Wednesday, December 3, 2014

100 ngày của mẹ.




Vài Chia Sẻ Về Vấn Đề Niệm Phật

Vài Chia Sẻ Về Vấn Đề Niệm Phật
Ngài Lý Bỉnh Nam (sư phụ của lão pháp sư Tịnh Không) nói rằng: Sáu chữ Hồng danh là vua trong các câu chú. Sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật là bí mật không phiên dịch, đều chẳng phải văn tự Trung Hoa. Pháp này cao tột, hơn trì bất cứ lời chú nào.
Thế mới biết một câu A Di Đà Phật đã bao gồm tất cả mọi câu thần chú trong ấy rồi. Sau khi liễu ngộ điều này, chúng ta nên buông bỏ mọi câu thần chú khác và chỉ chuyên nhất niệm câu A Di Đà Phật.
Một điều rất quan trọng chúng tôi xin thành tâm khuyên hành giả niệm Phật: đó là phải phát bồ đề tâm. Bồ đề tâm nói nôm na cho dễ hiểu là tâm thường nghĩ đến những điều lợi cho người, tức lợi tha. Đừng nghĩ đến lợi ích của riêng cá nhân mình mà mọi việc mình làm đều nên suy xét sao cho lợi chúng sanh.
Cố lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam
Cố lão cư sĩ Lý Bỉnh Namnhấn mạnh điều này qua câu nói:
Một vạn người niệm Phật, thật sự vãng sanh chỉ có vài ba người. Vì sao số người vãng sanh quá ít như vậy? Vì không phát tâm bồ đề, nên tâm không thanh tịnh. Bởi tâm không thanh tịnh nên còn thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn, nghi. Những thứ này không tương ứng với thế giới Cực Lạc một chút nào. Tây phương Cực Lạc là nơi tụ hội của chư thượng thiện nhân, tức là chỗ của những người thiện lành bậc nhất. Cho dù chúng ta niệm Phật rất siêng năng đến đâu, hoặc một ngày có thể niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của chúng ta không thiện, làm sao có thể lên Tây phương ở cùng chỗ của các bậc thượng thiện nhân?
Để tâm dần thanh tịnh, ngoài công phu chánh là niệm Phật chúng ta cần phải có trợ công phu nữa. Trợ công phu giúp chúng ta tiêu dần nghiệp chướng và bớt vọng tưởng vì chính những nghiệp chướng sâu dầy của chúng ta mà sinh ra vọng tưởng. Chúng cứ dồn dập kéo đến dễ làm cản trở lớn đến việc niệm Phật khi ta ngồi tĩnh toạ niệm Phật. Trợ công phu gồm có:
1- Thường xuyên sám hối nghiệp chướng của mình. Thường ngày chúng ta chỉ nên xem xét hành động của mình và tìm lỗi của mình mà sửa. Đừng bao giờ tìm hoặc chỉ lỗi người. Càng thấy mình có lỗi thì chúng ta càng nổ lực tu sửa và càng phải sám hối thì nghiệp chướng dần dần tiêu bớt đi. Chúng ta sinh nhằm thời mạt pháp này nên phước rất mỏng nhưng nghiệp chướng chắc chắn là sâu dầy nên không thể chỉ dùng câu A Di Đà Phật trong một thời gian ngắn mà có thể đoạn trừ chúng được. Vừa niệm Phật kết hợp với sám hối sẽ giúp chúng ta tiêu nghiệp mau hơn. Thấy người làm điều tốt mình cũng nên phát tâm hoan hỉ, vui theo thì công đức của mình cũng lớn như vậy. Dùng công đức ấy mình hồi hướng cho việc vãng sanh là điều rất nên làm.
2- Chúng ta nên sinh tâm chán ghét thế gian Ta Bà này và một lòng muốn về Tây Phương Cực Lạc. Nếu chúng ta muốn vãng sanh về thế giới của Phật A Di Đà mà lòng vẫn còn ham thích nhà lớn, xe mới đẹp ở thế gian này thì đó là chướng ngại lớn kéo chúng ta lại nơi này. Mỗi khi ra đường nhìn thấy nhà lầu đẹp chúng ta hãy nghĩ ở Tây Phương Cực Lạc lầu các bằng bảy báu đẹp hơn nhiều. Nếu nghe bài nhạc hay chúng ta hãy nghĩ nhạc ở đây dù hay cách mấy cũng làm sao sánh bằng âm thanh vi diệu phát ra từ cây báu, chim quý nơi cõi Cực Lạc? Khi chúng ta ngửi mùi thơm từ xa thoảng đến liền tự nhắc mình hương thơm ở Ta Bà này làm sao sánh bằng hương thơm ở Tây Phương? Đồ ăn cao sang mỹ vị dọn ra trước mắt chúng ta cũng nghĩ rằng thức ăn nơi thế gian này sao ngon bằng ở Cực Lạc quốc? Áo quần mô-đen dù đẹp đến đâu ở đây cũng không thể nào sánh bằng y phục của Thế Giới Cực Lạc. Có tâm chán ghét nơi thế gian Ta Ba này chúng ta mới thật lòng muốn về Tây Phương Cực Lạc. Thế cho nên mới có câu:
Thân tuy ngự ở Ta Bà
Mà lòng đã gửi ở toà Hoa Sen
Điều cuối cùng chúng tôi muốn chia sẻ với liên hữu đồng tu về vấn đề nhất tâm. Là hành giả niệm Phật cầu sanh Tây Phương chúng ta không nên đặt nặng về chuyện này khi niệm Phật. Cứ chuyên cần niệm nhưng đừng trông mong và gián đoạn. Cầu nhất tâm và gián đoạn là 2 điều tối kị sẽ đưa đến không thành. Xin quý vị đừng lo niệm Phật không được nhất tâm mà điều chúng ta nên quan tâm đến bây giờ là phải niệm Phật sao cho thành phiến. Niệm Phật thành phiến tức là câu trước câu sau dính liền nhau, ở giữa các câu không có ý nghĩ nào khác chen vào. Tâm chỉ đặt trên câu Phật hiệu, ngoài ra không còn một ý nghĩ nào khác. Niệm Phật thành phiến người niệm ít thì được mười mấy câu, nhiều thì được vài mươi xâu chuỗi. Ban đầu chúng ta chỉ bắt đầu niệm từ 2 câu vừa niệm vừa nghe cho rõ ràng từng âm từng chữ rành rọt không có một tạp niệm nào xen vào, rồi cố đến 3 câu, rồi 4 câu, lâu dần sẽ được nhiều. Vọng tưởng có kéo đến cũng đừng để ý đến chúng. Đây là điều bình thường đối với người niệm Phật không có gì đáng ngại. Điều đáng quý là chúng ta phải chuyên niệm, hễ có thời gian hay một chút rãnh rỗi là phải đề xướng câu Phật hiệu. Hãy niệm không ngừng nghỉ ngày cũng như đêm, đứng cũng như ngồi, ăn cũng như nghỉ, nằm cũng như đi chúng ta đều phải niệm Phật. Niệm thầm hay niệm ra tiếng công đức cũng đều như nhau. Có nhiều vị cho rằng mỗi khi vào nhà xí làm vệ sinh hay khi thay y phục chúng ta không nên niệm Phật vì như thế mắc tội không tôn kính. Thật ra vào những hoàn cảnh như thế chúng ta cũng không nên ngưng niệm Phật nhưng chỉ nên niệm thầm trong lòng. Lúc nằm cũng vậy chúng ta không nên niệm ra tiếng vì niệm Phật ra tiếng lúc nằm lâu ngày sẽ mang bệnh và lại không nghiêm trang.
Chúng ta hãy bền bỉ niệm Phật nhưng đừng trông mong. Bởi khi lâm chung dù chúng ta chỉ đạt ở trình độ niệm Phật thành phiến, Phật quang A Di Đà chiếu đến thân chúng ta thì công phu của chúng ta sẽ được nâng lên một bậc là Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu công phu của chúng ta đã đạt đến Sự Nhất Tâm Bất Loạn thì khi lâm chung được Phật A Di Đà phóng quang đến chúng ta sẽ có được Lý Nhất Tâm Bất Loạn. Đây là lời của lão pháp sư Tịnh Không nói chứ chúng tôi chẳng dám bịa ra. Vì thế xin quý hành giả niệm Phật hãy nên kiên trì niệm Phật đừng để cho gián đoạn chờ ngày vãng sanh quyết đoạt đài vàng nơi miền An Dưỡng quốc.
Cư sĩ Hữu Minh.

....

ĐỚI NGHIỆP VÃNG SANH

Thứ năm, 03/07/2014, 19:56 GMT+7

Kính bạch Sư Phụ,
Con thường hay nghe rất nhiều người bảo rằng: “Tôi chỉ cầu mong được đới nghiệp vãng sanh, làm một hoa sen nhỏ bé trong ao Liên Trì của cõi Cực Lạc.” Xin Sư Phụ từ bi giải thích cho con hiểu rõ thế nào là Đới nghiệp vãng sanh, hạ phẩm hạ sanh?

