Wednesday, September 19, 2018

Chút hương ngày cũ * Hành tinh hạnh phúc.

http://vanthonhactrieuchau.blogspot.com/2018/

http://vanthonhactrieuchau.blogspot.com/2016/05/hanh-doan-chut-huong-ngay-cu-loi-gioi.html

THỨ BA, 3 THÁNG 5, 2016


http://ruoirep.net/vienchieu_online/taxonomy/term/15



Viên Chiếu Thuở Vị Thành Niên


Hạnh Đoan
        Khi khu vườn Viên Chiếu hoa nở ngát hương, những cánh chim trưởng thành lần lượt tiếp sức đầu đàn dắt dìu đàn em, thì người ta luôn bắt gặp những nhân dáng trang trọng, nghiêm túc để có thể xứng đáng làm mô phạm cho hậu sinh, nên ít ai biết, tưởng tượng được đến cái thời đầu ngô nghê của Viên Chiếu, cái thuở vị thành niên còn nhiều bất toàn, và nụ cười hồn nhiên còn rộn rã ngân vang.
        Từ Bát Nhã xuống Viên Chiếu, mỗi người được phát cái thùng giấy to để đựng “gia tài sản nghiệp” gồm ba bộ đồ, mùng mền, vật dụng tùy thân. Chỉ có cái đơn cô Đức là vật thể an toàn duy nhất, nằm giữa trung tâm cái cốc lá râu ria, đựng đủ thứ đồ hằm bà lằng, gồm tài sản riêng cô và của chung cả chùa – nghĩa là ngoài chiếc thùng giấy – chúng tôi cần gì cứ giở đơn cô ra lấy: tập vở, đơn từ, dây thun luồn quần, kim chỉ, nút, viết…
        Tôi xuống Viên Chiếu chậm sau mấy chị cả tháng, nhưng chỗ hành lễ vẫn chưa thiết lập, nên thời kinh đầu của tôi diễn ra trong cái mùng tập thể giăng trên gác, cái mùng có sức chứa năm sáu người ngủ, vẫn khá rộng để chúng tôi ngồi tụng kinh. Tới giờ, chỉ việc ôm mõ chuông vào mùng, ngồi tụng ê a, đọc Tam tự quy xong là đã có thể ngã lăn ra, nằm bẻ tay chân lắc cắc trong mùng.
        Tuần lễ sau, chỗ lễ lạy được thiết lập với bức hình Tổ Đạt-ma treo sát vách lá dừa, phía dưới là cái kệ đơn sơ để mõ chuông, án hương. Chúng tôi đã có thể đắp y áo hành lễ chỉnh tề, nhưng đây vẫn là thời nở rộ đủ trò nghịch ngợm.
        Chị Minh Ánh có lần cạo đầu cho cô Đức đã ranh mãnh chừa lại ba vá làm gương mặt cô trông giống hệt hình vẽ mấy tiểu yêu của Hồng Hài Nhi, rồi chị cũng bị cô Hoa chừa lại cho một vá trên đầu giống hệt cái bàn chải chà chân. Rồi lúc hành lễ, khi giọng tán Phật của cô Đức xướng vút cao, kéo ánh mắt chúng tôi bay bổng lên và dừng lại nơi các vá, chóp, dựng đứng chơm chởm ai cũng phải tủm tỉm cười. Dù chúng tôi có thế nào thì gương mặt của đức Thế Tôn vẫn bao dung muôn thuở.
        Rồi các vá chóp kia cũng được tẩy sạch sẽ. Chuyện cạo đầu tưởng như đơn giản nhưng cũng trở thành vấn đề khi cô Đức buộc phải xin phép Thầy cho chúng tôi mỗi tháng cạo một lần, thay vì nửa tháng.
        Dao lam khan hiếm nên phải nhờ quý thầy Thường Chiếu mài lại cho chúng tôi xài. Tội nghiệp! Chắc là quý thầy mài mỏi tay, vì tháng nào cũng phải mài cho chúng tôi có mà thí phát (hết mài phảng cho chúng tôi phảng cỏ thì lại phải mài dao cho chúng tôi… “phảng” đầu.)
        Đôi khi chị Huệ cũng ra sức mài phảng cho đỡ “báo đời” quý thầy, nhưng chắc chắn là không thể nào bén ngọt bằng Thường Chiếu mài cho. Tôi hỏi chị Huệ:
        - Chị biết mài dao lam không?
        - Chịu thôi! Chỉ có quý thầy biết! Dao lam khó mài lắm!
        - Mài sao hả chị?
        - Tui thấy thầy Thiện Trung bỏ vô cái ly mài mài!
        Thầy mài thiệt hay, dao mài về bén ngót. Nhưng tóc mỗi tháng mới cạo một lần, dao mài đi mài lại, lướt trên mười mấy cái đầu chúng tôi nghe rồn rột cứ như nạo dừa, thỉnh thoảng nó có dằn xóc như xe dằn ổ gà, khiến người được cạo đầu cuối cùng mặt nhăn thấy mà thương.
        Sau đó không biết ai biếu cho chùa hai cái tông-đơ - nghe tới tông-đơ chớ có mà tưởng bở. Gặp tông-đơ lụt và chưa giỏi sử dụng thì sẽ là kẹp, giựt, nhổ… tóc “chứ không phải hớt tóc đâu”. Hồi nhỏ có lần thấy cái tông-đơ, tôi liên tưởng ngay đến cảnh “đẩy ngọt xớt” của các bác thợ cạo và hứng chí cầm nó lên “thử nghiệm” với chị tôi. Sẵn cái đầu chị tới tháng cạo, tôi cầm tông-đơ tới, kề sát vào đầu chị và đẩy một phát, chắc mẩm là chị sẽ vui sướng, nồng nhiệt khen ngợi tôi, nào ngờ chị nhảy dựng lêân hét:
