Friday, February 9, 2018

'Trở về quê hương'

https://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/tro-ve-que-huong/ky-uc-tuoi-tho-3248401.html

Quê hương tôi

Tôi nhớ những buổi cùng ba dạo vườn tìm sầu riêng đem ra chợ bán, nhớ những buổi quang gánh tưới rau cho mẹ, nhớ cả những bữa cơm nóng còn nghi ngút khói.

Tôi giật mình tỉnh giấc khi trời đã lên. Ánh nắng xế trưa đem theo không khí oi bức của Sài Gòn xuyên qua cửa sổ, len lỏi vào bên trong căn phòng và đánh thức tôi dậy. Đã mười giờ sáng. Một giấc ngủ dài không đủ làm dịu đi cơn đau đầu tàn đọng lại sau một đêm quá chén. Tôi khẽ mở mắt, mặt trời đã lên cao. Mấy đứa bạn cùng phòng đã đi vắng. Chỉ còn lại mình tôi với căn phòng trống. Mở mắt nhìn lên trần nhà, giữa không gian tĩnh mịch và cô đơn, tôi lặng lẽ trầm tư suy nghĩ về cuộc sống của chính mình.
Tôi lớn lên trong một gia đình nghèo ở Bình Phước. Đây không phải là nơi tôi sinh ra, nhưng là nơi tôi gắn bó toàn bộ tuổi thơ của mình. Ba mẹ tôi đã từ bỏ cuộc sống khá giả ở đô thị Sài Gòn, về khu kinh tế mới để được ở bên cạnh chăm sóc bà nội đã già yếu và các em của ba. Tuổi thơ tôi, vì thế gắn bó luôn với mảnh đất nơi đây: quê hương của rừng và đất đỏ, nắng bụi mưa lầy.
Kinh tế gia đình tôi không khá giả, nhưng ba mẹ luôn tạo điều kiện tốt nhất để tôi học hành. Ông bà cũng là những người tri thức, hơn ai hết, ông bà hiểu được tầm quan trọng của giáo dục. Ba tôi vẫn hay nói với tôi rằng “cho dù mỗi bữa ăn ba mẹ phải giảm một ít, cho dù đôi bàn tay của ba có chai sạn thêm bao nhiêu đi nữa, ba mẹ cũng sẽ tạo điều kiện hết sức cho con, chỉ có học hành mới có thể giúp được cho con và gia đình mình sau này thôi con à”. Cũng vì vậy, ông không cho tôi được phép lên rẫy cùng ông mà dành toàn bộ thời gian để học tập. Có những ngày ba mẹ đi làm đến tối mịt mới về, đôi vai mệt mỏi rã rời, nhưng ông vẫn nhìn tôi cười, ánh mắt mệt mỏi nhưng chan đầy những yêu thương.
Năm lớp bốn, tôi là học sinh duy nhất của trường được chọn lên huyện thi học sinh giỏi. Nhưng vào thời điểm đó, trường không có điều kiện để đưa tôi đi thi và muốn gia đình hỗ trợ. Từ nhà tôi lên huyện là 30 km đường đất đỏ. Gia đình tôi không có xe máy, tôi lại không muốn ba phải bận tâm nên đã nói với trường để xin rút lui. Không ngờ chiều hôm đó ba tôi biết chuyện. Ông mắng tôi một trận to, ông bảo không có gì là không thể, khi có cơ hội để được học hỏi và khẳng định bản thân con phải nắm lấy. Nếu con làm được như vậy, cho dù có phải đạp xe chở con lên huyện thi ba cũng cảm thấy vui. Tôi ngồi nghe ông mắng mà từng giọt nước mắt khẽ rơi. Không phải vì bị ba mắng, nhưng vì tôi cảm thấy thương và tự hào về ba mình hơn bao giờ hết.
Cứ thế, tôi lớn lên trong yên bình dưới sự bảo bọc của cha mẹ. Không phụ lòng ông, tôi luôn đứng đầu trong bảng xếp hạng của trường cũng như các cuộc thi học sinh giỏi. Ngày tôi đỗ hai trường đại học danh tiếng ở Sài Gòn, ba tôi vui lắm. Ông cười, nhưng tôi thấy khóe mi ông long lanh.