Ho_Sen_nui_buu_long
Hồ sen - núi Bửu Long
Đới nghiệp vãng sanh có nghĩa là về cõi Cực Lạc mang theo hết tất cả những nghiệp chướng của mình, bước vào thai sen ở một quả vị thấp nhất gọi là Hạ Phẩm Hạ Sanh.
Cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức A Di Đà Phật tiếp đón người của cõi Ta Bà đến và tất cả được an trụ qua 3 quả vị (tùy trình độ tu tập thấp cao khi người đó còn tại thế).
Ba quả vị là: Thượng phẩm, Trung phẩm và Hạ phẩm. Ở mỗi quả vị sẽ có 3 cấp: Thượng, Trung, Hạ.
·       Thượng phẩm thượng sanh, Thượng phẩm trung sanh, Thượng phẩm hạ sanh
·       Trung phẩm thượng sanh, Trung phẩm trung sanh, Trung phẩm hạ sanh
·       Hạ phẩm thượng sanh, Hạ phẩm trung sanh, Hạ phẩm hạ sanh
Tất cả những người được vãng sanh về Cực Lạc đều còn mang nghiệp của mình đi theo. Tuy nhiên cần phải phân biệt rõ ràng:
Những người khi còn tại thế biết tu tập, công năng tu tập cao, đạo lực mạnh, luôn giữ được tâm bình cho đến phút lâm chung thì họ sẽ được rước về Cực Lạc, trụ ở một quả vị tương xứng với công năng tu tập của họ.
Những người không biết tu tập, chưa từng tu tập hoặc tu tập rất ít, do một duyên may mà được về Cực Lạc thì những người này đương nhiên sẽ được an trụ ở Hạ phẩm hạ sanh. Dù ở một quả vị cao hay quả vị thấp, nhất là quả vị Hạ phẩm hạ sanh, người đến từ cõi Ta Bà vẫn luôn luôn tiếp tục làm tiêu mòn nghiệp chướng của mình, chớ không phải về Cực Lạc để ngồi chơi, hưởng nhàn.
Nơi đây Thầy sẽ đề cập đến Đới Nghiệp Vãng Sanh với Hạ Phẩm Hạ Sanh. Vì sao? Vì Thánh Chúng ở Hạ phẩm hạ sanh, hoa sen chưa nở như ở các quả vị khác, việc tu tập trong suốt thời gian Thánh Chúng còn ở trong thai sen rất là phức tạp, đòi hỏi nhiều sự nhẫn nại, trì chí, sự tận lực, tận cường của Thánh Chúng đó, cũng như sự cực nhọc rất nhiều của các Bồ Tát có nhiệm vụ hướng dẫn các Thánh Chúng đó tu tập. Con nên nhớ rằng, một điều vô cùng quan trọng là trình độ tu tập của một người khi còn tại thế, ảnh hưởng rất là lớn lao đến sự thăng tiến của một Thánh Chúng Đới nghiệp vãng sanh.
250226_10151071769439915_1207021795_n
Một góc ao bảy báu tại Cực Lạc quốc
Kính bạch Sư Phụ,
Một chúng sanh muốn được Đới nghiệp vãng sanh cần phải đạt những tiêu chuẩn nào? Người có tu tập chút ít lúc còn sống có đạt được tiêu chuẩn này hay không? Nếu một người tu tập khá hơn, có đương nhiên về Cực Lạc theo “Đới nghiệp vãng sanh” hay không?
Chúng sanh nào được xem như Đới nghiệp vãng sanh, Thầy sẽ lần lượt phân loại cho con thấy rõ.
Thứ Nhất:
Đức A Dì Đà Phật đã có lời nguyện rằng: “Những chúng sanh nào vào lúc lâm chung, nhất tâm bất loạn niệm danh hiệu của ta bảy lần, từ một ngày cho đến bảy ngày, thì ta sẽ rước chúng sanh đó về cõi Cực Lạc”. Việc niệm danh hiệu Phật nhất tâm bất loạn vào phút lâm chung, là một điều đòi hỏi người sắp sửa qua đời đó phải ở trạng thái Bình thì mới có thể nhất tâm bất loạn được. Khi thân tứ đại bắt đầu xuất ra khỏi thân xác của người sắp lìa đời thường gây nên những điều rất là khó chịu, đôi khi đi đến sự đau đớn. Giữ được tâm thanh tịnh ở vào phút đó phải là một người rất là đặt biệt; giữ được nhất tâm bất loạn, tâm vẫn sáng suốt để trì danh hiệu Phật, điều này không phải chúng sanh nào cũng làm được. Nói tóm lại là phải có một duyên may, duyên may đó dính liền với Cực Lạc, cho nên giờ phút cuối, tâm vẫn không động, trí vẫn sáng suốt. Tuy nhiên, số này cũng vẫn còn rất ít, kể cả người tu tập hàng ngày, giờ phút lâm chung cũng khó giữ tâm bất loạn.
Cho nên, trong số những người được rước về Cực Lạc với tính cách Đới nghiệp vãng sanh, người giữ được tâm bất loạn vào phút lâm chung, niệm được danh hiệu Phật A Di Đà bảy lần trong vòng từ một ngày cho đến bảy ngày, người đó xem như có duyên với Cực Lạc và sẽ được Thánh Chúng đến rước ngay vào phút lâm chung.
Thứ Hai:
Ngoài ra, những người dốc tâm tu tập, giữ được tâm bình cho đến giờ phút lâm chung, vẫn được Cực Lạc rước ngay vào phút lâm chung.
Thứ Ba:
Có những kẻ được người hộ niệm giúp đỡ, vào giờ phút cuối đã hết lòng ăn năn, sám hối một cách chân thành những điều sai trái mà mình đã tạo tác, và lòng chân thành tha thiết muốn được về Cực Lạc, thì cũng sẽ được rước về Cực Lạc.
Chúng sanh đừng vội nghĩ rằng: tôi tha hồ làm chuyện quấy trá, miễn sao giờ phút lâm chung tôi có dạ chân thành, ăn năn sám hối là tôi được rước về Cực Lạc.
Không phải như vậy đâu! Việc người đã từng làm chuyện sái quấy rất nhiều, nhưng ở phút cuối của cuộc đời, vào giây phút đối diện với cái chết đã tỏ dạ ăn năn, sám hối và lòng tha thiết muốn được về Cực Lạc thì Cực Lạc sẽ nhận ra ngay được người đó có đúng dạ chân thành hay không. Cho nên, lòng chân thành ở vào phút lâm chung vô cùng là quan trọng, không thể nào có sự giả dối xen vào trong đó được. Cũng như Thầy thường hay nói rằng: một vong linh khi đã ngộ được điều mình sai trái và hiểu được con đường mình bắt buộc phải đi, phải sửa đổi cái tánh của mình thì khi đó sẽ có sự rung động và sự rung động đó là một sự rung động từ ở tâm chân thật.
Thứ Tư:
Có những vong linh trong thời gian 49 ngày, nếu gặp được người chủ lễ siêu độ chân thành giúp cho Thần thức, giúp cho vong linh đó hiểu rằng mình đã làm điều sai trái và nếu vong linh đó chí thành sám hối, ăn năn và một  lòng muốn được về Cực Lạc thì sau 49 ngày, Thánh Chúng sẽ đến rước vong linh đó. Phải nên nhớ kỹ một điều: một vong linh không có sự ép buộc phải đi về bất kỳ một cõi nào. Đúng ra, vong linh sau 49 ngày sẽ tùy theo nghiệp của mình mà đi, tuy nhiên, nếu gặp được người chủ lễ đem hết dạ chân thành giúp đỡ, dẫn dắt, phân tích tất cả những sai lầm của vong linh, và một khi vong linh đã giác ngộ rồi mà có sự rung động, sự rung động đó là kết quả của tấc dạ chân thành trong việc ăn năn sám hối và tha thiết muốn về Cực Lạc để tiếp tục được dạy dỗ thì vong linh đó sẽ được toại ý. Người chủ lễ chỉ có một bổn phận duy nhất là đem sự chân thành của mình để dẫn dắt một người thiếu sự hiểu biết, và sau khi đã dẫn dắt, đã chỉ rõ những điều đúng sai, những điều nên hay không nên và vong linh đó thành tâm sám hối, ăn năn thì sự lựa chọn ở vong linh chứ không phải ở chủ lễ.
Thứ Năm:
Người có tu tập trong lúc còn tại thế, tuỳ theo công năng tu tập của người đó và có sự phát nguyện của người đó là được vãng sanh về Cực Lạc, thì người đó mới có thể được rước về Cực Lạc. Nếu người đó biết tu tập nhưng không phát nguyện về Cực Lạc thì cũng vẫn không thể về Cực Lạc được. Cho nên lời phát nguyện vô cùng quan trọng và trước mỗi thời khóa tu, đều phải long trọng lặp lại lời phát nguyện thì như vậy mới có thể chắc chắn được một sự tiếp rước về Cực Lạc.
Thứ Sáu:
Điều tối ư quan trọng đối với người biết tu tập, Thầy đã nhắc đi nhắc lại rất là nhiều lần là phải giữ Tâm Bình. Phải luyện tập cho được tâm bình thì như vậy mới có thể quyết chắc được rằng vào phút lâm chung mình giữ được tâm bất loạn. Tâm bình nếu không biết giữ, đợi đến phút lâm chung là đã quá muộn màng, nhất là trong sự hỗn loạn giữa cái sống và cái chết.
Kính bạch Sư Phụ,
Khi nãy Sư Phụ có nói rằng người đới nghiệp vãng sanh với Hạ Phẩm Hạ Sanh thì hoa sen chưa nở và việc tu tập rất là phức tạp, cực nhọc cho cả Thánh Chúng ở trong hoa sen đó và cho luôn cả các vị Bồ tát phụ trách chỉ dạy cho các Thánh Chúng đó. Kính xin Sư Phụ từ bi giải thích rõ ràng để con được tận tường?
Con ơi! Thánh Chúng đã qua tầng lớp NGƯỜI, đến với thế giới Cực Lạc hoặc bằng đới nghiệp vãng sanh với Hạ Phẩm Hạ Sanh hoặc do công năng tu tập của mình. Dù bằng ở một cách nào đi nữa, Thánh Chúng cũng vẫn có một tư cách, đó là tư cách của kẻ đã thoát vòng sanh tử luân hồi, sống an nhiên tự tại để trau giồi bản thân mình. Nguồn gốc của Thánh Chúng vẫn là một chúng sanh của cõi Ta Bà, với tất cả lục dục, thất tình, với tất cả những nghiệp lực vây quanh. Nếu chúng sanh nào có một công năng tu tập cao thì ngay từ khi còn sống, còn hiện diện ở cõi Ta Bà, chúng sanh đó đã có thể tháo gỡ một phần nào những xiềng xích, gông cùm của nghiệp lực. Công năng tu tập cao giúp cho chúng sanh đó có một trí huệ phát sáng và khi về đến Cực Lạc, trở thành Thánh Chúng, trí huệ đó được sử dụng ngay để giúp cho Thánh Chúng đó tiếp hội một cách lẹ làng những lời pháp, những sự chỉ dẫn của các Bồ tát Cực Lạc. Sự gột rửa vô minh, tháo gỡ nghiệp lực cũng sẽ dễ dàng do ở trí huệ phát sáng đó. Trí huệ này được ví như một ngọn đuốc, làm tiêu chảy ra những nghiệp lực, những phiền não, làm cho Thánh Chúng đó càng ngày càng nhẹ nhàng hơn trên hoa sen và sự nhẹ nhàng này làm đà cho sự nhảy vọt từ quả vị này sang quả vị khác một cách nhanh chóng và màu sắc của hoa sen cũng thay đổi.
image006_jpg
Hoa sen nhiều màu sắc tại Cực Lạc quốc
Một Thánh Chúng Đới nghiệp vãng sanh với Hạ Phẩm Hạ Sanh, công năng tu tập khi còn tại thế KHÔNG có, do đó trí huệ phát sáng cũng KHÔNG có.
Thánh Chúng ở cấp bậc này phải tận lực, tận tâm để học hỏi và nhất là phải tận cường rất nhiều để ngăn cản tất cả những chướng duyên ào ạt đến như thác lũ. Các chướng duyên này chính là những nghiệp lực được mang theo về Cực Lạc chưa được gột rửa bớt đi, chúng ồ ạt kéo tới, nếu không tận cường thì không thể nào chiến đấu lại với bản thân mình.