        A, á! mày muốn ám sát tao đấy hả?
        Nói vậy là đủ để hiểu chế độ cạo dao lam ngưng thì cái đầu đáng thương của chúng tôi phải nếm đủ mùi “tra tấn, hành hạ” của tông-đơ do những bàn tay chưa thạo nghề mà sử dụng tông-đơ lụt (Tôi chẳng nghe nói đến việc mài tông-đơ bao giờ). Chị Huệ “hành nghề” đỡ đau hơn những thợ tay ngang khác, nhưng muốn chúng tôi đỡ đau thì chị phải gồng kềm cái tông-đơ, cho nó đừng nhổ tóc, buông tông-đơ ra mu tay chị đỏ chạch đến tội. Rồi dần dà các thợ cạo Viên Chiếu sử dụng tông-đơ thuần thục, chị Huệ vẫn còn đỏ tay nhưng chúng tôi đã hết đau. Song tôi vẫn thắt thẻo thương nhớ cái dao lam: - Ôi dao lam! Em đi đâu? Về đâu? Cho nên nổi…?
        Rồi trong buổi họp thường nhật sau khi thỉnh nguyện, thêm một tin mới: Phải tiết kiệm xà- bông tối đa, có thể sẽ không có để mà xài nữa! Chị Hạnh Thanh mách:
        - Em thấy bông tràm ngâm cũng ra bọt nhiều, giặt đồ được lắm!
        Có người hiến kế nên xài nước tro nhưng tính ra ngâm bông tràm có vẻ sạch sẽ hơn, song dễ làm mục đồ. Chỉ thời gian ngắn, chúng tôi được xài xà-bông lại, mỗi người được cắt chia một cục nhỏ, nếu ai xài hết trước thời gian ấn định thì ráng mà nhịn, nhưng chúng tôi đều biết cách tiện tặn, nên không đến nỗi nào.
*
        Có lần tôi được cô Đức cắt cho công tác rất ư là phong lưu: Đi mua đồ “hợp tác xã” cái xã chút xíu thời ấy làm gì có “thương hiệu” mà “hợp tác”? Nói cho oai vậy chứ, thật sự là ra nhà bà Năm Quán sắp hàng chờ mua đồ! Tôi sắp hàng ngót hơn một tiếng thì được gọi tên tới đóng tiền mua được gói hộp quẹt diêm và mười mấy mét vải xoa màu xanh chói mắt (không lãnh phải vải hoa là may rồi) Hợp tác xã bán gì thì lãnh thứ ấy. Hồi đó vải hiếm nếu có thì cũng mắc, sắp hàng mua nghe như cực, nhưng giá bán rẻ hơn ở chợ nên cũng đỡ (có còn hơn không mà!) Thế là vải đem về chị em chia nhau, mỗi người may được một cái quần, đi nghe sột soạt như “Liên khúc quần xoa…”
        Mùa đậu, chúng tôi kéo hơn nửa chúng ra làm rẫy gần đất Thường Chiếu. Trên đường đi, chiều gió lộng phả hơi me ngào hấp dẫn từ ngõ nhà bà Tám Đời, chúng tôi dừng lại, bu quanh chảo me ngào (Hồi đó, mỗi lần đi công tác xa chùa thường đưa cho người lớn nhất trong nhóm giữ ít tiền dằn túi để phòng có sự cố). Tôi nghĩ là cứ ngắm quà bánh thì chẳng có tội vạ gì, nhưng chị Huệ đã mua mấy đồng me ngào, bà hàng múc cho một dúm (to cỡ nửa bàn tay) bỏ vào miếng lá chuối, chúng tôi xin thêm mười mấy que tăm cùng xúm xít thưởng thức me ngào đến liếm sạch lá, lần ấy tôi đã âm thầm “nể” chị Huệ mà không dám nói ra (nể vì chị dám xài sang hào phóng mua me cho chúng tôi để cùng “ăn hàng tập thể”. Bởi ngân phí vốn eo hẹp, mọi thứ quà vặt đều là xa xí phẩm, chỉ nên nhìn chứ không nên với tới, lần này cùng nhâm nhi me, mặt ai cũng tươi roi rói, khiến người ta phải buột miệng khen: “Mấy cô tu sao mà vui quá”.
        Thường Chiếu thương em út, lâu lâu có cái bánh hay món gì ngon cũng nhắn chúng tôi ra ăn. Đi công tác hay ra Thường Chiếu dự “tiệc”, chuyện lội bộ đi sớm về khuya là chuyện thường. Đường bộ hồi ấy vắng hoe vắng ngắt, càng về khuya chỉ có chúng tôi là khách lữ hành, cái máu văn nghệ lại nổi lên, chị Huệ hát thật hùng: “Không phải là lúc ta ngồi mà chờ có được tốt đẹp. Mà phải khởi từ nhọc nhằn hay gian khó…”, tiếng hát xua tan cái lạnh giữa đêm thâu, rồi chị em cùng nắm tay nhau ca bài: “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn, dưới ánh trăng khuya vằng vặc soi đường.
