Tuesday, March 28, 2017

LÁI THIÊU

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGƯỜI HOA LÁI THIÊU
NGƯỜI Hoa đã đến đất Bình Dương (xưa thuộc huyện Bình An) cư trú từ rất lâu. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí phần huyện Bình An có viết::“năm Thiệu Trị thứ 6 (tức vào năm 1846) lại chia tổng Bình Thổ đặt tổng bình Lâm, nay lãnh 6 tổng, 58 xã, thôn, ấp, 2 bang người Thanh…”. Dù lúc đầu số lượng người Hoa trên vùng đất huyện Bình An có thể còn rất ít nhưng chắc chắn lúc bấy giờ người Hoa đã có mặt ở Lái Thiêu. Bởi vì Lái thiêu là nơi có vị trí địa lý rất thuận tiện cho việc làm ăn buôn bán, nơi có hệ thống giao thông thuận lợi vừa đường bộ vừa đường thủy, nhất là mạng lưới đường thủy với dòng chảy sông Sài Gòn hầu như nối liền với cả vùng đất phương Nam sang tận Campuchia. Vì lẽ đó, có thể Lái Thiêu đã thu hút người Hoa sớm đến tụ cư cùng với người Việt. Đó chỉ là sự suy luận còn số lượng người Hoa ở Lái Thiêu lúc đó có bao nhiêu thì không có cứ liệu xác thực.
Người Hoa có tài buôn bán rất giỏi nên điểm đến của họ phải là nơi thuận tiện giao thông hoặc thuận tiện giao thương buôn bán, Lái Thiêu chính là nơi lý tưởng của họ. Ngay đến tên gọi Lái Thiêu đã cho thấy có sự dính dáng tới nghề buôn bán với từ “Lái” (lái buôn, thương lái). Câu chuyện truyền rằng:
trước kia có một thương lái làm ăn thua lỗ, quá tuyệt vọng nên đã tự thiêu,(có người cho là ông lái gốm họ Huỳnh thiêu nhà vì say rượu) cho nên có địa danh Lái Thiêu. nhưng theo tác giả bài Chợ Lái Thiêu thời thạnh mậu – thì câu chuyện lại theo hướng khác. Đó là một ông lái tên Theo tự bỏ tiền mua tre lá dựng lên một dãy trại để các thương lái tránh mưa nắng khi cất hàng lên bán, dần dần ngày càng đông trở thành chợ, gọi là chợ Lái Theo. người bên Phú Long nhóm chợ thưa thớt bèn cho người thiêu rụi chợ Lái Theo, sao đó người Tân Thới cất lại chợ trên nền chợ bị thiêu, từ đó gọi là chợ Lái Thiêu. Những câu chuyện trên đều không có cứ liệu hoặc một di tích nào gọi là xác thực.
nhưng tên gọi Lái Thiêu dẫu sau cũng có liên quan đến quá trình hình thành một trung tâm mua bán sầm uất và những thương lái đến từ Trung Hoa.
Để xác định thời gian người Hoa đến một vùng đất nào đó, người ta thường căn cứ vào thời gian xây dựng các cơ sở tín ngưỡng của họ. Dù không phải là tuyệt đối chính xác nhưng cũng là một căn cứ tương đối xác thực. Bởi vì, các lưu dân người Hoa luôn mang nặng tư tưởng triết học Trung Hoa với chủ nghĩa Nhất nguyên vạn hữu thần 一 原 萬 有 神 , là những di dân phải trải qua một hành trình gian nan mới đến được vùng đất mới, chắc chắc họ không tránh khỏi việc bám víu vào thần linh, cầu khấn thần linh bảo hộ cho mình. Do đó khi đến được nơi họ an cư thì không bao giờ họ quên việc lập cơ sở thờ tự vị linh thần nào mà họ tôn sùng. Đặc điểm tín ngưỡng của người Hoa ở Bình Dương nói chung, trong đó có Lái Thiêu, là tôn sùng Thiên Hậu Thánh Mẫu, một vị thần bảo hộ người đi biển.
Những người Hoa lớn tuổi ở Lái Thiêu cho biết, ngoài hai miểu thờ Thiên Hậu kể trên còn có Quan Đế miếu 關 帝 廟 thờ Quan Công, cũng là ngôi miếu được lập gần với thời gian lập Thiên Hậu cung. Thực tế ghi nhận được trên chuông đồng của Quan Đế miếu có khắc năm Bính Tuất. Như vậy tức là năm Bính Tuất 1886.
Số người Hoa ban đầu đến Lái Thiêu chủ yếu là buôn bán. Có người đến bắt đầu từ những gánh hàng rong, gánh tàu hủ dạo và một chiếc ghe thương hồ trên sông nước…
như ông nội của ông Trần Chánh (người Triều châu nay đã 74 tuổi) tên là Trần Hòa sang định cư khoảng năm 1890, buôn hàng rong tích lũy dần dần lập tiệm buôn bán đồ gốm với bảng hiệu Trần Hòa Ký 陳 和 記.
Như ông nội của bà Quan (người Quảng Đông nay đã 84 tuổi) họ Quan sang định cư cũng vào khoảng 1890, dần dần lập tiệm bán tạp hóa với bảng hiệu Diệu xương Long 耀 昌 隆 ngay tại chợ Lái Thiêu.
Như ông sơ ngoại họ Trần (người Quảng Đông được cho là người lập miếu Bà Phú Tân Hội) của ông Nguyễn Hòa Khôi nghe nói cũng là người buôn bán.
như ông cố của Admin họ HUỲNH( người quảng đông, chủ lò đường Huỳnh Lập cũng định cư tại lái thiêu khoảng năm 1900)
Như vậy có thể nói, cùng với người Việt, người Hoa đến Lái Thiêu góp phần phát triển vùng đất này trở thành một trung tâm thương mại sầm uất. Điều này đã được minh chứng rất rõ khi Lái Thiêu đến đầu thế kỷ XX đã được đặt làm “thương chính” bên cạnh các thương chính như Thủ Dầu Một và Búng.
Với vị trí khá thuận lợi Lái Thiêu trở thành một chợ đầu mối thu hút thương lái từ khắp nơi đổ về. Trên bờ là các vựa hàng hóa từng dãy san sát nhau như vựa cá, vựa đồ gốm, vựa tranh kiếng, vựa vải, vựa giấy hút, thuốc rê…
dưới bến “Ghe chở cá đồng đậu quanh hai vựa cá, cất cá xong là lui ghe về liền để kịp chở chuyến cá sau lên bán. Còn có không ít ghe chuối, ghe xoài, dừa, ốc gạo miệt Cái Bè, Cao Lãnh, Bến Tre…bán xong còn đậu lại vài ngày chờ mua đủ hàng như tranh thờ, lu khạp, chậu bông, chén đĩa, dầu phộng,đường tán, hoặc bàn ghế, đồ thờ bằng gỗ, đặc sản của Lái Thiêu. Ban đêm trời trong gió mát, dưới bến ghe thuyền Lục tỉnh đậu kề nhau bập bềnh trên sông nước…” Trong cảnh buôn bán tấp nập của Lái Thiêu những thập niên đầu thế kỷ XX, những người lớn tuổi ngày nay vẫn còn nhớ tên nhiều cửa hàng, cửa hiệu, vựa, chành của người Hoa như các tiệm nước: lò đường ông huỳnh lập, chú Hưởng (Hưởng Ký nay vẫn còn), chú Xây, tiệm nước Duyệt Lai, tiệm chạp phô Thận xương, chạp phô Diệu xương Long, vựa gạo Quảng Nam Hòa của người Quảng Đông; vựa gạo Vũ Thành Long, tiệm cà phê chú Xắm, tiệm chụp hình Tân Quang (nay vẫn còn), tiệm đồ gỗ Trì Tòng Nguyên, tiệm bánh pía Ngô Vĩnh Thuận của người Triều Châu ; tiệm kiếng Nguyên Thạnh, tiệm kiếng Thuận Hòa của ông Bang Xiểu (Bang trưởng phước Kiến); tiệm trồng răng thượng Hải người Hồ Bắc, tiệm thuốc Bắc Vĩnh nhơn đường,Trịnh Xuân đường, Tăng Thọ đường của người Hẹ…còn rất nhiều cửa hiệu của người Hoa không thể nhớ hết được.
Ngoài ra còn có các vựa chén của người Hoa như Trần Hòa Ký, hồng Luân Thái, phước Dũ hồng, Chấn Nguyên, Hiệp Thành Chành, Tân Đức Kiến…tọa lạc trong những dãy nhà mười mấy căn. Ở Lái Thiêu lúc bấy giờ có bà Mại rất giàu, có nhiều căn phố cho thuê, nghe nói bà là người gốc Triều Châu họ Trì.
Lái Thiêu được cho là một trong ba trung tâm gốm ở Bình Dương cùng với Chánh Nghĩa và Tân phước Khánh, nhưng nghề gốm ở Lái Thiêu được hình thành muộn so với Chánh Nghĩa (thuộc Phú cường xưa) và Tân phước Khánh. Nghề gốm ở Bình Dương gắn liền với sự hình thành và phát triển của người Hoa ở Bình Dương trong đó có Lái Thiêu. Thuở ban đầu Lái Thiêu chỉ đóng vai trò là chợ đầu mối, là “đầu ra” của đồ gốm dân dụng được sản xuất chủ yếu ở Phú cường nay thuộc phường Chánh Nghĩa thị xã Thủ Dầu Một) và Tân phước Khánh.
