LTS: Chị Lâm Bích Thy, con gái nhà thơ Yến Lan đang chuẩn bị cho xuất bản Hồi kí “Về người cha thi sĩ với nhiều thông tin chưa công bố liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Yến Lan. Được sự đồng ý của tác giả Lâm Bích Thủy, bắt đầu từ số (02 bộ mới) này VNBĐ lần lượt giới thiệu một  số đoạn trích từ Hồi kí trên.

 Người bạn gái của ba tôi /          
 Lâm Bích Thủy

          Nhắc đến những người bạn thân thiết của ba, nếu không nhắc tới cô Châu Thị Hạnh là thiếu sót lớn. Bởi lẽ người bạn gái này đã để lại trong lòng ba tôi những dấu ấn khó quên. Hơn nữa, cô là người tài trợ cho chuyến đi ra Huế, để rồi từ Huế ông viết vở kịch thơ đầu tiên của nền văn học Việt Nam - “Bóng giai nhân”.
           Cô chính là vợ ông Hoàng Phê, giáo sư, Nhà nghiên cứu ngôn ngữ và giảng dạy tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Bà mẹ của ông Phê chính là người đã chăm sóc ba tôi khi ông bị thương trong kháng chiến.
           Trước khi lấy ông Hoàng Phê, cô là người mà vợ chồng bác Mộng Tuyết - Đông Hồ muốn tác hợp cho ba tôi, khi ông vào Hà Tiên thăm họ.
  Cô là người khiến ba tôi vô cùng ngạc nhiên về tấm thịnh tình đối với bạn bè. Thư gửi chú Khổng Đức - nhà nghiên cứu Văn Học hiện đại, ba viết:
           “Kỷ niệm về Hà Tiên thì nhiều lắm và là cả một trời tình cảm. Người bạn gái - người tôi viết ở mấy dòng đầu nơi bài hồi ký “Chiều chiều mây kéo về kinh” gửi Chế Lan Viên sáng nay. Đó là câu chuyện thuộc về tâm lý kỳ lạ và độc đáo, cho đến bây giờ tôi cũng chưa hiểu ra sao, một con người tốt tuyệt vời và cũng lãng mạn tuyệt vời. Thong thả tôi sẽ kể lại vài nét cho anh rõ. Đó là nguồn thơ tôi viết ra mấy bài: Sầm Sơn và Ca Thương của Trống Mái…
Thôi xin dừng bút. Thư đã quá dài và hơi bận rộn.”
           Kể lại sự gặp gỡ ban đầu với cô Châu Thị Hạnh, ba tôi cho biết:
           Lần vào Sài Gòn thăm nhà thơ Lê Tràng Kiều rồi theo ông lên Hà Tiên thăm vợ chồng nhà thơ Đông Hồ - Mộng Tuyết. Bác Tuyết có cô bạn gái hiền lành, chăm ngoan, muốn ghép đôi cho ba. Bác đã tế nhị, tạo cơ hội cho hai người làm quen. Quê cô ở tận Hội An; tính tình cởi mở, tốt bụng. Qua cuộc gặp này, hai người đều có cảm tình nhau. 
 Lãng mạn làm sao, lần đầu tiên gửi thư cho ba, không rõ địa chỉ, chỉ nghe nói anh ta sống ở chùa Ông - Bình Định; cô mạnh dạn gửi thư ra, đề ngoài bì:
                               Kính gửi: Thi sĩ Xuân Khai
                                             Ở chùa Ông Bình định.