Đó cũng chính là ngày mà tôi phải chính thức xa gia đình. Tôi từ giã vùng đất đỏ quê hương để khăn gói lên Sài Gòn học tập, thực hiện những hoài bão và mơ ước của mình. Tôi đã thôi không còn là chú chim bé nhỏ được bao bọc trong bàn tay cha, mà giờ phải tự cất cánh bay cao vào khoảng trời mình đã chọn. Tôi tập làm quen với cuộc sống không còn bữa cơm gia đình, không còn chén chè mát lạnh mẹ nấu cho trong những đêm thức khuya ôn bài, không còn tiếng cười của bố, không còn âm thanh quen thuộc tờ mờ sáng ba mẹ lên rẫy. Tôi quay cuồng với lịch học và công việc. Mật độ những cuộc gọi về nhà cũng giảm dần.
Rồi tôi cũng ra trường. Ngày nghe tôi bảo sẽ không về quê mà bám trụ lại Sài Gòn để xây dựng sự nghiệp, ba chỉ lặng im và chúc tôi thành công. Nhìn vào đôi mắt ông, tôi biết rằng ông buồn.
Cho đến hôm nay, gần năm năm tôi bám trụ lại thành phố này. Đây không phải là một quãng thời gian dài, nhưng cũng đủ để nhìn lại quãng đường mình đã đi qua. Tôi của hôm nay không còn được ngồi chung trong mâm cơm tối, không được cười tít mắt những lúc cả nhà quây quần, không nhổ tóc sâu cho mẹ, cũng không còn được đấm lưng cho ba. Tất cả thứ đó đã được thay thế bằng công việc, bằng kế hoạch, bằng đầu tư và bằng những cuộc nhậu thâu đêm suốt sáng. Tôi nhớ những buổi cùng ba dạo vườn tìm sầu riêng đem ra chợ bán, nhớ những buổi quang gánh tưới rau cho mẹ, nhớ cả những bữa cơm nóng còn nghi ngút khói.
Tôi uể oải ngồi dậy, trời đã lên cao hơn. Bầu trời cũng quang đãng và trong xanh hơn. Vài cơn gió khẽ len qua cửa sổ xua bớt cơn nóng oi bức. Vớ lấy chiếc điện thoại bên cạnh, tôi bấm số máy quen thuộc và khẽ nói trong vô thức: “Ba ơi, hôm nay con về thăm nhà nhé”.
Ngô Việt Khánh Hu


004-1439136500-5565-1439191428.jpg
"Tôi đã từng có một tuổi thơ như thế", đó là câu nói nhẹ nhàng, bâng quơ của tôi trong một chiều tan lớp, ngồi lặng thinh trên chuyến xe buýt về nhà, khi tôi nhìn vào đôi bàn tay mình.
Tôi sắp sửa vào năm ba đại học. Cái ngành tôi chọn, ai gặp cũng hỏi: "Mốt ra làm cái gì?". Tôi cứ cười xuề xòa thế rồi cúi đầu xin phép phải đi. Người đời có nhiều cái thắc mắc vô lý lắm, có trả lời hay không cũng vậy. Nên thôi. Tôi học ngữ văn Tây Ban Nha. Có người nói với tôi biết thêm một ngôn ngữ như có thêm một cuộc đời. Tôi tham lam. Tôi cũng muốn có nhiều cuộc đời.
"Kiếp này mày nghèo là tại kiếp trước không tu", tôi cười khẽ. Có ai trên đời này ước mình vừa sinh ra đã nghèo túng đâu. Vậy mà giờ nếu cho tôi được chọn, tôi vẫn sẽ chọn mình là một đứa trẻ nghèo lấm lem... Tôi sinh ra trong một gia đình bình dân. Ba mẹ ly hôn khi tôi vừa hơn một tuổi - cái tuổi cần lắm hơi ấm và tình thương của người mẹ. Ba trở thành người cha và cũng là người mẹ, một thân một mình chăm sóc cho ba đứa con gái đang tuổi ăn tuổi lớn. Con gái mà, đầu tóc phải gọn gàng, ừ, ba ráng ngồi gồng mình, tê chân bó cả trăm bó lá xông, khuya thồ lên cái xe đạp thồ cũ kỹ chạy ra tận chợ Cầu Muối bỏ mối cho người ta, lấy tiền về mua cho mấy đứa con gái cái kẹp tóc. Nhà tận Thủ Đức, tối nào đạp lên tới chợ Cầu Muối áo cũng ướt đẫm mồ hôi và sương đêm nhưng ba cứ đi. Mấy đứa con gái ở nhà nằm ngủ co ro, đâu biết được ba cực khổ...
