Bài Viết Huệ Thu
Từ vào thu đến nay: Gió thu hiu hắt, Sương thu lạnh Trăng thu bạnh Khói thu xây thành. Lá thu rơi tụng đầu ghềnh Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly. Nhạn về én lại bay đi, Ðêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm. Lá sen tàn tạ trong đầm, Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa. Sắc đậu nhuộm ố quan hà Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương. Nào người cố lí tha phương, Cảm thu ai có tư lường hỡi ai? Nào những ai: Bảy thước thân nam tử, Bốn bể chí tang bồng Ðường mây chưa bổng cánh hồng, Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi. Nào những ai: Sinh trưởng nơi khuê các, Khuya sớm phận nữ nhi, Song the ngày tháng thoi đi, Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa. Nào những ai: Tha phương khách thổ Hải giác thiên nha, Ruột tằm héo, tóc sương pha, Góc phần trạnh tưởng quê nhà đòi cơn. Nào những ai: Cù lao báo đức Sinh dưỡng đền ơn Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn, Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn! Nào những ai: Tóc xanh mây cuốn Má đỏ hoa ghen Làng chơi duyên đã hết duyên Khúc sông trăng dãi con thuyền chơi vơi! Nào những ai: Dọc ngang trời rộng, Vùng vẫy bể khơi Ðội trời đạp đất ở đời Sa cơ thất thế quê người chiếc thân. Nào những ai: Kê vàng tỉnh mộng Tóc bạc thương thân Vèo trông lá rụng đầy sân, Công danh phù thế có ngần ấy thôi. Thôi nghĩ cho: Thu tự trời, Cảm tự người. Người đời ai cảm ta không biết! Ta cảm thay ai viết mấy lời. Thôi thời: Cùng thu tạm biệt Thu hãy tạm lui, Chỉ để khách đa tình đa cảm, Một mình thay cảm những ai ai! Bài thơ bắt đầu bằng câu ngũ ngôn, rồi xuống câu tam ngôn, tứ ngôn, rồi tiếp theo là lục bát. Không ai băn khoăn hỏi đây là thể thơ gì ? Bởi nó rất thơ, ngũ ngôn thì ra ngũ ngôn, rồi chuyển đến tam tứ ngôn, đều tự nhiên như thế cả. Bài Tống Biệt : Lá đào rơi rắc lối thiên thai Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi Nửa năm tiên cảnh Một phút trần ai Ước cũ duyên thừa có thế thôi Ðá mòn rêu nhạt Nước chảy huê trôi Cái hạc bay lên vút tận trời! Trời đất từ đây xa cách mãi Cửa động Ðầu non Ðường lối cũ Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi... Bài này không thể nói là thể thơ gì nhưng có ai bảo nó không phải là thơ ? Tôi nhớ đến một bài thơ khác của ông Hà Thượng Nhân trên báo Tựợ Do viết gởi ông Kémoularia đạii diện liên Hiệp Quốc. Vào ngày 27 tháng 8 năm 1959, Ủy ban Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của ông Kémoularia, đại diện đặc biệt của ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về năm những người tỵ nạn trên thế giới đã nhóm họp tại Sài Gòn. Bài thơ dưới đây mà ông HTN đã viết để chào mừng vị sứ giả của tình thương ấy. Bài thơ tuy dài nhưng vẫn có tính chất thời sự, vì thế tôi xin chép lại nguyên văn: Kính chào Kémoularia Kính chào Kémoularia Sứ giả tự do Tiếng nói của con người đau khổ. Chúng tôi ra đi Vượt Trường Sơn hiểm trở, Lấy tay yếu cản đè sóng dữ, Không cần sống, chỉ cần dân chủ, Tìm về thế giới tự do Ở đâu áo ấm cơm no ? Trăng Thu rung mãi tiếng hò nhặt khoan. Chúng tôi khinh nguy nan, Tìm tấm lòng cởi mở. Lúc gặp nhau vui mừng hớn hở, Dù mới quen như biết từ lâu. Mời nhau này một miếng trầu, Chuyền tay vê điếu thuốc lào cũng vui. Chúng tôi đổ mồ hôi, Nâng niu từng tấc đất, Mỗi tấc đất là tấc lòng tấc ruột, Là máu xương, là sự nghiệp ông cha. Mà nay lìa cửa, lìa nhà, Bởi say ánh sáng, chẳng thà thiêu thân. Năm châu triệu triệu bước chân, Của chúng tôi : Những người dân cần cù. Ơi Tây Ðức mịt mù thăm thẳm, Ơi Nam Dương ngàn dặm, héo hon ! Bốn phương giang mắc núi non, Lưới nào bủa được cánh con chim trời ? Ơi Tây Tạng, những lời nói ngọt, Tại làm sao chẳng lọt vào tai ? Ơi Hung Gia Lợi anh tài, Nắm tay thành bức tường dài : chúng ta, Kính chào Kémoularia, Kính chào Liên Hiệp Quốc. Phẩm giá con người từ lâu nhơ nhuốc, Chúng tôi đi để chuộc lấy linh hồn. Rồi những bình minh, rồi những hoàng hôn, Chợt tỉnh lại ngoảnh về đất Bắc, Thương cha mẹ đày trong gót giặc, Nhớ từng lối cỏ bờ tre, Mùa nào lúa chín đỏ hoe, Mùa nào gió trở se se, hỡi mình ? Nếu lấy sống làm vinh, Chúng tôi không sống nhục. Chỉ có một cực hình, Là cúi đầu gục mặt. Chúng tôi đi, bởi không cam què quặt, Không học theo lang sói sủa quân thù, Rạch Cái Sắn thành khoai, thành đỗ, Rừng cao nguyên thành lúa, thành cơm, Ðánh tranh gìn giữ cọng rơm, Ở đây tưởng thấy mùi thơm quê nhà. Ơi Kémoularia ! Biết lấy chi làm quà, Trao vào tay sứ giả ? Xin cho gửi niềm thống khổ, Mồ hôi nước mắt tin yêu. Xin cho gửi lời chào, Những ai cùng cảnh ngộ, Tiếng nói chúng tôi dù rằng bé nhỏ Nhưng là tiếng nói can trường. Nhờ tình yêu dẫn lối đưa đường Hòa trong tiếng những người “đồng chí”. Chúng tôi viết giữa không gian hùng vĩ, Giữa lòng thế kỷ hai mươi : “Chúng tôi là người, Chúng tôi muốn làm người.” Hỡi Kémoularia, (trích trong tập thơ CHÂN TÂM do Ðỗ Kế Hoàn sưu tập trang 23) Bài thơ này không viết theo một thể thơ nhất định nào. Nó là phối hợp nhiều thể thơ nhưng là một bài thơ. Và sau đây là một bài Thất ngôn bát cú : NGÔNG Quay ngựa xích thố buộc khóm trúc Ném gươm long tuyền về non Tây Chí thôi đã lỡ, kệ binh lửa, Danh vốn không màng, mặc cỏ cây. Gà chó đôi con năm tháng rộng Ruộng vườn dăm khoảnh gió trăng đầy Buông câu, xốc áo quay nhìn vợ: Trời đã chiều chưa? Ta đã say! H TN Câu đầu toàn vần trắc đến câu hai toàn vần bằng, bài thơ thật hay phá cách thật tài tình. Ông cũng đáng danh là một “đại gia thơ” trong làng thơ Việt Nam. Như vậy thì thể thơ là một cách nói. Gần đây Bà Vi Khuê có viết một bài thơ. Mới đọc qua tưởng là luật Ðường. Nhưng theo tôi, đó là bài thơ “có vẻ” là luật thế thôi. Bài thơ như sau : Bà Huyện Thanh Quan Một tấm lòng hoa nặng nỗi niềm Niềm non nỗi nước, mảnh tình riêng Trong cơn gió bụi chìm hương lửa Giữa cảnh phong ba lạnh mối giềng Cung báo quốc não nùng điệu quốc Giọng thuyền quyên khắc khoải lời quyên Dừng chân đứng lại, ngùi trông lại Ðể lại lời thơ vạn cổ truyền Câu 5 có vẻ không đúng luật, nhưng nhịp của hai câu thơ ấy rõ ràng không còn là nhịp thơ của luật thơ nữa. Cho nên ta vẫn thấy thuận tai. Câu thơ vẫn đứng vững bởi nó đã chuyển qua nhịp thơ Song Thất (nhịp ba).Muốn phá được như thế, trước hết phải nắm vững luật thơ nói chung và dĩ nhiên tài năng phải vào bậc thượng thừa. Lý Bạch, Thôi Hiệu, Ðỗ Phủ, Nguyễn Du... là những thi sĩ thượng đẳng, những đại gia trong làng thơ. Nhưng bài Anh Vũ Châu của Lý bạch, bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ thất niêm và Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng thất niêm : Chưa ai làm thơ nhiều bằng Lý bạch, Thơ đối với ông là không khí. Ông xử dụng nó tự nhiên như hít thở khí trời. Lý Bạch, tổ sư của thơ, người đời thường gọi ông là Trích Tiên, ông cũng có những bài thơ không chú trọng tới niêm luật : Anh Vũ Châu Anh Vũ lai quá Ngô giang thủy Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh Anh Vũ tây phi lũng sơn khứ Phương châu chi thụ hà thanh thanh Yên khai lan điệp hương phong noãn Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh Thiên khách thử thời đồ cực mục Trường châu cô nguyệt hướng thùy minh Dịch Nghĩa: Chim Anh vũ xưa bay đến sông Ngô Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng Bãi thơm cây xanh biếc làm sao ! Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai Dịch Thơ: Bãi Anh Vũ Sông Ngô anh vũ xưa qua đó Anh vũ thành tên gọi đến giờ Anh vũ về đây qua núi Lũng Bãi thơm cây cối những xanh mờ ! Mùi hương lan diệp lừng trong khói Sóng gấm đào hoa gợn sát bờ Thiên khách trông vời thôi cũng uổng Ðợi ai trăng bãi luống bơ vơ !... Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu Hay : Nhãn tiền hữu ảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu Hay là : Ðộng Ðình Hồ tây thu nguyệt huy Tiêu tương giang bắc tải hồng phi Túy khách mãn tiền ca Bạch Tử Bất tri sương lệ nhạn thu y Và : Cố nhân tây hồ Hoàng Hạc lâu Yên ba tam nguyệt há Dương Châu Những câu trích ra trên đây, thất niêm, thất luật lung tung ! Lý Bạch lại không biết luật ư ? Biết mà vẫn không sửa, không cần sửa, bởi nếu ông ta sửa, câu thơ sẽ mất hay ! Những câu thơ hay của Hàn Mặc Tử, của Quang Dũng của Thâm Tâm cũng cần có luật đâu ? Vậy thì niêm luật không cần thiết ư ? ố Không cần thiết thì đặt ra làm gì, nghiên cứu làm gì ? Xin thưa : niêm luật cần lắm chứ ! Nó giúp người ta rất nhiều để làm những bài thơ “khả thủ”, những tay đại bút thì không cần. Họ chính là luật, họ tạo ra luật. Muốn sáng tạo đương nhiên phải thông thạo nó. Chưa biết mà tấp tểnh phá luật là một điều buồn cười. Người phá luật phải rất thông thạo luật, cũng như người giỏi võ phải thông thạo mọi thế võ, khi đã thạo võ, xuất chiêu là thành võ đâu cần phải câu nệ ? Không một võ sĩ nào khi lên đấu mới nghĩ đến những miếng võ mình cần xử dụng. Lầu thông rồi, nó biến thành những cử chỉ tự nhiên như hơi thở , đi đứng. Bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, là một trong những bài thơ hay trong hàng trăm hàng vạn bài thơ Ðường . Hoàng Hạc lâu, hay đến nỗi nhà thơ như Lý Bạch, bước đến Lầu Hoàng Hạc thấy thơ của Thôi Hiệu đề trên vách, liền quăng bút, không dám đề thơ nữa . Giai thoại là thế, Lý Bạch là thi tiên của đời Ðường, là người uống một đấu rượu làm một nghìn bài thơ (Lý Bạch, đấu tửu thi bách thiên). Theo giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thì ông làm gần hai vạn bài thơ. Hồng H?c Lạu c?a Thơi Hi?u nguyằn v?n nh? sau : Hoàng Hạc Lâu Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Thử địa không dư Hàng Hạc Lâu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu Tản Ðà đã dịch và cho đến nay vẫn được coi là bài dịợch hay nhất : Lầu Hoàng Hạc Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi mất từ xưa, Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Tản Ðà Huệ Thu cũng có bài dịch : (trong tập SCTÐ) Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ? Biết chăng Hoàng Hạc đây lầu trống trơn Hạc bay rồi, đã bay luôn Tầng cao mây trắng cứ vờn thiên thu Hán Dương cây đứng gục đầu Châu Anh bờ cỏ xanh màu nhớ thương Sớm chiều nhắc mãi quê hương Trên sông khói sóng giăng buồn trời ơi ! Và bài Khúc Giang của Ðỗ Phủ: Triều hồi nhật nhật điển xuân y Mỗi nhật giang đầu tận túy quy Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hy Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển Tạm thời tương tống mạc tương vi Tản Ðà Dịch : Sông Khúc Khỏi bệ vua ra cố áo hoài Bến sông say khướt, tối lần mai Nợ tiền mua rượu đâu không thế ? Sống bảy mươi năm đã mấy người ? Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn Chuồn chuồn rỡn nước lửng lơ chơi Nhắn cho quang cảnh thường thay đổi Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài. Bản dịch của Tản Ðà Câu thứ bảy thất niêm, chữ lưu phải là chữ trắc. Dĩ nhiên Ðỗ Phủ thừa biết như vậy. Ông thất niêm cố ý ! Hỏi tại sao ông lại cố ý thì lại là vấn đề khác. Bài Ðộc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du cũng vậy : Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư Chi phấn hữu thần lân tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kỳ oan ngã tự cư Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Bài thơ viết theo luật bằng : Tây Hồ mai uyển tẩn thành khư Ðến câu thứ 7 tự nhiên tác giả chuyển qua luật trắc : Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ? Trong làng thơ Quốc Âm, thơ thất niêm còn để lại cũng khá nhiều, thí dụ bài Vịnh Dế Duỗi của Tú Qui: Kiến chẳng kiến voi chẳng voi Ðời sanh dế duỗi cũng loi choi Ngắn cánh lên trời không đủ sức Có tay vạch đất cũng khoe tài Mưa tuôn gió tạt lên cao ở Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi Quân tử có thương thời chớ phụ Ðể cho bay nhảy thử mà coi Bà Hồ Xuân Hương trong bài Ðèo Ba Dội câu đầu Hồ nữ sĩ đã phá luật: Một đèo, một đèo, lại một đèo ! Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo Cửa son đỏ loét tùm lum nóc Hòn đá xanh rì lún phún rêu Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc Ðầm đìa lá liễu hạt sương gieo Hiền nhân quân tử ai mà chẳng Mỏi gối chồn chân cũng cứ trèo Trong bài Xướng họa với Chiêu Hổ : Anh đồ tỉnh, anh đồ say Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày ? Này này chị bảo cho mà biết Chốn ấy hang hùm chớ mó tay ! Hay trong bài Khóc Tổng Cóc : Chàng cóc ơi ! Chàng Cóc ơi ! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi ! Câu đầu của hai bài thơ Tứ Tuyệt mỗi câu chỉ có 6 chữ, theo luật vừa phá cách vừa thất niêm, không nhất tứ (theo niêm thơ tứ tuyệt : nhất tứ, nhị tam). Những phá cách của nữ sĩ họ Hồ khó ai bắt bẻ được, bởi thơ bà chữ nghĩa dùng quá hay và quá tài tình. Những người còn quá câu nệ vào luật thơ thì nên nhớ câu này : Tận tín thư bất như vô thư = tin hết vào sách thà đừng có sách còn hơn. Học nhưng phải có sáng tạo nhưng muốn sáng tạo phải biết cho tường tận trước đã. Bất kể cái gì cũng cần phải học, phải có nguyên tắc. Và cũng phải hiểu, chưa có một nguyên tắc nào là vẹn toàn ! Học như thế mới là học. Như vậy những bài thơ thất niêm, thất luật còn được truyền tụng phần nhiều là của các bậc danh gia. Vậy thì: “Ðại gia văn chương bất câu niêm luật”ư ? Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những võ sĩ khi thượng đài không còn phải nhẩm lại các đường quyền phải múa thế nào cho đúng, chân tấn thế nào cho vững! Xuất chiêu dĩ nhiên là có thế võ rồi. Thiết tưởng sự thất niêm thất luật kia là cố tình chứ không phải sơ ý . Rất nhiều bài thơ nổi tiếng ở nước ta của Hàn mặc Tử, của Quang Dũng ... vừa thất niêm lại thất luật !( xin đọc phần phụ). Cho nên rõ ràng niêm luật chưa phải là thơ. Cứ câu nệ ở niêm luật chưa chừng thơ không còn là thơ nữa ! * Phần phụ Thêm : Tôi nhớ trước đây tôi có trả lời chị NTND về một câu thơ của tôi chị cho là sai luật, trong bài : Nhớ Quê Hương Quê Hương. Trời ! Thao thức không tên Một tiếng rao quà mới cất lên Ðà Lạt mây xưa mờ trước cửa Trại Hầm mận ngọt lịm nhà bên Chép thơ trong lớp lòng ngơ ngẩn Cởi áo qua cầu nổi nhớ quên ! Một chút nắng vàng trên lộ vắng Rưng rưng ngày ấy thác Prenn . Câu đầu chị NTND muốn tôi sửa lại vì bị “trật niêm luật” - Nhưng tôi trả lời câu thơ đó tôi viết như thế vì muốn chuyển nhịp... - Nếu hiểu theo cách học của nhà trường lúc mới vỡ lòng về thơ thì câu ấy sai luật chứ không sai niêm. Muốn sai niêm phải sánh với câu dưới. Còn nếu muốn nói đã sai luật là kéo thêm niêm thì cũng không sao. Tôi xin kể ra đây một số thơ của những thi sĩ lớn của Việt Nam cũng như của Trung Hoa viết sai luật, cả niêm nữa (Nói đúng hơn là phá niêm luật). Như trên, trong bài Khúc Giang , Ðỗ Phủ viết : Truyền ngữ xuân quang cộng lưu chuyển Trong câu này chữ lưu phải là thanh trắc Trong bài Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu viết : Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Chữ thừa thất luật . Thơ Việt Nam thì Hàn Mặc Tử viết : Sao anh không về chơi thôn Vỹ Chữ về thất luật. Quang Dũng thì viết : Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Chữ luông thất luật. Trong bài Tống Biệt Hành, Thâm Tâm viết: Ðưa người ta không đưa qua sông Cả một câu bảy chữ đều là thanh bằng. Trong bài Ðộc Tiểu Thanh Ký, Nguyễn Du viết : Phong vận kỳ oan ngã tự cư rồi hạ xuống hai câu kết: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như như thế là thất niêm. Thật ra, người ta làm thơ trước khi biết luật; Nói được Việt ngữ chẳng hạn trước khi học ngữ phạm Việt Nam. Luật không phải do người sáng chế ra mà chỉ do người khám phá ra luật . Vậy thì luật do đâu mà có ? Luật là quy tắc chung của muôn loài muôn vật : như nước chảy xuống chỗ trũng ... Con người quan sát thiên nhiên, khám phá những quy luật của thiên nhiên, rồi quy củ hóa nó, điển chế nó để áp dụng vào thi ca, âm nhạc v... v... Cái luật cốt tử của nó là luật điều hòa âm dương. Trong thơ, tiếng bằng là âm, tiếng trắc là dương. Mỗi câu thơ dù dài, dù ngắn, phải chia ra thành từng nhịp. Người hơi có ý thức về thơ, đọc một câu thơ tất phải ngắt nhịp. Thường mỗi câu thơ chia ra làm ba nhịp. Bây giờ hãy xin nói đến luật thơ Ðường Thi bát cú : Mỗi bài có tám (8) câu, năm (5) vần, hoặc bốn (4) vần. Có hai thể : thể bằng và thể trắc. Xin đơn cử một bài theo thể bằng : Ao thu lạnh lẽo nước trong veo Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo Sóng biếc theo làn hơi gợn tí Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo v... v... Nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh. Vậy thì chỉ có những chữ thứ 2, 4 , 6 phải theo luật bằng trắc như đã ấn định. Luật ấy nếu viết tắt ra thì như thế này: Thể bằng: Chữ thứ Chữ thứ Chữ thứ 2 4 6 B T B T B T T B T B T B B T B T B T T B T B T B Thể Trắc : Chữ thứ 2 Chữ thứ 4 Chữ thứ 6 T B T B T B B T B T B T T B T B B B B T B T T T Nhìn vào đó ta thấy, đếm theo hàng dọc : B + TT + BB + TT + B Vì bài thơ là thể bằng nên chữ thứ 2 của câu đầu là thanh bằng. Nếu đếm theo hàng ngang thì : B + T + B Hễ giữa mà trắc, hai bên bằng là đúng luật. Còn đếm theo hàng dọc chữ thứ 2 của câu 1 + 8 giống nhau, chữ 2 của câu 2 + 3 giống nhau, chữ 2 của câu 4 + 5 giống nhau, chữ 2 của câu 6 + 7 giống nhau là đúng niêm. Niêm luật ấy là chỉ dùng cho việc thi cử (để dễ có tiêu chuẩn mà chấm bài). Những bài thơ đúng luật nhất là những bài thơ của các vị đại khoa (các cụ Trạng, cụ Bảng, cụ Thám, cụ Nghè) khi làm để lưu niệm lúc ngồi ăn với vua. Những bài thơ ấy ngày nay có còn ai nhớ nữa đâu ! Nó chỉ đúng luật chứ chưa phải là thơ. Những bài thơ mà tôi vừa nêu trên (như bài của Ðỗ Phủ là một bài luật thi hẳn hoi) mà vẫn thất niêm, thất luật. đâu có phải vì những người ấy không hiểu niêm luật. Nếu chúng ta để ý nhận xét thì thấy thế này; từ tứ tuyệt đến song thất, đến luật thi, đến ca trù, đến thơ mới 8, 9 chữ.., tất cả chỉ có một luật, tất cả các luật đều giống nhau. Sở dĩ trong các sách giáo khoa người ta dạy thơ lục bát khác luật song thất v... v... để cho học trò dễ nhớ. Các thể thơ mà khác nhau là do nhịp thơ. Chính nhịp thơ (chữ cuối mỗi nhịp thơ là luật thơ, bắt buộc (nói bắt buộc là nói tương đối thôi) phải theo đúng bằng trắc còn tất cả tùy tiện muốn viết là bằng hay trắc cũng được. Ðây là tôi chỉ nói một cách sơ lược. Vì thế trong câu thơ mà chị bảo là sai luật là tôi muốn chuyển nhịp câu thơ đang 2 + 2 + 3 thành 3 + 2 + 2 . Không phải là tôi bảo rằng có thể dùng thể thơ trộn lẫn song thất vào thể thơ thất ngôn. Ấy là tôi nhìn vào cái lý cuối cùng của luật : tạo ra quân bình thoải mái cho câu thơ. Mong sẽ còn lãnh thêm ý kiến của chị và các bạn thơ . Ở trên tôi đã viết tất cả các thể thơ đều chung một luật : ấy là luật quân bình âm dương. Luật ấy là căn cứ ở những chữ cuối nhịp cửa mỗi câu thơ mà định. Chỉ có 3 chữ ở cuối các nhịp là chữ Luật nghĩa là phải viết đúng theo công thức T (nhịp 1) bằng (nhịp 2) T (nhịp 3) hoặc ngược lại: B (nhịp 1) Trắc (nhịp 2) B (nhịp 3) nghĩa là hễ chữ cuối ở nhịp thứ 2 là trắc thì chữ cuối của nhịp 1 và 3 phải bằng. Tôi xin chứng minh : Thể Lục Bát Trăm năm (B) trong cõi (T) người ta (B) Chữ tài (B) chữ mệnh (T) khéo là (B) ghét nhau (B) Bởi câu 8 có 4 nhịp, 2 nhịp 3 và 4 cùng là bằng nên 2 chữ bằng 1 phải có dấu huyền (là) và một chữ không có dấu. Nhịp thơ của thơ lục bát là nhịp 2 - Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng có luật lệ như câu : Mai cốt cách (T) / tuyết tinh thần (B) Câu thơ này nhịp 3 . Ðã vậy thì cuối nhịp 1 phải là trắc. Thơ lục bát có những biến thể : Biến thể 1 : ví dụ ta viết (đây chỉ là ví dụ): Trăm năm trong cõi người ta Chữ mệnh khéo là ghét bỏ chữ duyên Vần đáng lẽ ở chữ thứ 6 ở câu 2 thì ở đây lại gieo vào chữ thứ 4 . Khi ấy chữ cuối của các nhịp thơ sẽ đổi là nhịp 1 (chữ thứ 2) T, chữ thứ 4 (B), chữ thứ 6 (T) và chữ thứ cùng là bằng thì chữ vần phải có dấu huyền và chữ thứ 8 thì không . Biến thể 2: ví dụ : Nước trong xanh lơ lửng cái con cá vàng Cây ngô, bây giờ mà cành bích con chim phụng hoàng nó đậu cành trên . Dù số chữ trong câu có dài hơn nhưng đọc lên câu trên vẫn có 3 nhịp và câu dưới có 4 nhịp . Ðó là 1 kiểu thơ của dân gian cho nên số chữ có thể linh động thêm bớt. Tuy nhịp thơ thì vẫn y nguyên . Nhịp thơ căn cứ vào đâu mà biết ? Thưa: - do linh tính. Ðọc lên là biết liền. Nếu đọc không đúng nhịp thì sẽ thấy trúc trắc . Luật thơ song thất lục bát : ví dụ : Trải vách quế (T)gió vàng (B) hiu hắt (T) Mảnh vũ y (B) lạnh ngắt (T) như đồng (B) Oán chi những khách tiêu phòng Mà xui phận bạc nằm trong má hồng Luật thơ là : T (quế) B (vàng) T (hắt) B (y) T (ngắt) B (đồng) Chữ bằng ở cuối nhịp 1 không có dấu huyền thì chữ thứ 7 bắt buộc phải có. Ta nhìn rõ thì câu thơ theo đúng luật âm dương: giữa bằng thì hai bên trắc và ngược lại. Thơ mới: ví dụ : Ðây là quán / tha hồ / muôn khách đến / Ðây là bình / thu hợp / trí muôn hương / Ðây là vườn / chim nhả hạt / mười phương Hoa mật ngọt / chen giao / cùng trái độc / Ðôi giếng mắt / đã chứa trời / vạn hộc / (Xuân Diệu) Nhịp của các câu thơ 8 chữ có thể là (theo các câu trên) 3 + 2 + 3 3 + 2 + 3 3 + 3 + 2 3 + 2 + 3 3 + 3 + 2 (nghĩa là có thể linh động) Luật thơ : căn cứ vào các chữ cuối nhịp, ta có : Câu 1 Quán (T) hồ (B) đến (T) Câu 2 hình (B) hợp (T) hương (B) Câu 3 vườn (B) hạt (T) phương (B) Câu 4 ngọt (T) giao (B) độc (T) câu 5 mắt (T) trời (B) hộc (T) Nó đã đi vào luật ban đầu : Giữa Bằng 2 bên trắc Giữa Trắc 2 bên bằng Hát nói: Ví dụ : Mới ngày nào / đã biết / cái chi chi Mười lăm năm / thấm thoát / có ra gì / Ngoảnh mặt lại / đã tới kỳ / tơ liễu . Căn cứ vào những chữ cuối nhịp ta có : nào (B) biết (T) chi (B) năm ( B) thoát (T) gì (B) lại (T) kỳ (B) liễu (T) Cũng vẫn luật : giữa Trắc 2 bên Bằng và ngược lại câu 2, chữ cuối nhịp 3 cũng bằng nhưng không dấu . Ðây là những hiểu biết thô thiển của tôi về phá cách trong luật thi , xin các quý vị cao minh cho thêm ý kiến để học hỏi thêm. Huệ Thu 2008 Ta nắm tay nhau, hai chiếc mặt nạ Cũng chỉ là một nửa cuộc đời Không tiếng khóc, không nụ cười Tay lần giở những lớp đời, mãi lạ! | |
|
HanSiNguyen
"Super Member"
|
Cám ơn bạn TrieuAm đã đăng lại một bài viết lý thú của tác giả HUE THU
Đọc bài viết này cảm giác y hệt như nhấm nháp một ly cafe ngon , dẫu đắng một chút nhưng vị thật ngọt ngào, cảm xúc khó tả... Welldone ! ==================================================== THƠ TỰ DO HIỆN ĐẠI -Hàn Sĩ Nguyên- Nếu Thơ Mới ra đời vào khoảng năm 1932, và phát triển như vũ bão trong khoảng 2 thập niên, để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn học, thơ ca Việt Nam, với những cái tên lẫy lừng như TTKH, Thâm Tâm, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính v.v...., thì khoảng 23 năm sau, vào năm 1955, trên các thi đàn Việt Nam bắt đầu thấy xuất hiện một thể thơ , mới hơn cả thơ mới nữa, với tên gọi là ... Thơ Tự Do. Thật ra, có thể nói Thơ Tự Do xuất hiện từ rất sớm ở các quốc gia phương Tây : Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nga v.v...và bùng phát mạnh mẽ từ sau Thế Chiến thứ hai, như là một cách giải thoát những uẩn ức, những cô đọng, những chất chứa, được tích luỹ trong thời tao loạn. Tất cả những tích luỹ ấy dồn ép ra thành thơ ca dưới dạng phóng túng nhất của ngòi bút : Thơ Tự Do, với tất cả những phá cách tiêu biểu, như thể là một sự giải phóng của tâm hồn khỏi ách áp bức của những lệ luật, vần điệu cũ vậy. I-Những đặc trưng nổi bật của Thơ Tự Do : 1-Về mặt hình thức : -Số chữ trong mỗi câu không hạn định : ít nhất một từ, và nhiều thì có thể trên một chục từ. -Số câu cũng không hạn định, và không chia ra thành khổ 4 câu như cũ nữa -Không có những khái niệm về Niêm , Luật, Đối . -Về Vần : cũng không có một luật lệ cố định nào. Nói chung là vần muốn gieo ở đâu cũng được cả. 2-Về mặt nội dung : -Thường có nhiều âm thanh, hình tượng, màu sắc đa dạng và phong phú, biểu thị bởi những cách dùng từ hết sức mới lạ, mang tính cách tân, không hàm chứa những hình ảnh cũ kỹ sáo mòn, như trăng vàng, hồ thu, giọt sầu, Tương giang, Dịch thuỷ ....nữa. Thậm chí những từ chỉ các cơ quan sinh dục, các bộ phận thân thể nhạy cảm của cả nam lẫn nữ, những vật thể bình thường hay tầm thường của cuộc đời (gốc cây, hòn sỏi,....), những sinh vật bé bỏng, li ti, gớm ghiếc (theo quan điểm cũ) như ruồi, nhện gián, nhặng .... cũng thấy sử dụng, miêu tả thường xuyên -Thường có những khái niệm trừu tượng, siêu thực , hoang tưởng, phi vật thể, đôi khi quái dị, đan xen vào nhau thay thế cho những hình tượng cụ thể quen thuộc cũ -Lời kết đôi khi, hoặc thường khi được bỏ ngỏ, không tròn trịa, có đầu có đuôi như thơ cũ. Để tuỳ người đọc muốn kết luận ra sao thì ra, hoặc hình dung tiếp theo hướng nào cũng được cả. -Ý thơ thì hết sức đa dạng, không gò gẫm trong bất cứ một khuôn khổ nào, một cách phối trí cố định nào. Nhưng đa phần đều đề cập đến những vấn đề cốt lõi của nhân sinh, của kiếp người. Cũng vẫn trăn trở đi tìm lời giải đáp cho những câu hỏi muôn thuở : Người là ai ? Từ đâu đến ? Sẽ về đâu ? Sống ở đời này để làm gì ? Cõi cực lạc, an bình ở chốn nào ? Đi đường nào để tìm về những cội nguồn hoan lạc ấy ? Người cư xử với người như thế nào cho phải cách ? Quan hệ giữa vô biên và bản ngã là thứ quan hệ gì ? Có hay không có mối quan hệ ấy ? Và thật ra thì có vô biên hay không ? v.v.... Những chủ đề cao siêu như vậy, cách thể hiện lại khác thường, nên Thơ Tự Do thường được hiểu một cách đơn giản và sai lầm như là một loại thơ rối rắm, tối nghĩa, khó tiếp thu, khó nhận thức, khó cảm thụ, khó đọc, và khó nhớ. Thật ra thì không phải như vậy ! II-Thơ Tự Do dễ viết hay khó viết ? Từ những đặc trưng của thể loại Thơ Tự Do nêu trên , có thể rút ra được một số kết luận như sau : 1-Một là, Thơ Tự Do rất dễ viết : Thậm chí dễ viết đến