Nếu Thánh Chúng đó khi còn ở cõi Ta Bà, đã dốc lòng tu tập, có được chút trí huệ phát sáng thì việc ngăn chận nghiệp lực sẽ không có một chút khó khăn nào cả. Ở cõi Ta Bà, hằng ngày phải đối diện với cảnh huống này, đau lòng kia, những sự việc này xảy ra, những sự việc kia xảy tới, việc đối phó của chúng sanh cũng sẽ rất uyển chuyển và biết cách nương theo những sự khó khăn để mà đạt được kết quả. Ở cõi Cực Lạc, nói một cách nôm na là, tất cả những sinh hoạt có tính cách đấu tranh đều bị ngưng đọng, thành ra tâm của Thánh Chúng là một tâm thuần, một khối thuần trong vắt, không gợn bất kỳ một dục lục thất tình nào cả, cho nên rất khó lòng chống lại các chướng duyên xảy đến. Chỉ khi nào một nghiệp lực hiện ra dưới hình thức của một ảo giác, lúc đó Thánh Chúng mới cảm nhận được sự chao động của Tâm. Tuy nhiên việc chống chọi lại nghiệp lực đó, việc làm cho tâm không còn chao động nữa rất là khó khăn đối với Thánh Chúng, do ở thiếu trí huệ phát sáng.
Thánh Chúng ở Cực Lạc phải làm việc gấp đôi gấp ba so với chúng sanh ở cõi Ta Bà trong việc chống chọi lại với nghiệp lực của mình. Trí huệ là một điều kiện ắt có và đủ để giúp cho cả chúng sanh lẫn Thánh Chúng làm tiêu đi nghiệp lực của mình. Chúng sanh khi ở cõi Ta Bà dốc lòng tu tập để có trí huệ phát sáng, khi về được Cực Lạc, trí huệ đó vẫn không mất đi tính chất của nó, vẫn tiếp tục giúp Thánh Chúng tu tập, thâm nhập lời pháp, giúp cho Thánh Chúng tư duy pháp, gột rửa vô minh, làm tan nghiệp lực và nhất là giúp cho Thánh Chúng chuyển từ quả vị này sang quả vị kia được dễ dàng và màu sắc của hoa sen cũng được thay đổi theo từng quả vị.
Thánh Chúng đới nghiệp vãng sanh ở Hạ Phẩm Hạ Sanh, ngồi trong thai sen đóng kín chưa được dự phần cùng các Thánh Chúng ở quả vị cao hơn để mang hoa cúng dường mười phương Chư Phật. Các Thánh Chúng này phải tu tập qua các lời pháp để làm sao cho tan bớt lần đi các nghiệp lực mà mình đã mang theo về Cực Lạc. Nghiệp lực càng tiêu, Thánh Chúng càng nhẹ hơn trong thai sen cho đến khi hoa sen nở, Thánh Chúng mới thật sự góp phần vào sự sinh hoạt của Cực Lạc.
Pure_Land_of_Bliss_contrast
Cảnh giới Tây Phương Cực Lạc
Kính bạch Sư Phụ,
Như thế thì một chúng sanh từ khi được vãng sanh về Cực Lạc, nhập vào thai sen và trở thành Thánh Chúng cho đến khi hoa sen nở, Thánh Chúng đó phải làm việc không ngừng nghỉ chớ không phải ngồi hưởng nhàn trong thai sen như đại đa số chúng sanh ở cõi Ta Bà đã nghĩ tưởng?
Con ơi! Việc các Thánh Chúng ở Hạ Phẩm Hạ Sanh đến được Cực Lạc là một đặc ân của Đức Phật A Di Đà. Thánh Chúng đó đã trải qua một thời gian ở cõi Ta Bà, đã phải chung đụng, phải vật lộn với biết bao nhiêu chướng ngại trong suốt cuộc đời. Ngày nay sống đời an nhiên tự tại ở cõi Cực Lạc, không còn lo âu, không còn sợ hãi và nhất là biết chắc chắn rằng mình không còn bị trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi nữa, Thánh Chúng phải biết sử dụng thời gian ở cõi Cực Lạc để thực sự tiến lên, phải trau giồi cho trí huệ của mình phát sáng, không thể nào bảo rằng: Tôi cứ ngồi đây cho tới khi nào trí huệ của tôi sáng lên.
Trí huệ chỉ phát sáng khi Thánh Chúng gia công tu tập, tận lực, tận tâm, làm cho các chướng duyên biến mất. Phải hiểu cho thấu đáo lời pháp mà các vị Bồ tát của Cực Lạc đã dẫn dạy để tự gột rửa mình, tự làm cho mình được “sạch sẽ” hơn bằng cách làm tiêu bớt đi những chướng duyên, thì như thế từ phẩm vị này bước qua phẩm vị kia chỉ là một búng tay thôi. Thời gian lưu lại ở thai sen quá lâu không tốt và không có lợi cho Thánh Chúng đâu.
Đối với những Thánh Chúng đến cõi Cực Lạc do công năng tu tập của mình thì sẽ tiếp tục tu tập, đem trí huệ sẵn có của mình để hiểu pháp một cách thâm sâu và thấu đáo. Mỗi lời pháp đều có một thâm ý, nhận chân ra được thâm ý đó thì trí huệ mới phát sáng. Mỗi lần một chút, một chút, trí huệ càng phát sáng, hoa sen càng nở lớn, màu sắc càng thay đổi.
image007_jpg
Kính bạch Sư Phụ,
Khi nãy Sư Phụ có đề cập đến việc các Thánh Chúng ở Hạ Phẩm Hạ Sanh phải làm tiêu bớt đi những chướng duyên. Xin Sư Phụ từ bi giải thích cho con được hiểu rõ thế nào là “chướng duyên”?
Con ơi! Tất cả những cái gì làm cho Thánh Chúng cảm thấy khó khăn, không đạt được kết quả trên đường tu tập thì gọi là chướng duyên.
Tại sao có chướng duyên? Đó chính là sự biến dạng của các nghiệp lực của Thánh Chúng đó. Nếu Thánh Chúng đó vẫn còn ở cõi Ta Bà thì những nghiệp lực đó sẽ chi phối chúng sanh đó qua hình thức oan gia trái chủ (Chủ nợ và Con nợ). Nghiệp lực là “Nghiệp Lực Sống.”
Nếu chúng sanh đó được vãng sanh về Cực Lạc thì các nghiệp lực sẽ ngưng ngay việc phá tác vì không còn nữa sự hiện diện của các oan gia trái chủ. Khi đó, tất cả những khó khăn được tạo nên do nghiệp lực sẽ biến hình đổi dạng để trở thành “chướng duyên” khiến cho Thánh Chúng đó không định tâm được. Một khi đã không định tâm được thì tư tưởng luôn bị xáo trộn, không tư duy được, tư duy không được thì không thể nào hiểu được lời pháp một cách thâm sâu. Khi lời pháp không được hiểu một cách thâm sâu thì không thể nào có được một sự rung động đúng nghĩa, để có thể từ sự rung động đó biến thành ra trí huệ phát sáng.
Kính bạch Sư Phụ,
Nếu một Thánh Chúng ở Hạ Phẩm Hạ Sanh tu tập thiếu sự tận tâm, tận lực, tận cường thì thời gian ở cõi Cực Lạc có được vĩnh viễn không? Hay là có giới hạn hoặc bị đưa trở lại cõi Ta Bà?
Nếu một Thánh Chúng đới nghiệp vãng sanh ở Hạ Phẩm Hạ Sanh mà không cố gắng tu tập để bước sang một phẩm vị khác thì thời hạn là năm trăm kiếp người. Sau thời hạn đó thì Thánh Chúng đó được đưa sang một nơi khác vẫn không rời Cực Lạc để được dạy dỗ nhiều hơn, cực nhọc nhiều hơn nữa. Thánh Chúng đó phải ra nhiều công sức hơn nữa cho đến khi có được một trí huệ căn bản, lúc đó sẽ được đưa trở lại nơi chốn cũ và được nhập vào thai sen của Thánh Chúng đó. Ở Cực Lạc không có những sự thử thách và sự đấu tranh như ở cõi Ta Bà, vì vậy thời gian tu tập để phát sinh trí huệ sẽ lâu hơn và Thánh Chúng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Đới nghiệp vãng sanh là mang nghiệp đi về Cực Lạc, mà nghiệp thì luôn luôn đi kèm với đau khổ, với nước mắt, với lo âu, với bao nhiêu sự bi đát đến với mình. Tất cả những thứ đó sẽ chảy ra và biến dạng lại thành ra “chướng duyên”, gây nên rất nhiều khó khăn trên đường tu tập của một Thánh Chúng ở Hạ Phẩm Hạ Sanh. Các chướng duyên này làm cho Thánh Chúng đó cảm thấy rằng không thể đi tới đích được là do ở cái gì? Đó chính là ở trí huệ không phát sáng.
Con cứ nhận xét đi, một kẻ thiếu trí huệ thì luôn luôn là một kẻ ù lì, không thể nào tự mình cất bước được.
Kính bạch Sư Phụ,
Nếu một Thánh Chúng khi còn ở tại thế (cõi Ta Bà), hằng ngày luôn sám hối trong mỗi thời khóa tu của mình, lúc được đới nghiệp vãng sanh về Cực Lạc, Thánh Chúng đó có phải tiếp tục sám hối nữa hay không?
Con ơi! Khi còn ở cõi Ta Bà, một chúng sanh đã phát nguyện tu tập, dù là tu theo pháp môn nào, cũng vẫn phải lấy việc sám hối làm đầu. Sám hối được ví như một ngọn lửa thiêu đốt hết những nghiệp lực quấn chặt quanh mình của chúng sanh đó, làm tan đi những gì không tốt đẹp của Tâm – Ý – Tánh. Câu trì chú và câu niệm Phật làm phát sanh trí huệ, không khác gì những tia sáng của mặt trời. Những tia sáng đó nếu chiếu vào một tấm gương, hoặc bị dính đầy bụi hay bị bao che bởi một lớp vải, thì chắc chắn rằng tấm gương không thể nào phản chiếu những tia sáng. Chúng sanh ở cõi Ta Bà, đối diện trực tiếp với nghiệp lực, đối diện với người đến đòi nợ và phải tranh đấu, phải làm đủ mọi cách để cho nghiệp lực giữa đôi bên tan đi. Đây chính là một cơ hội quý giá để cho chúng sanh đó trau giồi Tâm – Ý – Tánh và dễ dàng hóa công việc tu tập của mình một khi được đới nghiệp vãng sanh.
Đối với một Thánh Chúng đới nghiệp vãng sanh chưa từng biết tu tập, họ đến Cực Lạc do ở tâm thành, đúng với lời nguyện của Đức A Di Đà Phật mà được cứu độ, họ mang trọn “một kho” nghiệp chướng đi theo mình về Cực Lạc thì như Thầy đã nói ở trên, Thánh Chúng đó hiểu biết được, cảm nhận được nghiệp lực đang xoay vòng xung quanh mình, nhưng có điều rằng không có “đối tác” tức là không có sự hiện diện của người đến đòi. Mỗi một nghiệp lực có tính chất riêng biệt, tùy theo nhân đã gieo như thế nào và hình dạng của quả chín mùi ra làm sao.
Làm cách nào để cho tan nghiệp lực? Thánh Chúng chỉ có một vũ khí duy nhất để chống và đánh cho tan nghiệp lực: đó chính là Sám Hối. Làm sao để tỏ dạ chân thành sám hối? Vì chính sự chân thành mới khiến cho có sự rung động ở Tâm và làm tan đi nghiệp chướng. Tâm – Ý – Tánh của một Thánh Chúng không giống như Tâm – Ý – Tánh của một chúng sanh vì nó không vọng động, nhưng nó tiềm tàng, do đó, Thánh Chúng phải dùng tất cả sức lực của mình để làm tiêu đi những vọng động của Tâm – Ý – Tánh. Mà muốn làm tiêu đi những vọng động đó thì phải nhờ vào sám hối, ngọn lửa sám hối sẽ thiêu hủy … thiêu hủy, làm cho chảy ra những nghiệp lực quấn chặt chung quanh Thánh Chúng đó. Mà việc sám hối bắt buộc phải liên tục, không ngừng nghỉ cho đến khi giải quyết được một nghiệp lực, rồi hai nghiệp, rồi ba nghiệp lực … cho đến khi Thánh Chúng đó đủ “NHẸ” để làm cho hoa sen nở ra. Hoa sen nở ra không có nghĩa là Thánh Chúng ngưng việc sám hối.