Mẹ chẳng bao giờ về thăm ba và chúng tôi. Hàng xóm, họ hàng thương ba thân "gà trống nuôi con", ai có gạo góp gạo, ai có muối góp muối. Rồi chị em chúng tôi dần lớn lên, còn thân ba thì ngày càng gầy hao. Cái tuổi dậy thì của tôi ương bướng, học hành nghiêm túc từ nhỏ chẳng cần ai nhắc nhở, nhưng tính khí thì dở dở ương ương. Lúc đó, tôi vẫn còn nhỏ, chưa hiểu hết sự cực khổ của ba, cứ thế mà hỗn hào cho đúng với cái lứa tuổi của mình. Dù nghèo khó, nhưng ba vẫn cố gắng cơm ngày ba bữa cho chúng tôi, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo.
Ba chị em tôi lúc nhỏ được chọn vào đội văn nghệ nhà thiếu nhi quận, ba cố gắng sắp xếp thời gian chở chúng tôi đi sinh hoạt. Đứa nào lớn rồi thì nhà có “xe đạp đầm”, tự mà đi ba không đưa đón nữa. “Xe đạp đầm” là kiểu gọi dành cho mấy đứa nhỏ chân ngắn cũn cỡn như chị Hai tôi ngày xưa cưỡi con xe của người lớn, chống chân không tới, đạp cũng chả hết một vòng pê đan nên cứ cà nhấp cà nhấp thế mà tới nơi.
Những con dốc đường Thủ Đức đối với đứa trẻ mười mấy tuổi là cả một vấn đề. Vậy mà chị em tôi cứ đi, cứ đi. Để được ca hát, nhảy múa trên những sân khấu sáng đèn, rộn rã tiếng vỗ tay. Giống như chị em Liên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam, hằng ngày chúng cứ đợi đoàn tàu đi qua, để được vài phút đắm mình trong ánh đèn rực rỡ chiếu ra từ những toa hạng sang, từ những cửa kính sáng loáng. Mấy chị em tôi cũng vậy, cũng muốn một phút giây nào đó quên đi mình là những đứa trẻ nghèo, được trà trộn trong đám con nhà giàu, hít mùi phấn thơm tho trên người họ rồi hoang tưởng mình cũng giống như họ…
Tôi trở thành một trong những giọng hát chính của đội văn nghệ thiếu nhi quận lúc bấy giờ. Đối với những đứa trẻ cùng lứa khác, đó là cả một niềm tự hào. Và chúng muốn mời hết cả ba mẹ anh chị em cô bác họ hàng lên xem chương trình biểu diễn. Tôi thì ngược lại. Tôi chưa bao giờ muốn mời ba lên xem tôi diễn cái gì, hỏi diễn ở đâu tôi cũng trả lời qua quýt rồi thôi. Con của ba đẻ ra mà, nhìn cái cách nó đi nó đứng, nó nói nó cười, ba biết nó nghĩ gì, nên ba ít khi có mặt trong những buổi diễn của tôi. Tôi lấy làm sung sướng lắm. Trong khi cha của ai cũng ngồi dưới khán đài cổ vũ, mẹ của ai cũng quần quần áo áo đứng sẵn trong cánh gà đợi con mình hát xong bài này là nhào vô giúp con thay đồ để ra diễn bài khác, tôi lầm lũi tự mình làm tất cả mọi thứ, cũng không cần ai khích lệ.
Bàn tay của ba tôi thô kệch, đen đúa vì làm nhiều việc nặng nhọc. Những cái móng tay bị nước phèn và nhựa lá cây ăn mòn đến nỗi không mọc dài ra nổi. Bàn tay phải của ba có cái ngón trỏ bị cụt. Tôi thấy ngại khi ba xuất hiện cùng tôi ở đâu đó. Vì những suy nghĩ ích kỷ của một đứa con gái mới lớn, tôi dường như đã quên hết những lần ba đèo tôi trên chiếc xe đạp thồ, ê mông lắm nhưng vui, vì ba dành dụm tiền, giấu các chị tôi mà mua kem, mua bánh cho tôi ăn. Những trưa hè hai cha con lưỡng lự hồi lâu mới dám ghé vào một quán nước mía ven đường, gọi một ly hai cha con uống chung. Có lần nào ba qua nhà hàng xóm làm công, người ta dúi cho hai quả vải, ba đem về, hai cha con chia đôi quả vải, quả kia cho hai chị. Vải đầu mùa chua lắm, nhưng mà lúc đó sao thấy ngọt trong lòng. Nhiều kỷ niệm xúc động với ba lắm, nhưng hình như lúc đó tôi chẳng nhớ nổi cái nào, chỉ muốn mình thoát khỏi cái ánh mắt khinh khi của người đời, thoát khỏi chữ nghèo bị người ta dán vô mặt rồi suốt ngày chỉ trỏ. Đáng ghét lắm.