Điều này khớp với tư liệu trong Địa chí Thủ Dầu Một năm 1910 “ cả tỉnh có 40 lò gốm, 5 lò ở An Thạnh (Búng), 8 lò ở hưng Định (Búng), 1 lò ở Tân Thới (Lái Thiêu), 14 lò ở Phú cường , 3 lò ở Bình Chuẩn, 9 lò ở Tân Khánh”. như vậy, cho đến năm 1910 ở Lái Thiêu chỉ có 1 lò gốm (trong khi ở Phú cường có 14 lò, Tân Khánh 9 lò).
Lúc bấy giờ nếu nói đến sản phẩm gốm Lái Thiêu thì chỉ có một lò duy nhất trong thời điểm đó, còn tất cả đều là xuất phẩm của các nơi khác được tập kết về Lái Thiêu trong đó có làng gốm Chánh Nghĩa (Phú cường xưa) ít người biết đến. Lái Thiêu lúc bấy giờ đóng vai trò là một thương hiệu đại diện cho gốm Bình dương, là đầu mối đem hàng gốm của Bình dương đi đến khắp Nam kỳ Lục tỉnh sang tận Campuchia. Có thể nói gốm Lái Thiêu thực thụ chỉ xuất phẩm nhiều từ sau năm 1910, cụ thể từ khoảng các thập
niên 20 – 30 của thế kỷ XX và thịnh hành nhất là vào các thập niên 1940 - 1950, khi những người làm gốm tựu về đây lập lò sản xuất ngày càng nhiều.
Trong đó có những chủ lò từ Phú Cường ,từ Tân Khánh, từ An Thạnh…tỏa xuống Lái Thiêu, và cũng có một số người từ Trung Quốc di cư sang cùng với nghề gốm vào khoảng thập niên đầu thế kỷ XX trụ lại Lái Thiêu lập nghiệp, và những cuộc di dân tiếp theo kéo dài đến những năm 1948 – 1949 mới chấm dứt sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời. Số lượng người Hoa ở Lái Thiêu cũng tăng dần qua thời gian. Không có con số cụ thể
Vào khoảng vài thập niên đầu thế kỷ XX, người Hoa ở Lái Thiêu đã có một số lượng đáng kể, điều đó thể hiện ở việc mỗi nhóm phương ngữ đều thành lập bang như bang Quảng Đông, bang Triều Châu (Tiều), bang phước Kiến và bang Khách Gia (Hẹ). Ở Lái Thiêu lúc bấy giờ người Quảng Đông,Triều Châu,phước Kiến là đông nhất, người Hẹ rất ít và thường hợp cùng với một vài hộ người Hải Nam,người Hồ Bắc. Họ sinh hoạt theo từng bang, đứng đầu mỗi bang là một vị Bang trưởng.
Họ chỉ biết ở Lái Thiêu đã có các bang theo từng nhóm phương ngữ và một vài vị bang trưởng vào khoảng từ thập niên 30 – 40 của thế kỷ XX cho đến trước năm 1975.
Đó là các vị: Bang Thím (họ Lý), Bang Che (Hoắc Nhuận Che), Bang Chánh, Bang Chỉnh… của bang Quảng Đông; Bang Cố, Bang Xiểu…bang phước Kiến và các Bang trưởng bang Triều Châu là Bang Dìu Xìu (Nhơn Thọ), Bang Tửng (Trì Phụng Sanh), Bang Trì Đình, Bang Tân Quang…Bang trưởng là người đóng vai trò đại diện cho cộng đồng trong quan hệ xã hội, quan hệ với chính quyền, liên kết cộng đồng giúp đỡ nhau trong việc làm ăn sinh sống, trong sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục tập quán, trong giáo dục… để giữ gìn truyền thống cố hương và cùng nhau phát triển trên quê hương thứ hai. Đó là việc họ chung tay góp sức xây dựng, tôn tạo các cơ sở tín ngưỡng như Thiên Hậu cung, Quan Đế miếu; thành lập các trường học dạy tiếng Hoa cho con em trong mỗi cộng đồng ngôn ngữ.
Khoảng những năm đầu thập niên 40 thế kỷ XX, ở Lái Thiêu trong mỗi nhóm phương ngữ đều có trường học riêng: người Quảng Đông có trường Dục Tài (Dục Tài học hiệu 育才學 校) dạy ngôn ngữ Quảng Đông, người Triều Châu có trường Triều Quang (Triều Quang học hiệu 潮 光 學 校) và trường Dục Anh (Dục Anh học hiệu 育 英 學 校) của người phước Kiến cùng dạy ngôn ngữ phổ thông Trung Hoa. Đến năm 1969 con em cả 4 bang đều tập trung học tại trường Dục Anh cho đến năm 1975, các trường Triều Quang và Dục Tài không còn hoạt động.
Những người Hoa đến Lái Thiêu sinh cơ lập nghiệp cho đến tuổi về chiều họ lần lượt nằm lại trên đất Lái Thiêu.
Kể từ sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, bà con người Hoa ở Bình dương nói chung và người Hoa ở Lái Thiêu đã có một phần đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ở Bình dương nói
chung và Lái Thiêu đa phần người Hoa hoạt động kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, dịch vụ và sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Nhất là từ khi Đảng ta chủ trương đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,góp phần phát triển kinh tế đóng góp vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ở Lái Thiêu có nhiều doanh nghiệp, doanh nhân người Hoa thành công trên thương trường
Theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta, từ sau năm 1975 chế độ Bang của người Hoa không còn tồn tại thay vào đó là các Hội người hoa. Hội người Hoa ở Lái Thiêu tạm thời hoạt động đóng vai trò liên kết cộng đồng trong sinh hoạt tín ngưỡng: Thiên Hậu cung và Quan Đế miếu vẫn thường xuyên được tôn tạo, cúng viếng; trong việc giữ gìn tiếng nói của dân tộc: trường Dục Anh vẫn tiếp tục dạy và học tiếng Hoa; trong cúng viếng tôn tạo nghĩa trang:
các nghĩa trang vẫn liên tục đón nhận những người con của cộng đồng về với đất.
Đến năm 1999, Hội người Hoa Lái Thiêu chính thức trở thành Ban Liên lạc người Hoa ở Lái Thiêu theo Quyết định thành lập của Nhà nước ngày 05/ 11/1999. Đây là một tổ chức xã hội, Ban chấp hành gồm có 21 vị, Ban thường trực 05 vị và 04 Ban trực thuộc với 127 hội viên. Ban Liên lạc xây dựng nội quy, quy chế hoạt động rõ ràng. Từ khi thành lập đến nay Ban liên lạc người Hoa Lái Thiêu đã tổ chức hai kỳ Đại hội, người được tín nhiệm bầu làm Trưởng Ban liên tục qua cả hai nhiệm kỳ là ông vương Phẩm (Bầu Thiếu), một trong các doanh nhân thành công ở Lái Thiêu. Ban liên lạc người Hoa Lái Thiêu đã phát huy tốt vai trò của mình trong việc vận động bà con người Hoa chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có nhiều đóng góp cho xã hội như trong các hoạt động từ thiện, phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình thương,nhà đại đoàn kết…
Cộng đồng người Hoa ở Lái Thiêu đã có quá trình hình thành và phát triển từ rất lâu đời. Cùng với người Việt, họ đã chung vai góp sức xây dựng Lái Thiêu nói riêng và tỉnh Bình Dương nói chung trở nên sung túc như ngày nay. Lái Thiêu - Bình Dương hôm nay đã không còn là đất khách quê người như quan niệm của thế hệ người Hoa thuở ban đầu đến khai cơ lập nghiệp, mà Lái Thiêu – Bình dương đã là quê hương, là nơi sinh trưởng của hầu hết người Hoa ở đây dù tổ tiên của họ không phải ở nơi này. Người Hoa ở Bình Dương nói chung hiện tại đang ngày càng gắn bó, hòa hợp vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Họ đang sống và làm việc trong một môi trường xã hội đoàn kết, bình đẳng, hòa hợp, ổn định và phát triển