nỗi ai viết cũng được, chỉ cần là tay ngang, amateur, tài tử, nghiệp dư cũng viết được Thơ Tự Do một cách dễ dàng Có nhiều nhà thơ nghiệp dư, mỗi ngày có thể sáng tác được hàng chục, thậm chí hàng vài chục bài thơ tự do (!), một cách vô cùng thoải mái, mà khỏi cần mất công học hỏi Thi Pháp, vần luật, tiết tấu gì hết (!). Chỉ cần mỗi một điều là có hứng, là cao hứng, nghĩ một đề tài nào đấy, và cứ để xuôi dòng tư tưởng, mạnh tay phóng bút. Viết xong cũng chẳng cần phải mất công gọt giũa bao giờ (!) Tóm lại : Thơ Tự Do rất dễ viết. Nhưng cũng chính vì sự dễ dàng ấy mà thường là người viết chỉ cho ra những sản phẩm loại hai, loại ba, hoặc sản phẩm dạng thô mà thôi. Hiếm khi thấy được một bài Thơ Tự Do đạt tính biểu cảm cao độ, và cũng hiếm khi thấy được những bài Thơ Tự Do hoàn chỉnh. Hiếm, nghĩa là vẫn có, nhưng hoạ hoằn lắm mới có vậy. 2-Hai là, viết Thơ Tự Do cho hay là rất khó : thậm chí vô cùng khó. Tại sao ? Thật không dễ trả lời câu hỏi này, cũng không dễ trình bày khái niệm này để ai cũng có thể quán triệt xuyên suốt, nhưng có thể tóm tắt gọn gàng như sau : Thơ Tự Do là thành tựu của thi ca hiện đại, là hội tụ của tất cả những gì cổ điển và cổ điển nhất, từ đó mà đưa đến những cách tân, vượt ra ngoài mọi thủ tục, mọi trình tự, mọi lề luật. Do đó, Thơ Tự Do là đỉnh cao thâm nghiêm nhất, vòi vọi nhất, mà người viết muốn viết thành công, không thể không hao tổn công phu, khó nhọc vậy Người xưa nói :”Nghề chơi cũng lắm công phu”. Không thể có cái gì ít tốn công sức mà lại đạt thành tựu to lớn một cách dễ dàng được cả. Có thể dùng một số hình ảnh thí dụ để dễ so sánh, dễ hiểu hơn như sau : Theo ngôn ngữ kiếm hiệp của KIM DUNG, nếu ai có đọc Tiếu Ngạo Giang Hồ, sẽ thấy Kim Dung đưa ra quan điểm “Vô chiêu thắng hữu chiêu”. Trong đó, ông lập luận rằng : -Cấp 1 : Những người không biết gì về võ nghệ, khi đánh nhau chỉ có thể đạt mức đánh ... võ rừng, nghĩa là đánh ... loạn xạ, không đâu ra đâu cả, và tất nhiên là hiệu quả sẽ không cao. -Cấp 2 : Đối với những người đã dày công học tập, rèn luyện võ nghệ, thì mỗi khi ra đòn đều đúng theo chiêu thức, phương pháp. Tất nhiên hiệu quả đạt được sẽ cao hơn gấp bội. -Cấp 3 : Ở trình độ võ nghệ thượng thừa, sau khi trang bị trong mình đủ các loại võ công, bí kíp, người ra đòn lại đánh theo kiểu “vô chiêu”, nghĩa là chẳng cần chiêu thức nào hết, nhưng mỗi khi vung tay cất chân, đều tự nhiên theo đúng phép tắc tinh luyện, những đòn đánh thì cứ như thể là mây trôi nước chảy vậy. Tất nhiên hiệu quả của “vô chiêu” hơn hẳn “hữu chiêu”. Đem khái niệm này áp dụng vào Thi ca có thể hiểu được dễ dàng : -Người không biết gì về Thi Pháp, Vần Luật, Tiết Tấu giống như người không biết võ, khi làm thơ (bất luận thơ gì) sẽ chỉ đạt hiệu quả của nhóm cấp1. -Những người làm thơ cổ , thơ Lục bát, thơ Đường, thơ Mới , đều phải học tập và nắm vững những quy luật về Thi Pháp, Vần Luật, Tiết Tấu của mỗi loại thơ. Có thể coi như nhóm cấp 2. -Còn những người sau khi hiểu rõ các quy luật nói trên, quay trở lại làm Thơ Tự Do, chẳng khác nào những võ sư cao thủ sử dụng vô chiêu vậy. Hiệu quả sẽ rất ghê gớm. Đó là nhóm cấp 3 vậy. Vì vậy, Thơ Tự Do tiếng rằng tự do, không theo quy luật nào cả, nhưng lại là loại thơ khó nhất, dễ viết thật, nhưng viết cho hay lại là ... khó nhất. Và đương nhiên, đây không phải là thể loại dành cho những người mới nhập môn như thường được dân gian hiểu lầm. Có thể nói, chỉ những ai lăn lộn với Thi Ca lâu ngày chầy tháng, mới hy vọng có thành tựu với Thơ Tự Do mà thôi. III-Một bài “Thơ Tự Do hay” đòi hỏi những gì ? 1-Phải tinh gọn : -Không được thừa những gì “dư thừa”, tuyệt đối tránh những từ “thì, và, là, mà, cũng, vẫn, để, nhưng, vì, vì thế, dù, dẫu ....v.v.....” -Không được trùng lặp về cả từ lẫn ý ( Xin lưu ý là Điệp Ngữ là một thủ thuật Mỹ từ pháp như ánh sao trên trời, còn Trùng lặp chỉ là một cách diễn đạt tầm thường , như chân vịt trên mặt bùn vậy : Cả hai thứ “sao trên trời” và “chân vịt trên mặt bùn” đều có 5 cánh, nhưng khác nhau nhiều, nhiều lắm !!!) -Không sử dụng những từ “lạc lõng” trong một tổng thể thống nhất. 2-Phải phong phú : -Không được thiếu những thứ không thể thiếu : hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ẩn dụ, dẫn suy v.v.... -Phải phối trí hài hoà trong một bố cục linh động không định trước -Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc ấy khó hơn nữa, không chỉ là những hình ảnh, âm thanh, màu sắc thông thường, mà còn phải là biểu tượng cho một khái niệm trừu tượng, vô hình, siêu thực nào đó nữa (Con nhện, chẳng hạn, không những là một con nhện ..., mà còn phải đại diện cho một ý tưởng nào đấy phù hợp với mạch thơ nữa !) 3-Âm thầm đòi hỏi một tiết tấu phù hợp với bài thơ, ý thơ : -Tiết tấu nhanh chậm, hoặc thúc hối, hoặc thư thả : mỗi tiết tấu đòi hỏi một thủ pháp riêng biệt. -Tiết tấu liền lạc, du dương : Dù không có quy tắc cố định về vần (gieo vần ở đâu cũng được, tuỳ ý người viết), nhưng tính chất của một bài thơ vẫn âm thầm đòi hỏi phải có tiết tấu liền lạc, du dương. Nghĩa là các câu vẫn phải ăn vần với nhau ở ... chỗ thích hợp (!). Chỗ nào là ... chỗ thích hợp ? Chỉ những người có năng khiếu về thơ ca, hoặc những người đã từng lăn lóc với thơ nhiều năm mới biết được chỗ nào là chỗ thích hợp nhất để gieo vần mà thôi ! Và điều này cũng chẳng có một nguyên tắc nào để tổng kết được cả, thường là chỉ dựa trên ... “cảm nhận” mà thôi. -Tiết tấu bổng trầm : Để câu thơ không vấp phải lỗi “khổ độc” (khó đọc) , cũng như để đạt được mức độ “êm tai, thánh thót”, mỗi câu thơ dù không tuân theo quy luật nào đi nữa, vẫn phải âm thầm chấp nhận quy tắc “DẠNG SÓNG”, tức “HÌNH SIN”, nói theo kiểu cũ thì đó là luật “Nhị Tứ Lục đảo thanh phân minh”. Nghĩa là nếu chữ thứ hai vần Trắc, thì chữ thứ tư vần Bằng, chữ thứ sáu lại vần Trắc; và ngược lại IV-Phân Loại các thể loại Thơ Tự Do Dù là dựa trên hình thức hiển thị hay nội dung hàm chứa, thì Thơ Tự Do nói chung có thể tạm phân chia thành 3 loại : -Thơ Tự Do hướng cổ điển -Thơ Tự Do hướng hiện đại -Thơ Tự Do hướng tạp lục 1-Thơ Tự Do hướng cổ điển : (Còn tiếp) Ngày tháng đong đưa đời gió bụi Mặc ai xa mã chốn gian trần. www.hansinguyen.net www.hansinguyen.com |
|
Trạc Tuyền
"Super Member"
|
Rõ khổ mấy bài viết hay như thế này sao không đăng sớm để đến nỗi có người chê thơ người ta thế này thế nọ. Họ cứ tưởng nắm được tý "niêm luật" đã là nhà phê bình thơ.