Nghiệp lực quấn chặt quanh mình của một chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến hiện kiếp, việc làm tiêu đi nghiệp lực là một hành trình rất … rất dài, mất nhiều thời gian và nhiều công sức để thành tựu. Những Thánh Chúng đã bước qua những quả vị cao ở Cực Lạc cũng vẫn còn phải tiếp tục sám hối để làm cho tiêu nghiệp chướng của mình. Có điều rằng, Thánh Chúng nào càng nhẹ thì càng dễ nhảy vọt từ phẩm vị này sang phẩm vị khác. Riêng ở hạ phẩm hạ sanh, phần lớn Thánh Chúng không biết tu tập khi còn tại thế, do đó gần như những nguyên tắc căn bản của việc tu tập, làm sao cho mình được thăng hoa, Thánh Chúng chưa được biết qua. Từ ngữ Sám Hối, Trì Chú hay Trí Huệ vẫn còn rất mù mờ đối với Thánh Chúng, cho nên việc tu tập của Thánh Chúng gặp nhiều khó khăn, nhiều trắc trở, trí huệ phát sáng không có nên các chướng duyên làm  ngăn chận việc định tâm rất nhiều, không thâm nhập, không tu duy được Pháp, tạo nên vòng lẩn quẩn khiến cho Thánh Chúng đó mất rất nhiều thời gian ngồi trong thai sen mà hoa sen vẫn không nở được.
Kính bạch Sư Phụ,
Một Thánh Chúng còn đang ở trong thai sen có cảm nhận được tình cảm thương nhớ, réo gọi, buồn đau của thân nhân mình trên dương thế hay không?
Con ơi! Tất cả những tình cảm đó, Thánh Chúng đều cảm nhận được hết. Vì để diển tả tình cảm, thân nhân phải tưởng đến người đã mất, mà hễ có tưởng thì sẽ có cảm nhận. Duy có điều rằng chỉ là sự cảm nhận chớ  không thấu triệt từng chi tiết và không hồi đáp. Thánh chúng ngồi trong hoa sen khép kín không khác một căn  nhà khóa cửa, có muốn vẫy vùng đi khắp mọi nơi cũng không toại ý được.
Thương tưởng đến người quá cố, thật lòng tiếc nhớ người quá cố, thân nhân phải càng tu tập nhiều hơn để hồi hướng công đức tu tập cho người quá cố. Đó là một tình thương đúng nghĩa, và một lòng tưởng nhớ rất đáng ghi nhận và rất nên làm.
Bên cạnh đó, Thánh Chúng còn phải đối diện với các nghiệp lực lần lượt đổ ra, mà những nghiệp lực của kiếp mới vừa qua là đáng kể nhất vì nó còn mới toanh trong tâm thức của người mới chết. Khi nó hiện ra thì không khác gì một cảnh tượng sống với từng chi tiết, với từng nhân vật và cả sự hiện diện của Thánh Chúng trong ấy. Đây là dịp mà Thánh Chúng sẽ nhận ra một cách rõ ràng và sống động vòng tròn nghiệp lực Tâm – Ý – Tánh đã tác động như thế nào trong việc đóng vòng nghiệp lực. Thánh Chúng sẽ là một khách bàng quan, đứng ngoài nhìn vào cảnh tượng như một cuốn phim quay lại tất cả mọi việc từ lúc khởi đầu đến lúc chấm dứt, tức là lúc vòng tròn nghiệp lực đóng kín lại. Thánh Chúng sẽ có dịp quan sát từng lời nói, từng hành động, từng cử chỉ của mình, thể hiện cho tất cả những tánh xấu của mình, những ý nghĩ không lành của mình và một cái tâm đã vọng động ra làm sao. Thánh Chúng sẽ không thể nào biện hộ được cho cái kết quả của việc mình làm, để rồi sau đó bước vào việc sám hối, sám hối cho đến khi nào những nghiệp lực được tan chảy ra và biến mất. Thánh Chúng có làm tiêu nghiệp nhiều chừng nào thì sẽ cảm thấy càng nhẹ nhàng hơn trong hoa sen và hoa sen càng mau nở!
Kính bạch Sư Phụ,
Sư phụ đã giảng dạy cho con hiểu thật rõ ràng những khó khăn gặp phải của Thánh Chúng đới nghiệp vãng sanh. Xin Sư Phụ từ bi ban cho chính bản thân con cũng như cho mọi chúng sanh một lời khuyên thiết thực về việc tu tập sao cho hợp tình hợp lý để khi còn ở cõi Ta Bà vẫn cảm thấy cuộc đời mình nhẹ nhàng, thanh thoát; rồi khi bỏ báu thân, được vãng sanh về Cực Lạc sẽ không bị vướng mắc quá nhiều với nghiệp chướng mà mình đã mang theo.
Nếu một người chăm lo tu tập trong suốt quãng đời của mình, luôn giữ được tâm bình ở vào phút lâm chung, khi đó nếu có người giúp đỡ hộ niệm, hoặc thân nhân hiểu biết nhắc nhở (vì thần trí có thể bị rối loạn vào phút cuối cùng) bằng cách trì Chú, niệm Phật, người đó sẽ được vãng sanh ngay khi hắt hơi cuối cùng.
Tại sao phải trì chú? Vì trì chú sẽ giúp cho trí huệ của người sắp sửa ra đi được sáng lên. Phải niệm Phật để người đó không quên lời phát nguyện của mình.
Tùy theo công năng tu tập của người đó mà họ sẽ được một quả vị tương xứng ở Cực Lạc. Công năng tu tập được đánh giá bằng trí huệ phát sáng, trí huệ càng phát sáng nhiều chừng nào thì quả vị càng cao chừng nấy. Cho nên việc tu tập vô cùng quan trọng, Thầy đã nói rất nhiều lần: dù chỉ năm phút tu, nhưng để tất cả tâm tư vào năm phút tu đó, còn hơn một kẻ ngồi tu suốt cả ngày nhưng đầu óc lơ tơ mơ, không giúp gì cho trí huệ cả. Nhớ rõ một điều rằng, tu tập là để cho trí huệ phát sáng, vì một khi trí huệ phát sáng thì mình có đủ sức để phân nhận ra được điều nên làm, điều không nên làm, và nhận chân ra được đâu là nghiệp lành và đâu là nghiệp dữ. Điều quan trọng là nhờ có trí huệ mà mình mới hiểu rõ được cách đối phó với nghiệp lực, làm sao để xoay chiều nghiệp lực.
Những người đi về Cực Lạc, thực sự ra, hầu hết đều là đới nghiệp vãng sanh, nhưng, người đã bỏ ra công sức để tu tập một cách chân chính, Thầy nhấn mạnh hai chữ “chân chính,” thì việc họ mang theo nghiệp để đi về Cực Lạc thì nhẹ nhàng hơn là một người chưa từng biết tu tập, chỉ được một tâm thành và một lòng thành tâm sám hối, ăn năn ở vào phút lâm chung. So với hai người thì kẻ nặng, người nhẹ; người biết tu tập thì sẽ được nhẹ nhàng hơn và nhờ có trí huệ phát sáng do công năng tu tập, người đó sẽ được một quả vị cao hơn. Nhưng, họ vẫn còn mang theo nghiệp và tất cả cũng vẫn là phải ngồi trong thai sen mà sửa lần, sửa lần tâm tánh của mình, và phải đối phó với tất cả những nghiệp chướng của mình đã mang theo. Có điều rằng, người có tu tập, người đã từng tu tập, thì sự đối phó với những nghiệp chướng sẽ dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn là một người chưa từng tu tập. Cho nên Thầy khuyên tất cả mọi chúng sanh, ngay khi còn hơi thở, dốc lòng chăm lo tu tập, dùi mài tánh của mình, chặt bỏ hết những thói hư tật xấu. Những thứ đó sẽ làm cho mình rất nặng nề ... nặng nề trong thai sen và làm cho hoa sen rất là lâu nở. Một khi còn tánh xấu quá nhiều thì rất khó lòng đối phó với tất cả các nghiệp chướng mà mình đã mang theo.
Vì vậy, tu ở cõi Ta Bà, nếu dốc lòng hết sức thì kết quả sẽ vô cùng tốt đẹp hơn là tu ở cõi Cực Lạc, rút ngắn thời gian trong thai sen và sẽ được thảnh thơi hơn so với những kẻ không biết tu tập, đợi lên đến Cực Lạc mới bắt đầu tu tập thì phải gặp nhiều khó khăn hơn.
Điều quan trọng là phải sửa được những tánh xấu của mình, vì chính những tánh xấu mới chiêu cảm lấy nghiệp lực, mới mời gọi nghiệp lực tới. Cho nên, muốn một phẩm vị cao nơi Cực Lạc thì ngay từ cõi Ta Bà phải biết tu tập, bỏ thời gian để tu tập, để đào luyện bản thân của mình trước, sẽ đỡ mất thì giờ nơi Cực Lạc, ngồi lâu trong thai sen và các Bồ tát của Cực Lạc sẽ phải làm việc rất nhiều để giúp đỡ cho mình.
Cần phải suy nghĩ thật kỹ lưỡng một sự chọn lựa. Tôi bỏ ít thời gian, mỗi ngày một chút thì giờ để tu tập, để cho trí huệ của tôi được phát sáng, để cho tôi tập giữ Tâm Bình, giờ phút lâm chung, thần trí tôi không bị hổn loạn, tôi không gặp sự khó khăn khi hắt hơi cuối cùng. Thì như vậy tôi sẽ được Phật và Bồ tát cùng Thánh Chúng rước tôi ngay vào giờ phút lâm chung.
Việc tu tập không đem lại điều bất lợi cho một chúng sanh nào cả, mà luôn luôn giúp cho chúng sanh đó được nâng cao tư cách của con người, từ vật chất cho đến tinh thần, từ Đời cho đến Đạo. Nói về vật chất, việc tu tập sẽ giúp cho một chúng sanh ít bệnh hoạn hơn, thể xác được khỏe mạnh hơn, nhờ vào đâu? Nhờ vào một tâm trí luôn luôn biết giữ cho mình một giới luật nghiêm minh, tránh những tư tưởng không tốt, tránh những hành động không nên, tránh những lời nói không thuận ý. Tâm trí và thân xác có sự hòa hợp với nhau làm cho chúng sanh đó cảm thấy luôn được nhẹ nhàng không gút mắt, sống thanh thản và bình an.
Nhờ có sự tu tập mà tư cách của chúng sanh sẽ ngời sáng trong cách cư xử, giao tế. Rồi một mai khi bỏ thân xác này, được về cõi Cực Lạc thì tất cả những điều tốt đẹp mà mình đã tạo nên trong suốt quãng đời ở cõi Ta Bà sẽ giúp cho mình một quả vị cao chứ không phải ở một quả vị thấp, khiến cho sự chờ đợi để hoa sen nở rất dài … rất dài.
Cực Lạc rất cần những vị Bồ tát để đi cứu độ chúng sanh. Hằng ngày, cõi Ta Bà luôn đầy ắp những tiếng kêu cứu, những lời réo gọi, van xin, khẩn cầu giúp đỡ. Nếu tất cả Thánh Chúng đều từ tốn, chậm rãi, không dốc lòng tu tập để đạt quả vị cao hơn thì việc cứu độ chúng sanh sẽ gặp nhiều khó khăn và không trôi chảy. Cực Lạc giúp cho chúng sanh cõi Ta Bà dứt vòng sanh tử, thoát kiếp luân hồi, tránh cảnh trầm luân với nghiệp lực quấn quanh như những vòng dây xích, không ngừng phá tác. Cực Lạc giúp cho chúng sanh cõi Ta Bà sống đời an nhiên tự tại, mùa xuân sẽ bất tận ở Cực Lạc, niềm vui phơi phới sẽ luôn tràn đầy không chấm dứt. Việc tu tập có hoàn tất được ở cõi Ta Bà thì ở cõi Cực Lạc mới thể hiện được một cách rộng rãi và hoàn hảo cái ý nghĩa của hai chữ “TỰ TẠI.”
Nguồn: lacphap.com
......

