào thì rất khó mà biết trước được.
Trong nhật ký bà đã viết sẵn di chúc dặn con cháu phải lo chuyện lâm
chung như thế nào, đến sau này thì con bà mới tìm ra. Cũng may là hậu sự
cũng được làm giống theo ý muốn của bà. Có một đoạn trong nhật ký làm
cho tôi có ấn tượng rất sâu. Bà có một người con đã từng làm khoa trưởng ở
đại học Phùng Giáp bị tai nạn xe đã qua đời. Lúc đó bà chưa học Phật và
cảm biết được sự đau khổ trong đời người, bà viết: “Hôm nay là ngày vĩnh
biệt con tôi và là ngày đau khổ nhất trong đời tôi”. Một người mẹ nhận chịu
sự đau khổ của người ‘tóc trắng tiễn đưa người tóc đen’ thật là chua xót biết
bao. Một người không tầm thường sẽ không vùi đầu vào sự đau khổ và tối
ngày than vắn thở dài. Người đó sẽ từ những sự khổ: ‘sinh, lão, bệnh, tử,
thương xa lìa, ghét gặp mặt, năm ấm hừng hực (ngũ ấm xí thạnh)’ giác ngộ
trở lại và bước theo gót chân của những Thánh nhân hồi xưa. Chúng ta hãy
cùng nhau hướng về pháp hội Di Đà vĩnh hằng vô tận, hướng về Liên Trì
Hải Hội thanh tịnh, hoan hỷ, sáng lạng, tràn ngập tiếng cười. Ấn Quang đại
sư đã từng nói:
Ưng đương phát nguyện nguyện vãng sinh
Khách lộ khê sơn nhậm bỉ luyến
Tự thị bất quy, quy tiện đắc
Cố hương phong nguyệt hữu thùy tranh?
Tạm dịch:
Vãng sinh phát nguyện đi thôi,
Suối non đất khách mặc người quẩn quanh
Quê nhà chẳng chịu về nhanh,
Hễ về ắt được, ai giành gió trăng?
Chúng ta đừng đi lang thang nữa. Hãy học theo thế giới nội tâm của
Hoằng Nhất đại sư: “Hoa chi xuân mãn, thiên tâm nguyệt viên”; hãy niệm
Phật cho đàng hoàng. Pháp môn niệm Phật là một pháp môn đặc biệt nhất
trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của đức Phật Thích Ca, pháp môn này dễ thành công nhất. Mỗi ngày niệm đến khi vô cùng thành khẩn thì giống như
hồi nhỏ trẻ em thường ca:
“Xe lửa mau bay, xe lửa mau bay, bay qua núi cao, bay qua khe suối…”
Lúc niệm Phật trong tâm càng trải qua nhiều sự khó khăn thì cũng như
xuyên qua núi cao, băng qua khe suối. Và cũng giống như lời ca: “Mẹ hiền
trông thấy thật là vui mừng”. Cha mẹ từ bi vô tận vô biên của chúng ta, đức
Phật A Di Đà đã dang tay ra từ lâu rồi, rất lâu rồi, khi nhìn thấy chúng ta
quay trở về nhà thì vui mừng biết bao! Nghĩ đến “Bồ tát đón mừng, Di Đà
đợi ở ngưỡng cửa” tiếng vang dội từ xa truyền lại thì làm sao không bước
mau lên…
Quay đầu nhìn lại tất cả những hình ảnh sinh tử bên bờ sông Hằng,
chúng ta giống như những người đang vùng vẫy sắp chết, chư Phật, Bồ tát từ
bi nhảy vào dòng nước sinh tử tràn đầy đau khổ và dạy chúng ta dùng một
câu “A Di Đà Phật” để chứng đến bản tánh bổn vô sinh diệt của chúng ta,
đem dòng nước ác trược dơ bẩn này biến thành con sông thanh tịnh Thánh
thiện; đem lượn sóng cay đắng này biến thành những mùi thơm ngọt ngào.
