Chính Trực on 28/05/2009 13:47:00
Hoặc có phải chăng: tất cả chúng ta có thể gặp Phật, ngay
trên thế gian này, ngay trong cõi đời này, bất luận người đó
là Phật Tử, hay không là Phật Tử, bất luận người đó tại
gia hay xuất gia? Dường như ai ai cũng có các thắc mắc này, vậy
chúng ta hãy lần lượt cùng nhau tìm cách trả lời dựa theo giáo
lý của đạo Phật.
Hầu như mọi người Phật Tử đều biết lịch sử Ðức Phật
Thích Ca: Ngài đản sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni, được gọi là Thái
Tử Tất Ðạt Ða, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia,
trị vì vương quốc Ca Tỳ La Vệ, thuộc nước Ấn Ðộ bây giờ.
Ngài lớn lên, cưới vợ, sinh con, cũng như bao nhiêu con người
khác trên thế gian.
Rồi nhân những chuyến ra khỏi hoàng cung, nhận thấy các cảnh:
sinh, lão, bệnh, tử, của kiếp con người, cho nên Ngài quyết tâm
xuất gia tu hành, tìm đường giải thoát và thành đạo dưới
cội bồ đề. Sau đó, Ngài chuyển pháp luân, thuyết pháp cứu
độ chúng sinh trong 50 năm, cuối cùng nhập niết bàn ở vườn Ta
La.
Như vậy, Ðức Phật Thích Ca đã nhập niết bàn, chúng ta đi tìm
Phật ở đâu, làm sao chúng ta gặp được Phật?
Thực ra, chúng ta chẳng cần đi tìm Phật ở đâu xa, chẳng cần
phải qua Ấn Ðộ, hay vào chùa mới gặp Phật. Phật luôn luôn ở
trong cuộc đời, ngay trên thế gian này, hiện hữu khắp nơi,
nhưng chúng ta không thấy, vì chúng ta chỉ nhìn đời bằng đôi
mắt thịt, mà quên xử dụng con mắt trí tuệ, để quan sát
những gì tiềm ẩn bên trong, hoặc ý nghĩa của những việc làm.
Nơi các tôn tượng chư Phật, con mắt trí tuệ được tượng
trưng bởi viên ngọc quí ở giữa chặn mày, luôn luôn chiếu
sáng, mang ý nghĩa: tuệ đăng thường chiếu, tức là ngọn đèn
trí tuệ thường chiếu sáng, còn đôi mắt thịt, luôn luôn khép
lại, không duyên theo cảnh trần.
Tuệ đăng thường chiếu nghĩa là con người sống luôn luôn tỉnh
thức, không bị mê mờ, không bị dục lạc thế gian lôi cuốn,
sống trong thế gian, nhưng không phiền lụy, cũng chẳng khổ đau.
Chúng ta có thể tìm thấy Phật qua sự sống trong tất cả mọi
loài chúng sinh. Sự sống đó bàng bạc trong khắp không gian và
thời gian, không hạn hẹp trong trăm năm của một kiếp con
người.
Trong cuộc sống hằng ngày, khi tiếp xúc giao thiệp với mọi
người chung quanh, chúng ta thường nhìn người đời bằng cặp
mắt thịt, trong kinh sách gọi là nhục nhãn, cho nên chỉ nhìn
thấy được hình tướng bên ngoài của con người, phân biệt nam
nữ, cao thấp, đẹp xấu, già trẻ, lớn bé, giàu nghèo, mập ốm.
Chính vì con người có cái nhìn phân biệt như vậy, cho nên cảm
thấy phiền não và khổ đau nhiều hơn là an lạc và hạnh phúc.
Tại sao vậy?