        Trăng ở rừng luôn huyền ảo và đẹp mê hồn. Do vậy mà xả thiền xong, vừa rảo rảo đi kinh hành chợt nghe vang lên tiếng hát của một người say trăng: “Đêm nay trăng sáng quá ai ơi” Còn đang ngơ ngẩn thì đã nghe bồi tiếp: “Gác trọ về khuya trăng gió lùa”. Giọng hát êm êm và thật du dương, đích thị là giọng của cô Đức! Chúng tôi ngứa cổ phụ họa theo: “Trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa”, nhạc “Ráp” được hình thành, kết nối bởi những câu ngắn ngủi để diễn tả cảm xúc dạt dào với trăng. Thời ấy, ở độ tuổi sung sức dư hơi hát hò, nên giọng ai cũng hay cực kỳ ! Khó mà cấm được màn hòa tấu văn nghệ đột xuất. Chị Minh Ánh còn ráng chen thơ thẩn vào với cái giọng Quảng chắc nụi: “Tối nay có một nửa trăng thôi. Còn nửa kia ai… cắn mất rồi?”
        Màn hợp tấu kết thúc, chúng tôi lục tục đi ngủ. Đêm vào khuya chỉ còn lại tiếng côn trùng nỉ non và mảnh trăng vắt ngang lưng trời dịu dàng tỏa sáng.
*
        Chúng tôi đang dùng cháo chiều, cô Đức từ ngoài ngõ đi vào, thả túi xách xuống đã kể ngay:
        - Trưa hôm qua chị với Giải Thiện đón xe đi thành phố, chờ hoài không thấy xe, gặp ông cà-rem đi tới chị mua cho mỗi đứa một cây, vừa mua xong thì xe trờ tới.
        - Vậy rồi sao hả cô?
        - Thì phải lên xe với cây cà-rem, chị đứng quay vô kẹt, che cái nón lá để ăn - nhưng mà không có yên – thằng nhỏ ngồi trên xe khóc ré lên, hét đòi:
        - Ba, cà-rem! Cà rem!
        Ba nó nhìn dáo dác, ngơ ngác hỏi:
        - Cà-rem đâu con?
        Nó chỉ tay về phía chị:
        - Đó! Cà-rem! Cà-rem!
        - Thiệt mắc cỡ muốn chết!
        Cà-rem thời ấy có khi nửa ngày mới gặp bán một lần, nghĩ đến cảnh cô Đức leo lên xe với cây cà-rem “bỏ thì thương vương thì tội”, chúng tôi thấm ý cười dài.
*
        Mỗi khi làm ruộng mệt cô Đức thường ngồi trên bờ đê hát: “Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay muôn ngọn cờ bay”. Ban ngày, nên tôi chẳng thấy cờ mà chỉ thấy mạ xanh rờn tít tắp, nhưng giọng ca êm nhẹ của cô rất hay. Dòm cái mặt ngẩn ngơ của tôi, cô mỉm cười nói:
        - Để chị dạy cho mà hát: Nào! Thùng thung lủng, thùng lủng thùng bể, thùng thung bể, thùng bể thùng lủng, thiếc thau thau thùng… thùng thau! Âm điệu vui nhộn của cô làm tôi khoái chí vỗ tay đôm đốp nhịp theo.
*
        Thời gian đầu Viên Chiếu ăn toàn tương do cô Giải Thiện chế biến, tương cô làm ăn hoài không hết, dù chỉ có một hũ nhỏ, bởi lẽ cô cứ nấu nước muối đổ vô khi nó vừa cạn. Chị Thủy thường gọi là tương “chồn”, tương mới làm gặp mưa dầm khí ẩm màu lờ lợ mùi lại hăng hắc. Cô Thiện thuộc dạng đảm đang khéo léo nhưng bị hai chữ “tiết kiệm” trói tay, vả lại, có một câu thành ngữ quen thuộc: “Ai khéo mấy vô Viên Chiếu cũng phải bị tổ trác”. Đó là lí do tương có mùi khó ngửi và màu sắc không giống ai, thêm màn nước muối đổ vô hoài, ăn riết chịu hết thấu, chị Thủy nhăn nhó phản kháng:
        - Giải Thiện Này! Mi đừng lén đổ nước muối vô tương nữa, ăn hết nổi rồi!
        Cô Thiện cười hì hì và sau lần kêu rêu đó tương “chồn” mới cáo chung.
        Cô Thiện xuất thân từ “lò” miền Trung nên kiểu tụng niệm của cô có âm điệu rất hay cộng thêm âm thanh “chuông vàng” trời phú. Nhưng ở Viên Chiếu thời gian lâu, bị cách tụng “phang ngang” của chúng tôi ảnh hưởng, cô than thở:
        - Ôi! Thiền tông làm hư cái giọng em! Về ngoài nớ tụng ai cũng cười em hết!
        Dù vậy mỗi khi cô hô chuông tọa thiền, nhiều Phật tử đến chơi nghe được đã buộc miệng xuýt xoa:
        - Trời ơi! Cái giọng nghe như tu đâu mười kiếp rồi vậy! Nghe là muốn đi tu liền!