‘Không nỡ để chúng sinh khổ, không nỡ để Thánh giáo suy, nguyện cho
chúng ta phát ra tâm từ bi, thường làm theo đại nguyện của đức Phật A Di
Đà mà cứu giúp tất cả chúng sinh, nguyện chúng sinh đều sinh đến Liên Trì
Hải Hội trang nghiêm, cùng nhau thưởng thức mưa Mạn Đà La Hoa…
Xin quý vị thứ lỗi, tôi thường không có nội dung tốt đẹp gì để cúng
dường cho quý vị, chỉ kể một vài câu chuyện thê thảm cho quý vị nghe,
không muốn quý vị ghi nhớ những huyết lệ trong đó, chỉ nguyện cho quý vị
trên con đường đời sớm giác ngộ. Chúng ta phải làm ‘ngựa hạng nhất’
không cần phải đợi những sự đau khổ này đến kề bên người rồi mới chạy.
Ngựa hạng nhất là vừa thấy bóng dáng của cây roi phất ngựa là chạy liền.
Thấy người khác khổ, biết được đời sống có chuyện khổ như vậy, đừng chờ
đợi nữa, hãy mau tu hành! Ngựa hạng nhì là đợi đến khi roi đánh tới mình
rồi mới chạy; ngựa hạng ba là đợi đến khi bị đánh tróc da chảy máu rồi mới
chạy. Ngựa hạng tư là dù trầy da tróc vẩy, đau đến xương tủy cũng không
biết chạy. Có thể cũng có ngựa hạng năm là chết rồi cũng không sợ, loại này
làm cho Bồ tát phải rơi nước mắt!
Buổi diễn giảng hôm nay vốn là có đạo hữu đề nghị tôi đừng giảng hoặc
là mời thầy khác giảng dùm (ở đây thuận tiện nên báo cáo cùng quý vị đạo
hữu luôn). Vì cũng như đã nói ở phía trước, chúng ta đều ở trong dòng sông sinh tử, những hình ảnh mà chúng ta thấy được trên sông Hằng đều là hình
bóng của chính mình. Tôi cùng tất cả bệnh nhân đều giống nhau, đều bị bệnh
ung thư, bây giờ đúng là lúc tôi nhất tâm niệm Phật chuẩn bị vãng sinh. Tôi
đã nhận lời cùng quý vị nói chuyện ngày hôm nay (27 tháng 4). Vì bác Hứa
gọi điện thoại nhiều lần và vô cùng thành khẩn cho nên dù hôm nay chỉ có
một người đến nghe tôi cũng sẽ nói. Vì nếu có thêm một người niệm Phật
vãng sinh Cực lạc thế giới thì sẽ ít đi một người đau khổ rơi lệ. Hơn nữa, tôi
đã gặp nhiều vị Sư trưởng đều ‘không nỡ thấy chúng sinh chịu khổ, không
nỡ để Thánh giáo suy’, nên đã ráng hết sức mình để đem những điều quan
trọng trong Phật giáo dạy cho chúng ta. Hôm nay tôi có thể không ở trên
giường bệnh rên siết, đến đây cùng các bạn học tập đều là nhờ ân đức của họ
(những vị Sư trưởng). Tôi chỉ muốn ráng hết sức mình (phấn đấu với bệnh
đau) để báo đáp phần nào ân đức của họ. Trong Đại Trí Độ Luận, có một vị
Bồ tát nói: ‘Tôi đã mất đi thân mạng trong vô thỉ kiếp sinh tử vừa qua, chưa
từng vì pháp (mà hy sinh)’. Phải đúng vậy không? ‘Quay đầu nhìn lại xương
chất thành núi’, vô số lần mất mạng trong đời quá khứ đều nhẹ như hồng
mau, chưa từng nặng như Thái Sơn thì cũng phải mất mạng. Chúng ta hãy vì
Phật pháp, vì chúng sinh, chánh niệm rõ ràng, niệm Phật mà vãng sinh! Nếu
như trong những lời nói hôm nay có một tơ hào nào thành khẩn đáng quý,
nguyện đem phần công đức này hồi hướng cho tất cả thiện tri thức, cha mẹ,
thầy giáo, bạn bè đã nhắc nhở tôi trên con đường Bồ đề này. Tôi xin cảm ơn
tất cả, cảm ơn từng câu nói thành khẩn, không kể là khích lệ hay trách mắng;
cảm ơn từng nụ cười, từng giọt lệ chân thành, từng lời dạy dỗ. Cũng xin hồi
hướng cho mỗi vị ‘bệnh nhân Bồ tát’ của tôi, cho tất cả chúng sinh đang
chịu đau khổ, nguyện cho họ sớm nghe được lời kêu gọi Di Đà trong nội
tâm, đồng sinh nơi ‘không có sự khổ, chỉ toàn đều vui’ ở Liên bang Cực lạc.