Một lần nọ, có người hàng xóm gọi tôi qua nhà bảo sẽ cho ít thức ăn. Tôi tò tò đi theo. Tới nơi, người phụ nữ đó trút nồi canh khổ qua đã ngả màu trộn chung với một chút canh bí xanh đã rụt rã trao cho tôi, còn chép miệng bảo: “Cũng toàn là đường, muối, bột ngọt đồ không, bỏ đi phí lắm”. Tôi cầm cái nồi canh hỗn độn đó về, lí nhí cảm ơn rồi cúi đầu thật thấp lầm lũi về nhà để không ai thấy tôi đang khóc. Nhà tôi nghèo, ừ, nhưng chúng tôi cũng là con người mà, con người thì có lòng tự trọng. Tôi không thèm ăn nồi canh đó, vậy mà ba ăn. Tôi hậm hực với ba. Ba nói: “Người ta cho mình, lấy về rồi thì phải ăn đi chớ đổ mang tội”. Ai cho đồ thừa, đồ dở tới cỡ nào ba cũng ăn. Ăn hết. Đồ ngon hơn chút xíu ba để lại cho ba đứa con gái. Chừng nào ba đứa ăn đã đời, dư lại thì ba mới ăn. Có đồ ngon hỏi ba ăn không, lúc nào ba cũng nói là ba không đói, ba ăn rồi. Vậy mà mấy đứa con gái tin. Ăn hết mấy thứ ngon, thứ bổ rồi to con lớn xác…
Tuổi thơ tôi dần trôi qua. Chị em tôi không còn sinh hoạt ở đội văn nghệ nhà thiếu nhi quận nữa vì đã lớn cả rồi. Các chị đi học rồi đi làm. Chị Hai làm cán bộ Nhà nước, chị Ba làm công ty nước ngoài, cũng có đồng ra đồng vô. Tôi còn đi học. Tôi không theo ca hát. Tôi thích ngôn ngữ hơn. Và tôi học tiếng Tây Ban Nha vì tôi thích. Cái việc dịch một cuốn sách nước ngoài ra tiếng mẹ đẻ bằng sự hiểu biết văn hóa, ngôn ngữ của mình làm tôi thấy thích thú. Người ta kể chuyện cười thì mình phải dịch sao cho người xứ mình đọc câu chuyện đó cũng phải cười, cười vì hiểu. Tôi thích vậy.
Ba không như những bậc phụ huynh của các gia đình khác, ba không bắt ép con mình học cái mình muốn, ba nói tôi muốn học gì cứ học, thiếu tiền thì ba cho. Lúc này ba lớn tuổi rồi, ai dám lấy tiền của ba nữa. Cái miệng ăn là của mình, cái con mắt đọc sách là của mình, cái đầu là của mình, muốn bồi bổ cái gì cho mình thì lấy tiền mình chứ sao lấy tiền ba?
Tôi lao vào cuộc mưu sinh tự kiếm đồng tiền từ năm lớp tám. Cho tới bây giờ, cái đầu tôi đã nhanh nhẹn hơn, biết chủ động tìm ra chỗ nào cần mình, thò tay chộp lấy cơ hội, kiếm được hai chục ngàn cũng là kiếm tiền, là đồng tiền sạch sẽ, tôi thấy tự hào vì mình nghèo nhưng không làm gì sai trái. Ba dạy tôi đó. Từ những hành động nhỏ thôi, nhưng để ý dần thì thấy đó là cả một cuộc đời đẹp, đứa nào không biết học theo thì đứa đó là đứa ngu. Tôi không đến nỗi ngu nên tôi học được từ ba rất nhiều thứ. Từ cách ăn nói đến cách cư xử. Tôi nghĩ tôi đã lớn. Những ký ức tuổi thơ cũng trở nên mờ nhạt bởi những bài học, bài tập từ trên lớp đến về nhà làm tôi không còn thời gian để nhớ về chúng nữa.
Một chiều tan lớp, như thường lệ, tôi đón chuyến xe buýt đông đúc, ồn ã để về nhà. Mưa tầm tã, lối đi trên xe buýt ướt nước, người qua kẻ lại dây nó ra làm mọi ngóc ngách trên xe cũng ướt nước theo. Ngồi trên xe, tôi ngắm nhìn đường phố qua tấm kính cửa sổ mờ mờ do lâu ngày chưa được lau chùi và do hơi nước đọng. Chiều nay trời mưa to quá. Các con phố ngập nước mưa, người đi đường ai ai cũng vội vã chạy nhanh hơn để trở về nhà. Bất chợt, trên xe buýt vang lên bản nhạc không lời “Childhood memory” của nhóm Bandari. Ai đó tặng cho ba mình bài hát này vào một chiều mưa kèm theo lời xin lỗi rằng không thể về quê thăm ba đang bệnh vì không đủ tiền. Có lẽ là sinh viên xa nhà. Tôi bỗng chạnh lòng nghĩ về ba.