        Quả thật tiếng niệm, kệ chuông của cô khiến người nghe mang cảm giác lâng lâng siêu thoát. Nhưng có một lần tiếng cô đã làm tôi bủn rủn tay chân, hồn phi phách tán. Ấy là vào một đêm khuya không trăng, tôi kinh hoàng lạnh cả xương sống vì tiếng ré inh ỏi của hai giọng nữ the thé lanh lảnh: Cháy! Cháy! – Đúng là giọng thanh tao xuyên suốt từng truyền cảm của cô Giải Thiện, giờ đây nó đang truyền sự kinh hãi tột độ bởi âm thanh được bật lên vào lúc 0 giờ với tâm tư cực kỳ hoảng sợ, thừa sức làm rởn óc người nghe. Thêm vào đó là tiếng hét như còi cứu hỏa của chị Thủy cũng không thua kém! Hai âm thanh nữ này “hợp xướng” đủ để tôi bật dậy như cái lò xo, rụng rời hết tứ chi, không còn biết đâu là cửa mùng để chui ra, và mình đang hiện diện ở chốn nào nơi trần thế? Cuối cùng tôi cũng chui ra khỏi mùng (sau khi đã đâm đầu vào vách lá dừa mấy bận). Tôi thấy người leo lúc nhúc nơi cầu thang ọp ẹp để tiến đến gác (trung tâm của điểm cháy).
        Nguyên do là cây đèn dầu bé tí nơi kệ thờ nổi hứng phựt lửa cao táp vào bức hình Tổ Đạt-ma treo sát vách lá. Thật may, đúng ngay lúc ấy cô Đức trở mình quay qua bắt gặp, cô vội la lên. Thế là một loạt báo động của những kẻ còn đang say ngủ, mắt còn nhắm, nhưng miệng đã la được inh ỏi, đủ sức dựng tất cả thức dậy cứu hỏa. Cô Hoa bình tĩnh nhất, giường cô nằm kế tôi ở dưới đất; nhưng cô đã leo lên gác tự lúc nào và đang chỉ huy dập lửa. Chị Phượng lúc ấy ở Sài Gòn ra chơi cũng xăng xái phụ chữa lửa bằng cách xách một thùng nước, leo lên cầu thang trao tận tay cô Hoa. Cô nhanh nhẹn đón lấy và thảng thốt la lên:
        - Trời đất! Sao đưa chị cái thùng rỗng, không có nước?
        - Hả? Hơ!... Quýnh quá em quên múc nước!
        Khi lửa được dập tắt xong thì thiệt hại chỉ là bức hình Tổ Đạt-ma, hình vẽ Ngài cháy hết, còn trơ lại chiếc giày (nhờ quảy ở trên cao). Chị Thủy hí hoáy ghi vào nhật ký: “Tổ Đạt-ma nhập Niết-bàn hồi 1 giờ khuya để lại chiếc giày”.
        Thật may mắn cho chúng tôi, lửa phựt cháy giữa khuya, vách là lá dừa, sàn toàn ván thông, đều là các thứ dễ bén lửa, nếu không có cái trở mình nhiệm mầu của cô Đức và tài chỉ huy chữa lửa kịp thời của cô Hoa thì thiệt hại không phải nhỏ!
        Kiểm điểm tổn thất sau cuộc cháy xong, chị em nhìn nhau cười rạng rỡ, vì rõ ràng may nhiều hơn rủi, vách lá mọi thứ đều còn y nguyên, chỉ có Tổ là… hy sinh.
*
        Rồi Huệ Chiếu được thành lập, tình giao hảo của các thiền viện luôn thắm thiết. Huệ Chiếu sinh sau vẫn tiếp nối truyền thống ăn độn. Xuống thăm Huệ Chiếu lúc nào cũng thấy bằm khoai lóc cóc. Khoai mì, khoai lang phơi đầy từ sân ra ngõ, vậy mà hễ có gì ngon là cô Minh (Trụ trì chùa Kim Liên bây giờ) ít khi chịu hưởng một mình, cô luôn hào phóng, bắn tiếng mời chúng tôi xuống dự. Chẳng hạn “sắm” được mớ nấm với ít đồ lê-ghim để nấu nước lèo, cô sốt sắng mời Viên Chiếu xuống ăn mì gói. Gia tài Viên Chiếu chỉ có vài chiếc xe đạp, dù đường lộ đã có xe khách đi rải rác, nhưng cái túi tiền không cho phép chúng tôi “sang cả” ngự trên xe. Thế là chị em kéo nhau lội bộ xuống Đại Tùng Lâm dự “yến tiệc”, tất nhiên phải đi vào ngày nghỉ công tác. Sáng đi, trưa đến, chiều về, tô mì gói cũng tiêu hóa theo từng bước chân cuốc bộ. Nhưng cái chính là tấm lòng tốt của những vị pháp hữu luôn còn mãi và đến bây giờ vẫn chưa tan trong tôi.
*
        Thời ấu nhi của Viên Chiếu tất nhiên là không giống lúc trưởng thành. Những người tuổi trẻ thuở xưa nay đã tóc bạc, mặt nhăn, vai mang đầy trọng trách; không còn luyến lưu gì với trò chơi bong bóng nước và những thú vui đùa ngày nhỏ.
        Xưa và nay dẫu có cách biệt thì vẫn còn một điểm chung để giống. Đó là cái tâm trong sáng, giàu lòng từ ái, chính cái tâm này đã giúp cho Viên Chiếu sống an hòa dù ở bất cứ thời điểm nào.
shảred http://ruoirep.net/vienchieu_online/node/77