Bởi vì, khi có cái nhìn phân biệt như vậy, con người chỉ thấy
chung quanh toàn là chúng sinh, cho nên khởi tâm thương ghét, làm cho cuộc sống đảo điên, tâm trí bất an. Chẳng hạn như khi gặp người nào đẹp đẽ, hạp nhãn, hay gặp vật gì quí giá, hiếm
hoi, thì sinh lòng tham lam, ưa thích ngắm nhìn, muốn chiếm hữu làm của riêng. Toại nguyện thì hả hê, thích thú, bằng không
được như ý, thì sinh tâm oán thù, ghét bỏ, bực dọc, tức
tối. Chẳng hạn như gặp người nghèo hèn, ít học, thì sinh tâm khinh khi, kỳ thị, rẻ rúng, còn gặp người giàu sang, học thức, thì
thèm muốn, ước mơ, nịnh bợ. Chẳng hạn như gặp người mập
ú thì cười, gặp người gầy ốm thì chê. Con người thường có
ước mơ muốn được bình yên, nhưng tâm trí cứ chạy theo cảnh
trần đời như vậy, lăng xăng lộn xộn cả ngày, suốt tháng,
quanh năm, làm sao cuộc sống bình yên, an vui cho được?
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Ly nhất thiết thướng,
thị danh thực tướng".
Nghĩa là: Khi nào lìa bỏ được tất cả các hình tướng bên
ngoài, không chấp vào nhân dáng thế này thế khác, chúng ta mới có thể nhận ra thực tướng của tất cả mọi người. Thực
tướng đó là gì? Thực tướng đó chính là con người chân thật
của tất cả mọi người trên thế gian này.
Con người chân thật đó đồng nhất, không khác, không phân biệt nam nữ, già trẻ, lớn bé, màu da, sắc tộc, quốc gia, ngôn ngữ, tôn giáo, văn hóa, giai cấp, xuất xứ, kiến thức, học lực,
bằng cấp.
Mọi người đều có thực tướng đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ
không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên hình tướng bên
ngoài có khác.
Chẳng hạn như: Người tham gian thì cặp mắt láo liên, đảo
điên, đảo qua, đảo lại. Người sân hận thì cặp mắt trợn
trừng, tóe lửa, dữ dằn. Người si mê thì cặp mắt lờ đờ,
khờ khạo.
Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có cúng kiến lễ lạy, van xin
cầu nguyện, cầu an cầu siêu, cầu được bình an, cầu sang cực
lạc, cầu đủ thứ chuyện, cầu cho sung sướng, biểu diễn hình
tướng, không còn gì khác! Không phải như vậy!
Tu theo đạo Phật là phải thúc liễm thân tâm, chuyên cần chăn
trâu, con trâu tâm ý, đừng để chạy rong, ngông cuồng phá phách, giẫm đạp ruộng người, húc đàng đông xông đàng tây, từng giây từng phút.
Tu theo đạo Phật là phải tìm ra con người chân thật, hay giác
ngộ thực tướng của chính mình. Thực tướng đó bất sinh bất
diệt. Ngộ được thực tướng thì thoát ly sinh tử luân hồi,
theo đúng lời dạy của tam thế thập phương chư Phật. Còn con
người bằng xương bằng thịt, trong kinh sách gọi là tấm thân
tứ đại, chỉ tồn tại hơn kém trăm năm là nhiều!
Trong khi bình thường, hai người tính tình giống nhau, hòa đồng, nhã nhặn, vui vẻ, lịch sự, không khác. Khi có biến cố xảy
đến, người biết tu tâm dưỡng tính, giữ gìn được sự bình
tĩnh thản nhiên, không khởi tâm tham lam, không khởi tâm sân hận, không khởi tâm si mê. Nếu người nào hoàn toàn giữ gìn được bản tâm thanh tịnh, trong mọi hoàn cảnh trên thế gian, trước những bát phong của cuộc đời, dù được hay mất, dù khen hay chê, dù vinh hay nhục, dù sướng hay khổ, tâm tính vẫn luôn luôn bình tĩnh thản nhiên, luôn luôn mỉm nụ cười an nhiên tự tại,
người đó chính là một vị Phật.
Một vị Phật không phải từ trên trời giáng xuống, không phải
từ lòng đất chui lên. Một vị Phật tùng địa dũng xuất, như
trong Kinh Pháp Hoa dạy, nghĩa là từ nơi tâm địa của mỗi con
người chuyển hóa mà thành, chuyển hóa từ xấu xa thành tốt
đẹp, chuyển hóa từ tâm tham sân si ô nhiểm, trở về bản tâm
vốn thanh tịnh. Một vị Phật thành đạo từ nơi con người
biết tu tâm dưỡng tính, đi đúng Chính Ðạo, hành đúng Chính
Pháp. Người nào chưa đạt được hoàn toàn như vậy, chính là
những người đang trên bước đường tu tập, công phu được bao
nhiêu, người đó được an lạc và hạnh phúc bấy nhiêu. Chứ
không phải van xin cầu nguyện mà đặng đâu!