+
Related image

Image result for trường tiểu học tân phước khánh a

Related image

Image result for quán cà phê đường lên núi bửu long

Trước đây, phường Chánh Nghĩa có tới gần 500 lò gốm sứ, bây giờ chỉ lác đác vài cơ sở hoạt động cầm chừng. Chị Trần Thị Ngọc - nhà ở thị trấn Tấn Khánh, huyện Tân Uyên gắn bó với nghề gốm hơn 30 năm qua - thở dài: “Cả khu Lò Chén giờ chỉ còn vài lò làm theo đơn đặt hàng, chứ làm theo kiểu tung ra thị trường là phá sản liền”. Xưởng của chị Ngọc chủ yếu lấy đất sét trắng từ Đà Lạt về làm các loại thú: heo, chuột, nhím... Sau khi bán hết hàng, thu nhập của đôi vợ chồng trẻ được tám triệu đồng một tháng. Ngoài trả tiền đất và tiền thuê hai nhân công, số tiền còn lại cũng tạm đủ trang trải cho tổ ấm.
Gần đó, lò của ông Lý Chén Dụng, 56 tuổi, gốc Hoa cũng không còn cảnh náo nhiệt như trước. Ông bộc bạch: “Gia đình qua làm gốm sứ hơn 100 năm, qua theo nghề từ năm 17 tuổi. Có những lúc khó khăn, qua tưởng chừng phải bỏ nghề. Nhưng mấy năm nay, do các đồn điền cao su thu được lợi nhuận nên các ông chủ xuống đây đặt rất nhiều chén đựng mủ. Nhiều người nhờ họ mới sống được đó”.
Giá một thiên chén là 10 triệu đồng, năm nay giá mủ cao su tăng nên thương buôn chấp nhận mua 15-16 triệu. Mỗi cái chén giá 400 đồng, cao hơn năm ngoái. Đất để nặn ra chén chủ yếu lấy từ Tân Lập, Hòa Thạnh, Chánh Lưu.
http://www.sieuthigomsu.com/tim-hieu-gom-su/gom-su-trong-nuoc/194-nhieu-lang-gom-hap-hoi.html
+
http://trinhhoaiduc.netfirms.com/nguoiHoa.html
NGƯỜI HOA Ở LÁI THIÊU

Lưu Thanh Bình

Huyết thống

Trước tiên xin tự giới thiệu ông ngoại tôi là người Trung Quốc 100%, gốc Triều Châu, dân gian gọi nôm na là người Tiều. Khi sang Việt Nam làm ăn có tiền thì về bển lấy vợ rước qua Việt Nam sinh sống, bà sinh được hai người con trai rồi bệnh mất, hai người con được gởi về Hoa Lục cho họ hàng chăm sóc. Về sau ông mới cưới một người vợ Việt ( là bà ngoại tôi), sinh ra ba người con gái trong đó có má tôi. Như vậy  má tôi và hai bà dì tôi là người Việt gốc Hoa (50%), biết nói hai thứ tiếng. Hai bà dì có chồng Tàu Chợ Lớn, đẻ con cho học trường Tàu nên lớn lên họ chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu (75%) nhiều hơn văn hoá Việt. Còn ba tôi là người Việt, tổ tiên là lưu dân theo chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp. Nên bọn tôi chỉ còn (25%) thôi, kể như Tàu…chìm. Trong những bữa cơm gia đình bọn tôi lên án và chửi sa sả Tạ Vinh ( gian thương thu gom gạo) mà bà cũng không nói gì. Nhiều khi còn nhại tiếng người Tiều “Chó cắn bù chét, bù chét không chết; bù chét cắn chó chó chết”. Chê người Tàu ở dơ mà quên rằng má tôi rất sạch sẽ, nên chín chị em tôi mới được tươm tất trắng đỏ ai cũng khen.

Mì & Hoành thánh

Còn nhớ thuở nhỏ khi tôi được má sai xách gà mên ra chợ mua mì – hoành thánh về làm canh ăn cơm thì tôi xung phong liền, để được đứng ngắm những bức hình màu in chìm vào kiếng mà tôi vừa sợ vừa thích. Xe mì có hình Quan Công cởi ngựa Xích Thố sử dụng ngón đà đao làm rơi đầu Nhan Lương,Văn Xũ hoặc Lữ Bố cưởi ngựa Xích Thố đại chiến tam anh (Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi). Tôi cũng thích đứng nhìn họ chế biến hoành thánh: bột mì cán thật mỏng thành lớp áo bao ngoài, bên trong là thịt bằm nhuyễn. Hai tay phối hợp nhanh thoăn thoắt, từng viên hoành thánh vo viên lại rồi thảy vào nồi nước lèo bốc khói. Nhớ lần đi làm gỗ ở cửa khẩu Hoa Lư ( Lộc Ninh) những năm 80 thế kỷ trước, ghé quán dã chiến bên đường ăn cho đỡ đói, chỉ một tô mì ăn liền, nước lèo xương heo lỏng bỏng với vài cọng giá và hai ba lá cải mà giá tới năm ngàn, làm tôi ngậm ngùi quá. Đêm đó tôi nằm mơ thấy …ăn mì Lái Thiêu, một tô mì chỉ ba vắt, nước lèo chan đầy tới miệng tô, trên có mấy miếng tóp mỡ và con tôm chiên lăn bột, còn thêm một tô xí quách ninh nhừ. Ăn mì, hấp dẫn nhứt là đoạn chót, khi hai tay bưng tô ngang mặt và chu mỏ húp từng ngụm nước lèo, nuốt tới đâu nghe tê tái tới đó. Dĩ nhiên ở nhà hàng thì không được rồi vì trông bất lịch sự, nên chỉ húp từng muỗng nhè nhẹ không được gây tiếng động, nhưng ở mấy tiệm mì Lái Thiêu, ấy là sự thường. Có gì hảnh diện cho chủ nhân bằng khách ăn cạn tàu ráo máng, chỉ còn trơ cái đáy tô. Dứt điểm bằng cái khààà nhẹ nhàng, đẩy tô ra, rút khăn giấy lau miệng và vói tay tìm hủ tăm. Một ly trà nóng bốc khói nữa là xong. Chỉ hiềm một điều là họ hay chan thêm một muỗng nước mỡ nên nếu bạn nào kiêng  dùng mỡ thì phải dặn trước.

Ăn cơm chưa ?