*

CHUYỆN ĐUỐI NƯỚC  
Thích Nữ Hạnh Đoan
Tháng Năm 1975 đoàn nữ tu sĩ chúng tôi rời núi Tương Kỳ dời xuống Long Thành, vào “đóng đô” trong khu rừng khỉ ho cò gáy mang tên “Thiền viện Viên Chiếu”... 
Chuyện đuối nước (1)
Cổng tam quan thiền viện Viên Chiếu

Công việc bắt đầu vất vả hơn. Ngoài việc phá rừng khai hoang chúng tôi còn đối mặt với đặc sản nơi đây: Muỗi sốt rét hoành hành! Chúng tôi luân phiên ngã bệnh, luôn phải uống ký ninh ngừa sốt rét, người nào cũng xanh dờn, không khỏe. 

Các bác sĩ bằng hữu thỉnh thoảng ra thăm, khám sức khỏe cho chúng tôi và nhắc nhở: “Quý vị tranh thủnhín thời gian đi tắm biển đi!”. 

Do cũng thường xem các sách y học và đời sống, nên đa số chúng tôi đều biết tắm biển có nhiều lợi íchvề sức khỏe. Do vậy, tắm biển được sắp vào môn trị liệu hỗ trợ sức khỏe cho Ni chúng. Những lúc thấy chúng lao động cơ cực, sức khỏe suy, Ni sư trụ trì luôn đặc cách cho chúng được đi tắm biển. Chùa không có thời gian rảnh nhiều, nhín nhút lắm thì mỗi năm có thể được tắm một lần

Năm nay 2018 cũng vậy, thương chúng làm nhiều, mệt nhọc, Ni sư trụ trì Viên Chiếu đã cho chúng đi tắm biển, chị Hạnh Phước là phó trụ trì, có nhiệm vụ dẫn chúng đi. 

Tất nhiên là phải chọn chỗ vắng vẻ, ít người tắm. 

Lúc này khoảng 7g5’, các Ni đã đến nơi và đang ngồi trên bờ đón gió biển. 

Viên Tuyền bắt đầu đi dọc theo bờ biển, nước cao hơn đầu gối một chút, ngay lúc đó em bỗng bị vọp bẻnên cúi xuống xoa bóp chân, thì sóng dữ bỗng đánh vào, Viên Bích đang đi cùng vội nắm tay Viên Tuyền nhưng cả hai đồng té xuống và bị sóng dữ cuốn ra xa. Lúc này các cô vội nhào ra tiếp cứu, Hằng Chiếu, Viên Kha, Tịnh Vân, Viên Chuyên, Viên Tiên… đồng ùa ra, đồng nắm chặt tay nhau mong cứu bạn, nhưng vì sóng đánh nhồi vật quá mạnh nên tất cả đều đuối sức, Viên Kha tuy biết bơi nhưng cũng đã rất đuối, em gắng gượng kêu Bích và Tuyền hãy bám lấy vai em, nhưng Bích và Tuyền nhìn thấy Kha đã kiệt sức mà sóng cuốn quá mạnh nên Bích bảo Tuyền: Mình nên buông tay ra để cho chị Kha được sống…. 

Thế là cả hai buông tay. Biết là không còn hy vọng gì, Viên Kha cố gắng buộc áo Viên Tuyền và Viên Bích lại với nhau, mong cứu hộ sẽ dễ tìm thấy hai em… rồi Kha nằm yên thả nổi, không còn sức để bơi. 

Khi các cô được ca-nô đến cứu, thì Viên Kha, Tịnh Vân, Viên Tiên… sau khi cấp cứu đều được hồi sinhxem như những vị biết bơi, thả nổi… thì còn cứu được. Ban cứu hộ tìm được Viên Tuyền, Viên Bích đưa vào bờ, nhờ áo hai em buộc đang chung với nhau. Viên Tuyền đã chết, còn Viên Bích được chuyển đi cấp cứu, nhưng em cũng tắt hơi tại bệnh viện. 