Theo truyền thuyết, khi Thái Tử Tất Ðạt Ða đản sinh, có hai
vị long vương đến phun nước tắm cho ngài. Một vị phun dòng
nước nóng. Một vị phun dòng nước lạnh. Ðiều này có ý nghĩa
thâm sâu như sau: cũng như Thái Tử Tất Ðạt Ða, người nào trên
thế gian này, chịu đựng nổi sức mạnh của hai dòng nước, kham
nhẫn nổi sức nóng lạnh, tượng trưng cho những áp lực thường
xuyên và sự đối nghịch của cuộc đời, chẳng hạn như: thịnh
suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc, nói chung là bát phong, thì
người đó chính là một vị Phật trong tương lai.
Còn đại đa số người đời, khi có biến cố xảy ra, tâm tham
lam liền khởi lên, không thể dừng được, luôn luôn nghĩ đến
những việc tranh giành quyền lực, lợi mình hại người, xúi
người hại nhau, bất chấp thủ đoạn, thưa gửi kiện tụng, sang
đoạt tài sản, chiếm hữu bản quyền, giựt hụi quịt nợ. Nếu
mục tiêu là bạc triệu đô la, con người càng đối xử với nhau
ghê rợn hơn, khủng khiếp hơn, chẳng còn kể quan hệ cha con,
chồng vợ, bè bạn, thầy trò, anh em, thân bằng quyến thuộc gì
hết, mạng sống của con người, của chính bản thân bị coi rẻ
như bèo!
Ðồng bào, đồng bạn, đồng chí, đồng đội, đồng đạo,
đồng hương, đồng nghiệp, đồng ngũ, chẳng có giá trị gì
cả, chẳng có nghĩa lý gì cả. Chỉ có đồng tiền là trên hết,
là vạn năng, có đủ năng lực xô đẩy, sai khiến con người vào
vòng tội lỗi hết sức dễ dàng. Cửa thiên đàng khép lại, cửa
địa ngục mở rộng kể từ đây!
Khi có biến cố xảy ra, dù chỉ một lời nói vô thưởng vô
phạt, vô ý vô tứ, hay một cử chỉ nhỏ nhặt, nhưng va chạm
tự ái, tổn thương mặt mũi của con người, tâm sân hận liền
khởi lên, không thể dừng được, con người liền nghĩ đến
chuyện trả thù, báo oán, làm đủ mọi cách, khiến cho kẻ thù,
người mình không ưa, sống không được yên, chết cũng không
xong, ngả nghiêng điêu đứng, tạo dựng chuyện ác, khiến người
tội oan, tiêu tan danh dự, te tua tơi tả, thì mới hả dạ, mới
thỏa tấc lòng, tâm địa chúng sinh, phàm phu tục tử, sâu hiểm
ác độc, của một con người.
Khi tam bành lục tặc nổi cơn lên, dù có phải đại náo thiên
cung, lật tung nhà người, con người cũng dám làm, không cần
biết hậu quả ra sao! Bởi vậy cho nên, có nhiều người đánh
mất hạnh phúc trong tầm tay, hay đánh mất người cộng tác tài
năng đáng tin cậy, chỉ vì những cơn sân không kềm chế được
như vậy.
Khi có biến cố xảy ra, người ta không còn hợp tác, không còn
qua lại với mình, mình liền ngậm máu phun sau lưng người, không kể người cười miệng mình dơ, đâm bị thóc thọc bị gạo,
bêu riếu đàm tiếu đủ điều, vạch lá tìm sâu, bới bèo ra
bọ, chứng nào tật nấy, không bao giờ chừa!
Cũng do tâm si mê xui khiến, con người tin chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan, van xin thượng đế, cầu nguyện thần linh, tìm sông lội suối, nước kém vệ sinh, cho là nước thánh, trị được bá
bệnh, cầu gì được nấy, cũng mang về uống, dù cho người đó,
có nhiều bằng cấp, dù thấp hay cao, ở ngoài thế gian, hay trong
nhà đạo!
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật Tính". Nghĩa là: "Tất cả mọi chúng sinh đều có
tính giác".