Nói về thói quen của người Tàu thích ăn cháo, ba tôi có lần giải thích rằng xưa kia bên Tàu, được ăn cơm là cả một diễm phúc, chứ thường là ăn cháo. Người ta lấp liếm là ăn cháo cho nhẹ bụng dễ ngũ, nhưng thực ra do Triều Châu là đất núi, ít có đất canh tác nên ăn cháo thành thói quen, bây giờ dù giàu có người Tiều cũng thích ăn cháo nhứt là ban tối. Tôi cũng thích ăn cháo, nhưng là cháo trắng chứ không phải cháo Tiều. Những lúc sau này, đi nhậu về tôi hay ghé hàng cháo bà Chín gần tua 18, ăn một tô cháo trắng hột vịt muối kèm củ cải mặn xắt nhỏ, dĩa nước tương ớt thật cay. Nghiêng tô vét thìa cháo cuối cùng, hít hà thiệt đã và nghe mồ hôi ra ướt đầm lưng áo. Quán cũng có bán cháo đậu nhưng tôi không khoái .

Ăn cơm, tiếng Quảng gọi là xực phàn, tiếng Tiều gọi là chìa pừng, tiếng Quan thoại gọi là tsớ phán. Thời thơ ấu, tôi có một kỹ niệm đặc biệt liên quan đến hai từ “ăn cơm” này. Thuở ấy các lò chén lò lu đều có một người chuyên trách tiên đoán thời tiết, nhìn mây nghe gió gọi là ông “coi trời”. Không biết tiếng Tàu gọi là gì. Đang giữa trưa nắng mà ông nhìn trời, hô đem vô thì đám đông thợ lò răm rắp tuân lệnh. Hoặc ông nhìn kiến bò, chuồn chuồn bay mà tiên đoán ngày mai mưa thì chắc chắn ngày mai mưa. Dĩ nhiên xác suất đúng phải trên 90% là cái chắc vì mỗi ông “coi trời” là một đài khí tượng thủy văn sống, qua nhiều năm kinh nghiệm mới nhận được sự tin tưởng của chủ lò. Tô chén được tạo hình xong, được đặt trên những chiếc sào dài, phơi hàng hàng lớp lớp như những đạo quân sắp ra trận. Một mẻ gốm đâu có ít tiền, là công sức của bao người, đến giai đoạn này chỉ gọi là bán thành phẩm thôi. Nếu đất ướt mà gặp mưa là kể như …toi. Nên ông làm việc rất có trách nhiệm không chút xao nhãng ( Mà dù có lỡ xui xẻo thì cũng không đến nỗi hại nhân mạng như vụ ngập lụt ở Phú Yên, Quảng Ngãi mới đây. Khi tôi phàn nàn sao lại xả đập lúc đang mưa lớn và triều cường thì vợ tôi lại bảo nếu không xả đập lỡ bể…đập thì càng nguy hơn. À há, vậy xả đập là đúng sao? Thực lòng tôi vẫn ấm ức làm sao ấy nhưng thôi, đó là chuyện khác). Trở lại chuyện ông “coi trời” của tôi. Tôi cũng chẳng biết ông ở lò nào, chỉ biết hướng cụm lò Quảng Hoà Xương gần sân banh. Ông thường mặc bộ đồ vải nâu hoặc xám, bước đi chậm rãi, hai vai nhấp nhô và vui vẽ cười với đám con nít. Khoảng năm giờ chiều là ông đi ngang nhà, tôi đợi riết thành thói quen chỉ để hỏi lớn một câu ông già ăn cơm chưa? Và được ông cười hềnh hệch hỏi lại ăn cơm chưa. Gương mặt hiền từ phúc hậu, cặp chân mày trắng và cái miệng cười móm mém chỉ còn lại một chiếc răng. Ông đã đi vượt qua khỏi nhà mà tôi còn nhìn theo mãi cho tới khi hình bóng ông khuất sau ngã Năm. Nay chắc ông đã ra người thiên cổ, nhớ về ông như nhớ lại một kỹ niệm đẹp thời thơ ấu, một ông lão người Hoa hiền hậu dễ mến như thế có lẽ nào không phải là một nhân tố tốt trong cộng đồng người Việt chúng ta ?

Tiệm nước

Tiệm nước bán cà phê kho (cà phê bột đặt trong chiếc vợt vải nhúng chìm vào ấm nước sôi trên bếp), khi có khách gọi thì phổ ky chế cà phê từ ấm ra ly xây chừng, đặt trên một chiếc dĩa nhỏ kèm cái muỗng để khách tự múc đường. Lái mía ngồi riêng, dân làm lò chén ngồi riêng, đánh xe ngựa ngồi riêng, dân cá độ đá banh ngồi riêng…và không phải người ta ghiền cà phê mà còn vì ghiền chổ ngồi, ghiền không khí ồn ào, ghiền bạn ngồi chung và ghiền nhất là được tha hồ “tám” đủ chuyện trên trời dưới đất  Không có cảnh ngồi trầm ngâm bên khói thuốc, tai nghe văng vẵng nhạc Trịnh hay Vũ Thành An, ánh mắt mơ màng nhìn về cõi xa xăm. Vô tiệm nước mà không nói thì chắc là ..bị đứt dây nói rồi. Mời bạn nghe một tay nói phét trong tiệm nước “ Hôm qua tao đi Sài Gòn bằng xe đạp. Bận về trời kéo mây chuyển đen thui. Tao đạp xe hết tốc lực, về tới Lái Thiêu coi lại chỉ ướt bánh sau, bánh trước không ướt!”. Riêng tôi hồi nhỏ khoái được ba dắt ra tiệm nước, húp sữa nước sôi trong chiếc dĩa nhỏ từ ly xây chừng đổ ra thổi cho mau nguội và được ăn bánh nướng nhân đậu xanh, mặt trên bánh có in phẩm màu đỏ ( dân gian gọi là bánh lột da). Nhân tiện nhắc về cá độ đá banh, xin được giải thích thêm về thành ngữ “ bắt cá hai tay”. Theo tôi cá đây không phải là con cá, mà là cá độ. Thường những tay chuyên nghiệp không bao giờ đặt hết tiền vào một cửa, kiểu bỏ hết trứng vào một rổ. Thí dụ trận Manchester United – Fulham. Bắt M.U là phải chấp từ một đến một trái rưởi. Và quăng ngược lại kèo dưới Fulham một ít, đề phòng ngựa về ngược. Nên không bao giờ họ trúng đậm và cũng không bao giờ cháy túi.

Giàn nhạc Tiều

 Giàn nhạcTiều (dân gian gọi là giàn Tiều) có đủ bộ trống, phèn la, chập chỏa, kèn, ống tiêu và ống sáo (ống tiêu thổi dọc, còn ống sáo thổi ngang). Bộ sậu gần hai chục người nhạc công mặc đồng phục, sắp hai hàng bước đi rất trật tự. Riêng chiếc trống được khiêng trong kiệu, mái che bằng vải đỏ có viền ngù kim tuyến. Ông “Cũ”, tiếng Tiều chỉ ông cậu, là con nuôi của ông ngoại tôi làm ông từ giữ nhà Tiều ( hội quán). Ông hay đội nón nỉ, mặc bộ đồ xá xẩu tay dài, hai ống quần rộng, thắt lưng giải rút. Mỗi lúc có đám tang đi ngang nhà , chúng tôi luôn luôn nghểnh cổ cố tìm cho được Cũ trong đoàn nhạc Tiều và sung sướng được ông vỗ nhẹ đầu, tặng cho cái quạt giấy màu tím. Nay nhân sự khiếm khuyết nhiều quá, lớp trẻ tấn lên thay thế dần nhưng sao tôi thấy không bằng, nói đúng hơn là chơi không có “hồn”. Nghe nhạc Tiều, hay nhứt là khi dứt trống, nhạc trổi lên nghe réo rắt làm sao. Vậy mà bây giờ người ta nỡ nào phụ bạc, đem thay thế bằng mấy đội kèn tây. Tang chế hữu sự là chuyện buồn, mà họ cứ phùng mang trợn mắt thổi mấy bài “Hạ vàng biển xanh”, “ Em ơi có bao nhiêu”, “ Xóm đêm”…Xin mách nhỏ, mấy tay đang thổi kèn sợ nhứt là…trái chanh, bạn nào không tin cứ thử cắt đôi quả chanh, thè lưởi liếm trước mặt họ là biết liền. Đố các bạn ham đọc truyện Tàu : Trương Lương trong trận Cai Hạ thổi ống sáo hay ống tiêu ?