Bốn tiếng sau, thi thể Hằng Chiếu mới nổi lên giạt vào bờ. 

Riêng Viên Chuyên mất tích không tìm thấy, qua hôm sau mới tìm được, vì thi thể em trôi xa ngót 10km, xuống tận bến cảng Phước Tỉnh. 

Vienchieu (3)Học và tu - tri và hành hợp nhất là nguyên tắc trong đời sống của người xuất gia theo Phật

Tôi không biết mặt các em, vì tôi bế quan không tiếp khách. Nhưng khi nghe tin bốn em đuối nước, tim tôi nhói đau, tôi chợt nhớ tới Đức Phật, Ngài bị mất người thân thê thảm hơn: Cả dòng họ Thích bị vua Lưu Ly tàn sát trong một ngày (do kiếp trước dân họ Thích làm nghề chài đã giết con cá to là Tỳ Lưu Lynên giờ phải trả báo). Chẳng biết nỗi đau này ra sao? Ai bảo giác ngộ rồi là không biết đau, không biết buồn? Phật phải chịu đựng những mất mát to lớn hơn phàm phu chúng ta rất nhiều. Song trước thảm họa này, Phật luôn giảng về nghiệp báo nhân duyên, kể chuyện dòng họ Ngài là bằng chứng “nhân quả báo ứng” thiết thực nhất, để răn nhắc người mong họ dứt ác, tu lành. Nhưng ít ai tin, vì người ta vẫn sát sinh mạnh tay. 

Tôi cũng đã luân hồi vô vàn kiếp, chẳng dám tuyên bố mình không có lỗi lầm, hay không có tội ác. Nói như kinh Địa Tạng thì chúng sinh ở cõi Ta-bà này: Nhất cử nhất động đều luôn phạm lỗi. 

Vì vậy mà tôi cũng không bảo đảm về cái chết của mình: Chết an toàn, ở nhà, trên giường hay đột tử? Có điều chắc chắn là tôi phải chết, chết là thể xác, còn là tinh anh. Xác thân phải bỏ lại, nhưng cái có thể mang theo là thiện nghiệpnội tâm trong sáng. Được vậy thì hướng đến tương lai không đáng lo. 

Bốn cô Ni nhỏ này tôi không hề biết mặt, nhưng vừa nhận hung tin tim vẫn cứ đau. Đã biết sinh tử là chuyện tất nhiên của đời người, đâu ai thoát khỏi cái chết? Nhưng đa số mọi người ai cũng thích chết trên giường, chết ở nhà. Không ai muốn chết bất ngờ như vậy. 

Tôi thông cảm nỗi đau của Viên Kha: Mình biết bơi, nhưng yếu sức không cứu được, đành nhìn hai em buông tay từ giã cuộc sống trước mắt mình. Kha còn tỉnh sáng để kịp buộc áo hai em lại, chắc là khi đó nước mắt tuôn trào, lòng quặn đau? Kha sẽ nhớ mãi câu nói của các em: Phải buông tay ra cho chị Kha được sống… 

Giây phút tử biệt này, sóng dữ đâu cho thời gian để mình nói lời vĩnh biệt, mà không ai còn hơi sức để nói! Người ở lại mang niềm đau trong tim, người ra đi cố giữ tâm bình tĩnh, sáng suốt để đối mặt với cái chết, không bị loạn tâm hay hoảng sợ, cho xứng với cương vị là tu sĩ, là đệ tử Phật… 

Hung tin bay về, tim đau đến nỗi dư luận không là gì hết, như hóa chai lì trước những câu mắng của bao người bàng quan
- Tu mà còn đi tắm biển? Chết là đáng kiếp! 
- Tại không tu hành nên bị mới bị chết dữ như vậy đó! 
- Làm mang tiếng Phật giáo… 

Những câu nói này vẫn không đáng buồn bằng nỗi đau mất mát. 
Cái chết không chừa ai, luôn đến bất ngờ, có đủ muôn hình vạn kiểu, không hạn cuộc tu sĩ hay thế tục. Điểm lại những cái chết của tu sĩ trong mấy thập niên gần đây, tôi thấy: Tu sĩ đi thọ giới cũng chết, làm từ thiện cũng chết, đi đường cũng chết, tắm biển cũng chết… Nhưng là tu sĩ mà bị chết ngoài đường thì bị lên án nhiều hơn. 

Vienchieu (5)Hàng ngày, chư Ni theo các ban lao động, tự chủ nguồn thực phẩm sạch hàng ngày ở thiền viện

HT.Thích Minh Cảnh, Giám đốc Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang đã giải thích

"Một số người chưa hiểu biết tận tường về Nghiệp lực nên mỗi khi thấy người tu bị tai nạn thì cho là do tu không đàng hoàng. Phê bình vậy là không đúng! 