Tất cả mọi người đều có tính giác, sáng suốt đồng nhau,
không khác, trong kinh sách gọi là Chân Tâm hay Phật Tính, nhưng chỉ vì nghiệp lực khác nhau, tâm tham sân si khác nhau, cho nên bị phiền não khổ đau cũng khác nhau, hình tướng bên ngoài cũng khác nhau.
Chẳng hạn như mặt trăng lúc nào cũng sáng tỏ, không khác, nhưng đêm nào có nhiều mây đen, chúng ta trông thấy mặt trăng mờ nhạt nhiều hơn. Chẳng hạn như mặt biển lúc sóng yên gió lặng, thanh bình, rộng rãi, bao la, trông xa, thấy rộng, mênh mông, bát ngát, nhưng lúc cuồng phong nổi lên, sóng to gió lớn, bầu trời đen kịt, không còn trông thấy được gì cả. Mặt trăng
sáng tỏ, mặt biển thanh bình, tượng trưng cho bản tâm thanh
tịnh của tất cả mọi người. Ðó cũng chính là con người chân
thật hay Chân Tâm Phật Tính của tất cả mọi người. Mây đen
hay sóng to gió lớn, tượng trưng cho những phiền não khổ đau,
che lấp từng phần, hay che khuất hoàn toàn, tâm trí con người
không còn sáng suốt trọn vẹn nữa.
Như vậy, câu hỏi tìm Phật ở đâu, làm sao gặp Phật, thật là
quá dễ, ai cũng có thể trả lời được. Trước hết, Phật có
nghĩa là Ðức Phật Thích Ca, vị Phật có thực trong lịch sử,
sinh ra ở Ấn Ðộ, tu hành và thành đạo, cách đây hơn 2500 năm,
ngay trên thế gian này, ở ngay cõi ta bà này, không phải cõi nào
khác, không phải tây phương cực lạc. Ðó là câu trả lời gần
nhất, đơn giản nhất, rõ ràng nhất.
Tuy nhiên, trong kinh sách có câu: "Phật biến nhất thiết xứ",
nghĩa là Phật có ở khắp mọi nơi, Phật ở chung quanh chúng ta,
nhưng chúng ta không hiểu biết, không nhận ra đó thôi. Ðó là
nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm của chữ "Phật". Ðó là con đường
thực tế, giúp đỡ cuộc đời được nhiều ánh sáng giác ngộ
và giải thoát, cuộc sống được nhiều an lạc và hạnh phúc, con
người được nhiều an nhiên và tự tại, giảm bớt phiền não
và khổ đau.
Trong kinh sách cũng có câu: "Tâm, Phật, chúng sinh, tam vô sai
biệt". Nghĩa là: "Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác,
không sai biệt".
Phật và chúng sinh bản nguyên tính thường rỗng lặng, trong kinh sách gọi là không tịch. Tâm của người nào không chất chứa
bất cứ hình ảnh của chúng sinh trong ba cõi, sáu đường, hoàn
toàn trống rỗng, tĩnh lặng, tâm người đó chính là tâm Phật.
Chư Tổ cũng có dạy: "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật", chính là
nghĩa đó vậy.
Khi thấy người nào vào chùa, van xin cầu khẩn chư Phật ban cho
điều này điều kia, chư Tổ thường dạy: Ngươi cõng Phật đi
tìm Phật! Nghĩa là chư Phật đã bỏ những điều phiền não,
chỉ dạy chúng ta pháp môn tu tập để giải thoát, để thành
Phật, chúng ta không chịu tu học, để tự mình thoát ly phiền
não khổ đau, trái lại chúng ta van xin cầu khẩn những điều
phiền não, chẳng hạn như: tiền tài, danh vọng, ước gì được
nấy, nhất bản triệu lợi, buôn may bán đắt, thi đâu đậu đó,
bình yên vô sự, nhà cao cửa rộng, điều cuối cùng là: cầu
vãng sinh cực lạc quốc! Cầu không được, khổ là cái chắc!
Cầu bất đắc, tức khổ không sai!