Lúc tôi đi khám bệnh, vì bác sĩ không biết tôi cũng hành nghề này nên
lúc họ thảo luận bệnh trạng với nhau, tôi nghe và biết rất rõ và cũng nhìn
thấy chỗ ung thư qua máy siêu âm. Chỗ ung thư này đến lúc tôi có thời gian
đi khám thì đã quá lớn, lớn đến gần hết phía dưới bụng. Tôi rất xấu hổ vì
không biết và lo chữa sớm, thật là quá tệ. Mỗi lần ‘beeper’ kêu là tôi phải
mau mau chạy đi, nhiều khi đang tắm cũng phải ngưng và chạy đi. Mấy
ngày trước khi đi khám, chân tôi sưng lên đến nỗi mang giày không được
nhưng cũng phải ráng mang như mang dép đi làm. Tuyết Công có nói: “Nếu
có mười phần sức lực mà chỉ dùng có chín phần thì không đủ thành tâm”.
Tôi không có cảm giác lo sợ hay khủng bố gì hết, cảm thấy rất bình thường,
chỉ quyết tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương, tận dụng hết thời gian còn lại
để hoàn thành công việc mình phải làm, gặp mặt những người giác ngộ từ
xưa đến nay. Chỉ cần tin tưởng Phật pháp, tin tưởng điều giác ngộ thứ nhất dạy trong Kinh Bát Đại Nhân Giác là ‘thế gian vô thường’, nếu như vậy thì
chuyện này rất bình thường, không cần phải hỏi: “Có thật không? Tôi làm
sao mà bị bệnh này được”. Bệnh nhân thường hỏi như vậy lắm. Và cũng
không cần phải khóc: “Không, không thể nào là tôi được. Tôi không thể nào
bị bệnh này được!” (bệnh nhân thường kháng cự giống như vậy). Tại sao
không thể là chúng ta được? Rất có thể là chúng ta. Hoặc giả vốn là luân
phiên đến lượt chúng ta. Hãy thức tỉnh đi, vận dụng thời gian còn lại, đừng
lãng phí và chạy trốn nữa!
Kể từ ngày sinh ra đời này, chúng ta ai nấy đều từ từ tiến dần đến cái
chết. Có một người bạn sen thường hay nhắc nhở chúng tôi: “Mọi người đều
có một sự việc luôn luôn dõng mãnh tinh tiến, đó là từ lúc sinh ra đời thì liền
từ từ tiến dần đến trạm cuối của cuộc đời”.
Lại còn nói: “Nếu nói bạn trưởng thành thì bạn rất vui, nhưng nếu nói là
bạn đang đi về phần mộ thì bạn rất buồn, thật ra hai chuyện này đều là một”.
Lại có người hỏi: “Quý vị là những người tin Phật thì làm sao có thể bị bệnh
ung thư được?”
Kinh Phật nói với chúng ta rất rõ ràng là từ vô thỉ kiếp đến nay, những
ác nghiệp mà chúng ta đã làm, nếu tính ra thì thật vô biên vô lượng. Giả sử
những niệm, ngôn ngữ và hành vi sai lầm của chúng ta có thể tích và có hình
tướng thì cả tận hư không này cũng chứa không hết. Muốn biết nhân ở đời
quá khứ, cứ xem những gì mình thọ nhận ngày hôm nay thì biết được; muốn
biết quả ở tương lai, cứ xem những gì mình làm hôm nay thì biết được.