Bần tăng cảm ơn các thí chủ đã mở rộng tầm mắt, soi sáng cho mọi người./. Đã yêu thơ cứ thỏa sức viết theo cảm hứng của mình, hay thì mọi người thưởng thức chung, chưa hay thì làm tiếp, có công mài bút có ngày lên thơ. Xin mạo muội./. (Chạt Tiền thiền sư) |
|
v.vantu
Starting Member
|
Bài viết của các bạn rất hay và bổ ích.Mong được đọc tiếp bài của các bạn..
|
|
lá chờ rơi
"Super Member"
|
Góp ý về thơ phá cách
Bài góp ý này chỉ nói đến sự “phá cách” trong thơ Bát Cú Đường Luật. Cách biên soạn ra Ðường Luật : Về việc soạn ra Ðường Luật, chắc mọi người đều đồng ý với Quách-Tấn trong phần trích dẫn sau đây : [Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.] (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38) Đây là Quách-Tấn với cái nhìn tổng quát, thấy việc phải làm trên nguyên tắc. Nhưng khi vào thực tế của trường ốc, nếu gặp khó khăn trong sự « đúc kết, điển chế » cho thật sít sao với nguyên tác rất là đa dạng, thì cũng phải chọn một giải pháp nào đó đơn giản hơn. Để mà có thể chấm thi. Như trong bài viết của Huệ Thu : . . . . . . một lối thơ trong trường ốc thì phải câu nệ vào luật . Không thế thì làm sao mà chấm ? . . . . . . Phải chăng đó là cái lý do khiến cho Niêm Luật áp dụng trong khoa cử và hiện được đại đa số người chơi thơ Đường áp dụng, lại không bao gồm được hết những bài thơ nổi tiếng của các thi hào thi bá đời Đường ? Về những bài thơ bị gọi là « phá cách » : Những bài thơ nằm ngoài bộ Niêm Luật khoa cử lại rất nhiều. Do đó nên giới bảo vệ bộ Niêm Luật khoa cử cố tìm một giải thích. * một số thì cho đó là sự « phá cách » của các đại thi hào, với câu « đại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». * một số khác thì tìm cách gán ép cho đó là loại thơ « cổ phong ». Sự « phá cách » của các đại thi hào không được đa số công nhận : Về sự « phá cách » của các đại thi hào, rất nhiều người thấy là vô lý, vì có quá nhiều. Quách-Tấn vẫn gọi những bài ấy là thơ « thất niêm », nhưng không đồng ý với quan niệm ấy nên ông giải thích : ’’ Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Ðại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. Nhưng dù chi chi đi nữa, chúng ta - kẻ hậu học - vẫn không nên bắt chước.’’ (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 168) Quách-Tấn bảo « việc ấy tất có lý do » nhưng cũng không thấy cái lý do, mà chỉ khuyên ta không nên bắt chước. Sự gán ép gọi là thơ Cổ Phong cũng khó được chấp nhận : Trong sự gán ép gọi những bài thơ ngoài bộ Niêm Luật khoa cử là thơ Cổ Phong, người ta dùng bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ làm mẫu. Sự thiếu lý rất là rõ ràng như sau : Bài « Vịnh Dế Duỗi » có câu đầu viết theo cách « lục ngôn thể » là : Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi Ý tác giả muốn nói rằng con dế duỗi chẳng nhỏ như con kiến, mà cũng chẳng to như con voi. Người ta thêm vào một chữ « phải » : Kiến chẳng phải kiến voi chẳng voi khiến cho ba chữ nhì tứ lục đều là Trắc. Trong khi đó nếu muốn thêm cho đúng ý tác giả thì phải viết là : Kiến chẳng kiến mà voi chẳng voi và câu thơ sẽ có ba chữ nhì tứ lục phân minh. Sau đây là nhận xét từng câu của bài thơ Vịnh Dế Duỗi được dùng làm mẫu cho thơ Cổ Phong : VỊNH DẾ DUỖI Kiến chẳng phải kiến voi chẳng voi - lục ngôn thể bị thêm vào chữ « phải » Ðời sanh dế duổi cũng choi choi (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần Ngắn cánh lên trời không đủ sức ) - nhì tứ lục phân minh, đối tốt Co tay vạch đất cũng khoe tài ) - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần Mưa tuôn gió tạt lên cao ở } (nhì tứ lục phân minh, đối tốt Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi } (nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần Quân tử có thương thời chớ phụ - nhì tứ lục phân minh Ðể cho bay nhảy thử mà coi. - nhì tứ lục phân minh, dùng chung vần Tú Quỳ Đây đúng là một bài thơ Đường Luật, vì trong mỗi câu các chữ nhì tứ lục đều phân minh, hai cặp 3-4 và 5-6 đối nhau chỉnh tề, toàn bài chỉ dùng có một vần, và chỉ dùng 8 câu. (Chỉ khác có phần Niêm sẽ đề cập đến sau.) Còn thơ Cổ Phong theo định nghĩa thì phải là : - toàn bài có thể dùng 6, 8, 10, 12 câu (vậy tại sao không chọn bài mẫu khác hơn 8 câu ?) - toàn bài có thể dùng nhiều vần (vậy tại sao không chọn bài mẫu có hơn một vần ?) - không cần phải đối (vậy tại sao không chọn bài mẫu không có đối ?) - không cần theo Niêm Luật (vậy tai sao không chọn bài mẫu với nhì tứ lục chẳng phân minh ? Tóm lại bài Vịnh Dế Duỗi hoàn toàn không phải là thơ Cổ Phong. Mà chỉ là một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Chỉ có việc là nó dùng một phép Niêm không giống với phép Niêm của giới khoa cử mà thôi. Đúng là Phá Cách hay không ? Những bài thơ bị gọi là « Phá Cách » vẫn sẽ thấy là trúng cách nếu ta coi bài Bát Cú là hai bài thơ Tứ Cú hay Tứ Tuyệt, một trên một dưới. Niêm và Luật của thơ Thất Ngôn Tứ Cú hay Tứ Tuyệt : Loại thơ này có hai cách Niêm : Cách 1/ Niêm câu 1 với câu 3 và câu 2 với câu 4, ví dụ : VỊ THÀNH KHÚC Vị thành triêu vũ ấp khinh trần Khách xá thanh thanh liễu sắc tân Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu Tây xuất Dương Quan vô cố nhân. Vương Duy Cách 2/ Niêm câu 1 với câu 4 và câu 2 với câu 3, ví dụ : MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN Mục túc phong biên phùng lập xuân Hồ Lư hà thượng lệ triêm cân Khuê trung chỉ thị không tương ức Bất kiến sa trường sầu sát nhân. Sầm Tham và hai cách Luật : bài VỊ THÀNH KHÚC theo Luật Bằng (chữ thứ 2 của câu thứ nhất là Bằng) bài MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN theo Luật Trắc (chữ thứ 2 của câu thứ nhất là Trắc) Thơ Bát Cú dùng bộ Niêm Luật của giới khoa cử với dải số kiểm soát 1-8 2-3 4-5 6-7 thì tương ứng với : cặp số 2-3 và 6-7 qui định là hai bài Tứ Tuyệt trên và dưới phải cùng theo phép Niêm 1-4 và 2-3 cặp số 1-8 và 5-6 qui định là hai bài Tứ Tuyệt trên và dưới phải đều dùng một Luật Bằng hay một Luật Trắc Ví dụ về thơ Bát Cú dùng bộ Niêm Luật của giới khoa cử : (nguyên văn và bản dịch xin xem phía sau, ở đây xin nói ngắn gọn để khỏi loảng ý) Thơ chữ Nôm : bài xướng TÔN PHU NHƠN QUI THỤC của Tôn-Thọ-Tường 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc bài họa TÔN PHU NHƠN QUI THỤC của Phan-Văn-Trị 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng Thơ chữ Hán : Bài KHÚC GIANG ÐỐI TỬU của Đỗ Phủ 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc Bài KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) của Đỗ Phủ 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng Còn những bài thơ bị coi là phá cách của các đại thi hào đời Đường thì không theo sự ràng buộc đó. Mà theo cách phóng khoáng hơn : Bài Bát Cú có thể dùng hai bài Tứ Tuyệt một nọ theo Niêm 1-4 2-3 và một kia theo Niêm 1-3 2-4, một nọ có thể theo Luật Bằng với một kia theo Luật Trắc. Ví dụ về thơ Bát Cú không dùng bộ Niêm Luật của giới khoa cử và bị coi là “phá cách” : (nguyên văn và bản dịch xin xem phía sau) 1/ Niêm giống nhau nhưng Luật khác nhau Thơ chữ Nôm : bài HÀ TIỆN của Nguyễn-Minh-Triết 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc Thơ chữ Hán có những bài : DẠ BIỆT VI TU SĨ của Cao Thích VĂN LÂN GIA LÝ TRANH của Từ An Trinh BÁN NHẬT THÔN của Tiền Khởi KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ của Lưu Vũ Tích 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 2/ Niêm khác nhau, Luật giống nhau Thơ chữ Nôm : DĨ HÒA VI QUÝ của Nguyễn-Bỉnh-Khiêm 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc Thơ chữ Hán có những bài : ÐỘC TIỂU THANH KÝ của Nguyễn Du 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng KÝ THÔI THỊ NGỰ của Lý Bạch ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI của Lý Bạch 