VẤN ĐỀ HỘ NIỆM CHO NGƯỜI SẮP MẤT

Thứ năm, 25/12/2014, 14:00 GMT+7
Sau mấy lượt đắn đo, sau mấy lần cân nhắc, hôm nay thầy nói ra đây lẽ này vì lợi ích của tín chúng hữu duyên tin cầu nơi phật đạo! 
 
Bởi vì Phật Pháp là Chánh pháp bất biến không thể nào chỉ vì e ngại va vấp, hiềm khích với một vài quan điểm ngộ nhận sai lầm của một nhóm người mà làm chúng sanh bị u mê dẫn dụ, lầm lạc trong vô minh! 
 
Honiem
Sau khi thầy thuyết bài này, hẳn sẽ có không ít những lời bài xích, hiềm tỵ từ một số quý phật tử tin tu theo tông phái Tịnh Độ vốn dĩ xem việc hộ niệm là "chìa khóa" cho sự vãng sanh Tây Phương Cực Lạc!
Nhưng rốt cuộc lại thì việc Hộ Niệm cho người sắp mất là "lợi hay hại? là tốt hay xấu? là nên hay không? là phù hợp nhân quả hay nghịch nhân quả? là phụng hành theo giáo pháp Thích Ca hay tự người đời sáng chế ra?" tất cả những vấn đề này tự mỗi người sau khi đọc xong bài này của thầy sẽ có cách liễu ngộ khác nhau tùy vào căn cơ và niềm tin của mỗi người!
Trước tiên thầy xin nói sơ qua về việc Hộ Niệm và ngồn gốc phát xuất của chuyện này từ đâu!
Trong hệ thống giáo lý Nguyên Thủy của Phật Đà hoàn toàn không có chuyện Hộ Niệm này!
Mà chuyện hộ niệm này chỉ xuất phát từ khi Tịnh Độ Tông của phật giáo Đại Thừa ra đời và phát triển.
Tức là theo quan điểm của người tin tu theo pháp môn Tịnh Độ thì việc hộ niệm (tức là cùng phát tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà) để cho người sắp mất được nghe và nhất tâm mong cầu được vãng sanh cực lạc sẽ như những cỗ máy tiếp hơi cho một quả bóng muốn bay lên mà chưa đủ khí vậy!
Như vậy thì họ dựa vào lẽ gì để đưa ra quan niệm niềm tin như thế này?
Đó chính là dựa vào 48 lời thệ nguyện của đức Phật A Di Đà (theo kinh điển giáo lý Đại Thừa). Trong đó có 3 thệ nguyện như sau:
..
TÍN - NGUYỆN - HẠNH.
Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sinh, thời tôi không ở ngôi Chính giác; trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch, cùng hủy báng Chính pháp.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chính giác.
Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi, và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sinh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chính giác.
...]
Ta xem, Nguyện thứ 18: "Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, CHÍ TÂM TÍN MỘ, MUỐN SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI, NHẪN ĐẾN 10 NIỆM, nếu không được sinh thời tôi không ở ngôi Chính giác....."
Người đời vô minh, lánh nặng tìm nhẹ, tránh khó cầu dễ. Muốn không tu cũng thành đạo, muốn làm ác cũng vãng sanh, cho nên khi sắp mất lại lo sợ nghiệp báo thuần thục chịu đọa ở vị lai kiếp nên cầu sanh về Cực lạc cho khỏe thân mình, cho vui sướng, cho thoải mái, cho an nhàn, cho thường lạc! Chính vì vậy cho nên họ mới suy diễn ra cái việc hộ niệm và tự niệm.
Tôi hỏi quý vị là nếu quý vị thật lòng CHÍ TÂM TÍN MỘ đến đức Phật A Di Đà thì quý vị có đợi đến lúc sắp lâm chung (thần trí bất minh, u u mê mê, lục căn thu tịch không còn giao cảm với thế giới chung quanh nữa) mới khởi lòng CHÍ TÂM TÍN MỘ hay không?
Mà dù khi đó có thiệt tình là CHÍ TÂM TÍN MỘ vì sợ khổ báo cho kiếp vị lai đi chăng nữa thì thần trí có còn minh triết để mà NHẤT TÂM KHỞI LÒNG THA THIẾT TÍN MỘ hay không?
Làm sao mà NHẤT TÂM cho được khi thâu thần còn không nổi, khi lục căn đã dần đi vào đoạn diệt!?
Muốn NHẤT TÂM TÍN MỘ tức là hằng ngày, hằng giờ khi còn tại thế, tâm luôn mong cầu điều đó, mà nên nhớ rằng nếu tâm mong được Phật tiếp độ vãng sanh thì lúc nào ta cũng NHẤT TÂM TÍN MỘ, mà tín mộ tức là tin tưởng, sùng bái, tin vào phật tức là tin vào nhân quả (bởi phật đạo là đạo của lý nhân quả), tin vào nhân quả thì tin vào thiện ác, tin vào thiện ác tức là tự biết lánh ác, hành thiện, khi tự lánh ác hành thiện tức là CHÍ TÂM TÍN MỘ CHƯ PHẬT (trong đó có phật A Di Đà), khi ấy khởi tâm mong cầu sau khi mạng chung được người tiếp độ.
Như vậy chỉ có 4 chữ đơn giản CHÍ TÂM TÍN MỘ thôi nhưng nên hiểu cho thấu rõ là phải tu sửa bản thân hằng ngày hằng giờ. Tin sâu nhân quả, hành thiện lánh ác, gieo tạo căn lành, và cái câu niệm 10 niệm danh hiệu Phật A Di Đà chỉ là công đoạn kết thúc quá trình đó!
Nhưng than ôi! Người đời chỉ muốn được sanh ngay về cực lạc, mặc kệ đã gieo tạo nghiệp gì, niệm 10 niệm danh hiệu thì sanh về cực lạc?
Nếu cách hiểu là như thế này thì CỰC LẠC không thấy đâu chỉ thấy mở mắt trở ra thì lại VÔ CÙNG CỰC KHỔ!
Bởi cái nghiệp đã gieo làm sao tránh cho khỏi?!
{Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chính giác.}
Đây, còn đây là nguyện thứ 19 của Phật A Di Đà!
Nếu muốn lúc lâm chung người cùng đại chúng hiện thân tiếp độ thì phải làm gì? Đọc cho rõ chữ, cho kỹ câu xem!?
- Phát Bồ đề tâm. &
- Tu các công đức. &
- Nguyện sanh về cõi nước tôi &.
Rõ ràng đây là một mệnh đề cần cùng thỏa cả 3 nguyên nhân kể trên thì mới đưa tới được cái kết quả (lúc lâm chung người cùng đại chúng hiện thân tiếp độ)!
Như vậy nếu một người không phát bồ đề tâm khi sống trong đời, không tu các công đức (ở đây ý chỉ thập thiện).
Vậy tu các công đức là tu thập thiện còn gì?! mà thập thiện gồm những gì?
Thập thiện bao gồm:
Bất sát sinh.
Bất thâu đạo: tức là không trộm cắp, hay nói chính xác hơn: "Không nhận đồ vật người không cho".
Bất tà dâm.
Bất vọng ngữ: nghĩa là không nói xằng, nói bậy, phù phiếm.
Bất lưỡng thiệt: không nói hai lời.
Bất ác khẩu: không nói xấu người, không nói lời ác hại.
Bất ỷ ngữ : không dùng lời thêu dệt không đâu.
Bất tham dục.
Bất thận khuể: không giận dữ, sân hận.
Bất tà kiến: không ôm ấp những ý niệm, kiến giải sai lầm.
Đọc qua Thập Thiện ta thấy có gần với Ngũ Giới của người cư sĩ tại gia không?
Rất là giống, rất là gần!!!
Vậy rõ ràng là tuy lời thệ nguyện của Phật A Di Đà đơn giản, súc tích nhưng đã hàm chứa tất cả ngụ ý về tu học phật pháp, gieo tạo thiện nghiệp còn gì?
Khi làm được những điều đó thì khởi lòng muốn sanh về cõi nước của người thì mới có thần lực tiếp độ, chứ đừng có nghĩ chỉ niệm một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT thì có thể sanh về được đâu thưa quý vị! đó chỉ là những lời thêu dệt, suy diễn của những kẻ ham thích sự sung sướng trong đơn giản. Muốn không làm mà được hưởng, muốn không tu mà được vãng sanh! Tất cả đó chỉ là tà kiến mê muội hoàn toàn không phù hợp căn bản giáo pháp Thích Ca.
(Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi, và tu các công đức, chí tâm hồi hướng, muốn sinh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chính giác.)
Quý vị đọc cho kỹ nguyện thứ 20 này! Bởi vì đây là cái cớ được vin vào của việc Hộ Niệm mù quáng!
Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh:
- NGHE DANH HIỆU TÔI &
- CHUYÊN NHỚ CÕI NƯỚC TÔI &.
- TU CÁC CÔNG ĐỨC &
- CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG MUỐN SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI &.
Như vậy nguyện này bao gồm đến 4 mệnh đề nguyên nhân kể trên thì mới đưa được tới kết quả là (được sanh về cõi nước tôi - tức cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Đà).
Vậy thì hộ niệm có tác dụng gì trong đây?
Chỉ là giúp cho người sắp mất thỏa được một điều kiện thứ nhất (NGHE DANH HIỆU TÔI).
Còn 3 điều kiện còn lại thì ai giúp được cho người nằm đó?
Chỉ có bản thân họ mới cứu được họ, mới giúp được cho họ chứ còn ai nữa!?
CHUYÊN NHỚ CÕI NƯỚC TÔI?
Nào giờ không nhớ, lúc hại người, giết vật không nhớ là chắc rồi, vì nhớ đã không hại người, không giết vật, nay nhớ thì có hiệu linh không? Dù có hiệu linh thì có nhớ nỗi đến mức CHUYÊN không?
Chuyên ở đây là thường xuyên, nhớ một cách chuyên cần, chuyên nghiệp!
Mà khi nhớ khi quên thì sao còn gọi là "chuyên" chỉ có thể gọi là "nghiệp dư" thì đúng hơn!
Như vậy thì lúc sắp lâm chung cái CHUYÊN NHỚ CÕI NƯỚC TÔI này là thua rồi! làm không được!
TU CÁC CÔNG ĐỨC!
Như bên trên thầy vừa nói! đó là tu thập thiện (cũng chính là trì ngũ giới), vậy thì nào giờ sát sanh, nào giờ trộm cướp, nào giờ tà dâm, nào giờ làm ác, gieo nghiệp thì bây giờ nằm chờ chết thì làm sao tu các công đức?
Chỉ có thể tu khi còn mạnh khỏe, minh mẫn, chứ khi thân thể rệu rã lục căn thu thần tịch diệt thì còn gì mà tu sửa được nữa!?
CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG SANH VỀ CÕI NƯỚC TÔI!
Cái này thì có người làm được có người không! Tùy vào căn duyên khi đó còn minh triết hay đã u mê thần trí.
Như vậy 4 mệnh đề điều kiện mà thỏa chỉ có 1, hoặc 2 thì làm sao vãng sanh đây thưa quý vị?
HOÀN TOÀN KHÔNG THỂ VÃNG SANH
NẾU NHƯ TỪNG GIỜ, TỪNG KHẮC TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY TA KHÔNG TU SỬA THÂN MÌNH, KHÔNG VUN BỒI THIỆN NGHIỆP, KHÔNG LÁNH ÁC HÀNH THIỆN!
Như vậy bên trên là thầy nói theo quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa. Còn quan điểm của giáo pháp Thích Ca Truyền Thụ thì hoàn toàn không có chuyện hộ niệm này!
Theo những gì Thế Tôn huấn thị thì chỉ có nghiệp là con đường duy nhất dẫn ta đến các cõi giới khác nhau.
Kẻ gieo tạo ác nghiệp sâu dày thì phải sanh vào địa ngục, súc sanh dù cho có tụng niệm như trên cả triệu người, hay rụng cả răng cũng không lay chuyển mai một chút nào!
Chỉ có sự chuyển biến chính tâm thức người đó mới là chìa khóa thật sự cho việc giảm nhẹ hay tăng nặng gánh nghiệp đã gieo tạo trong đời.
Còn về khoa học mà nói thì ta thấy người sắp mất, thần trí u mê rồi! Khi đó cần có hai thứ (là tình thương yêu của thân quyến, và sự an tĩnh của không gian yên nghỉ).
Ở đây (việc hộ niệm này), có khi không cho người nhà đến gần nửa bước, họ tụng niệm liên hồi trong khi người bệnh ngột ngạt cần không khí thông thoáng thì lại bị bức chế bằng hằng số người chung quanh thổi hơi ngạt đến thân mình - cái này thì chỉ làm cho sớm viên tịch chứ không phải là viên mãn!
Cực lạc chưa thấy nhưng thấy ngay cực khổ cho thân xác người đó rồi!
Hơn nữa khi tụng niệm như thế họ có thâu thần tiếp thu được vào đầu không?
Không đâu thưa quý vị!
Vì những người đi tụng đó họ chưa có trải nghiệm được cảm giác của người sắp mất! Họ không hiểu người sắp mất sẽ vọng tâm về cái gì!
Kính thưa quý vị!
Người sắp mất vọng tâm lớn nhất chính là (vọng nghiệp).
Vọng nghiệp là sao?
Chính là vọng tưởng đến các nghiệp thiện ác mình đã gieo tạo trong đời này.
Nếu người làm toàn thiện nghiệp khi sắp mất sẽ vô cùng an nhiên, thanh thản, tâm chỉ vọng lên những điều thương yêu, chia sẻ và an lạc.
Còn ngược lại người tạo nhiều ác nghiệp khi đó các việc ác đó sẽ trỗi lên, tâm sẽ sanh ra sân hận, buồn bực, thần trí có khi u mê có khi day dứt! Như những người làm nghề đồ tể thì lúc đó họ thống khổ vô cùng!
Tâm họ vô định trong bấn loạn, bất an! khi ác nghiệp hiện về như bánh xe dần quay sang đoạn đời dị lai phía trước. Họ sợ hãi và rúm ró, bấn loạn!
Như vậy thì tụng gì đi nữa chỉ có thể nói là hại thêm chứ không ích lợi gì!
VỀ VIỆC THUÊ NGƯỜI TRỢ NIỆM VÀ THUÊ THẦY TỤNG THẦY ĐÃ CÓ NÓI QUA TRONG BÀI (NHỮNG QUAN NIỆM SAI LẦM TRONG TANG SỰ NGƯỜI THÂN), VÀ CŨNG ĐÃ CHỈ RÕ 3 VIỆC CẦN LÀM CHO NGƯỜI THÂN ĐÃ KHUẤT (HOẶC SẮP LÂM CHUNG)!
Mong là từ nay mọi người hãy tự mình liễu ngộ mà nhớ lấy rằng!
" Nghiệp ta gieo ta sẽ nhận không làm sao tránh khỏi, và phải tu ngay lập tức, ngay bây giờ, ngay hôm nay khi thân thể còn khỏe mạnh, khi đôi tay còn có thể tạo được thiện nghiệp, tâm ý còn đoạn diệt được ác niệm". Chứ đừng đợi đến lúc thoi thóp hơi tàn thì mới hoảng loạn nhận ra thì có còn kịp nữa đâu!
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!
 

 

 
Thích Tuệ Minh
...

http://www.dharmasite.net/KhaiThi6.htm (Hờa Thượng Tịnh Không)
http://www.tuvienquangduc.com.au/tamly/37tayduky11.html

TÂM LÝ PHẬT GIÁO TRONG TÂY DU KÝ
THÍCH THIỆN SIÊU

Phần 11  
BA CÕI:
DỤC GIỚI, SẮC GIỚI, VÔ SẮC GIỚI

            Vũ trụ thế giới tùy theo nghiệp lực, trình độ sai khác của chúng sinh mà chia ba tầng gọi là ba cõi. Trong đó mỗi cõi lại tùy theo lòng tham dục nặng nhẹ mà chia ra cõi Dục và sáu bậc trời thuộc cõi Dục; tùy theo sức thiền định cạn sâu mà chia ra nhiều bậc thiền thuộc cõi Sắc và Vô sắc, như đồ biểu sau đây.

*Ba cõi:
            1. Dục
                        *Bốn ác thú:
                                    - Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la.
                        *Bốn châu nhân đạo
                                    - Nam Thiệm bộ, Đông Thắng thần, Tây Ngưu hóa, Bắc Câu-lô.
                        *Lục dục thiên
                                    - Tứ thiên vương, Đao lợi, Dạ-ma, Đâu-suất-đà, Hóa lạc, Tha hóa tự tại.
            2. Sắc
                        *Sơ thiền, 3
                                    - Phạm chúng
                                    - Phạm phụ
                                    - Đại phạm
                        *Nhị thiền, 3
                                    - Thiều quang
                                    - Vô lượng quang
                                    - Quang Âm
                        *Tam thiền, 3
                                    - Thiều tịnh
                                    - Vô lượng tịnh
                                    - Biến tịnh
                        *Tứ thiền, 9
                                    - Vô Vân, Phước sinh, Quảng quả (Vô tưởng), Vô thiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Sắc cứu cánh, Ma-hê-thủ-la.
            3. Vô sắc
                        *Không vô biên xứ
                        *Thức vô biên xứ
                        *Vô sở hữu xứ
                        *Phi tưởng phi phi tưởng xứ
*Chín địa
            1. Cõi dục
                        *Ngũ thú tạp cư địa
                        *Ly sinh hỷ lạc
            2. Cõi sắc
                        *Định sinh hỷ lạc
                        *Ly hỷ Diệu lạc
                        *Xả niệm Thanh tịnh
            3. Vô sắc
                        *Không vô biên,
                        *Thức vô biên,
                        *Vô sở hữu,
                        *Phi tưởng phi phi tưởng


            Bây giờ tôi nhấn mạnh nơi chỗ Tứ thiên vương, Đao lợi thiên. Chữ này vì sao tôi nhấn mạnh vì bởi có nhiều chỗ ta cắt nghĩa lầm. Tứ thiên vương, Đao lợi thiên có chỗ khác họ cắt nghĩa dồn chung lại gọi Tam thập tam thiên. Có người cắt nghĩa Đao lợi thiên là Tam thập tam thiên, Tam thập tam thiên là Đao lợi thiên. Nói như vậy là có chỗ không sáng suốt lắm. Vì cớ sao mà 6 cõi trời này còn gọi là Dục giới, đã trời mà là dục? Vì 6 cõi trời này tuy nói trời nhưng anh cũng còn mang cái dục tính như cõi người nên gọi là dục cho nên 6 cõi trời này còn gọi là Địa cư thiên là vì nó trên chóp núi Tu di, chứ không phải là Không cư thiên, không phải nới tứ sắc, mà đây là Địa cư thiên, là còn nương trên chóp núi Tu di mà ở trên đó. Vả lại ông này còn có cái dục, in như cõi dục. Vì sao gọi Dục giới? Vì cõi này có vật dục và có cái nhục dục. Chúng sinh ở đó có hai cái dục đó, cho nên dùng chữ dục mà đặt tên cho anh ta. Mà 6 cõi trời này tuy là trời vì có thiện nghiệp nhiều, tuy có dục nhưng dục nhẹ thôi. Nhẹ như thế nào? Thay vì như cõi người có vẻ thô tục, anh đây hơi nhẹ hơn một chút, tỷ dụ như cõi Tứ thiên vương tức nhiên 4 ông trời ở 4 góc trên núi Tu di và Đao lợi thiên là ông trời ở trên chóp đỉnh. Bốn núi 4 góc có 8 ông trời.