Từ vô lượng kiếp đến nay, không biết tôi đã làm hại biết bao nhiêu
chúng sinh, đã làm bao nhiêu sinh linh đau khổ, bây giờ quả báo hiện ra thì
phải nhận chịu một cách vui vẻ và bình tĩnh; chúng ta niệm Phật phải noi
theo trí huệ và lòng từ bi của chư Phật, nguyện cho tất cả những chúng sinh
bị tôi làm hại lúc trước đều được tắm gội trong ánh sáng từ quang giác ngộ,
hóa giải những oán hận kết tập lại trong nội tâm, phá bỏ tất cả, không cho
oan oan tương báo tiếp tục. Đây là sự gia trì tốt nhất của chư Phật, Bồ tát
cho tôi, miễn hết tất cả những trách móc và so đo không cần thiết, tất cả
những khúc mắc tình cảm không tốt đẹp. Giả sử ngày mai là ngày tận thế, tối
nay tôi vẫn phải trồng đầy hết ‘phần đà lợi hoa’(hoa sen) trong vườn, dưới
gió mát trăng thanh phải lớn tiếng niệm Phật A Di Đà. Vẫn có nhiều bạn
không bỏ qua được, cứ trách Phật, Bồ tát không gia trì cho tôi, để cho tôi
mang bệnh này. Thật ra không phải là Phật, Bồ tát làm cho tôi mắc phải bệnh này; chúng ta hãy nghĩ xem một hạt dầu khi nhỏ vào nước sẽ nổi lên
mặt nước, trái lại viên đá sẽ chìm xuống đáy nước. Nghiệp chướng của tôi
cũng nặng như viên đá cho nên tự nhiên sẽ chìm xuống đáy, sẽ mang bệnh.
Rất may là đức Phật A Di Đà đã chuẩn bị đại nguyện đem chiếc ‘hàng
không mẫu hạm’ để cứu vớt tôi và tất cả chúng sinh có nghiệp chướng sâu
nặng, nên tôi không lo gì cả, chỉ cần có Tín, Nguyện kiên cố, chấp trì danh
hiệu Phật, nhất định sẽ vãng sinh. Ngẫu Ích đại sư không phải đã nói với
chúng ta rồi sao: “Được sinh hay không toàn do có Tín, Nguyện hay không,
phẩm vị cao thấp toàn do trì danh sâu hay cạn”.
Tôi tuy chưa niệm đến mức ‘nhất tâm bất loạn’ nhưng tiếp tục nỗ lực
gắng sức niệm và tin đức Phật A Di Đà sẽ lại tiếp dẫn. Tôi hiểu được đời
người cũng giống như quá trình vẽ một hình đức Phật. Mỗi một nét chúng ta
đều dùng tâm hết sức chân thành để vẽ! Đừng để khi gác cọ xong rồi nhìn lại
bức tranh mình vẽ lại thành ra một con chó sói hoặc là một con heo, thậm
chí là một con ác quỷ!
Tôi biết có một bệnh nhân vô cùng siêu thoát, bà đã dạy cho tôi rất
nhiều. Bà bị ung thư gan. Lúc bà vào bệnh viện là vì đường tiêu hóa bị chảy
máu chứ không vào để trị bệnh ung thư. Đêm đó nhằm ngày tôi trực ở bệnh
viện, tôi giúp bà đút ống vào mũi đến dạ dày, đổ nước đá vào để cầm máu và
cũng để khám chỗ chảy máu. Thường khi đút ống vào mũi thẳng đến dạ dày,
phần đông bệnh nhân ai cũng rên xiết kêu đau, nhưng bà này rất điềm đạm
an nhàn, không nhăn nhó tí nào, có vẻ dường như không có chuyện gì xảy ra
hết. Sau đó tôi nhìn thấy vết thẹo mà những người thọ giới đốt để lại trên
tay, mới biết bà là một người biết tu hành đã lâu.
Đêm đó bệnh nhân rất đông nên tôi phải làm việc liên tục đến 5 giờ
sáng. Lúc đi ngang qua giường, bà chắp tay nói: “A Di Đà Phật, chào bác
sĩ!”. Lúc đó bà đang nằm ở giường tạm đặt ngoài hành lang vì bệnh viện
không đủ giường cho bệnh nhân nên phải đặt thêm giường tạm. Những bệnh
nhân nằm những giường này luôn luôn phàn nàn là ‘nhiều người đi qua lại
ồn quá’ và ‘đi nhà vệ sinh không thuận tiện’. Nhưng bà này lại không phàn
nàn gì hết, bà nở nụ cười chắp tay niệm Phật (lúc đó đang đút vào ống mũi)
và nói: “Ở đây không khí thật là tốt, sáng sớm bốn giờ mấy là tôi đã làm
xong công phu (tụng kinh) khóa sáng! Nghe xong tôi rất cảm động, tâm
lượng của bà quá đẹp. Trong hoàn cảnh không thuận lợi, nơi chốn ồn ào,
thân thể đang bệnh nặng, đối với bà tất cả đều là: “Rất thanh tịnh mát mẻ”.