Bánh đúc

Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng
(Ca dao)

Chị người Hoa nước da trắng bóc. Bánh đúc bột gạo màu trắng tinh xắt hình thoi, gói lại bằng lá chuối kèm một cái muỗng bằng sống lá giống như gói bắp. Chị ngồi trước tiệm thuốc Bắc thầy Năm Nương, với một chồng bánh đựng trong khuôn nhôm, mặt trên bánh rắc tiêu bột, cải bắc thảo và tôm khô vụn. Tôi là một khách quen, mỗi sáng hay đứng trước chị với năm cắc trong tay, luôn được chị chào đón bằng một nụ cười. Một ngày nọ tôi tìm không thấy chị, đứng ngơ ngác một hồi thì các bà ngồi bán gần đó thấy tội thằng bé quá mới nói chị đi lấy chồng rồi. Tôi buồn và giận chị quá, sao lại đi lấy chồng làm chi, chuyện 50 năm rồi mà vẫn còn buồn, dù ăn bánh đúc ở đâu cũng không bao giờ ngon bằng. Mới hay tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, nhiều kỹ niệm in sâu đậm không bao giờ quên được. Bây giờ bánh đúc bột gạo ít thấy bán, chợ Lái Thiêu chỉ còn một nơi bán bánh đúc ở trước nhà bà Tám Ngắn (má anh Quí võ sư) nhưng là bánh đúc nước tro và bánh đúc khoai môn. Hoặc ở chợ Búng bây giờ cũng có chị bán bánh đúc ngồi trước chợ, chỉ bán từ 2 giờ đến 6 giờ chiều. Có lúc tôi thèm quá, lấy xe chạy lên chợ Búng mua hai ngàn, (tiền xăng nhiều hơn tiền mua bánh đúc) nhưng chị không rắc cải bắc thảo, tôm khô vụn mà rắc nấm mèo đen thui ; và bột gạo cho nước hơi nhiều nên không được đặc lắm. Còn ở Lái Thiêu thì có xe bánh đúc chiên hột vịt của ông người Tàu, kế tiệm cà phê Chiến Mập đã hai mươi năm nay. Khi ăn rắc thêm tiêu và xịt vài giọt giấm đỏ. Vật đổi sao dời, chợ lên phố lên lầu nhưng ông ngày ngày vẫn đứng đó, với cái xẻng và chảo gang lên nước bóng đen thui. Không biết sau này ông có con cháu nối nghiệp không ?

Nghệ thuật kinh doanh

Người Hoa trong kinh doanh có một đức tính rất quý. Đó là thái độ tôn trọng khách hàng, không phân biệt đối xử dù khách hàng mua một vật giá trị lớn hay vật rẻ tiền. Ngay khi khách bước vào tiệm là đã được quan tâm chào hỏi, chứ không lỏ mắt nhìn như mấy cô nàng trong cửa hàng mậu dịch. Trước kia ở chợ Lái Thiêu có một tiệm tạp phẩm mà chủ nhân là người Hoa, chỉ là một tiệm nhỏ nhưng rất đắt hàng. Một phần nhờ thái độ bán hàng vui vẻ , một phần nhờ giá cả phải chăng. Đang ăn cơm mà có khách ông cũng lẹ làng bỏ đũa ra bán dù khách hàng là một cậu bé như tôi: chỉ cần mua một cây thước, một cây viết chì, một tờ giấy chậm, một ngòi viết lá tre hay một cục gôm. Và ân cần vui vẽ chứ không quát nạt cục cằn vì bị lỡ bữa. Đó là ông chủ bazar Thiên Xương, thân phụ của bạn Liêu Bửu Khương. Ở vào hoàn cảnh đó, nhiều người chỉ liếc mắt nhìn ra và phán : hết rồi hoặc không có,và thản nhiên ngồi ăn tiếp! Cũng một người Hoa giải thích như sau: người ta mua vật mình cần nhưng cũng để ý xem những vật…chưa cần. Và khi cần, người ta sẽ tìm tới nơi mà họ thích. Bữa nay bán được một đồng , hôm khác sẽ bán được trăm đồng!. Chân lý thật là đơn giản. 

Hoàng Sa - Trường Sa

Nghĩ về người Hoa, trong ý nghĩ của tôi chia làm hai loại, một dân dã hoà đồng cùng cam cộng khổ với dân Việt qua bao thăng trầm lịch sử, và một của tư tưởng Đại Hán đã ăn sâu vào máu thịt như một phần dân tộc tính của người Trung Quốc. Nội cái danh xưng “Trung Quốc” cũng đủ biết rồi. Thực ra Hoàng Sa chỉ mới là phần lãnh thổ nằm dưới quyền cai quản của Trung Quốc sau cuộc chiến năm 1974, nếu so với lịch sử Đàng Trong của các chúa Nguyễn đã quản lý – khai thác Hoàng Sa từ thế kỷ thứ 17 thì thật là khập khiểng khi đem ra so sánh. Trường Sa thì lại còn mới hơn nữa, chỉ từ 1988. So với độ dài lịch sử hàng ngàn năm thì 20 năm chỉ là một cái chớp mắt. Qua vụ tranh chấp này thì người ta thấy Liên Hiệp Quốc nhiều khi chỉ  là một tổ chức hàn lâm không có thực quyền và bất lực, và dù thế giới văn minh đã bước  qua thế kỷ 21 nhưng có lúc có nơi sức mạnh vẫn thể hiện cái quyền áp đặt của nó bất chấp các quy tắc, quy ước về đạo lý. Ngay cả cách giải quyết vùng chồng lấn giữa các hải phận, nếu có thiện chí ngồi lại thương lượng thì tôi tin cũng có thể có giải pháp thỏa đáng cho cả hai (hoặc ba) bên. Vũ lực chỉ là biện pháp tạm thời không căn cơ, tạo ra những hệ lụy lâu dài có hại hơn là có lợi. Biển Đông giờ như tấm chăn nhiều người cùng giành đắp, kéo cho ấm người này thì hở lạnh người kia.

Tôi đọc báo, cứ mỗi lần thấy Trung Quốc củng cố pháp lý cho Hoàng Sa Trường Sa là lòng quặn thắt, lo cho con cháu sau này chồng chất khó khăn để thu hồi chủ quyền đất đai tổ tiên. Nhìn ngược lại lịch sử không biết chúng có thông cảm hay oán trách cha ông chúng không ? Nhớ lại thông lệ quốc tế, khi hải hành qua vùng nước của quốc gia nào thì tàu bè giương lên lá cờ nước của quốc gia đó, như một nghi thức ngoại giao. Trên bản đồ hàng hải quốc tế và dự báo thời tiết khu vực biển Đông trước kia, luôn ghi chú vùng trời, vùng biển là của Việt Nam; cũng như không bao giờ thấy tàu bè quốc tế kéo cờ Trung Quốc cả. Như thế cũng thừa hiểu rồi.

Danh nhân văn hoá:

Sách văn học nước ngoài, tôi mê nhất hai quyển, trong đó một là Sử Ký của Tư Mã Thiên và quyển kia là Bố Già của Mario Puzzo. Đọc hai truyện trên, tôi thấy gần gụi cảm thông với Hạng Võ hơn Lưu Bang, gần Sonny hơn Michael. Biết bao lần đọc đến  đoạn mô tả cái chết của Hạng Võ và Sonny, lần nào tôi cũng thử đặt mình vào hoàn cảnh của họ xem có thể có cách xử lý khác không, kết quả là tôi …hoàn toàn chọn cách xử lý y như vậy. Dĩ nhiên họ không phải là danh nhân văn hoá nên không được nhắc đến ở đây.