Chúng ta có thể tìm thấy hình ảnh Phật, qua các vị chân tu
thực học, giới đức tròn đầy, là điểm tựa, là chỗ quy
ngưỡng, để chúng sinh tìm được sự an lạc khi gần gũi. Chúng
ta có thể tìm thấy Phật ở khắp nơi trên thế gian này, chỗ
nào có tình thương ngự trị, có từ bi hỷ xả hiện tiền, là
có Phật ở ngay nơi đó. Bất cứ người nào, dù không là Phật
Tử, dù là Phật Tử tại gia hay xuất gia, mà trong một khoảng
thời gian nào đó, phát tâm bồ đề, khai mở Chân Tâm, thực hành
hạnh lợi tha, vì người quên mình, thể hiện bốn tâm lượng
rộng lớn: từ bi hỷ xả, thì ngay trong giây phút đó, người ấy
đang sống với tâm Phật, như một vị Phật.
Nhưng sau phút giây giác ngộ đó, người ấy trở lại cuộc sống
tầm thường, thì tâm Phật lại tiềm ẩn, chờ cơ hội khác để
phát huy. Phật là con người giác ngộ trọn vẹn và vĩnh viễn,
lúc nào cũng tỉnh thức và sáng suốt. Chúng sinh khác Phật ở
chỗ: chỉ lóe sáng trong giây phút, rồi lại chìm đắm trong bóng
tối vô minh. Tại sao vậy? Bởi vì, con người không đủ sức
vượt khỏi tam giới, không đủ sức ra khỏi căn nhà lửa, không
đủ sức chống cự sức mạnh của con trâu tâm ý, nghĩa là con
người bị "nghiệp thức che đậy" và thường hay "biết mà cố
phạm"!
Ðể có cái nhìn thực tiển và có phương pháp thực hành, trong
cuộc sống hằng ngày của người Phật Tử, tại gia hay xuất gia,
Chư Tổ có dạy:
"Chúng sinh nhìn Chư Phật như chúng sinh, cho nên phiền não khổ đau.
Chư Phật nhìn chúng sinh như Chư Phật, cho nên Niết bàn tự
tại".
Nếu hiểu biết một cách thấu đáo, một cách tường tận lời
dạy này, chúng ta liền biết làm sao gặp Phật, hay tìm Phật ở
đâu? Chúng ta thường hay nghĩ rằng: Phật ở Tây phương cực
lạc, Phật ở trong chùa, Phật ở trong kinh sách, Phật ở trong
các bức tượng bằng gổ, bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng, hay
bằng tranh vẽ. Còn chung quanh toàn là chúng sinh tất cả! Chính bởi cái nhìn, cái hiểu biết, cái suy nghĩ, cái quan niệm như
vậy, cho nên con người gặp nhiều phiền não khổ đau, không sao tránh khỏi, không bao giờ dứt.
Con người không biết rằng: chính mình có Chân Tâm, Phật Tính,
và mọi người chung quanh cũng y như vậy, không khác. Con người đeo cặp mắt kính chúng sinh, tức nhìn đời qua tâm vọng động, cho nên nhìn ai cũng thấy chỉ là chúng sinh, nhìn ai cũng chỉ thấy tật xấu của họ, nhìn ai cũng thấy đáng ghét, nhìn ai
cũng thấy đáng đề phòng, nhìn ai cũng thấy muốn xa lánh, nhưng không bao giờ, nhìn lại chính mình, xem tốt hay xấu, cho nên gặp nhiều, phiền não khổ đau, rồi chờ khi chết, lết về tây
phương, nương về cực lạc, để tìm gặp Phật, làm sao gặp
được?
Còn chư Phật và những người giác ngộ, biết tu tâm dưỡng
tính, đeo cặp mắt kính thanh tịnh, nhìn đời bằng bản tâm thanh
tịnh, nhìn ai ai chung quanh cũng thấy được họ có Chân Tâm,
Phật Tính, nhìn ai ai chung quanh cũng hiểu biết họ là vị Phật
sẽ thành trong tương lai, gần hay xa tùy theo công phu tu tập của mỗi người, nhìn ai ai chung quanh cũng hiểu biết họ có những điều hơn mình, đáng cho mình học hỏi, nhìn ai ai chung quanh cũng thấy được con người chân thật, không phải con người hiện
tướng tham đáng ghét, không phải con người hiện tướng sân dữ
dằn dễ sợ, không phải con người hiện tướng si khờ khạo ngu
ngơ.