Chúng ta đừng xem thường công phu niệm được một câu A Di Đà Phật
trong lúc này (mỗi người thử đút một ống vào mũi rồi niệm thử xem). Thường ngày nếu muốn niệm đến chỗ tương ứng trong niệm này, phải sạch
tất cả phiền não của tạp niệm lên xuống (giả như muốn được niệm niệm đều
tương tục thì phải niệm niệm đều thoát ra khỏi vòng quay, niệm niệm phải
đều thắng lợi, phải chiến thắng tất cả vọng tưởng), huống chi là lúc khổ
nhất! Muốn có một niệm A Di Đà Phật mà ‘tâm và miệng tương ứng với
nhau’ phải có tâm lực mạnh mẽ để khắc phục tất cả khổ đau và khó khăn,
bạn có biết không? Cho nên một câu niệm Phật và vài câu nói của bà đã làm
cho tôi cảm động rơi lệ. Tôi khám chỗ đau của bà, cảm thấy gan cứng và
sưng lên và nghi là ung thư. Qua ngày sau rọi siêu âm và thử nghiệm thì biết
là ung thư gan đã lớn đến đường kính tám phân (8 cm). Thấy thái độ và biểu
hiện khác người của bà cho nên tôi nói thật bệnh tình cho bà biết (thường
thường thì chúng tôi phải suy nghĩ cân nhắc trước khi nói với bệnh nhân).
Một người học Phật chân chính sẽ xem chuyện sinh tử rất bình thường.
Chúng ta sợ nhất là trí huệ không khai mở, đời này hồ đồ lộn xộn, chết đi rồi
lại tiếp tục sinh vào lục đạo luân hồi. Khi đã hiểu rõ đạo lý này sẽ không kêu
trời trách đất và sẽ niệm Phật đàng hoàng, đặt bước trên con đường về cố
hương, chuẩn bị tham gia Liên Trì Hải Hội. Đây là sự ‘phò hộ’ tốt nhất, tình
cảnh bi thương là đau khổ đối với người khác, nhưng chúng ta vui vẻ xem
như là chuyện thường, đây là lễ vật của chư Phật, Bồ tát! Mười triệu đồng có
thể mua được đủ loại thuốc chữa trị (không thiếu đau khổ giày vò) nhưng
mua không được tâm bình tĩnh vui vẻ, còn lễ vật nào quý hơn tâm này
không? Lúc tôi nói thật bệnh tình cho bà biết, bà nói liền giống như đã chuẩn
bị lời văn từ trước: “Tôi sống một ngày thì phục vụ thêm một ngày cho
chúng sinh, đến ngày tôi sắp chết, đức Phật A Di Đà sẽ lại rước tôi đi”. Bà
siêu thoát như thế đó, tràn đầy từ bi và lòng tin, thần sắc của bà khắc sâu vào
tâm khảm của tôi, làm thành một sức mạnh có khả năng khuyến khích và
giúp đỡ tôi vượt qua rất nhiều khó khăn chướng ngại.
Thật tình mà nói, không phải là tôi đi làm bác sĩ mà phải nói là tôi đang
‘đi học’, ‘bệnh’ của tôi nặng nhất trong số những người bệnh, ‘các thứ xấu
ác’ trong tâm nhiều quá; tham, sân, si, mạn… đều rất nặng, mọi bệnh nhân
đều đến thị hiện một hoàn cảnh đặc biệt để dạy cho tôi hiểu được một đạo lý
nào đó. Người nào cũng rất từ bi, không tiếc đem những lời dạy và những
câu chuyện sống động đầy máu và nước mắt để dạy và làm cho tôi hiểu được
những lời trong Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên
Thông, đoạn ‘mười hai vị Như Lai liên tục một kiếp, vị Phật sau hết có danh
hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy tôi niệm Phật tam muội’. Có một thầy
giáo nói: “Thiện duyên của đức Đại Thế Chí Bồ tát vô cùng tốt đẹp, có thể
gặp được mười hai vị Phật và được truyền dạy niệm Phật tam muội; còn
chúng ta một vị Phật cũng không gặp được”. Tuy là thiện căn của tôi rất mỏng nhưng nhân duyên thì rất đặc biệt, rất tốt! Mỗi ngày đều có một vị Bồ
tát đem hình ảnh của sự khổ nạn vô tận trên sông Hằng đến để cảnh tỉnh và
giúp cho tôi giác ngộ: Niệm Phật đi, niệm Phật đi! Họ giúp tôi trao dồi tâm