Ngay lúc này đây, dưới lòng đường ngập nước, một hình ảnh gây xúc động khác làm tim tôi nghẹn lại vài giây. Nước mắt tôi tự dung tuôn ra không kiểm soát. Dưới làn mưa kia, một người cha đang đẩy bộ chiếc xe gắn máy, trên xe là đứa con gái chừng lớp năm đang nhăn nhó ra vẻ khó chịu vì xe của ba nó bị hư giữa đường. Lòng tôi thắt lại. Trước mắt tôi hiện ra hình ảnh ba tôi đẩy chiếc xe đạp thồ cà tàng dưới trời mưa như trút, nước ngập qua đầu gối nên ba đạp xe không nổi. Cái đứa ngồi chễm chệ trên xe mặt nhăn nhó là tôi, miệng lầm bầm. Ba vẫn im lặng đẩy chiếc xe qua khỏi chỗ ngập rồi leo lên xe chở tôi đi tiếp, lúc đó tôi vẫn còn khó chịu… Tôi òa khóc, như một đứa trẻ. Tôi đã làm gì vậy chứ? Đó là ba của tôi mà? Người ba đã không quản khó nhọc, ngày leo cây hái lá xông về bó, đêm hôm đi bỏ mối lấy tiền về cho tôi cơm no áo ấm, không dám đi bước nữa vì sợ chúng tôi không được mẹ kế thương yêu, sao tôi dám đối xử với ba mình như vậy mà chẳng mảy may nhớ ra?
Cũng không có lời xin lỗi đến ba, tôi cứ im như thóc mà hoang tưởng mình là người có ăn có học đã lớn đã khôn. Bao nhiêu ký ức tuổi thơ tôi ùa về, ba chọc tôi cười bằng cái ngón trỏ cụt của ba, ba chở chị em tôi trên chiếc xe đạp ngày xưa cười cười nói nói, có bữa chị Hai tôi còn lọt đất vì yên xe không đủ chỗ ngồi, ba ôm tôi ngủ những ngày nhỏ tôi không có mẹ cạnh bên, ba đem bánh trái về cho chị em tôi, cả nhà cùng nhau ăn bữa cơm đạm bạc mà đầy tiếng cười. Ba so bàn tay ba với bàn tay tôi, hai bàn tay ba chín ngón còn tôi thì mười… Tôi đưa mắt nhìn hai bàn tay mình nhẵn nhụi, nấc lên từng tiếng.
Chiếc xe dừng lại, tôi chạy thật nhanh về nhà. Ba vẫn ngồi như thế, một mình trước hiên nhà, chốc chốc tay lại đẩy gọng kính lên để đọc cho rõ mấy dòng chữ nhỏ xíu trong tờ báo trước mặt. Tôi đứng ngoài cổng nhìn ba thật lâu rồi mới vào nhà. Lau sạch nước mắt lấm lem trên má, tôi nhìn ba cười: “Ba, con xin lỗi nghen, ba đừng có giận con gì nghen ba, nhà mình nghèo mà vui ba ha”.
Trâm Anh

Cảm ơn bố mẹ

Khi cuộc sống gia đình đã có nhiều thay đổi tích cực, chúng tôi mới có thể nghiệm lại những gì đã qua đi trong suốt dòng chảy cuộc sống gia đình. Cảm ơn bố mẹ đã giúp chúng tôi hiểu biết và yêu thương mọi người.

Gia đình tôi rời miền Trung vào Nam những năm 1980, ra đi để mong thoát khỏi sự cơ cực đã đeo bám bao đời cái vùng đất nghèo nàn và cằn cỗi ấy. Bố tôi là sĩ quan phục viên, nên được ưu đãi cấp một căn hộ trong khu chung cư cũ từng là khu gia binh chế độ miền Nam Việt Nam trước đây. Nói căn hộ, chứ thực ra đó là căn phòng nhỏ hẹp, cuộc sống chỉ trông chờ vào những việc làm chân tay của bố mẹ để nuôi 6 miệng ăn gia đình tôi khi ấy. Cái nghèo khó chung của thời kỳ bao cấp, bao trùm lên toàn bộ khu tập thể, cái ao rau muống um tùm dưới chân khu nhà chính là nơi mọi người thường xuyên hái về để chế biến hai món canh, luộc cho bữa ăn hàng ngày. Bố mẹ tôi hay kể như vậy, vì khi tôi lớn lên thì tất cả đã không còn như cũ nữa, nhưng tôi hiểu cái khó khăn của một đời người, nó chưa bao giờ hết được đặc tả trên gương mặt bố mẹ tôi - những vết hằn tôi đã thấy gần 30 năm nay rồi.