Có những người tạo các công đức lớn, nhưng chỗ thọ thân và điều kiện sống ở đây không xứng đáng nên họ bỏ thân mạng để chuyển sang nơi cảnh giới tốt đẹp, nhận cuộc sống an lạc hơn. Hay cũng có những người làm tội ác quá lớn, cũng bị chết ngay, rời bỏ cảnh giới này để đọa vào cảnh giới khác trả nghiệp. Theo tôi, việc ra đi (chết) do bệnh tật hay tai nạn đều là một quá trình thay đổi - rũ bỏ cuộc đờinày để bước sang cuộc đời mới - căn cứ trên hành trạng và nghiệp lực của từng cá nhân”


Tôi cũng muốn kể thêm vài câu chuyện trong bản dịch của mình: 

Lúc ngài Hư Vân cùng vài tu sĩ lên núi Triều Lễ và bị lạc đường. Họ đã gặp cọp, mãng xà. Khi chú tiểuThánh An lộ vẻ hoảng sợ, thì ngài Hư Vân đã nói: “Đừng sợ, nếu số chúng ta chưa hết thì sẽ sống!”.

Như vậy có nghĩa là: Nếu ta tới số thì sẽ chết! Mà mạng đã tận, số đã hết thì không thể nói “giá như, phải chi”… để cứu vãn cuộc diện, để mong người có thể tồn sinh…. 

Ngài Mục Liên trên đường hoằng pháp đã bị ngoại đạo lăn đá hãm hại, khiến ngài chết thân thể giập nát.

Ngài là bậc đức hạnh cao tột, có thần thông, tất nhiên thừa sức để tránh né cuộc tấn công của ngoại đạo, nhưng ngài vẫn đứng yên chịu chết, vì muốn cho chúng sinh hiểu rằng: Dù là Phật hay Thánh tăng… một khi báo ứng đến đều phải nhận lãnh, không ai thoát được nhân quả

Người tu có thể hoạnh tử, có thể chết dữ giống mọi người, nhưng có một điều khác với người không tu là: Nội tâm phải thường tỉnh sáng, để lúc vong thân không mê muội, sẵn sàng đối diện và đón nhận cái chết đến. Vì tử vong là đoạn đường mà ai cũng phải bước qua. 

Còn nếu nói chết nước khó siêu, hồn sẽ bị ở mãi trong nước? Tôi xin dẫn chứng câu chuyện như sau: 

Tướng quân Lý Mật vào thời Đường phụng mệnh chinh chiến, khi bại trận ông cùng chư tướng sĩ trầm mình tuẫn tiết nơi sông Nhĩ Hải. Ông được chuyển sinh làm Thần, nhưng tất cả những người đồng chết theo ông, tùy theo nghiệp riêng mà có số vẫn theo làm thuộc hạ Tướng quân Lý Mật, có số chuyển sinhlàm cá hay các loài súc sinh khác… còn một số đến nay vẫn còn làm quỷ ở trong sông này, trải hơn ngàn năm rồi mà tuổi thọ kiếp quỷ chưa hết. Nên từ đó đến nay họ vẫn còn ở trong nước, luôn giãy giụakêu cứu, vì mỗi khi họ bơi đến bờ, thì nước lại dâng cao, nhấn chìm; khiến họ không làm sao trèo lên bờ được, đành phải ở trong dòng nước chịu đói lạnh, thống khổ, kêu rên… 


Chúng quỷ kể với Quả Tịnh (là người có khả năng giao lưu với chúng rằng): 
Hôm nay nhờ quý vị vì chúng tôi truyền Tam quy, nhờ vậy mà chúng tôi có thể ra khỏi nước. 


Chứng tỏ rằng chỉ cần hồi tâm hướng Phật, có phúc duyên quy y Tam bảo tất sẽ được thoát khổ. 

Huống chi các em đuối nước kia, ba vị là Tỳ-kheo-ni, một vị là Thức-xoa, đều đã xuất gia thọ giới, tất nhiên không thể tự giam mình trong nước mãi như mọi người lo. 

Vienchieu (4)Chấp tác - làm việc, lao động cũng là một pháp thực hành thiền trong đời sống

Nếu nói đột tử, hoạnh tử khó siêu thì tôi xin dẫn chứng câu chuyện trong Báo ứng hiện đời tập 5: 

Có một vị cư sĩ ở Vạn Phật Thành bị tai nạn xe, tử vong
Vị cư sĩ này xa người thân mấy năm nay chưa gặp lại, hôm đó là ngày trùng phùng. Ông lái xe ra phi trường đón thân nhân, trên đường về, lúc sắp đến Vạn Phật Thành thì xảy ra tai nạnthân quyến ông bị thương nhẹ, chỉ mình ông tử vong

Có người hỏi Hòa thượng Diệu Pháp
Vị cư sĩ này bỏ gia quyến ở Đài Loanmột mình đến Vạn Phật Thành công quả, tình nguyện làm giáo sư giảng dạy cho học sinh Vạn Phật Thành. Tâm ông rất tốt, nhưng vì sao lại gặp nạn chết dữ như vậy? 