            8 x 4 = 32 cộng thêm với Nhân đà la (indara, Thích-đề-hoàn-nhơn, Đế thiên đế thích, cũng có nghĩa là Thiên chủ nữa), thì ra 4 phía mỗi phía có 8 trời cộng thêm với ông này gọi là 33. Ông này ở cõi trời Đao lợi, cho nên gọi là Đao lợi thiên. Vì sao tôi phải nhấn mạnh, vì có nhiều chỗ lầm. Thứ hai nữa là chính ở Việt Nam ta đã có tục thờ Đế thích này rất lâu. Như trong Đại việt sử ký toàn thư chép rằng: Năm 1057 vua nhà Lý làm hai chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ thờ Phạm vương và Đế thích. Nhiều khi thờ Đế thích riêng, nhiều khi thờ hai bên hầu tượng sơ sinh. Nghĩa là nói từ khi Phật chưa thành đạo có hai ông này luôn luôn ủng hộ hầu hạ Ngài. Cho nên ở trong kinh nói ông trời Đế thích này còn đương ở nơi cõi Dục và cũng tôn cho ông có một vai trò quan trọng tương đương với ông Phạm vương ở trên cõi sắc. Nên đặt chung là Phạm vương Đế thích mà trong kinh mình hay gặp. Sở dĩ tôi nhấn mạnh là vì vậy. Có nhiều người lầm cái chỗ này, cắt nghĩa Tam thập tam thiên không đúng, cắt nghĩa chữ Đao lợi thiên không đúng, chữ Nhân đà la này không đúng. Trong kinh có chữ Nhân đà la võng tức nhiên cũng do từ đây mà ra, cái lưới của trời, cắt nghĩa trùng trùng.

            Phật có dạy, bài kinh Nhất Dạ Hiền trong Nikaya rằng: Không có truy tìm quá khứ, không ước vọng tương lai, chỉ có pháp hiện tại, an trú tại nơi đây là an lành phải không? Phải, Phật có dạy vậy. Vì vậy cho nên cái ngồi học giờ nào thì chú tâm học chứ đừng tưởng cái đề thi nghe chưa. Đó là thả mồi bắt bóng.

            Tôi nói thêm một chút về 3 cõi. Từ địa ngục mà trở lên Phi tưởng phi phi tưởng. Hôm trước có nói về cõi Lục dục thiên. Trong Lục dục thiên tôi nhấn mạnh tới Đao lợi thiên. Trong Đao lợi thiên có ông trời Đế thích ở. Theo trong này thì mặt trời chạy theo núi Tu di. Như vậy trong núi Tu di thật ra cũng không biết chỉ vào chỗ nào? Trung Hoa dịch là Diệu cao sơn tức là núi Tu di. Diệu cao, chữ cao là cao quá mức tưởng tượng. Diệu là nhiệm mầu, cao quá cái mức tưởng tượng. Vì vậy giờ chỉ định thì chỉ định không được. Trong kinh sách mô tả thì Tu di sơn cao lắm, tứ bề là biển. Xung quanh là 4 châu thiên hạ, 4 bên là 4 châu. Chúng ta ở đây là Nam thiệm thần châu, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu và Bắc cu lô châu. Bốn châu thiên hạ ở trong 4 biển này mà núi Tu di thì ở giữa biển, 4 châu thiên hạ cũng ở giữa biển. Rồi ngoài vòng biển này có vòng núi trùng trùng, phía núi ngoài là Thiết vi sơn. Trong Phật giáo thường có cái bài kệ chuông như sau: “Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới Thiết vi u má tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sinh thành Chánh giác.”

            Tức là ngoài núi Thiết vi u ám cũng nghe được tiếng chuông đó. Như vậy là Tu di sơn ở trong Đại hải, xung quanh núi Tu di là mặt trời chạy quanh và dưới đó có 4 châu thiên hạ. Nam thiệm bộ châu là cả tinh thần và vật chất đồng đều. Tây ngưu hóa châu thì trọng vật chất hơn trọng tinh thần. Đông thắng thần châu thì trọng tinh thần hơn vật chất. Bắc cu lô châu đó là một thế giới Cực lạc ở nhân gian. Sống một cách rất bình đẳng cứ ăn mặc không cần làm. Trong kinh diễn tả chúng sinh ở đó sống một cách rất bình đẳng. Tỷ dụ khi xuống tắm, nếu ai lên trước gặp áo là cứ mặc không kể đó là áo của ai hết. Mặc đều vừa vặn hết. Nam nữ gặp nhau thì không cần lễ cưới lễ hỏi. Nghĩa là cứ ngó nhau vừa ý thì cứ đi đến cái cây đó, gốc cây đó tự nhiên nó phủ xuống thành cái nhà, thành cái phòng (Bắc cu lô châu) mà khi đẻ con ra cũng không cần nuôi, cứ để ra giữa đường thiên hạ đi ngang đưa ngón tay cho nó mút một chặp ít bữa nó lớn vù lên thành người lớn. Đại khái ở Bắc cu lô châu cuộc sống là vậy đó. Trong kinh diễn tả như vậy, và mình cũng không biết xứ Bắc cu lô châu nó nằm đâu. Nói chung 4 châu thiên hạ có 4 đặc tánh: Nam thiệm bộ châu là tinh thần vật chất đồng đều. Đông thắng thần châu là chú trọng tinh thần, Thắng thần (tinh thần thắng hơn). Tây ngưu hóa châu chú trọng vật chất (dùng trâu làm vật buôn bán) còn Bắc cu lô châu có một đời sống vật chất rất cao. Nói nghe thì đáng thích lắm nhưng trong kinh Phật nói đó cũng là một cái nạn. Do đó trong Phật giáo có bài tán ngài Hộ pháp như sau: Tam châu cảm ứng hộ pháp vi đà chứ không có 4 châu cảm ứng. Bắc cu lô châu không có Phật pháp. Bởi họ sống với một đời sống vật chất cao quá nên nghe Phật pháp không vô. Thành ra nó sướng một mặt đó về vật chất thôi và đó cũng là một cái nạn vì Phật pháp không có.

            Đời sống của chư thiên sống lâu là do cái phước nghiệp của họ mà thọ mạng hơn nhân gian rất nhiều. Các cõi trời khác mình chưa nói tới chỉ nói sơ sơ cõi trời Tứ thiên vương thôi. Cõi trời Tứ thiên vương thì một năm trên cõi trời Tứ thiên vương bằng nhơn gian của mình là 18 ngàn năm. Cứ lên một cõi trời là gấp đôi tuổi thọ lên. Mà thọ mạng trên Đao lợi một năm bằng nhơn gian 36 ngàn năm. Lấy đó mà suy ra, đời sống không phải hoàn toàn nó như thế. Thứ nhất la so cái nghiệp lực, thứ hai là do môi trường sống của cái nghiệp lực đó. Môi trường sống làm cho sinh mạng của con người nó cũng khác đi và nghiệp lực của chúng sinh đó cũng làm cho thọ mạng của con người đó nó khác đi. Cho nên nếu mình ở một môi trường sống xấu chừng nào thì lại mau chết chừng ấy. Mà môi trường sống tốt chừng nào thì càng lâu chết chừng ấy, lẽ tất nhiên khi nói môi trường sống, không phải chỉ có cái vật chất ở ngoài, mà chính cái sân si cũng cũng là ô nhiễm ô cái môi trường sống nữa. Cứ chưởi lộn luôn thì người khác nghe cái tiếng chưởi lộn cũng sẽ bị chết yểu. Cái sân si ngoài cũng làm ô nhiễm môi trường chứ không phải ba cái rác rưởi ngoài xã hội làm ô nhiễm môi trường đâu. Cho nên cái nghiệp nó nhẹ chừng nào thì đời sống nó dài chừng nấy. Cái nghiệp nặng chừng nào thì đời sống lại ngắn đi chừng đó. Cứ đi lần lên cõi trời Tứ thiên cuối cõi sắc. Trong đó gồm Vô vân thiên, Phước sinh, Quảng quả, Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiện hiện, Sắc cứu cánh thiên và Ma hê Thủ đà thiên.

            Bây giờ đây nói Vân thiên, Phước sinh, Quảng quả thiên. Đây là 3 cõi trời của ngoại đạo. Họ tu theo cái pháp vô tưởng của ngoại đạo mà đạt lên 3 cõi trời đó. Còn 5 cõi trời kia là Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Sắc cứu kính đây là cõi trời của vị chứng quả Bất hoàn ở đó. Cho nên 5 cõi trời này cũng là ngũ Tịnh cư thiên (5 chỗ ở thanh tịnh, hay cũng gọi là ngũ Bất hoàn thiên) là cõi trời của vị chứng quả Bất hoàn ở. Như ta đã biết, Dự lưu là thất lai (7 lần trở xuống nhân gian) Nhất lai còn một lần trở xuống nhân gian, Bất hoàn không trở xuống nhân gian nữa thì ở đâu? Ở đó chờ chứng được A-la-hán, không trở xuống, không trở lui nữa, gọi Bất hoàn hay Ngũ bất hoàn thiên, hay Tịnh cư thiên là cõi trời thuộc về xuất thế gian. Cõi trời nhưng của các vị xuất thế gian ở. Còn bên kia Vô vân Phước sinh, Quảng quả là cõi trời của ngoại đạo ở.
            Trên đây là nói chung 3 cõi.

Giảng Giải Kinh Phật Thuyết A Di Đà - HT. Tuyên Hoá giảng thuật

Cực lạc, còn được gọi là An lạc quốc, là tên của Tây phương Tịnh độ, nơi Phật A-di-đà cai trị. Tịnh độ này được đức Phật A Di Đà tạo dựng lên bằng thiện nghiệp của mình và thường được nhắc đến trong các kinh Đại thừa. Tịnh độ tông cho rằng nhờ lòng tin kiên cố nơi Phật A-di-đà và kiên trì niệm danh hiệu của ngài hành giả sẽ được tái sinh nơi cõi này và hưởng một đời sống an lạc cho tới khi nhập Niết-bàn.
Tịnh độ này được nhắc nhiều trong các bộ A-di-đà kinhVô Lượng Thọ kinhQuán vô lượng thọ kinh. Đối với Phật tử và cũng theo kinh A-di-đà thì đây là một thế giới có nơi chốn hẳn hoi, nhưng trong một nghĩa sâu kín hơn thì đây là một dạng ưu việt của tâm thức.
Theo kinh sách, Cực lạc tịnh độ nằm ở phương Tây. Đây là một nơi đầy ánh sáng rực rỡ do A-di-đà phát ra. Thế giới này tràn ngập mùi hương thơm, đầy hoa nhạc và châu báu. Chúng sinh nhờ nguyện lực được sinh ở thế giới này sẽ thấy mình từ hoa sen sinh ra, mọi mong cầu sẽ được như ý, không còn già chết bệnh tật. Trong thế giới này, mọi chúng sinh đều cầu pháp và sẽ được nhập Niết-bàn. Nguồn hạnh phúc lớn nhất là được nghe A-di-đà giảng pháp, bên cạnh có hai vị Đại Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.

Để mọi người có thể hiểu hơn về Thế Giới Cực Lạc Phương Tây, chúng ta có thể đọc bài viết sau được trích từ chương thứ năm trong tập sách Đường Về Cực Lạc do Hoà thượng Thích Trí Tịnh biên soạn. Nội dung của chương này miêu tả về cảnh giới Cực Lạc và đồng thời nói về cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân cõi ấy.

Quốc Ðộ
Trích thuật theo các kinh:
 “Vô Lượng Thọ”,
Quán Vô Lượng Thọ”,
A Di Ðà
Cực Lạc Thế Giới

Ðịnh Danh. Trong hội Kỳ Viên, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Cõi đó vì sao gọi là Cực Lạc?” Rồi đức Bổn Sư tự giải thích: “Vì chúng sanh trong cõi đó không có các điều khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui, nên gọi là Cực Lạc.