Sinh ra từ trong đói nghèo, ông nội tôi mất chỉ có mảnh chiếu cuốn vào rồi chôn cất, như thế đã may cho một gia đình nghèo đội sổ địa phương như nhà ông bà nội tôi. Gần 70 năm cuộc đời, không có cực khổ nào mà bố tôi chưa từng trải qua, hoàn cảnh đã trui rèn nên tính cách của bố tôi - ông dễ đồng cảm và luôn đau đáu với mọi nỗi đau của nhân sinh. Suốt cuộc đời, ông đã giáo dục chúng tôi bằng những hành động và sự chia sẻ đầy lạc quan của mình, ông dạy chúng tôi biết yêu thương và trắc ẩn trước những hoàn cảnh còn khốn khó hơn mình. Chúng tôi đã đi từ vô thức tới ý thức bởi những lời dạy dỗ của ông, những giá trị trong sáng cứ thế mà thấm đẫm vào trí óc cho đến khi chúng tôi trưởng thành. Ông luôn dành cho chúng tôi sự tin tưởng và lòng bao dung trọn vẹn nhất của một người cha, luôn nâng đỡ chúng tôi trước mọi khó khăn chúng tôi gặp phải bằng sự lạc quan lạ lùng.
Mẹ tôi, người phụ nữ được gã cho bố tôi sau một tuần quen nhau, đúng ra là mẹ đã không có nhiều lựa chọn cho mình khi ấy. Nếu được lựa chọn, có lẽ mẹ tôi sẽ theo sự sắp đặt của tổ chức cho đi học và trở thành một hạt giống đỏ cũng nên? Và mẹ trở thành một nữ trí thức sáng giá phục vụ cho quê hương sau này? Mẹ là một trong số ít các thanh niên của địa phương khi ấy nằm trong diện được lựa chọn. Nhưng số mệnh không thể đổi, bà đã gắn cuộc đời với bố tôi tới hôm nay, gần 50 năm, niềm vui có nhiều, buồn khổ và cô đơn cũng lắm, có lẽ đức hạnh truyền thống của một người phụ nữ miền Trung đã giúp bà sống trọn vẹn đến vậy.
Sau khi cưới, bố sang Lào chiến đấu, mẹ một tay chăm bà nội và ông anh của tôi, sự cô đơn đằng đẵng của một người phụ nữ trẻ xa chồng dường như là sự cô đơn đến túng quẫn cho tinh thần nhất. Nó pha lẫn cả sự bi ai với phận của người con dâu với mẹ chồng, nhiều đắng cay mẹ tôi cũng chịu, lời ca thán không biết tỏ cùng ai, chỉ biết tự động viên, cần mẫn làm để nuôi gia đình. Cũng như bố tôi, cuộc đời mẹ niềm vui ít hơn nỗi buồn, thong dong được mấy gang tấc không đủ khỏa lấp sự vất vả cả đời, lẽ vì thế nên mẹ rất hiểu những con người đã sống và lớn lên trong nỗi cơ cầu.
Là người phụ nữ trong gia đình, cả cuộc đời hầu như tâm lực của bà chỉ dành cho chồng, con và giữ gìn hạnh phúc trọn vẹn, sự cống hiến lặng lẽ của bà để nuôi chúng tôi khôn lớn. Tất cả đổi lại chính là chi chít vết nhăn nheo trên khóe mắt và đôi tay người phụ nữ ấy cùng sự biết ơn vô hạn của cha con chúng tôi đối với bà. Bà đã chấp nhận là người phụ nữ trong gia đình hơn là xây dựng thành tựu và cống hiến cho xã hội.
Anh em chúng tôi cứ được nuôi dạy như vậy và lớn lên, đến khi cuộc sống gia đình đã có nhiều thay đổi tích cực, chúng tôi mới có thể nghiệm lại những gì đã qua đi trong suốt dòng chảy cuộc sống gia đình từ ấy tới giờ. Thuở nhỏ, tôi từng hỏi bố là vì sao được nhà nước ưu đãi và thăng tiến công việc mà bố không chọn, lại bỏ hết để đưa gia đình vào Nam lập nghiệp, ông chỉ lắc đầu và cười bỏ lửng... Sau này tôi hiểu, đó không phải là mục tiêu cuộc sống của ông, ông coi thường chúng, mà nếu vậy thì có lẽ anh em chúng tôi đã khác đi rồi, sa đọa vì đồng tiền, có thể lắm chứ!