Mạc Thiên Tích 

Trước tiên xin kể về Mạc Cửu người có công khai phá đất Hà Tiên (Phương Thành) hồi cuối thế kỷ 17. Ông gốc người Lôi Châu Quảng Đông, năm 1671 rời quê hương xuôi Nam theo đường biển, ghé nhiều nơi như Philippine, Indonesia trước khi dừng chân tại Chân Lạp. Sau khi được vua Miên phong chức Ốc Nha (Oknha)**, ông đến khai khẩn vùng Hà Tiên biến nơi đây thành chốn đô hội sầm uất. Thời kỳ này Chân Lạp đang suy yếu nên bỏ mặc cho quân Xiêm cướp phá Hà Tiên. Năm 1708 Mạc Cửu theo về Chúa Nguyễn, được phong Tổng Binh Hà Tiên trấn. Từ đó đất này thuộc nước Việt Nam.Năm 1718 quân Xiêm cướp phá Hà Tiên lần thứ nhì. Trong cuộc chạy loạn này, Mạc phu nhân hạ sanh Mạc Thiên Tích (còn gọi Mạc Thiên Tứ).Năm 1735 Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích thay cha làm Tổng Binh Đại Đô Đốc.

Nếu gọi Mạc Cửu là người có công khai phá thì Mạc Thiên Tích chính là người đã biến Hà Tiên và cả vùng đất xung quanh thành một nơi trù phú, phồn vinh nhất vùng vịnh Xiêm La lúc bấy giờ. Cả vùng đất Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Châu Đốc, Sa Đéc, Vĩnh Long trở thành đất của nhà Nguyễn cũng một phần nhờ công ngoại giao của Mạc Thiên Tích. Thời kỳ này xuất hiện Tao Ðàn Chiêu Anh Các, do Mạc Thiên Tích làm nguyên soái gồm nhiều vị tao nhân mặc khách Hoa, Việt, xướng hoạ thơ văn mà điển hình là tập Hà Tiên Thập Vịnh nổi tiếng của Mạc Thiên Tích còn lưu truyền đến nay, hay Thụ Đức Hiên Tứ Cảnh đã thất truyền, chỉ còn chín bài in trong Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn, Minh Bột Di Ngư gồm một số bài phú và thơ Đường luật do Trịnh Hoài Đức sưu tầm cho khắc in. Chiêu Anh Các là điểm sáng văn chương hiếm hoi của vùng đất mới khai phá, được nhiều văn nhân thi sĩ đương thời như Nguyễn Cư Trinh, Lê Quý Đôn ngưỡng mộ.

Cuộc cướp phá lần thứ ba của quân Xiêm năm 1771 đã biến Hà Tiên thành chiến địa hoang tàn.Sau này dù nhiều lần được cố gắng phục hồi nhưng không bao giờ Hà Tiên trở lại thời hoàng kim như trước. Họ Mạc cũng rơi vào thời kỳ suy sụp. Năm 1778, khi Định Vương bị Tây Sơn bắt giết, Mạc Thiên Tích cùng gia quyến, thuộc hạ lánh sang Băng Cốc. Hai năm sau, bị vua Xiêm ngờ vực làm nội ứng cho chúa Nguyễn Ánh, Mạc Thiên Tích tự vận.

Họ Mạc là dòng dõi người Trung Quốc nhưng đã có công lớn mở cõi, giúp dân Việt tiết kiệm xương máu trong cuộc Nam tiến.Ngày 7 tháng 9 năm 2008 tại thị xã Hà Tiên đã diễn ra lễ khánh thành tượng đài danh nhân Mạc Cửu và kỷ niệm 300 năm ngày thành lập trấn Hà Tiên ( 1708 – 2008).Mộ phần gia tộc họ Mạc trên núi Bình San ngay cạnh thị trấn nhìn ra vịnh Thái Lan nay đã được trùng tu khang trang, ngày ngày khói hương không dứt.

** Chức Ốc Nha không phải là một chức sắc chính quyền như nhiều người lầm tưởng. Chức này phải mua bằng tiền, để khẳng định sự giàu sang thế lực. Các Ốc Nha thường là người bỏ tiền xây dựng các công trình phúc lợi công cộng tại địa phương, bù lại họ được hưởng nhiều biệt đãi của chính quyền . Ở Việt Nam xưa có chức Bá Hộ (cửu phẩm) gần giống nhưng thế lực không bằng Ốc Nha. Hiện chức này cũng còn tồn tại ở Campuchia.

Khuất Nguyên 

Khuất Nguyên ( 340 – 278 TCN ) dòng dõi hoàng tộc nước Sở, làm quan chức Tả Đô đời Sở Hoài Vương, học rộng biết nhiều, có tài về văn chương và ứng đối nên được giao phó nhiều việc quan trọng như soạn thảo luật lệ, pháp lệnh, tiếp đón sứ thần các nước. Vì được nhà vua tin yêu nên bị bọn gian thần xu nịnh ghen ghét tìm cách nói xấu (có ông vua nào mà không đa nghi!). Cuối cùng ông bị phế truất, chỉ làm một sứ thần bôn ba các nước, không được gần vua nữa. Nước Sở cũng đi dần vào thế suy vong : gian thần lộng hành, mất đất, bại trận , kinh đô thất thủ, vua bị cầm tù, cuối cùng chết trên đất người. Vua mới lên thay lại nghe lời gièm pha, đày ông đi Giang Nam ( Hồ Nam ngày nay) vĩnh viễn không cho về kinh đô. Năm 278 trước CN, nước Sở bị Tần quốc thôn tính, Khuất Nguyên đau buồn ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La mà chết.

Mỗi lần đọc Sử Ký của Tư Mã Thiên, đặt sách xuống lần nào tôi cũng bần thần nghĩ ngợi, thương cảm cho tấm lòng trung quân ái quốc của Khuất Nguyên không gặp được cảnh vua sáng tôi hiền. Giận thay bè lũ xu nịnh, thượng đội hạ đạp thời nào cũng có. Kẻ có tài dùng năng lực để tiến bước trên đường danh lợi, kẻ bất tài dùng xảo ngôn lộng ngữ cũng tiến bước trên đường danh lợi. Thôi thì ôm đá gieo mình xuống sông để bảo toàn thanh danh, không để vật ô trọc làm hoen ố tấm thân gột sạch bụi trần. Mùng 5 tháng 5, ăn chè xôi nước (thực ra là trôi nước) lại nghĩ ngợi lan man đến Tam Lư Ðại Phu, người đã khuất hơn hai ngàn năm trước. Nỗi oan khiên nặng nghìn cân mang xuống tuyền đài, để lại cho đời tuyệt tác “ Ly Tao” bất hủ. 

Hai trăm năm sau khi ông mất, nhà làm sử đời Hán là Tư Mã Thiên viết về ông như sau: “…Tôi đọc Ly tao, Thiên vấn, Chiêu hồn, Ai sinh thương chí ông. Tôi sang Trường Sa  xem quãng sông Khuất Nguyên trẫm mình không lần nào là không khóc. Khi thấy Giả sinh viếng ông, tôi lấy làm lạ về chỗ tài giỏi như Khuất Nguyên nếu đi sang chư hầu thì nước nào mà chẳng dùng, tại sao lại làm khổ mình như thế? Đến khi đọc bài phú Phục Điểu thấy nói đến việc coi sống chết như nhau, coi thường việc đi hay ở, bấy giờ lòng luống bâng khuâng tự biết là lầm!”.

Tôi ước có ngày được đặt chân trên bến Mịch La, thả cho ông một vòng hoa cỏ đồng nội để tỏ tấc lòng đồng cảm của kẻ hậu sinh. Cũng như tôi ước được đến Hoàng Hạc Lâu nhìn sương khói lúc trời chiều, ước một lần xem thủy triều lên ở cửa Tiền Đường, ước đến viếng mộ Nhạc Phi và quất cho vợ chồng Tần Cối ( bằng đá) mấy roi cho hả giận. Tôi ước…nhiều lắm nhưng tất cả ao ước chỉ là ao ước, mà quỹ thời gian đời người là có hạn, không biết rồi có thoả được tâm nguyện hay không.   