lực, giúp tôi buông xả, đây là sự gia trì của chư Phật, Bồ tát. Giả sử không
có sự từ bi gia trì này, khi nghe đến ‘tên bệnh’ thì tứ chi liền phát run, tay
chân không còn sức lực nữa và khóc, ‘thù hận trong đời người làm sao miễn
được…’
Có khi tôi thấy rất nhiều người thầm vái ở trước tượng Phật, đôi lúc tôi
cũng muốn hỏi họ khấn vái những gì? Mỗi người thắp ba cây nhang rồi ‘rù rì
rù rì’ khấn vái, lời họ khấn chắc còn dài hơn 48 đại nguyện của đức Phật A
Di Đà, nào là xin Ngài phò hộ cho con tôi thông minh khỏe mạnh, có thể thi
đậu vào trường y khoa (tốt nhất là trúng tuyển hạng nhất); phò hộ cho con
tôi cưới được một người vợ hiền hậu hiếu thảo; phò hộ cho chồng tôi sự
nghiệp phát tài kiếm được thật nhiều tiền, phò hộ cho tôi trúng số độc đắc và
được lên chức… nói ra tràn lan đại hải, xong rồi đem trái cây cúng Phật đem
về nhà ăn cho ‘được bình an’. Nếu cầu không được toại nguyện liền trách
móc Phật, Bồ tát không phò hộ, chỉ ‘nhìn’ đồ cúng và ‘ngửi’ hương tôi cúng
rồi thôi, không ‘linh’tí nào! (thật ra họ đâu biết tự mình không hiểu nhân
quả, không làm theo lời dạy của Phật, là tự mình không ‘linh’) tí nào! (thật
ra họ đâu biết tự mình không hiểu nhân quả, không làm theo lời dạy của
Phật, là tự mình không ‘linh’). Chúng ta thử nghĩ xem, người ta mong cầu
những gì, chẳng qua là cầu cho da mặt mình nhăn thêm một chút (cầu trường
thọ sống lâu thì tránh khỏi da nhăn tóc bạc); cầu chướng ngại trong đời sống
nhiều một chút (lo danh lợi, lo được, lo mất), người ta chỉ cầu để được nhiều
những thứ nhỏ nhặt này. Thật ra, pháp lực của chư Phật, Bồ tát rộng lớn vô
biên và có thể cho chúng ta sự phò hộ thần kỳ mà lại vĩnh cửu, cho chúng ta
một chìa khóa trí huệ để khai mở kho tàng vô tận trong tự tánh, có thể lấy ra
sự hạnh phúc vô tận. Sự hạnh phúc này không bị hoàn cảnh thay đổi mất đi,
không bị ăn trộm, không bị giựt, cũng không bị mất. Cái chìa khóa này
chính là xưng niệm ‘Nam mô A Di Đà Phật’; chỉ cần tiếp nhận rồi thật tình
đi mở đi, ai cũng có được kho tàng quý báu vô tận.
Vì tôi bị bệnh nên có người nói: “Cô ăn chay thiếu dinh dưỡng nên mới
bị bệnh”. Thật ra, chỉ cần so sánh là biết ăn chay được khỏe mạnh và sống
lâu; giống như đoạn trước có nói đến lão Hòa thượng Hư Vân và Quảng
Khâm, Tuyết Công lão ân sư đều là ‘nhân thụy’ (người trường thọ và vô
cùng khỏe mạnh). Nhưng ăn chay không phải là để cầu trường thọ mà là
không muốn vì sự hưởng thụ ngắn ngủi trên ba tấc lưỡi của mình mà mang
lại sự lo sợ sắp bị mất mạng và sự đau khổ cùng cực cho chúng sinh. Một con bò chờ đợi bị làm thịt cũng run và chảy nước mắt, một con chim bị bắt
đều có những con chim mẹ đang chờ đợi con bay về tổ. Chúng ta chưa bao
giờ nghe hoặc thấy con gà nào tình nguyện trườn cổ dài ra đợi bị làm thịt
nhổ lông và nói: “Tốt quá, tôi sẽ được đi làm con gà nướng!”. Như những
bệnh nhân của tôi luôn vùng vẫy trong sự đau khổ bên bờ sinh tử, mỗi một
con vật đối diện với cái chết đều sợ phát run lên. Nếu tôi xem thường mạng
người, không đếm xỉa đến sự đau khổ của người bệnh, họ nhất định sẽ
không tha thứ cho tôi. Cũng giống như vậy, nếu chúng ta xem thường sự đau
khổ của các loài vật khác, chúng nó cũng sẽ không tha thứ cho chúng ta.
