nguoiphattu.com - Năm 1974, Hoà Thượng Thiền Tâm xin từ chức Viện Trưởng Phật Học Viện Huệ Nghiêm, vào núi ẩn tu giữa hàng ngàn rắn độc. “Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải đi bộ một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới.
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, sinh năm 1924, tại làng Bình Xuân, quận Hoà Đồng, Gò Công, xuất gia từ năm 13 tuổi. Năm 1964,
Hoà Thượng là Viện Trường Sáng Lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Hoà Thượng Thích Thanh Từ, vị thiền sư nổi danh tại VN hiện nay, và Hoà Thượng Thích Bửu Huệ, lúc đó là hai vị phụ tá của Hoà Thượng Thiền Tâm.
Trong khi điều hành Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Hoà Thượng Thiền Tâm còn giảng dạy Phật pháp tại Phân Khoa Phật học Viện Đại Học Vạn Hạnh, làm Giáo thọ tại các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm, phiên dịch và trước tác nhiều kinh sách giá trị, hiện vẫn đang được dùng cho việc tu học.
- Năm 1964-1965: Hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách “Phật Học Tinh Yếu”, gồm 3 cuốn 1,2 v 3 dài trên 1,200 trang.
- Năm 1965-1966: Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển “Niệm Phật Thập Yếu” gổm 10 chương, dài gần 400 trang (kể luôn các phần bổ túc sau nầy, trên 50 trang (1979-1980).
- Năm 1966-1967, Ngài hoàn tất hai quyển kinh sách:
- Năm 1964-1965: Hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách “Phật Học Tinh Yếu”, gồm 3 cuốn 1,2 v 3 dài trên 1,200 trang.
- Năm 1965-1966: Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển “Niệm Phật Thập Yếu” gổm 10 chương, dài gần 400 trang (kể luôn các phần bổ túc sau nầy, trên 50 trang (1979-1980).
- Năm 1966-1967, Ngài hoàn tất hai quyển kinh sách:
1. Duy Thức Học Cương Yếu, gần 300 trang. Sách giảng dạy hầu hết các phần quan yếu trong Bộ Môn Duy Thức Học.
2. Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh, còn gọi là “Thiên Thủ, Thiên Nhãn, Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh,” trên 150 trang. Đây là quyển kinh Mật Tông, giảng dạy và hiển dương về oai lực của chú Đại Bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.
Năm 1974, Hoà Thượng Thiền Tâm xin từ chức Viện Trưởng Phật Học Viện Huệ Nghiêm, vào núi ẩn tu giữa hàng ngàn rắn độc. Năm 1992, nhằm ngày 14 tháng 12 dương lịch, Hoà Thượng viên tịch, thọ 68 tuổi.
Ba ngày sau, trong lễ khai mộ của ngài, mọi người hiện diện đều trông thấy một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video. . .
Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng (Tuyên Đức- Đà Lạt). Dân số nơi đây vào năm 1968, chỉ có chừng 50 mươi nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (người Việt), số còn lại là của người Thượng (dân tộc thiểu số).
Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt-Sài Gòn (tức là quốc lộ số 20), còn nhà sàn của người Thượng thì nằm sâu trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3,4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh, còn gọi là sông Đa Nhim, vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt, có đập thủy điện cao thế Đa Nhim. Chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây của Ấp, qua hướng Nam Đông-Nam của vùng Đại Ninh với một giòng nước ngọt, êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng nầy, đã từ lâu trở nên vô cùng phong phú…
“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải đi bộ một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới.
Vùng Phú An này (vào thời gian 1968) đặc biệt là chỗ của cố Hòa Thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít người lai vãng và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau.
Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…
Có đôi lúc sau khi làm vườn xong, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng. Thôi thì cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt, đi ngang qua cửa. Con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài vẫn cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất.
Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ)… Vừa bước chân xuống “đơn” (tức là cái đi-văng nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng 2 thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm. Ngó xuống, té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!