Phần A
Cảnh Vật
1 – Bảo Ðịa
Toàn cõi Cực Lạc, đất lưu ly trong suốt. Phía dưới có tràng kim cương nâng đỡ. Tràng kim cương ấy tám góc đều đặn, mỗi mặt có trăm thứ bảo châu. Mỗi bảo châu phóng nghìn tia sáng. Mỗi tia sáng có 84.000 màu, chói đất lưu ly sáng như nghìn ức mặt trời. Mặt lưu ly bằng phẳng, có dây vàng ròng cùng thất bảo giăng phân khu vực và đường xá. Mỗi dây báu phóng ra tia sáng trăm màu. Tia sáng ấy hình như hoa, như sao, như trăng, chiếu lên kết thành đài sáng chói ở giữa chừng không. Bên những đài sáng ấy có trăm ức tràng hoa, cùng vô số nhạc khí. Từ trong đài sáng thổi ra tám thứ gió nhẹ mát, làm rung động những nhạc khí ấy reo lên tiếng diễn nói pháp “Khổ, Không, Vô Thường, Vô ngã, Từ bi, Hỷ Xả, các môn Ba La Mật”.

2 - Bảo Thọ
Trên bảo địa có vô số cây Chiên-đàn hương, vô số cây Kiết Tường quả, ngay hàng thẳng lối, nhánh, lá, bông, trái đều đặn chỉnh tề. Mỗi cây cao 8.000 do tuần. Thân, lá, bông, trái đều là chất thất bảo. Hoặc thứ cây thuần vàng, thuần bạc, thuần lưu ly, thuần pha lê, thuần xa cừ, thuần mã não, thuần chơn châu. Hoặc thứ cây gốc vàng thân bạc, nhánh, lá, thân, trái cũng phân vàng bạc, đây là cây hai chất báu. Có thứ cây gốc vàng, thân bạc, nhánh lưu ly, lá, bông, trái cũng phân vàng, bạc, lưu ly, đây là cây ba chất báu. Hoặc thứ cây thời bốn chất báu, thứ thời năm chất báu, thứ thời sáu chất báu, thứ thời bảy chất báu, cùng xen lẫn nhau hiệp thành.
Tất cả Phật sự trong cõi Cực Lạc đều hiện rõ bóng trong cây, và cả thập phương thế giới cũng hiện bóng rõ trong cây, như trong gương sáng.
Mỗi lá rộng 25 do tuần, một nghìn màu, đồng phát ánh sáng đẹp, làm gân lá như chuỗi ngọc.
Những bông xinh đẹp sắc vàng diêm phù đàn xen trong kẽ lá, sáng rỡ như những vòng lửa. Trên bông tự nhiên có trái thất bảo hình như chiếc bình quý của Thiên Ðế. Nơi trái phóng ra ánh sáng lớn tụ thành vô lượng tràng phan cùng bảo cái. Trong bảo cái ấy chói hiện tất cả Phật sự trong nước Cực Lạc cùng cả thập phương thế giới.
Bảy lớp lưới kết bằng diệu chơn châu giăng trên mỗi bảo thọ. Mỗi khoảng lưới có cung điện xinh đẹp như cung trời Phạm Vương. Trong cung điện tự nhiên có các Thiên đồng. Mỗi Thiên đồng đeo chuỗi năm trăm hột ngọc ma ni. Mỗi hột ma ni chiếu sáng trăm do tuần, làm cho trên cây chiếu sáng như trăm ức mặt trời mặt trăng hiệp lại.

3 - Bảo Trì
Cực Lạc thế giới nơi nơi đều có ao tắm. Thành ao bằng thất bảo. Ðáy ao trải cát Kim Cương nhiều màu. Ao rộng trăm nghìn do tuần xem như biển cả.
Mỗi ao có sáu mươi ức hoa sen thất bảo. Mỗi bông tròn lớn 12 do tuần, đủ các màu đẹp, màu nào chiếu ánh sáng màu nấy. Trong ao, nước bát công đức từ Như Ý Châu Vương sanh, màu thất bảo, lên xuống theo cọng sen chảy lòn vào cánh bông. Tiếng nước chảy thanh tao diễn nói pháp mầu: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, các môn Ba La Mật.
Nơi Như Ý Châu Vương phóng ánh sáng sắc vàng ròng. Trong ánh sáng hóa thành các thứ chim đẹp đủ màu, bay lượn, kêu hót hòa nhã diễn nói pháp: ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ Ðề, bát chánh đạo, cùng ca ngợi niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng.
Mặt nước, làn sóng gợn lăn tăn, nổi lên nhiều tiếng dịu dàng: tiếng Phật, Pháp, Tăng; tiếng không, vô ngã, đại từ bi; tiếng ba la mật; tiếng thập lực, vô úy, bất cộng; tiếng thần thông, trí tuệ; tiếng vô tạo tác, bất sanh diệt, vô sanh nhẫn; nhẫn đến tiếng cam lồ quán đảnh, cùng vô biên diệu pháp. Người nghe đến những tiếng nầy, tâm liền thanh tịnh, thiện căn thành thục, hẳn không thối chuyển nơi đạo vô thượng Bồ Ðề.
Các thượng thiện nhơn, người Cực Lạc, lúc vào ao để tắm, nếu ý muốn ngập chơn, thời nước chỉ ngập chơn, nếu ý muốn nước đến bụng thời nước liền ngang bụng, cho đến ý muốn nước đến cổ thời mặt nước liền lên cao đến cổ. Nước ao tùy theo ý muốn của mỗi người mà sâu cạn, ấm mát điều hòa rất thuận thích. Người tắm, thân thể nhẹ nhàng khoan khoái, tâm thần vui vẻ, tịch tịnh, sáng suốt.

4 - Bảo Lâu
Bốn phía ao báu, những thềm bực đường sá do vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.v… hiệp thành. Trên có vô số cung điện nhiều từng.
Những tòa lâu đài nầy đều bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê v.v… nhẫn đến vô lượng chất báu xây thành.
Giảng đường, tịnh xá, lầu các cung điện của A Di Ðà Phật, của chúng Bồ Tát, Nhân dân, trăm nghìn muôn lần quý hơn cung điện của Tự Tại Thiên Vương nơi cõi Ta Bà nầy.
Những đền đài ấy, có thứ nổi lên ở giữa chừng không như mây, cao lớn tùy theo ý muốn của người ở. Có hạng không theo ý muốn mà trụ trên bảo địa. Ðó là do công hạnh tu hành sâu dày hay kém ít nên chỗ ở khác nhau như thế. Nhưng những sự hưởng dụng như ăn mặc v.v… đều bình đẳng.
Bốn phía đền đài đều trang nghiêm với những hoa tràng cùng vô lượng nhạc khí. Gió mát nhẹ rung những nhạc khí ấy hòa reo thành tiếng pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, Từ Bi, Hỷ Xả, các môn ba la mật.

5 - Bảo Tọa
Cực Lạc thế giới, đức Phật, chư Bồ Tát, cùng nhân dân đều ngồi trên tòa sen báu. Những tòa sen ấy, từ một chất báu, hai chất báu, nhẫn đến vô lượng chất báu hiệp thành, màu sắc đẹp lạ, quang minh sáng chói, lớn nhỏ xứng theo thân người ngồi.
Dưới đây là tòa sen báu của đức Phật ngự.
Tòa sen nầy có 84.000 cánh. Mỗi cánh rộng 250 do tuần, 100 màu. Trên mỗi cánh sen có 84.000 lằn gân phóng ra 84.000 tia sáng. Xen vào mỗi cánh sen có trăm ức hột châu ma ni. Mỗi hột châu ma ni phóng nghìn tia sáng. Các tia sáng nầy kết tụ nhau lại như hình cây lọng.
Đài sen bằng chất Thích-ca-tỳ-lăng-già bảo. Trang nghiêm với tám muôn thứ ngọc kim cương, ngọc ma ni, cùng mành lưới kết bằng chơn châu.
Trên đài sen, tự nhiên có bốn trụ báu. Mỗi trụ báu cao đẹp như trăm nghìn muôn ức núi Tu Di. Trên đầu bốn trụ báu, mành lưới trùm giăng rộng lớn như cõi trời Dạ Ma. Mành lưới báu ấy có năm trăm ức hột bảo châu. Mỗi bảo châu chiếu ra 84.000 tia sáng. Mỗi tia sáng ấy có 84.000 thứ kim sắc. Các sắc vàng sáng ấy chói khắp mặt bảo địa, nơi nơi biến hóa thành những tướng trạng khác nhau: hoặc hóa ra đài kim cương, hoặc hóa ra lưới chơn châu, hoặc hóa làm những lùm cây hoa đẹp sáng v.v… hiện thành Phật sự ở khắp các nơi trong cõi Cực Lạc…
Khi giảng xong sự lớn đẹp vi diệu của tòa sen báu, đức Bổn Sư kết rằng: Tòa sen báu ấy có ra đó, là do nguyện lực thuở tiền thân của Phật A Di Ðà, ngài Pháp Tạng Bồ Tát.

Phần B
Nhơn Dân
1 – Liên Hoa Hóa Sanh
Phàm thân mình có ra, ban sơ đều do thần thức gá vào một nơi để thành. Khác hẳn với người cõi Ta Bà gá nơi bụng bà mẹ, người tu tịnh nghiệp lúc vãng sanh Cực Lạc thế giới, thời thân thể gá trong hoa sen báu nơi bảo trì mà hóa sanh. Tịnh Ðộ Luận nói: “Nhơn dân thanh tịnh của đức Phật A Di Ðà từ hoa báu trí giác hóa sanh”.
Lúc thần thức được Phật và Bồ Tát rước về Cực Lạc liền hóa vào hoa sen, khi hoa còn búp thời gọi là “ở thai sen”. Dầu thân hình chưa ra khỏi búp hoa, nhưng cảnh tượng và những sự hưởng thọ ở trong hoa đã vui đẹp hơn ở các cõi ở Ta Bà.
Những hoa báu để thác sanh, sự quý đẹp có khác nhau, và thời gian hoa nở cũng chậm mau không đồng. Ðó là vì công đức và trí tuệ của mỗi thần thức thác sanh có hậu bạc cùng sâu cạn không đồng nhau.
Do sự không đồng nầy nên Cực Lạc thế giới có chín phẩm liên hoa: ba phẩm thượng, ba phẩm trung, ba phẩm hạ.
Ba phẩm bực thượng thời liên hoa bằng chất kim cương, bằng vàng tử kim, hay huỳnh kim. Thời gian hoa nở thời vừa thác sanh liền nở, hay cách đêm, hoặc một ngày đêm. Ðây là phần của những vị trước khi vãng sanh, tu hạnh đại thừa, phát Bồ Ðề tâm, thâm ngộ diệu lý vô sanh, tự hành hóa tha, công đức dày, trí huệ sâu mà hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc thế giới.
Sáu phẩm dưới thời liên hoa bằng chất thất bảo. Thời gian hoa nở: hoặc nở liền, hoặc bảy ngày đêm, hoặc hai mươi mốt ngày hoặc bốn mươi chín ngày v.v…
Ba phẩm liên hoa bực trung là phần của những người trai giới tinh nghiêm, cùng người hiếu thảo, những nhà từ thiện, mà dốc lòng cầu về Cực Lạc thế giới.
Ba phẩm bực hạ là phần của những người không biết tu tập, không biết làm lành, cho đến những kẻ ở đời gian ác, đến khi sắp chết, lúc hấp hối, mà biết ăn năn tội lỗi rồi chí tâm xưng niệm “Nam mô A Di Ðà Phật” thiết tha cầu sanh Cực Lạc thế giới.
Cứ nơi chín phẩm liên hoa đây, thời thấy rằng: Cực Lạc thế giới là chỗ đồng về của tất cả Thánh và Phàm ở mười phương. Chẳng những là đạo tràng của các vị đại thừa Bồ Tát, của những bực đại tâm Thanh Văn, Duyên Giác, của những người tinh tấn tu trì, của các nhà từ thiện làm lành tránh dữ, mà Cực Lạc thế giới cũng là gia hương của những kẻ tội ác; nhẫn đến mọi loài. Nếu ai tin chắc chí tâm niệm Phật rồi hồi hướng cầu sanh thời đều được về cả, vì nhờ sức nhiếp thọ tiếp dẫn của đức Từ Phụ và chư Bồ Tát. Chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp. Sau khi được vãng sanh Cực Lạc thời thành bực Thượng Thiện, trụ bực Bất Thối, đồng dự hải hội.
Nơi Cực Lạc, người từ liên hoa hóa sanh. Phật Bồ Tát và nhơn dân đều ngồi tòa sen báu. Vì thế nên Cổ Ðức kêu Cực Lạc thế giới là “Liên Bang” (cõi sen), gọi Thánh Chúng là “Liên Trì Hải Hội”, đặt tông Tịnh Ðộ là “Liên Tông”, gọi hội niệm Phật là “Liên Xã”, kêu bạn niệm Phật là “Liên Hữu” (bạn sen).