          Ấy thế mà thư cũng đến tận tay người nhận.
           Trong sinh hoạt thường ngày, tôi có nghe ba nhắc tên cô. Kể về trường hợp cô với bạn, ba nói “Đó là người con gái có tâm hồn kỳ lạ”. Lúc đó, những chuyện ba kể, tôi không để ý, đến khi ông mất, lục tài liệu, thấy có xấp thư dày cộp, cùng một nét chữ. Người gởi là Châu Thị Hạnh. Tôi tò mò, xem vài bức. Thư cô viết đậm tình, trẻ trung, chân thật làm sao ấy!
             Năm 2001, khi giúp má viết hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh”, tôi nhớ đến cô, hy vọng qua cô, sẽ có thêm tư liệu về cha ở thời trẻ trung, để hồi ký thêm phần hấp dẫn. Gửi thư cho cô tôi tha thiết khẩn cầu:
           “Cô ơi! chép cho cháu vài bài thơ mà ba cháu tặng cô thời hai người mới quen. Cháu đang giúp má viết hồi ký về ba. Cô sẽ là một nàng thơ trong hồi ký của cháu nhé”. Song cô hồi âm bằng lá thư, chữ viết khó xem và không thẳng hàng:  
                                   Hà Nội, ngày 18 tháng 2 năm 2001
           Cháu Bích Thủy thân mến, cô xin cảm ơn cái thư của cháu! Viết hồi ký về ba mà có những tên người bạn của ba cháu là hay lắm, hồi ký thêm phần sinh động, thế mà cô không đáp ứng yêu cầu của cháu được. Cô xin cháu! Cô tha thiết đề nghị cháu đừng để tên cô vào một bài nào của cháu viết về ba cháu. Mấy lý do cụ thể:
           1. Cô chỉ là người đọc và thích thơ của ba cháu. Đọc mà còn nhiều bài chưa hiểu. Cô không biết gì về thi tứ thì làm sao là bạn của nhà thơ như nhà thơ Yến Lan nổi tiếng trên các báo…
           2. Ba cháu có tặng cô bài nào đâu! Có bao giờ nhắc tên cô đâu! Hãy làm theo ý ba cháu.
  Cách đây năm sáu chục năm, cái tuổi sắp bước vào đời. Cuộc sống chưa biết gì về đời mà ba cháu đã gửi cho cô 3 tập giấy vở học trò với rất nhiều bài thơ với một lời dặn: “Chia nhau cất giữ vì sắp chiến tranh! Con người sẽ mất còn thơ sẽ sống mãi với đời”. Thế mà cô không giữ được vì cô không biết cách giữ, vì chạy bom trong kháng chiến 9 năm đã mất hết rồi. Năm hòa bình cô mới ở Việt Bắc về (1956 - 1957) cô nhớ không chính xác. Có anh bạn của ba cháu, nhà văn Nguyễn Đình (đồng hương với cô) gặp cô và kể chuyện có biết ba cháu. Cô nhờ anh Đình nói giúp với ba cháu: “Cô tạ lỗi là không giữ được mấy tập thơ đó”. 
 3. Trước 1945 làm được bài thơ nào ba cháu gửi ngay cho cô, lúc ấy cô chuẩn bị đi kháng chiến, cô có báo cho ba cháu. Ba cháu chỉ viết lại có mấy câu: “Chắc là không còn gặp nhau, khi nào ốm đau thì nếu có thể hãy tìm gặp nhau”.  Năm 1996 cô mới biết ba cháu ốm. Cô đã viết thư vì chắc chắn là không đi thăm được! Ba cháu trả lời bằng 4 câu thơ: 
                              Cái hẹn năm xưa đã lỡ rồi
                              Để trong chờ đợi nóng lòng ai
                              Tay bưng thuốc đắng nhìn xuyên chén
                              Năm tháng còn trên mấy đốt tay 
                                                           Hẹn (3/1972)

Chữ “Cái hẹn” của ba cháu tuyệt vời không phải lời hẹn ước của nam nữ, cũng không phải câu hò hẹn mà là cái hẹn không có ngày, cái hẹn khi ốm đau. Đúng là giọng và lời của một nhà thơ lão luyện! Mà là nhắc lại cái ngày xa xưa ấy cách đây 1/2 thế kỷ. Trong bài “Độc ẩm”:

Uống ngụm đầu tiên những ước mong
Đưa mình trở lại chốn Thành Tô
Hồ Đông tưởng cạn từ năm ấy
Với chén trà chuyên kết ban đầu
 Chữ tưởng cạn ba cháu dùng câu dùng chữ thì không ai giống được. Tính cách bộc lộ là rất muốn ngao du với thiên hạ, gặp lại cảnh cũ, bạn xưa chưa quên vì nước Hồ (tức tình bạn của nhà thơ Đông Hồ - Mộng Tuyết NV) chưa cạn. Ba cháu có một nội tâm rất cao thâm, quên mình mà chỉ sống với thơ ca, kín đáo, thầm lặng không thích ồn ào, không thích dùng chữ “to lớn".
           Một lần nữa xin cảm ơn cháu và thiết tha đề nghị đừng viết tên cô vào đâu hết.