Cho nên chư Phật và những người giác ngộ, biết tu tâm dưỡng
tính, luôn luôn an nhiên tự tại, bình tĩnh thản nhiên, chứng
được cảnh giới niết bàn hiện tiền. Chúng ta có giác ngộ,
mới có cuộc sống an lạc và hạnh phúc như vậy, mới giải
thoát khỏi phiền não và khổ đau.
Cuộc đời có ý nghĩa, cuộc đời đáng sống, kể từ đây!
Tóm lại, trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
"Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai".
Nghĩa là: Phàm ở trên thế gian này, tất cả những gì có hình
tướng đều hư vọng, có ngày cũng phải bị hư hao, hoại diệt,
kể cả những bức tượng Phật, dù làm bằng vật liệu gì đi
nữa cũng vậy, kể cả tấm thân tứ đại, sau trăm năm cũng
phải bỏ lại. Nếu chúng ta nhìn mọi người, không qua hình
tướng bên ngoài, không phân biệt kỳ thị, không thành kiến bất
công, lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy được Như Lai, tức là thấy
được Chân Tâm Phật Tính, của mình và của mọi người, đồng
nhất không khác! Ðó chính là con người chân thật, bất sinh bất
diệt. Kiến Như Lai tức là ngộ đạo, tức là thoát ly sinh tử
luân hồi.
Cũng trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Nhược dĩ sắc kiến ngã.
Dĩ âm thanh cầu ngã.
Thị nhơn hành tà đạo.
Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa là: Nếu người nào nhìn qua sắc tướng, diện mạo, hoặc
do âm thanh, mà cầu Phật, hoặc cho rằng có hình tướng như vậy, có âm thanh như vậy, mới phải là Phật, thì người đó đang đi
sai đường, lạc lối, không thể nào gặp được Phật, không
thể nào thấy Như Lai. Nói một cách khác, những người cứ
tưởng: lạy tượng Phật nhiều, tức là hình tướng, tụng kinh
Phật nhiều, tức là âm thanh, thì được gặp Phật, nằm mơ
thấy Phật, những người như vậy, chẳng hiểu biết gì, đang
hành tà đạo, làm sao hiểu được Như Lai? Tại sao vậy?
Bởi vì, Phật hay Như Lai chỉ về tâm tính, vô hình vô tướng,
không có hình tướng có thể thấy được bằng đôi mắt thịt
của con người. Bởi vậy cho nên, muốn thấy được Như Lai,
muốn gặp được Phật, con người phải phát huy trí tuệ bát
nhã, phải nhận ra con người chân thật, nhận ra Chân Tâm Phật
Tính của chính mình và của mọi người chung quanh chúng ta.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, và trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
"Sinh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền".
"Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".
Nghĩa là: Khi nào trong tâm con người, những niệm lăng xăng lộn xộn không còn khởi lên, chẳng hạn như niệm tham, niệm sân, niệm si, khởi lên rồi lắng xuống nên gọi là: sinh diệt, ngay
lúc sinh diệt chấm dứt, không còn đó, tâm trí bình yên lặng
lẽ, không xáo trộn, chẳng bất an, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên
tự tại, cho nên gọi là: tịch diệt hiện tiền, hay tịch diệt
vi lạc, tức là cảnh giới an lạc, niết bàn tự tại, hiện ngay
trước mặt.
Tâm trạng bất an vì những niệm sinh diệt, gọi là tâm chúng
sinh. Tâm sinh diệt diệt rồi, không còn lăng xăng lộn xộn nữa,
trở nên tâm không tịch, trống không và tịch tịnh, hoàn toàn
thanh tịnh, gọi là: bản tâm thanh tịnh hay Tâm Phật.
Như vậy muốn tìm gặp được Phật, chúng ta chỉ cần hành trì
các pháp môn, dù thiền tông, tịnh độ tông, hay mật tông, tức
là: thiền quán, tọa thiền, thiền hành, tứ oai nghi thiền, tụng
kinh, niệm Phật, trì chú, cho đến mức rốt ráo, đạt được
trạng thái "nhất tâm bất loạn".
Lúc đó, chẳng những chúng ta gặp được Phật, mà chính chúng ta vừa trọn thành Phật Ðạo đó vậy./.
http://www.phattuvietnam.net/feed/tuhoc/giaolycanban/