Tiệm thuốc Bắc

Nhà quê thấy cứt dê, kêu ( bảo) thuốc tể!
(Đồng dao)

Quả là giống thuốc tể thật, cũng vón cục tròn tròn, đen bóng và khô chứ không nhảo nhẹt như phân trâu bò. Nhưng nhà quê ai mà không biết, sao lại nói nhà quê thấy cứt dê nói …thuốc tể ? Phải nói là dân chợ mới đúng. Thuốc tể dạng “hoàn tán”, ngoài có bọc vỏ bằng sáp chống ẩm mốc, là thứ mà tôi hãi hùng nhứt (thời còn nhỏ), thường phải có cây roi mây bên cạnh mới tiêu hoá được. Nhưng lại khoái moi cục xí muội trong thang thuốc gói bằng giấy báo ra ăn trước. Đặc điểm của các tiệm thuốc Bắc là có mùi đặc trưng riêng của cây cỏ phơi khô, tiếng lụp cụp leng keng của thuyền tán dao cầu. Các hộc đựng thuốc xếp đầy kín vách tường, trên mặt quầy là một chiếc gối nhỏ kê tay bắt mạch, mấy chai thuốc bóp trặc và rượu thuốc trị nhức mỏi, không nhức mỏi cũng uống được. Chợ Lái Thiêu có nhiều tiệm thuốc Bắc, như Vĩnh Sanh Đường (người ta quen gọi là tiệm con trâu, nhưng thực ra đó là con tê giác), Tăng Thọ Đường (thân phụ bạn Phạm Diên Hy khóa 12), Nhựt Nguyệt Tinh (gần cầu đúc), Vạn Đức Đường (thầy Hoành, lúc sinh tiền thường được ba tôi chọn làm người xông đất đầu năm cho nhà tôi), tiệm thầy Năm Nương hiện do hai người con gái nối nghiệp, và nhất là tiệm thuốc Bắc của Thầy Bảy Tri hầu như ai cũng biết. Đi xe đò, cứ nói cho tôi xuống trạm thầy Bảy Tri là lơ xe biết liền. Nay có tới hai tiệm thuốc Thầy Bảy Tri, đều là hai người con của thầy (giống bánh bèo bì Mỹ Liên). Hồi nhỏ khi bắt được con cà cuống là bọn tôi chạy ù xuống chợ bán cho tiệm thuốc, vui lắm; giờ bọn trẻ chưa chắc biết hình dạng nó ra sao.

Tiết Nguyên Đán – con cù - Từ Hán Việt

Con lân ở Lái Thiêu và Thị Xã người lớn trẻ con gọi là con cù, vì kiêng húy ông Hội Đồng Lân, giờ mả ông hãy còn (xem bài của Hoàng Anh). Xem cộ Bà , các bạn để ý quan sát sẽ thấy luôn luôn đoàn lân được xếp đi sau đoàn hẩu ; hoặc khi đi múa chúc lộc đầu xuân, tình cờ gặp nhau là thường thường đoàn lân chào trước và chủ động nhường đường. Là bởi vì con hẩu là vật cưởi của Văn Thù Bồ Tát (giống như tài xế) trong  khi con lân chỉ là vật gác cổng (giống như bảo vệ) nên con lân cấp thấp hơn là phải rồi (!).

Có lúc người ta phát động phong trào bài Hoa, bài luôn cả ngôn ngữ có nguồn gốc Hán Việt; gọi là giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhưng ngôn ngữ nói thì có thể thay thế được chứ trong ngôn ngữ viết mà thay thì nhiều khi nó gượng gạo làm sao ấy. Một thí dụ, ngày nay kinh tế khá khấm, mấy bà U50, U60 hay quan tâm “tút” lại vòng một , vòng hai và vòng ba; tương ứng với nâng ngực, hút mở bụng và may thẩm mỹ tầng sinh môn. Nếu bạn nào không thích dùng từ Hán Việt xin hãy thử thay thế bằng từ thuần Việt xem nào! Như vậy có nghĩa là từ Hán Việt cũng là một vốn quý trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt chớ bộ.

Tục lệ ăn mừng năm mới theo lịch âm, cũng là do ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa từ hàng ngàn năm trước, chứ các nước quanh ta như Thái Lan, Miến điện, Campuchia, Lào…ăn Tết theo mùa vụ nông nghiệp, theo tiết trời mưa nắng ( lễ té nước, lễ mừng lúa mới…) chứ không theo lịch phương Bắc như ta. Nhất là ở miền Nam làm gì có mùa xuân ? Ba ngày Tết, xin các bạn một lần nghĩ về những người lính đảo Trường Sa, những người đã hy sinh rất nhiều nơi đầu sóng ngọn gió để chúng ta hưởng yên ấm bên gia đình. Đất nước còn nghèo, chắc chắn họ phải chịu thiếu thốn nhiều thứ để giữ vững mảnh đất tiền tiêu của Tổ quốc. Dù ở đâu, tất cả chúng ta đều là con dân nước Việt, chung một giòng máu từ thời Văn Lang truyền lại. Riêng tôi xin khẳng định tôi là người Việt Nam, con cháu giòng giống Lạc Hồng và Thăng Long là đất Tổ. 

Lưu Thanh Bình
(01 – 2010)
http://trinhhoaiduc.netfirms.com/nguoiHoa.html
+
http://songoaivu.binhduong.gov.vn/Default.aspx?tabid=175&ID=332
Làng nghề gốm Bình Dương
25/07/2014 16:08:32
Cũng như các làng nghề điêu khắc, sơn mài, làng nghề gốm sứ Bình Dương không chỉ làm ra của cải, đóng góp vào giá trị sự tăng trưởng kinh tế mà còn là sự thể hiện nét văn hóa, lịch sử truyền thống của Bình Dương.

Cũng như các làng nghề điêu khắc, sơn mài, làng nghề gốm sứ Bình Dương không chỉ làm ra của cải, đóng góp vào giá trị sự tăng trưởng kinh tế mà còn là sự thể hiện nét văn hóa, lịch sử truyền thống của Bình Dương.
 
             Trên đất Bình Dương hiện nay có ba làng nghề sản xuất gốm sứ khá tập trung là: Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) và Chánh Nghĩa (Thị xã Thủ Dầu Một) với hàng trăm cơ sở sản xuất, đa số chủ nhân các lò sản xuất gốm sứ là người Việt gốc Hoa.
 
            
Du khách đang xem nghệ nhân vẽ lên gốm
Cũng như các làng nghề điêu khắc, sơn mài, làng nghề gốm sứ Bình Dương không chỉ làm ra của cải, đóng góp vào giá trị sự tăng trưởng kinh tế mà còn là sự thể hiện nét văn hóa, lịch sử truyền thống của Bình Dương.
             Trên đất Bình Dương hiện nay có ba làng nghề sản xuất gốm sứ khá tập trung là: Tân Phước Khánh (Tân Uyên), Lái Thiêu (Thuận An) và Chánh Nghĩa (Thị xã Thủ Dầu Một) với hàng trăm cơ sở sản xuất, đa số chủ nhân các lò sản xuất gốm sứ là người Việt gốc Hoa.

Sự xuất hiện của các làng nghề gốm trên đất Bình Dương
           Thời gian xuất hiện các lò gốm đầu tiên dẫn đến hình thành các làng nghề gốm, chưa có tài liệu nào khẳng định chính xác là tháng năm nào, nhưng chắc chắn các làng nghề gốm đã xuất hiện và tồn tại phát triển vào cuối thế kỷ 19. Tài liệu chứng minh cho việc này đã thể hiện rõ trong niên giám, địa chí Thủ Dầu Một do thực dân Pháp để lại có ghi lại rằng: “Cuối thế 19, đầu thế kỷ 20, ở Thủ Dầu Một còn có mỏ cao lanh, 10 lò gốm và nhiều mỏ đá” (Thủ Dầu Một đất lành chim đậu, Sở Văn hóa – Thông tin Bình Dương, NXB Văn nghệ, 1999). Một vài sự kiện có thể đã diễn ra vào thời gian ấy gắn liền với sự hình thành các làng nghề gốm, có thể nêu ra như sau:
 
            - Làng nghề gốm Tân Phước Khánh (xưa thường gọi Tân Khánh): có vị trí gần vùng mỏ đất sét, rừng rậm nhiều củi thuận lợi cho việc làm lò gốm. Vào năm 1867, miếu Bà Thiên Hậu Thánh Mẫu (thường gọi là Chùa Bà) được xây dựng, trong số đồ cúng nhân ngày khánh thành “Chùa Bà” có cái lư hương và bình cắm hoa bằng gốm, trên chiếc bình cắm hoa ngoài vẽ hình bát tiên, còn có ghi chữ Hán "Tân Khánh Thôn",  điều này chứng tỏ rằng lò gốm ở Tân Khánh đã xuất hiện trước khi ngôi Chùa Bà được xây dựng.
 