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 3/ Niêm khác nhau, Luật cũng khác nhau Thơ chữ Nôm : VỊNH DẾ DUỖI của Tú Quỳ 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng Thơ chữ Hán có những bài : ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ của Đỗ Phủ TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ của Cao Thích 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 4/ Niêm giống nhau, Luật giống nhau. Nhưng Niêm theo 1-3 2-4, cách này bộ Niêm Luật khoa cử không hề dùng đến. Thơ chữ Hán có những bài : CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH của Vương Duy ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ của Lý Bạch 4 câu trên theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Sau khi phân tách như trên, thì những bài thơ kê trên đây không hẳn là thơ « phá cách ». Mà chỉ là những cách Niêm khác hơn bộ Niêm Luật khoa cử. Trong số Đường Thi mà tôi đọc qua, tôi chỉ gặp một bài duy nhất có thể gọi là thơ « phá cách » là : 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3 là phép Niêm thông thường 4 câu dưới theo Niêm 1-2 3-4 là phép Niêm chưa từng thấy VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP Bất đáo Đông sơn hướng nhất niên Qui lai tài cập chủng xuân điền Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm Thủy thượng đào hoa hồng dục nhiên Ưu lậu tỳ khưu kinh luận học U lũ trượng nhân hương lý hiền Phi y đảo tỷ thả tương kiến Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền. Vương Duy BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay Về gặp mùa xuân kịp cấy cày Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc Hoa đào trên nước đỏ hây hây Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ Bô lão làm gương giữ tháng ngày Khoát áo trở giày tìm gặp bạn Nói cười trước cổng thật vui thay ! Đinh Vũ Ngọc Xin mạo muội góp ý. Lá chờ rơi Nguyên văn những bài thơ làm ví dụ nêu trên : VỊ THÀNH KHÚC Vị thành triêu vũ ấp khinh trần Khách xá thanh thanh liễu sắc tân Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu Tây xuất Dương Quan vô cố nhân. Vương Duy dịch : KHÚC CA VỊ THÀNH Vị thành bụi nhẹ hoen mưa sớm Quán khách mơ màng sắc liễu xanh Một chén mời nhau xin nốc cạn Dương Quan nào có bạn thân anh. Đinh Vũ Ngọc MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN Mục túc phong biên phùng lập xuân Hồ Lư hà thượng lệ triêm cân Khuê trung chỉ thị không tương ức Bất kiến sa trường sầu sát nhân. Sầm Tham dịch : TỪ ĐÀI MỤC TÚC GỞI CHO NGƯỜI NHÀ Bên đài Mục Túc xuân sang Trên sông Hồ ấy lệ tràn thắm khăn Phòng khuê có nhớ nhau chăng Thấy đâu ngoài trận sầu giăng chết người. Đinh Vũ Ngọc Thơ theo đúng bộ Niêm Luật của giới khoa cử : Thơ chữ Nôm : TÔN PHU NHƠN QUI THỤC (xướng) Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Trắc Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng (Luật Trắc Ngàn thu rạng tiết gái Giang Ðông Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc Về Hán trau tria mảnh má hồng Son phấn thà cam dày gió bụi (Luật Trắc Ðá vàng chi để thẹn non sông Ai về nhắn với Châu-Công-Cẩn Thà mất lòng anh đặng bụng chồng. Tôn-Thọ-Tường TÔN PHU NHƠN QUI THỤC (họa) Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Bằng + 1-4 2-3 Bằng Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng (Luật Bằng Giả mặt trời chiều biệt cõi Ðông Khói tỏa đồi Ngô un sắc thắm Duyên về đất Thục đượm màu hồng Hai vai tơ tóc bền trời đất (Luật Bằng Một gánh cương thường nặng núi sông Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng. Phan-Văn-Trị Thơ lấy từ Đường Thi : KHÚC GIANG ÐỐI TỬU Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Trắc Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy (Luật Trắc Thủy tinh cung điện chuyển phi vi Ðào hoa tế trục dương hoa lạc Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi Túng ẩm cửu biền nhân cộng khí (Luật Trắc Lãn triều chân dữ thế tương vi Lại tình cánh giác Thương Châu viễn Lão đại đồ thương vị phất y. Ðỗ Phủ UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang Thủy tinh cung điện bóng mờ gương Hoa tơi tả rụng đào chen liễu Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng Chén rượu thường say người đã chán Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương. Bùi Khánh Ðản KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị) Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Bằng + 1-4 2-3 Bằng Triều hồi nhật nhật điển xuân y (Luật Bằng Mỗi nhật giang đầu tận túy quy Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hi Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện (Luật Bằng Ðiểm thủy thanh đình khoản khoản phi Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển Tạm thời tương thưởng mạc tương vi. Ðỗ Phủ HAI BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai) Mỗi buổi chầu lui thường cố áo Bên sông say khướt mới ra về Vài ba nợ rượu đâu không có Bẩy chục đời người dễ mấy khi Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi Ðược lúc vui chơi há ngại gì. Bùi Khánh Ðản Thơ không theo bộ Niêm Luật của giới khoa cử : Thơ chữ Nôm : HÀ TIỆN Giàu thì ba bữa khó thì hai (Luật Bằng Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy Nón đổi lá ngoài quần đổi ống Dép thay da mặt túi thay quai Dặn vợ có cà đừng gắp mắm (Luật Trắc Bảo con bớt gạo bỏ thêm khoai Thế gian mặc kẻ cười hà tiện Ta chẳng phiền ai chẳng lụy ai. Nguyễn-Minh-Triết Thơ lấy từ Đường Thi : DẠ BIỆT VI TU SĨ Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Cao quán trương đăng tửu phục thanh (Luật Trắc Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ Vô ná xuân phong dục tống hành Hoàng hà khúc lý sa vi ngạn (Luật Bằng Bạch mã tần biên liễu hướng thành Mạc oán tha phương tạm ly biệt Tri quân đáo xứ tẫn phùng nghinh. Cao Thích ĐÊM TỪ BIỆT QUAN TU SĨ HỌ VI Cao quán giăng đèn bày tiệc rượu Trăng khuya chuông vọng nhạn về mau Tiếng chim đêm gọi như tìm bạn Ngọn gió xuân vờn để tiễn nhau Lấn cát Hoàng Hà dòng uốn khúc Hướng thành Bạch mã liễu tươi màu Chớ buồn đất khách cùng chia biệt Anh đến nơi đâu chẳng đón chào ! Đinh Vũ Ngọc VĂN LÂN GIA LÝ TRANH Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan (Luật Trắc Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan Hốt văn họa các Tần tranh dật Tri thị lân gia Triệu nữ đàn Khúc thành hư ức song nga liễm (Luật Bằng Điệu cấp giao liên ngọc chỉ hàn Ngân thược trùng quan thính vị tịch Bất như miên khứ mộng trung khan. Từ An Trinh NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan Buồn trong trăng sáng ý mơ màng Chợt nghe gác họa âm Tần vọng Mới biết nhà bên gái Triệu đàn Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc Điệu mau e buốt ngón tay vàng Lắng nghe then khóa còn chưa mở Ngủ quách may ra mộng gặp nàng. Đinh Vũ Ngọc BÁN NHẬT THÔN Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Bán Nhật ngô thôn đới vãn hà (Luật Trắc Nhàn môn cao liễu loạn phi nha Hoành vân lĩnh ngoại thiên trùng thụ Lưu thủy thanh trung nhất lưỡng gia Sầu nhân tạc dạ tương tư khổ (Luật Bằng Nhuận nguyệt kim niên xuân ý xa Tự thán Mai Sinh đầu tự tuyết Khước liên Phan Lệnh huyện như hoa. Tiền Khởi THÔN BÁN NHẬT Ráng tỏa trời chiều Bán Nhật thôn Chim bay liễu rủ trước nhàn môn Ngàn trùng cây núi làn mây phủ Vài nóc nhà bên suối nước tuôn Ðêm trước người buồn vương nhớ mãi Năm nay tháng nhuận ý xuân dồn Ðã thương Phan Lệnh hoa đầy huyện Ðầu bạc Mai Sinh lại xót hơn. Bùi Khánh Ðản KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Nam quốc sơn xuyên cựu đế kỳ (Luật Trắc Tống đài Lương tạ thượng y hi Mã tê cổ thụ hành nhân yết Mạch tú hoang thành dã trĩ phi Phong xuy lạc diệp điền cung tỉnh (Luật Bằng Hoả nhập hoang lăng hóa bảo y Ðồ sử Từ thần Dữu Khai phủ Hàm Dương chung nhật khổ tư