2 – Thân Thể
Nhơn dân nơi Cực Lạc thế giới, thân kim cương từ hoa sen báu sanh ra, da màu huỳnh kim. Tất cả mọi người đều đủ 32 tướng hảo đại nhơn, đồng xinh đẹp như nhau.
Ðức Bổn Sư từng hỏi Tôn Giả A Nan: “Như gã ăn mày đứng bên vị Ðế Vương, thời hình dung của hai người có giống nhau không?”.
Tôn Giả đáp: “Bạch Thế Tôn! Gã ăn mày hình dung xấu xí nhớp nhúa, đâu sánh với vị Ðế Vương được”.
Ðức Bổn Sư phán: “Vị Ðế Vương dầu là sang đẹp, nhưng sánh với Chuyển Luân Thánh Vương thời cũng như gã ăn mày. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Chuyển Luân Thánh Vương cũng không bằng Thiên Ðế Thích. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Thiên Ðế Thích cũng không bằng Tự Tại Thiên Vương. Trăm nghìn muôn lần quý đẹp của Tự Tại Thiên Vương sánh không bằng các vị Thượng Thiện Nhơn nơi Cực Lạc thế giới, nhơn dân của đức Phật A Di Ðà".

3 - Thuần Vui Không Khổ
Nhơn dân nơi Cực Lạc thế giới không có tất cả sự khổ, chỉ hưởng thuần những sự vui thanh tịnh.
Phàm những sự thống khổ của muôn loài nhiều đến vô lượng. Tóm lại thời có 8 điều: 1.- Khổ khi sanh ra. 2.- Khổ khi già yếu. 3.- Khổ lúc bịnh. 4.- Khổ về sự chết. 5.- Khổ vì phải ly biệt người thân mến. 6.- Khổ vì gặp phải kẻ oan thù. 7.- Khổ vì không được toại vọng. 8.- Khổ vì thân tâm đòi hỏi phóng túng.
Nơi Cực Lạc thế giới, người từ hoa sen báu hóa sanh, thời là không “sanh khổ". Thâm kim cương luôn khương kiện, trẻ đẹp, thời không là “lão khổ” và không “bịnh khổ”. Thọ mạng vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp mãi đến bổ xứ thành Phật, thời là không “tử khổ”. Không cha mẹ, vợ con, thời là không “ái biệt ly khổ". Chư Thượng Thiện Nhơn thường chung cùng hội hiệp, thời là không “oán tắng hội khổ". Cầu muốn điều chi hay vật chi đều liền được toại ý, thời là không “cầu bất đắc khổ”. Không thân kiến mà tâm luôn thanh tịnh, thời không “ngũ ấm xí thạnh khổ".
Khổ gì có được ở thế giới, mà nơi ấy sự trang nghiêm thanh tịnh đã đến tuyệt đích!
Cực Lạc thế giới, ngoài các sự vui đẹp về vật chất như ăn mặc, ao tắm, nhà ở v.v…, người Cực Lạc đồng được hưởng những điều vui cao quý hy hữu: 1.- Thường được thấy Phật gần Phật. 2.- Chư đại Bồ Tát là thầy là bạn cùng chung hội hiệp. 3.- Luôn được nghe tiếng diễn nói pháp mầu, không luận chỗ nào và lúc nào, nếu muốn nghe. 4.- Thường được chư Phật hộ niệm. 5.- Sống lâu vô lượng kiếp đồng với Phật. 6.- Không còn lo bị đọa vào ác đạo. Ở Cực Lạc, danh từ ác đạo còn không có thay huống là sự thật! 7.- Vĩnh viễn thoát ly luân hồi. 8.- Thọ dụng tự nhiên, khỏi bận rộn bê trễ công phu hành đạo. 9.- Ðược vào bực chánh định không còn thối thất đạo vô thượng. 10.- Hiện một đời thành Phật.

4 - Thọ Dụng Tự Nhiên
Cực Lạc thế giới từ cung điện đền đài, bảo trì, bảo thọ cho đến tất cả vật dụng, đều bằng thất bảo tự nhiên hiện thành, không phải xây dựng tạo tác.
Người Cực Lạc lúc muốn mặc thời y phục đúng pháp tự nhiên ở trên thân.
Ðến giờ ăn nếu là người muốn bát dĩa vàng, thời bát dĩa vàng liền hiện ra trước mặt. Người muốn bát dĩa bạc, hay bát dĩa lưu ly, thủy tinh, minh nguyệt châu, như ý châu v.v… thời bát dĩa đúng như ý muốn hiện ra trước mặt. Thức ăn thức uống thơm ngon đựng sẵn trong dĩa bát, vừa theo lượng người ăn không dư, không thiếu. Ăn xong, bát dĩa tự ẩn đi, đến giờ ăn lại hiện đến, khỏi dọn khỏi cất. Vật thực vào thân tự nhiên tiêu tan lần, hóa thành hơi thơm theo lỗ chưn lông tiết ra ngoài, không còn cặn bã, tẩm bổ thân thể thêm sự khỏe mạnh, tâm được an vui như bực vô lậu.

5 – Tâm Tánh Và Thần Thông
Cực Lạc thế giới, người đều trí huệ sáng suốt, biện tài vô ngại. Không một ai dung ngu. Lúc nghĩ tưởng, thời đều thuần là quan niệm đạo đức. Vì thế nên lời nói ra thuần là đúng chánh pháp. Mọi người đều yêu kính nhau. Không tham, không sân, không si, không thân kiến. Các căn tịch tịnh, không phóng dật, không vọng duyên.
Người người đều đủ 5 thứ thần thông:
1.- Thiên nhãn thông, thấy suốt mười phương, người kém nhứt cũng thấy được trăm nghìn ức na do tha thế giới.
2.- Thiên nhĩ thông, nghe thấu mười phương. Người kém nhứt cũng nghe được tiếng thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha đức Phật. Nghe rồi đều nhớ hiểu được cả.
3.- Tha tâm không, rõ biết tâm niệm của người khác, người kém nhứt cũng biết được những tâm niệm của các loài chúng sanh trong trăm nghìn ức na do tha thế giới.
4.- Túc mạng thông, nhớ rõ những đời trước. Người kém nhứt cũng biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha kiếp về quá khứ và vị lai.
5.- Thần túc không, trong khoảng thời gian một niệm đi khắp mười phương, người kém nhứt cũng đi được trăm nghìn ức na do tha thế giới.

6 – Công Việc Thường Ngày
Nhân dân Cực Lạc, mỗi sáng sớm, đem bông báu đẹp cúng dường Bổn Phật (A Di Ðà) và vô lượng chư Phật ở thế giới khác. Nếu muốn cúng dường hoa hương, kỹ nhạc, hoặc muốn cúng dường y phục, bảo cái, tràng phan v.v… đương lúc ở trước chư Phật nơi thế giới khác, do oai thần nguyện lực của Bổn Phật A Di Ðà, đồ cúng dường quý đẹp đúng theo ý muốn, liền hiện trên không nhóm lại như mây, rồi uyển chuyển nhẹ nhàng rơi xuống đạo tràng thành cúng dường. Lại còn dùng âm thanh vi diệu ca tụng công đức của chư Phật, kính nghe kinh pháp của chư Phật dạy. Cúng dường nghe pháp xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về, đến bổn quốc (Cực Lạc) vẫn còn trước giờ ăn.
Người Cực Lạc sau khi dùng bữa xong đi kinh hành tư duy diệu pháp, hoặc niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Người Cực Lạc, sau khi tắm nơi bảo trì, rồi ngồi trên hoa sen báu tu tập đạo pháp.
Nơi Cực Lạc thế giới, người thời ở trên hư không mà giảng kinh, người thời tụng kinh, người thời tự thuyết kinh, người thời dạy kinh, người thời nghe kinh, người thời tư duy diệu nghĩa, người thời tọa thiền nhập định, người thời đi kinh hành v.v…
Hoặc có những người ở trên bảo địa mà giảng kinh, tụng kinh, thuyết kinh, dạy kinh, nghe kinh hay là tư duy diệu pháp, tọa thiền nhập định cùng đi kinh hành v.v…
Do sự hành đạo nầy, người chưa chứng tứ quả thời chứng tứ quả, người chưa nhập bất thối địa thời nhập bực bất thối…

7 - Ðức Vị
Ở Cực Lạc thế giới, mọi người đều trụ bực bất thối chuyển, nghĩa là sau khi đã được sanh về cõi Cực Lạc, thời tất cả đều đứng vững nơi đạo vô thượng chính giác, không còn bị thối chuyển lui sụt, tiến mãi đến bực nhứt sanh bổ xứ (Ðẳng Giác) và thành Phật.
Ðược như trên, là vì ở Cực Lạc cảnh duyên trang nghiêm thanh tịnh, thuần một mặt giúp thêm sự tăng tấn cho đạo hạnh: (Bảy duyên lành dưới đây trích ở tập “Thập Nghi Luận” của Trí Giả Ðại Sư).
1.- Thường được thấy Phật, được nguyện lực của Phật nhiếp trì. Như ở trên tàu to, không bị sóng nhồi nước đắm.
2.- Quang minh của Phật thường chiếu đến thân, làm cho Bồ Ðề tâm tăng tấn. Như được ánh sáng mặt trời, khỏi xa hầm sụp hố.
3.- Thường gần gũi Quan Thế Âm, Ðại Thế Chí, chư đại Bồ Tát, được Bồ Tát dắt dìu gia hộ, mọi người ở quanh mình đều thuần là bực Thượng Thiện, không tà sư ác hữu. Như gần đèn được sáng.
4.- Nước, chim, cây, lưới, gió, nhạc, quang minh v.v… đều luôn diễn nói pháp mầu. Tai nghe tiếng pháp thời tâm liền thanh tịnh.
5.- Ðồ ăn, thức uống, nước tắm rửa đều làm thêm lớn thiện căn.
6.- Tâm ý trọn không kiến chấp vọng duyên, không ác niệm phiền não, chánh niệm thường hiện tiền.
7.- Thân thể lại là kim cương bất hoại. Không già yếu, không tật bịnh, sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp. Không bị già bịnh làm trở ngại công phu. Khỏi phải vô thường làm gián đoạn đạo hạnh.
Ðủ các thắng duyên như trên thời có thể nào thối thất đạo tâm mà không quyết định thành Phật:
Như trong kinh Di Ðà nói: “Chúng sanh sanh về Cực Lạc thế giới đều là bực bất thối chuyển”. Lại nói: “Những người nguyện về Cực Lạc thế giới, đều được bất thối chuyển nơi đạo vô thượng Bồ Ðề".
Trong Khởi Tín luận có lời: “Người sanh về Cực Lạc vì thường được thấy Phật, nên trọn không thối chuyển”.
Lời Phụ - Pháp môn Tịnh Ðộ ngoài công hạnh chuyên niệm Phật rất trọng nơi “Tín” và “Nguyện”.
Rõ biết nhơn địa cùng quả địa của đức Phật và hai vị Ðại Sĩ, đấng Cha Lành cùng những bậc Thầy sáng suốt của ta sau này, ta đã nhận chắc rằng: Từ bi nguyện lực của các ngài đương ôm trùm lấy ta, quang minh của các ngài đang soi phủ lấy ta cùng tất cả những người niệm Phật, do đó lòng tin tưởng của ta sẽ nồng hậu, sâu chắc.
Hiểu rành cảnh Cực Lạc vi diệu trang nghiêm là gia hương vĩnh viễn của ta sau này, biết rõ thân tâm của người Cực Lạc thanh tịnh siêu thoát, mà cũng sẽ là báo thân trường tồn của ta, do đó nguyện vọng của ta sẽ tha thiết mãnh liệt.
Tín tâm” đã sâu, “chí nguyện” đã thiết, tất công hạnh của ta cũng tự chuyên cần. Như thế chín phẩm sen vàng ta đã nắm phần chắc trong tay rồi.
Huống nữa nếu ai được xem nghe y báo và chánh báo ở Cực Lạc thế giới rồi thiết tha hâm mộ muốn về, luôn luôn khắn nhớ rành rẽ nơi lòng không một giây xao lãng, tất sẽ được thành tựu quán hạnh. Hiện tiền được thấy cõi Tịnh Ðộ cùng Phật và Bồ Tát, lâm chung sẽ vãng sanh thượng phẩm.
Vì có những lợi ích lớn như vậy, nên đức Bổn Sư ta nhiều lần thuật đi nhắc lại trong các pháp hội như khi thuyết kinh: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Bảo Tích, Bi Hoa, Tiểu Bổn Di Ðà v.v… Ðầy đủ nhứt là những pháp hội thuyết Quán Kinh và Vô lượng Thọ Kinh.
Nơi các quyển sau của bộ “Ðường Về Cực Lạc” này, chúng ta sẽ được đọc những truyện tích của những người trước ta đã được các sự kết quả tốt đẹp như vừa kể ở trên.
Mong mọi người đều trân trọng chú tâm nơi các chương “Thân tướng”, “Quốc Ðộ”.

TayPhuongCucLac

170 

No comments:

Post a Comment