Những đứa con luôn thầm cảm ơn ông bà vì những năm tháng ấy của cuộc đời đã làm cho chúng tôi. Hành động và thái độ sống của chúng tôi thì ông bà cũng hiểu. Chúng tôi có thể không tốt đẹp như thế, nhưng đã sống xứng đáng với với phẩm giá của ông bà. Bài viết này xem như một lần nữa xin được cảm ơn bố mẹ đã sinh ra chúng tôi, cho chúng tôi là người có hiểu biết và yêu thương mọi người.
Nguyễn Quốc Minh


Ai cũng có một tuổi thơ được xem là quá khứ, một phần kỷ niệm hay những gì gợi nhớ thương trong tâm hồn. Tuổi thơ của tôi ngọt ngào như dòng suối mát, nhưng cũng hung hăng như một con sông mùa lũ. Đó là một tuổi thơ không bình yên, nhưng cũng đủ mơ màng để in dấu trong sâu thẳm tâm hồn tôi.
Ngày nhỏ, tôi là một con bé còi cọc, ốm yếu. Nhà tôi nghèo, ông bà nội và bố mẹ chắt chiu cho đứa cháu nội đầu tiên những miếng ăn ngon nhất, nhưng cũng không đủ cho tôi phổng phao lên được. Ngày ấy, hình ảnh của tôi là một con bé gầy còm, trán dồ, da cháy nắng chạy nhảy la hét cả ngày, chưa đến tối mà đã lăn ra ngủ. Vì tôi nghịch ngợm nên ngay từ nhỏ đã gặp phải nhiều tai nạn, có những lần tưởng như không thể sống được, thế mà tôi vẫn sống. Tôi hiểu đó là nhờ sự che chở của rất nhiều người xung quanh và cả những "thế lực siêu nhiên" mà tôi không thể nhìn thấy, cùng với nụ cười may mắn của số phận mang lại.
Nơi tôi sinh ra là một miền quê như bao miền quê khác của đất nước Việt Nam. Mái đình cổ cũ kỹ, mốc meo, trước sân đầy lá rụng. Đến giờ, tôi vẫn ngước lên nhìn cây đa cổ thụ chắn ngang cổng làng để thấy mình thật nhỏ bé. Tôi nhớ ngôi nhà ba gian với những cột tròn trắng tinh, những cửa sổ trổ xanh biếc về phía Tây, nơi có thể nhìn thấy ánh đỏ cuối cùng của ngày mặt trời lặn, đẹp rực rỡ. Tôi lại nhớ đến "Tờ hoa" của Nguyễn Tuân với câu chuyện hoa hồng xanh "một thứ hoa hồng xanh biếc vuông vắn", mà thực chất là ô cửa nhỏ nhìn ra cả thế giới đẹp đẽ bên ngoài.
Tôi lại nhớ bờ giếng sát gốc dừa vẫn thường tắm một mình sau khi chạy nhảy đẫm mồ hôi và ngước cổ nhìn cây dừa lấp loáng trong ánh trăng. Lúc đó trong đầu tôi thoáng hiện lên một suy nghĩ trẻ con vu vơ, mong lớn nhanh để có thể trèo tít lên ngọn dừa giống bố. Tiếc là tôi chưa kịp lớn để leo lên ngọn dừa thì nó lại bị chặt mất. Người bạn "ra đi" làm tôi khóc một đêm sưng cả mắt. Cảnh vật tuy thay đổi nhiều, nhà cũng xây lại khác trước, nhưng tôi vẫn nhớ gốc dừa đứng ở đâu. Cây dừa ra đi chỉ còn lại bờ giếng hoen rêu, nước mùa này đang cạn nằm lẻ loi như nói rằng "tôi vẫn cô đơn".
Trong suy nghĩ của tôi, tôi cố nghiêng đầu nhìn qua những rặng cây tu hú, lá nhuộm đỏ màu của bụi đường, gốc đinh lăng nhỏ khép mình lặng lẽ, cây mít già xù xì ngủ ngon lành trong một góc vườn. Tôi cố tìm lại cái hàng rào bao quanh mỏng manh có một lỗ thủng mà hồi bé tôi bò qua trốn, để được đi chơi trong những ngày hè nắng. Tôi gọi tất cả ký ức trong tim là kỷ niệm, những kỷ niệm nhớ mãi và luôn khắc ghi trong tâm trí tôi.