Hòa thượng Diệu Pháp đáp: 
- Người này là Bồ-tát tái lai, đến đây phụ giúp sư Tuyên Hóa! Bản nguyện của ông là hộ trì Phật pháp! Nhưng ông bị hoạnh tử là do phải trả nợ oan khiên tiền kiếpđồng thời cũng muốn thông qua đây cảnh tỉnh thế gian: Mạng sống vô thường, phải tu hành tinh tấn! 

Bởi do đời quá khứ ông từng làm hại một đôi chim lớn, nên hôm nay khi ông từ phi trường về, thì đến thời điểm phải trả báo, nên ông bị vong linh hai con chim (oan gia tiền kiếp) này giương cánh ra trước kính xe che khuất tầm nhìn, khiến ông không thấy đường lái, tông vào cột, bị tử nạn! 

Thực tế thì cư sĩ này đã dự biết trước ông sẽ chết, nên đã dặn dò gia đình những điều cần, song không nói rõ ra. Ông đón người thân qua để họ có dịp tiễn đưa mình trong giây phút cuối mà thôi. 

Phàm phu chúng ta không hiểu biết thì chẳng nên buông lời phê phán, tránh tạo nghiệp khẩu xấu, phạm lỗi lớn. 


Viên Khuê kể rằng, em và Viên Bích có dự tính sẽ cùng đi chiêm bái Thánh địa Phật tích nơi Ấn Độ, nhưng Viên Bích đã nói trước những lời giống như báo điềm: 

- Chắc em không đi Ấn Độ cùng chị được. Nếu em có chuyện gì, thì chị lo cho mẹ em giùm nhé (vì mẹ Viên Bích cũng đi tu). 

Hôm hỏa táng, nhỏ Hương kể thấy lửa thiêu quan tài Viên Bích hiện hình hoa sen

Vienchieu (1)Đại chúng luôn là gia đình, ở đó mọi tương quan được xây dựng bằng đạo tình 

Tôi được biết các em vừa mất đi tính rất ngoan, tu siêng, học giỏi, sống hòa đồng với chúng. Các em ra đi để lại nhiều tiếc thương. Nhưng với tôi quan trọng không phải mình sống dài hay ngắn, ít hay nhiều, mà là những lợi ích mình đem đến cho đời. 

Sống không hổ thẹn, ra đi không luyến tiếc, đó là điều hạnh phúc nhất. Vẫn tốt hơn là mình còn sống sờ sờ, mà xa mình người ta mừng bắt chết, nghe tin mình đi vắng, người ta thở phào nhẹ nhõm, mặt hớn hở tươi vui. Còn chỉ thoáng thấy bóng mình thôi, thì mặt họ đã tối sầm ngao ngán… sống như vậy chứng tỏ là mình: Đã chết trong lòng người ngay khi còn sống, bởi mình sống toàn chỉ gây tổn thươngthiệt thòi, họa hại!… Điều này xảy ra với người thế tục thì không cần bàn, nhưng với tu sĩ thì thực là đáng trách, khi bản thân ta lâm vào tình trạng này thì không thể than oán người, mà phải tự thức tỉnh, lo chỉnh sửa tự thân cho tốt. Chứ nếu không, dù ta có chết lành, chết ở nhà, nằm trên giường thì cũng không bảo đảm là ta sẽ sinh vào cõi lành, khi tâm ta không lành. Do không lành nên mới ta gieo đau khổtổn thương cho người chung quanh. 

Có những trường hợp chết thảm, nhưng lại sinh về cõi Đâu Suất thiên hay Đao Lợi thiên vì đã hy sinhmạng mình để cúng dường Tam bảo hay cứu người, những câu chuyện này có nhiều trong Đại tạng kinh

Vienchieu (6)Tinh thần "Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực" trong thiền viện

Ni sư trụ trì Viên Chiếu nếu nhận xét khách quan, thì Ni sư đúng là bóng mát, là chỗ nương cực kỳ tốt cho Ni chúng

Ni sư sống rất hòa đồng, luôn cảm thông và quan tâm chăm lo cho chúng, cư xử tâm lýtế nhịlịch sự

Điều cần thiết cho một vị trụ trì là đức độlòng từ ái. Ni sư có đủ những đức tính này, nhờ vậy mà chúng mới tụ hội đông, vui sống an hòa dưới sự che chở của Ni sư

Hôm nay, Viên Chiếu mất bốn người trong một lúc. Ni sư là trụ trì, là sư phụ, tất nhiên ôm lấy niềm đau không nhỏ. Lại còn phải lắng nghe búa rìu dư luận phê phán tàn nhẫn không tiếc thương. Nhưng làm sao mình có thể ngăn giông bão trên trời rơi xuống? Thôi thì hãy để thiên hạ phê bình như họ muốn. Em mong rằng Sư tỷ sẽ không bệnh, không ngã quỵ (dù em mới nhận tin thôi thì đã ngã lăn quay). Em cầu mong Sư tỷ luôn khỏe, đủ sức chịu đựng, để tiếp tục độ sinh và dìu dắt hàng hậu bối thật tốt như Sư tỷ đã từng làm. 

Đầu xuân 2018 Hạnh Đoan
Theo Giác Ngộ
Thư Viện Hoa Sen

No comments:

Post a Comment