Ngài nghĩ:
- Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá.
Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi đỏ lòm ra khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại.
Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng:
- Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa.
Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
Thêm một lần khác, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú Đại bi đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm tỉnh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi – sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó. Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, ngài vừa niệm Phật vừa hỏi y ta rằng:
- Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi.
Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Cố hòa thượng biết rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình. Cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi… và y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bò ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thoòng, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):
- Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa.
Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi thì từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa.
Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn đặc biệt của miền sơn cước. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn. Hầu hết gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu.
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa Thượng ở, còn dưới mặt đất là rắn ở. Hòa Thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v… thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về – như đã có lược qua trong phần trước – là ở dưới chân giường, cầu thang… bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi).
Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi hòa thượng” các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được. Do vì thầm cảm cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa Thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử – Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa – chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư Phụ” nữa.
Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa Thượng đã tự thân kể lại cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là Đ.Đ. bổn sư Thích Hải Quang nghe:
Có lần, cố Hòa Thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất (Phương Liên) của ngài – lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng: Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng.Rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
- Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi.
Ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi. Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối. Ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, mới nghĩ: Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa? Ngài đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết.
Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa Thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v…
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: bên ngoài, trước thất của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chơn đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngài nghĩ bụng: Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Ngài hỏi:
- Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
- Mô phật, kính bạch Hòa Thượng không.
- Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
- Bạch Hòa Thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa Thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa Thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa Thượng lấy làm kỳ, nên ngài mới hỏi:
- Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa Thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu):
- Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa Thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa Thượng của chúng ta giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:
- Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
- Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây thì Hòa Thượng đã biết rõ họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
- Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
- Bạch Hòa Thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người…
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người… thì làm thinh luôn.
Cố Hòa Thượng gật đầu nói:
- Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa Thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).
Do đó nên ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn! Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà Động” (động rắn vàng).
Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy…
2. Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh, còn gọi là “Thiên Thủ, Thiên Nhãn, Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh,” trên 150 trang. Đây là quyển kinh Mật Tông, giảng dạy và hiển dương về oai lực của chú Đại Bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.
Năm 1974, Hoà Thượng Thiền Tâm xin từ chức Viện Trưởng Phật Học Viện Huệ Nghiêm, vào núi ẩn tu giữa hàng ngàn rắn độc. Năm 1992, nhằm ngày 14 tháng 12 dương lịch, Hoà Thượng viên tịch, thọ 68 tuổi.
Ba ngày sau, trong lễ khai mộ của ngài, mọi người hiện diện đều trông thấy một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video. . .
Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xã Phú Hội, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng (Tuyên Đức- Đà Lạt). Dân số nơi đây vào năm 1968, chỉ có chừng 50 mươi nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (người Việt), số còn lại là của người Thượng (dân tộc thiểu số).
Đa số nhà người Kinh thì ở gần bên quốc lộ Đà Lạt-Sài Gòn (tức là quốc lộ số 20), còn nhà sàn của người Thượng thì nằm sâu trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3,4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh, còn gọi là sông Đa Nhim, vì ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt, có đập thủy điện cao thế Đa Nhim. Chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây của Ấp, qua hướng Nam Đông-Nam của vùng Đại Ninh với một giòng nước ngọt, êm đềm, hiền hòa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đã làm cho đất đai của vùng nầy, đã từ lâu trở nên vô cùng phong phú…
“Hương Quang tịnh thất” là nơi của cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài thì phải đi bộ một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới.
Vùng Phú An này (vào thời gian 1968) đặc biệt là chỗ của cố Hòa Thượng tịnh tu, vì là nơi rừng núi, ít người lai vãng và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau.
Theo lời ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…
Có đôi lúc sau khi làm vườn xong, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng. Thôi thì cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng quy Tây, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt, đi ngang qua cửa. Con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài vẫn cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất.
Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ)… Vừa bước chân xuống “đơn” (tức là cái đi-văng nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng 2 thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm. Ngó xuống, té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!
Ngài nghĩ:
- Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá.
Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi đỏ lòm ra khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại.
Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng:
- Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa.
Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
Thêm một lần khác, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú Đại bi đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm tỉnh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi – sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình. Nó nhìn ngài, ngài nhìn nó. Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, ngài vừa niệm Phật vừa hỏi y ta rằng:
- Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi.
Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Cố hòa thượng biết rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình. Cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi… và y ta nhìn ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bò ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thoòng, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):
- Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa.
Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi thì từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa.
Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn đặc biệt của miền sơn cước. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn. Hầu hết gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu.
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa Thượng ở, còn dưới mặt đất là rắn ở. Hòa Thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v… thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về – như đã có lược qua trong phần trước – là ở dưới chân giường, cầu thang… bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đã đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi).
Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi hòa thượng” các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được. Do vì thầm cảm cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa Thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử – Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa – chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư Phụ” nữa.
Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa Thượng đã tự thân kể lại cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là Đ.Đ. bổn sư Thích Hải Quang nghe:
Có lần, cố Hòa Thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất (Phương Liên) của ngài – lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng: Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng.Rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
- Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi.
Ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi. Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối. Ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, mới nghĩ: Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa? Ngài đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết.
Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa? (Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa Thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v…
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: bên ngoài, trước thất của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chơn đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngài nghĩ bụng: Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Ngài hỏi:
- Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
- Mô phật, kính bạch Hòa Thượng không.
- Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
- Bạch Hòa Thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa Thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho ngài giật mình. Xin Hòa Thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa Thượng lấy làm kỳ, nên ngài mới hỏi:
- Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa Thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu):
- Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Hòa Thượng, cháu được 95 tuổi!!!
Cố Hòa Thượng của chúng ta giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:
- Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
- Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây thì Hòa Thượng đã biết rõ họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
- Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
- Bạch Hòa Thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người…
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người… thì làm thinh luôn.
Cố Hòa Thượng gật đầu nói:
- Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài. Hòa Thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).
Do đó nên ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn! Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà Động” (động rắn vàng).
Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chớ chưa đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy…
Ưu Bà Di Bảo Đăng
Nguồn: http://daitangkinhvietnam.org
Cho con hỏi là địa chỉ nơi Cố Lão Hoà Thượng Thích Thiện Tâm tu ở đâu v ạ ?
Dạ thưa thầy con nguyện quy y của Phật xin thầy nhận con.Con xin cảm ơn thầy
Dạ thưa Thầy ngày nay Thất của sư Cố con là Phương Liên Tịnh Xứ Mật Tịnh Đạo Tràng ở làng chùa Đại Ninh thôn Phú An xã Phú Hội Tỉnh Lâm.Đồng bây giờ số lượng đệ tử quy y và tu học với Phương Liên rất đông và nhiệt tâm và đương nhiệm viện chủ là Tôn SƯ Thích Nữ Bảo Đàn.Thầy nên lên đảnh lễ Phật và Chư Tổ tam quan sẽ cảm nhận được dự linh nhiệm tuyệt vời .Nam.Mô Phương Liên Tịnh Xứ Trúc Liên Bổn Thất Hương Nghiêm Tịnh Viện Tổ Sư Khai Sáng Viện Chủ Cố Hòa Thượng Thích Thượng Thiền Hạ Tâm .
Kính bạch Chư Tôn Đức , thưa các quý Phật tử hón hỷ bố thí cho Đại Đức con được biết hiện giờ núi đó và thất của Cô Đại Lão Hoà Thượng còn ở đó không và giờ có ai kế đăng Thất của Hoà Thượng ko . Có thể cho co xin sđt đc ko ak . Đủ duyên con xin vào chiêm bái ak . Nam mô a di đà phật Nam mô hoan hỷ bồ tát ma ha tat
No comments:
Post a Comment