Nếu bạn chặt một cái đùi của nó, nó cũng sẽ tìm cách để làm bạn gãy đi một
cái chân; cứ như vậy oan oan tương báo, trở thành oan gia chủ nợ với nhau,
vĩnh viễn không có ngày thoát ra trong sự oan thù rối nùi này, ai cũng vô
cũng đau khổ!
Tôi từng nghe một vị Pháp sư thuật lại câu chuyện thật như sau: Một
hôm có người bồng em bé nằm trong nôi đi bái kiến lão Hòa thượng Quảng
Khâm. Đứa bé mặt mũi khôi ngô rất dễ thương, ai nhìn cũng thích và muốn
nựng em bé, chỉ có lão Hòa thượng vừa nhìn thấy liền hiện vẻ không vui
(mặt trầm xuống) và nói với chúng đệ tử: “Nó lại để đòi nợ (chỉ em bé)”.
Mọi người đều không hiểu. Lão Hòa thượng mới nói với những người này:
“Quý vị làm ăn buôn bán gà đông lạnh phải không? Hãy xem đứa bé!”. Cha
mẹ của em vừa khóc vừa gật đầu rồi vạch áo của em ra; em bé tuy có bộ mặt
rất dễ thương nhưng phía dưới thân hình lại giống y hệt như thân hình của
một con gà! Lão Hòa thượng không ngớt lời khuyên họ nên đổi nghề. Họ
nói: “Đã tốn hết 30 triệu đồng trong việc thiết kế hệ thống đông lạnh rất khó
mà đổi…”. Tôi nghĩ tiền lời được trong việc làm ăn này có lẽ cũng không đủ
trả tiền thuốc men cho em bé, càng không thể bù đắp nỗi những giọt nước
mắt chảy ra… (vì tôi biết rất nhiều bệnh nhân có tình trạng giống như vậy).
Nhưng phần đông người ta thà chịu khổ, chịu tổn hao tài sản sau này, và còn
mất thêm sự hạnh phúc cả đời người nhưng không chịu buông bỏ cái lợi
trước mắt, sự thèm muốn của cái miệng và cái bụng của mình. Lão Hòa
thượng là người có pháp nhãn, vừa nhìn thì đã thấy rõ nhân quả, hết lòng
khuyên nhủ, nhưng có mấy ai tin và chịu làm theo?
Người ta thường cầu Phật phò hộ nhưng không tin lời Phật nói, thật là
kỳ lạ! Cho dù hôm nay có một danh y bác sĩ nổi tiếng nào nói với tôi là ‘đổi
ăn thịt’ đừng ăn chay nữa thì có thể chữa cho tôi hết bệnh, tôi cũng không
chịu hy sinh tánh mạng của con gà, heo, dê, bò, để gây ra sự đau khổ cho
chúng nó, huống chi không có một bác sĩ nổi tiếng nào có thể xác nhận ăn
mặn (ăn thịt) thì sẽ ‘kéo dài đời sống lâu’ hơn là ăn chay. Bất kỳ bác sĩ nổi tiếng nào cũng sẽ chết, họ cũng không thể bảo đảm ăn thịt có thể trường sinh
thì làm sao có thể bảo đảm cho tôi? Làm sao có thể bảo đảm cho người
khác? Tôi chỉ tin tưởng lời Phật dạy và trí huệ của Phật. Hôm nay tôi có thể
lấy được thêm một số ‘đản bạch chất’ và chất béo từ thịt động vật, nhưng tôi
không thể bù đắp nỗi sự đau khổ của chúng nó, không thể an ủi sự sợ hãi
khủng bố của chúng nó, càng không thể lau hết nước mắt của má chúng nó
khóc con mất mạng. Có một ngày nào đó chúng nó sẽ quay lại để trả thù.
Nhân quả của con người rất phức tạp nhưng không sai chạy tí nào. Mắt thịt
của phàm phu chúng ta chỉ nhìn thấy một mà không nhìn thấy hai, thường
cho ‘quấy’ thành ‘phải’. (Hồi xưa, Nicolaus Copernicus (1473-1534) nói địa
cầu là tròn, xém chút thì phải mất mạng. Chúng ta nói nhân quả báo ứng và
lục đạo luân hồi, nếu bị chê là ‘mê tín’ thì cũng là ‘việc nhỏ’ mà thôi).