             - Làng nghề gốm Lái Thiêu: theo nhà văn, nhà nghiên cứu Sơn Nam và qua ý kiến của một số nghệ nhân gốm sứ thì nghề gốm du nhập vào Lái Thiêu do những người Hoa theo chân các đoàn thuyền buôn vào, hoặc đi qua bằng đường bộ từ Móng Cái sang vùng Gia Định lập nghiệp. Trong số lưu dân người Hoa đó có người vốn là thợ lò gốm, thấy vùng Lái Thiêu thuận lợi cho việc sản xuất gốm nên họ định cư và mở lò sản xuất gốm (Nguyễn Phan Quang "Lịch sử Bình Dương qua niêm giám và địa chí Thủ Dầu Một của thực dân Pháp", Thủ Dầu Một đất lảnh chim đậu). Trong một số hiệu lò nổi tiếng từ xưa tới ngày nay, chủ lò Kiến Xuân là ông Vương Thế Hùng cho biết : lò gốm của ông được truyền nối từ đời ông cố nội tên Vương Tổ từ Phước Kiến sang đây lập nghiệp đến nay đã trải qua trên 140 năm.

 - Làng nghề gốm Chánh Nghĩa (xưa thường gọi là làng gốm Bà Lụa): làng gốm Bà Lụa thuộc Phú Cường, huyện Tân Bình (dưới triều Nguyễn). Dưới thời Pháp thuộc, làng gốm thuộc làng Phú Cường, tỉnh Thủ Dầu Một. Chính ở giai đoạn này đã xuất hiện câu ca dao mà nhiều người Bình Dương đều biết :
Chiều chiều mướn ngựa ông đô
Mượn ba chú lính đưa cô tôi về
Đưa về chợ thủ bán hủ bán ve
Bán bộ đồ chè, bán cối đâm tiêu”.
          Căn cứ vào các chứng tích cụ thể còn lại ở làng gốm Chánh Nghĩa thì vào khoảng những năm 1840 – 1850, có ba lò gốm xuất hiện đầu tiên ở đất này, sau đó nghề gốm dần định hình và phát triển thành làng nghề đông đúc cho đến ngày nay.
 
         Một trong ba lò gốm đầu tiên xuất hiện đó là: lò Vương Lương mà dân gian thường gọi là lò “Ông Tía”. Lò được xây trên ngọn đồi thấp bên cạnh một con rạch rất thuận tiện cho việc vận chuyển sản phẩm ra sông Sài Gòn.. Ông Vương Lăng (Út Lăng-92 tuổi, ông mất năm 1998), khi còn sống, ông có cho biết rằng ông nội của ông tên gọi Vương Lương từ Phước Kiến sang đã xây dựng dãy lò gốm này từ những năm 1845.  Hiện nay dãy lò gốm này đã có những người khác đang sản xuất kinh doanh.  Đặc biệt, con rạch cạnh lò gốm đến nay vẫn còn, tên con rạch ấy chính là tên gọi khác của lò gốm đầu tiên xuất hiện ở xứ này, đó là “Rạch Vàm ông Tía”.
Bến chở gốm
Ba làng nghề gốm ở Bình Dương có một nét chung là cùng xuất hiện vào khoảng giữa thế 19, chủ nhân cùng là những lưu dân người Hoa từ miền duyên hải Trung Hoa sang Việt Nam định cư, sinh sống (hiện nay cũng có khoảng vài chục lò gốm có chủ là người Việt, nhưng đa số chủ lò gốm vẫn là người Việt gốc Hoa).
          Xuất phát từ nguồn gốc của các chủ nhân lò gốm đến Bình Dương từ các địa phương khác nhau, từ các tộc người khác nhau nên từ khi hình thành, các làng nghề gốm người ta thường phân ra ba trường phái gốm sứ như sau:
         - Trường phái Quảng (đa số chủ lò gốc ở Quảng Đông): nét nổi bật của trường phái này là việc sử dụng men có nhiều màu sắc, hoa văn trang trí trên sản phẩm đẹp, cách điệu và trang nhã. Sản phẩm làm ra gồm có các loại tượng trang trí, các loại chậu hoa, đôn voi,…;
         - Trường phái Triều Châu (chủ lò gốc Triều Châu đa số là người Hẹ): trường phái này thường sử dụng men màu xanh trắng, có nét vẽ đa dạng phong phú, hoa văn bình dị, các cảnh sơn thủy hữu tình, hình ảnh các con vật như: rồng, gà, cá hoặc cây tre, tùng, bách có tính nghệ thuật gợi cảm. Sản phẩm làm ra đa số là đồ gia dụng phục vụ cho nhu cầu trong đời sống con người hàng ngày như: chén, dĩa, tô, tộ, các loại bình cắm hoa..;
         - Trường phái Phúc Kiến (chủ nhân có gốc Phúc Kiến): sản phẩm đa số sử dụng men màu nâu đen, da, lượn, hoa văn trang trí đơn giản, cách tạo hình sản phẩm đa dạng, dáng đẹp, sinh động. Các sản phẩm tiêu biểu cho trường phái này như: ché đựng rượu, lu, vại chứa nước, các đồ dùng nhỏ như hủ, vịm, chậu.v.v…
         Ngày nay, các trường phái gốm sứ hầu như không còn có sự phân định rõ ràng như trước kia, bởi lý do có sự phát triển về công nghệ, thị trường yêu cầu nên các trường phái đã có sự pha trộn, xâm nhập lẫn nhau. Các chủ cơ sở sản xuất nếu muốn tồn tại và phát triển, họ phải liên tục cải tiến mẫu mã, đổi mới công nghệ, để sản phẩm cạnh tranh, gắn với những mặt hàng nổi tiếng của Nhật Bản, Châu Âu là thương hiệu gốm sứ Minh Long, Cường Phát, Nam Việt. v.v…

Cảnh phơi lu khạp
Trong làng nghề sản xuất gốm, người ta có rất nhiều việc phải làm từ đầu cho đến khi hoàn thành sản phẩm nhưng có thể gom lại ở bốn khâu công việc chính yếu của nghề làm gốm là: “nhất liệu, nhì nung, tam hình, tứ trí”. Như vậy, khâu quan trọng nhất trong sản xuất gốm sứ là vấn đề chuẩn bị nguyên liệu, phối liệu đất sét cao lanh; khâu quan trọng thứ hai là nung sản phẩm; khâu quan trọng thứ ba là tạo hình, tạo dáng cho sản phẩm và thứ tư là trang trí, men màu, vẽ hoa văn trên sản phẩm. Ở đây chủ yếu nêu lên bản chất, thứ tự sự quan trọng, quyết định sự thành bại của sản phẩm, chứ không phải trình tự các công đoạn của quá trình làm ra sản phẩm gốm sứ.
 
         Hiện nay, chủ trương chung của tỉnh đang định hướng quy hoạch xây dựng làng nghề ở vùng Thuận An, đồng thời thực hiện đề án quy hoạch, di dời các cơ sở trong vùng đông dân cư có ô nhiễm môi trường ra một vùng khác ở Tân Thành, huyện Tân Uyên.
 
         Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế tỉnh Bình Dương, việc quy hoạch lại làng nghề, vùng chuyên sản xuất gốm sứ để có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn là điều cần thiết, có như vậy mới phát triển và bảo tồn được ngành nghề truyền thống, gìn giữ được sắc thái riêng của Bình Dương, thu hút được sự quan tâm của khách du lịch trong và ngoài nước đến Bình Dương - nơi đất lành chim đậu.

(Sưu tầm)

No comments:

Post a Comment