Hàng xóm của tôi là lũ con trai đen thui, nghịch ngợm nhưng lại rất ngố. Tôi đá bóng, trèo cây và thậm chí đánh nhau với chúng, rồi lại về bày đồ hàng chơi một mình. Tôi nhớ những lời cằn nhằn của bà nội về những cái áo lấm lem vết bẩn, những vết thương trầy trụa rớm máu sau trận đánh nhau. Tôi nhớ cả những lần trong bệnh viện, cứ nhìn thấy bóng áo trắng là tôi lại khóc thét lên, nỗi sợ ám ảnh cả trong giấc mơ, khiến cho giấc ngủ tôi thêm quằn quại.
Bây giờ tóc tôi đã khá dài, nhưng vẫn nhớ những ngày tóc ngắn cũn cỡn theo chân bọn con trai chạy khắp xóm, chân tay không lúc nào không có vết xước, chỗ nào cũng thấy sẹo. Chính vì vậy nên tôi chẳng thích (mà cũng chẳng dám) mặc váy ngắn ra đường. Mái tóc ngắn và cái tính ngang ngược, cộng với khuôn mặt đen nhẻm khiến ai cũng nghĩ tôi là con trai. Ngày ấy đã xa lắm rồi, xa như chính tuổi thơ của tôi vậy.
Dư âm của tuổi thơ tôi vẫn còn mãi. Giờ đây tôi thích chạy nhảy hơn là ngồi một chỗ may vá thêu thùa, thích đi giày thể thao hơn là những đôi giày búp bê xinh đẹp, thích mặc những cái áo rộng thùng thình hơn là những cái áo chiết eo. Cuộc sống cứ tiếp diễn và bố mẹ tôi không ngớt than phiền về sự cẩu thả của tôi, về những món ăn mặn chát, khét lẹt, về chuyện suốt ngày làm vỡ bát đĩa... nhưng tôi chẳng thể làm khác được.
Nhiều khi tôi ước mình là con trai để bố mẹ không cần phải lo lắng nữa. Tôi có mạnh mẽ đến đâu thì vẫn chỉ là một đứa con gái, bố mẹ tôi lo lắng cho cô con gái bé bỏng yếu đuối của mình biết nhường nào. Tôi không muốn hai người buồn nên đã tập đi đứng, nói năng nữ tính hơn. Cũng vì không muốn một người nữa buồn nên tôi đã học thêu thùa, khâu vá, nấu nướng cho ra dáng thiếu nữ. Tôi đã thay đổi, nhưng ký ức về một ước mơ không thành ngày xưa vẫn vẫy gọi, thúc giục, chính vì thế đôi sự dịu dàng của tôi vẫn phảng phất chút bướng bỉnh và ngang ngược. Chẳng thế mà có người bảo tôi là đa phong cách.
Tôi đã từng bước qua những đoạn đường bằng phẳng, vui tươi nhất của mình và cũng không tránh khỏi những khúc quanh, ngã rẽ chông gai. Tôi biết mình vẫn chưa đi hết cuộc đời của một con người và sẽ còn nhiều điều đang đợi tôi phía trước. Tôi cảm thấy mình vừa mạnh mẽ, lại vừa yếu đuối, tôi biết mình không phải là một con búp bê không khóc, không cười, mà cũng có một tâm hồn, một suy nghĩ đa sầu đa cảm như ai.
Nếu tuổi thơ của tôi có hình hài cụ thể, tôi sẽ gặp nó để nói lời cảm ơn. Cảm ơn những năm tháng gian khổ, nhưng ngọt ngào, mang cho tôi một tâm hồn tuổi hai mươi biết yêu và biết sống. Cảm ơn vì đã cho tôi một điểm tựa để tìm về mỗi khi mệt mỏi trong cuộc sống. Hơn ai hết, tôi hiểu rằng tuổi thơ dù là những tháng ngày bình yên hay sóng gió nhất cũng đáng trân trọng như bất kỳ quãng đời nào của một con người!
Phạm Thị Hà
Từ ngày 13/7 đến ngày 9/8, Báo điện tử VnExpress phối hợp cùng Công ty TNHH Đầu tư Phúc Khang Sen Việt L.A tổ chức cuộc thi "Trở về quê hương". Bài dự thi là những chia sẻ về cảm xúc, ký ức, kỷ niệm ngọt ngào về quê hương. Cuối chương trình, ban tổ chức sẽ chọn ra 4 giải thưởng chung cuộc: một giải nhất (20 triệu đồng), một giải nhì (10 triệu đồng), một giải ba (5 triệu đồng) và một giải trị giá 5 triệu đồng do chính độc giả bình chọn. Độc giả gửi bài dự thi tại đây.

No comments:

Post a Comment