quy. Lưu Vũ Tích ÐẠO KINH NAM HOÀI CỔ Ðô cũ miền Nam ở chốn này Ðình Lương đài Tống dấu còn đây Cây cao ngựa hí hành nhân vắng Lúa tốt thành hoang dã trĩ bay Lăng cũ áo bào mồi lửa đốt Cung xưa giếng ngự lá thu đầy Lòng quê cám cảnh Từ thần Dữu Ở đất Hàm Dương nhớ suốt ngày. Bùi Khánh Ðản Thơ chữ Nôm : DĨ HÒA VI QUÝ Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Trắc Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4 Làm chi cho có sự đôi co Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn Ðấy rằng đấy phải đấy không thua Duật nọ hãy còn đua đến bạng (Niêm 1-4 2-3 Lươn kia hầu dễ kém chi cò Chữ rằng : Nhân dĩ hòa vi quý Vô sự thì hơn khỏi phải lo. Nguyễn-Bỉnh-Khiêm Thơ chữ Hán-Nho : ÐỘC TIỂU THANH KÝ Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-3 2-4 Trắc Tây Hồ mai uyển tẫn thành khư (Niêm 1-4 2-3 Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư Chi phấn hữu thần liên tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư Cổ kim hận sự thiên nan vấn (Niêm 1-3 2-4 Phong vận kỳ oan ngã tự cư Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. Nguyễn-Du Thơ lấy từ Đường Thi : KÝ THÔI THỊ NGỰ Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng Uyển khê sương dạ thính viên sầu (Niêm 1-3 2-4 Khứ quốc trường như bất hệ châu Độc liên nhất nhạn phi Nam độ Khước tiện song khê giải Bắc lưu Cao nhân lũ giải Trần Phồn tháp (Niêm 1-4 2-3 Quá khách nan đăng Tạ Diễu lâu Thử xứ biệt ly đồng lạc diệp Triêu triêu phân tán Kính Đình thu. Lý Bạch GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê Như thuyền không buộc mãi xa quê Nhạn đành lẻ một phương Nam đến Suối chẳng chung đôi đất Bắc về Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề Nơi đây lá rụng cùng chia biệt Núi Kính Đình thu vẫn cách ly. Đinh Vũ Ngọc ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 Bằng Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du (Niêm 1-3 2-4 Phượng khứ đài không giang tự lưu Ngô cung hoa thảo mai u kính Tấn đại y quan thành cổ khâu Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại (Niêm 1-4 2-3 Nhị thủy trung phân bạch lộ châu Tổng vị phù vân năng tế nhật Trường An bất kiến sử nhân sầu. Lý Bạch LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng Phượng bay lầu trống với trường giang Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang Ô hay mây nổi che trời sáng Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan. Đinh Vũ Ngọc LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG Đài Phượng từ xưa Phượng lượn chơi Phượng bay đài vắng nước sông trôi Cỏ len hoa dại cung Ngô tối Gấm mục rêu mờ mả Tấn phơi Che đỉnh Tam Phong mây quyến lại Bao cồn Bạch Lộ sóng chia đôi Rưng sầu lòng khách trông kinh khuyết Mây nổi thường ngăn ánh mặt trời. Lam Giang Thơ chữ Nôm : VỊNH DẾ DUỖI Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Kiến chẳng kiến mà voi chẳng voi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Ðời sanh dế duổi cũng choi choi Ngắn cánh lên trời không đủ sức Co tay vạch đất cũng khoe tài Mưa tuôn gió tạt lên cao ở (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi Quân tử có thương thời chớ phụ Ðể cho bay nhảy thử mà coi. Tú Quỳ Thơ lấy từ Đường Thi : ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN Cách ghi đề nghị : 1-4 2-3 Trắc + 1-3 2-4 Bằng Lệ tận giang lâu vòng Bắc quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc Điền viên dĩ hãm bách trùng vi Bình vô vạn lý hà nhân khứ Lạc nhật thiên sơn không điểu phi Cô chu dạng dạng hàn triều tiểu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng Cực phố thương thương viễn thụ vi Bạch âu ngư phủ đồ tương đãi Vị tảo Sam Thương lãn tức ky. Lưu Trường Khanh LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC Lầu sông lệ cạn trông về Bắc Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây Vạn dặm đồng không người chẳng đến Nghìn non chiều xuống chim còn bay Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh Bến cũ xanh xanh cây mọc dày Âu trắng ngư ông xin hãy đợi Chưa qua hoạn nạn khó về ngay. Đinh Vũ Ngọc HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Phong lưu nho nhả diệc ngô sư Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ Tiêu điều dị đại bất đồng thì Giang san cố trạch không văn tảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng Vân vũ hoang đài khởi mộng tư Tối thị Sở cung câu dẫn diệt Châu nhân chỉ điểm đáo kim nghi. Đỗ Phủ NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời Sông núi nhà xưa văn vẻ đó Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi Thương thay cung Sở tiêu tan hết Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ. Đinh Vũ Ngọc TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 Bằng Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Xuân phong tống khách sử nhân bi Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại Luân giao khước ức thập niên thì Vân khai Mấn Thủy cô phàm viễn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng Lộ nhiễu Lương Sơn thất mã trì Thử địa tòng lai khả thừa hứng Lưu quân bất trú ích thê kỳ. Cao Thích TIỄN ĐƯA QUA THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương Chia ly ngàn dặm bao đau xót Gắn bó mười năm mấy vấn vương Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường Nơi đây ngày trước cùng vui thú Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn ! Đinh Vũ Ngọc CHƯỚC TỬU DỮ BÙI DỊCH Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Nhân tình phiên phúc tự ba lan Bạch thủ tương tri do án kiếm Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan Thảo sắc toàn kinh tế vũ thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Hoa chi dục động xuân phong hàn Thế sự phù vân hà túc vấn Bất như cao ngọa thả gia xan. Vương Duy RÓT RƯỢU MỜI BÙI DỊCH Mời anh cạn chén để nguôi sầu Tráo trở tình đời khác sóng đâu Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm Cửa son hiển đạt lại cười nhau Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu. Đinh Vũ Ngọc ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ Cách ghi đề nghị : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc, bỏ Luật chữ thứ 2 Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm Hảo điểu nghinh xuân ca hậu viện (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc Phi hoa tống tửu vũ tiền thiềm Khách đáo đãn tri lưu nhất túy Bàn trung chi hữu thủy tinh diêm. Lý Bạch ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền Về ẩn Đông Khê trải mấy niên Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm Đón xuân chim quý ca sau viện Mời rượu hoa bay múa trước hiên Khách đến nài nhau say một bữa Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền. Đinh Vũ Ngọc Bài Ðằng Vương Các dưới đây của Vương Bột còn pha trộn thêm hai yếu tố khác của thơ Tứ Tuyệt là « vần Trắc » trộn với « vần Bằng » và dùng thơ TT « ba vần » thay vì « hai vần » : ÐẰNG VƯƠNG CÁC 4 câu trên theo Niêm 1-4 2-3 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Trắc 4 câu dưới theo Niêm 1-3 2-4 luật Bằng, 3 vần « u » thanh Bằng Ðằng Vương cao các lâm giang chử (Niêm 1-4 2-3, L. Bằng, 3 vần « u » thanh Trắc Bội ngọc minh loan bãi ca vũ Họa đống triêu phi Nam phố vân Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn vân đàm ảnh nhật du du (Niêm 1-3 2-4, L. Bằng, 3 vần « u » thanh Bằng Vật hoán tinh di kỷ độ thu Các trung đế tử kim hà tại ? Hạm ngoại trường giang không tự lưu. Vương Bột ÐẰNG VƯƠNG CÁC Bến sông cao ngất Ðằng Vương Các Múa hát im rồi loan ngọc đâu Nam Phố mây bay quanh cột vẽ Tây Sơn mưa cuốn trước rèm châu Mây trôi đầm ánh từ bao độ Vật đổi sao dời đã mấy thu Ðế tử không còn trơ gác vắng Trường Giang muôn thuở chảy bên lầu. Bùi Khánh Ðản |
No comments:
Post a Comment