Thật ra, danh từ ‘chủ nợ’ không hẳn là phải ‘đeo mắt kiếng đen, hút
thuốc lá thơm, cầm súng, mặt đầy ác khí, đi đến trước cửa để đòi nợ’. Chủ
nợ có rất nhiều dạng: Có thể là một người đẹp mà bạn vừa nhìn đã bị ‘hốt
hồn’ đi mất rồi, bạn không có suy nghĩ liền đem tiền cho người đó phung
phí, đến khi hết tiền thì người đó bỏ bạn, làm cho bạn âu sầu ủ rũ cả đời.
Hoặc có thể là người khi bạn mới nhìn thì nổi nóng lên, mặt đỏ gay lên để
cãi lộn với họ, cuối cùng rồi làm cho bạn lên huyết áp, chảy máu trong đầu
và chết bất ngờ. Chúng ta hãy nên tin lời nói đầy trí huệ của chư Phật, Bồ
tát, tránh làm hại và kết oán thù với chúng sinh, tại vì tất cả sự khổ đều sẽ
quay trở vào thân mình, thường là hối hận không kịp. Chúng ta hãy quyết
tâm luôn luôn kết thiện duyên, khai mở trí huệ trong bổn tánh, mở ra nguồn
vui sướng vô tận không phải là tốt đẹp hơn không? Những người như vậy,
giống như lão Hòa thượng Quảng Khâm và Tuyết Công lão ân sư, cho dù
sống cả trăm tuổi, mọi người đều thương tiếc ‘tại sao Ngài lại ra đi sớm
vậy?’, ‘tại sao Ngài không sống đến hai trăm tuổi để cho cháu chắt của tôi
cũng có dịp gặp Ngài?’. Thọ mạng của các Ngài vĩnh viễn đối với mọi người
đều không đủ. Phần đông người ta chỉ cần sinh ra một bệnh nan y, ai cũng
than là tại sao họ lại ‘kéo’ (mạng sống) quá dài như vậy, làm cho cả nhà
‘kéo’ đến gần sụp luôn. Nói như vậy thì có ‘trường thọ’ hay không, không
phải dựa trên ‘số tuổi’? Chúng ta nên sống mà mọi người đều tiếc là quá
ngắn, nhưng đừng nên ‘kéo’ dài để cho ai cũng than là quá dài!
Thật ra phải sống làm sao mới tốt? Thì nên nghe theo lời dạy của đức
Phật và những người đã đắc đạo trong quá khứ, nên thật tình niệm Phật!
Dùng cái tâm tánh không thể nghĩ bàn và rộng lớn vô biên của chúng ta để
xưng niệm danh hiệu không thể nghĩ bàn của đức Phật Vô Lượng Thọ, Vô
Lượng Quang A Di Đà; mỗi khi niệm một tiếng thì có một tiếng vượt ra khỏi trần lao! Nguyện cho chúng ta dùng lòng Tín, Nguyện vô cùng vững
chắc, trang nghiêm từng danh hiệu A Di Đà Phật, mỗi một niệm đều chiến
thắng tất cả phiền não, mỗi một niệm niệm đều đầy đủ quang minh tự tại,
mỗi một niệm đều hiện ra trời trong trăng sáng. Dùng danh hiệu bất khả tư
nghì này thể hội được vô lượng quang thọ của tự tánh. Cũng như Ngẫu Ích
tổ sư có nói: “Chuyển kiếp trược thành hải hội thanh tịnh, chuyển kiến trược
thành vô lượng quang, chuyển phiền não trược thành thường tịch quang,
chuyển chúng sinh trược thành liên hoa hóa sinh, chuyển mạng trược thành
vô lượng thọ”. Nguyện từng tiếng Phật hiệu thành khẩn, thiết tha đem sóng
nước cuồn cuộn trên sông Hằng sinh tử trồng đầy hoa sen…
Nam mô A Di Đà Phật.
Trong quá trình chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc
thức giả hoan hỷ phủ chính cho! Xin thành thật cảm ơn!
(Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, ngày 09 tháng 04–1991).
---o0o---
Hết