Thân ái gửi thăm gia đình cháu.
            Năm tháng trôi qua, mỗi người đều có gia đình và con cháu đề huề. Trong gia đình riêng, họ đều là người chồng, người vợ chung thủy, rất mực yêu thương cái tổ ấm của mình. Và dẫu cho cuộc sống còn nhiều bề bộn với bao toan tính, nhưng tình bạn ba tôi và cô vẫn nguyên vẹn.
           Sau giải phóng, ba tôi về sống tại căn nhà trước đây, ở thị trấn bé nhỏ, đìu hiu thuộc Bình Định. Từ thủ đô Hà Nội, tháng nào cô cũng thư vào thăm. Cô quan tâm đến từng bữa ăn, viên thuốc cho ba. Mỗi lá thư là sự cổ vũ, động viên để ba tôi vượt qua bệnh tật. Không có lá thư nào quên dặn dò thấu đáo: đừng quên uống thuốc, ngày uống mấy lần, uống vào lúc nào, như dặn một đứa trẻ.
 Xin chép lá nữa. Thư này, chữ dễ đọc hơn.
                               Hà Nội, ngày 10 tháng 2 năm 1996
 Kính gửi anh chị Yến Lan yêu quí!
Anh Yến Lan ơi! Đêm qua anh có ng được không. Có ho nhiu không hanh? Sáng dy có thy trong người d chu không?
           Mỗi ln ch đọc thư tôi cho anh nghe, anh hãy coi như tôi đang ngi bên anh. Tôi đến thăm anh đấy mà. Tôi đang xoa nhng ngón tay ca anh trong hai bàn tay tôi. Phải gi cho m bàn tay, bàn chân. À anh có chu khó hàng gi ung mt thìa xúp không nh, ri mt thìa nước, thìa sa na ch!
           Tôi kể v tôi nhá! Hôm qua có đêm thơ “Mng Đảng, mng xuân trên ti vi” anh có xem không? Có mi mt không, anh nhìn có rõ không? Gầđây ti vi hay có mc này. My nhà thơ cao tui hay ngi lđọc và ngâm nhng bài thơ hay. Thy cô giáo cũng hay t chc cho các em sinh viên đọc thơ ca mình. Tôi rt thích nghe nhưng không nh câu nào c, ch thnh thong nhvài câu của anh Xuân Sách. “Nhà càng lộng gió, thơ càng nhạt”. Tôi b mt xoong tht cháy đen vì c ngi nghĩ đến câu thơ này.
           Bữa khác ch vì cười lúc đang ăn cơm b sc ho phi b ba cơm vì câu: “Phật Tây Phương gầy tôi thì béo”.  Nào tôi đã gp anh Xuân Sách đâu nhưng tôi rt quí anh y. Giã, tht làm sao mà anh đọc và tìm ra được mt cái gì đặđim ca mi nhà thơ, mà hàng trăm nhà thơ thì gii quá.
           Tôi mới vđọc bài “Uống rượu với bạn đồng hương” trong cun “Hoa Với Rượu”. Đọc li thôi ch trướđây tôi đã đọ báo nào ri. Vui, vui và đầy nha sng. Nói v say thì không có câu nào ví được vi:
 Đất say đất cũng lăn quay 
Trời say mt cũng đỏ gay ai cười.
 Chị Yến Lan ơi! Hôm nay bnh tình anh thế nào ri h ch? Ch đọc trước thư tôi, ch nào không nên đọc thì b đi nhé. Tôi không biết thế nào nhưng tôi c cho là bnh nng rđấy. Ch c d cho anh y ung xúp mt gi mt thìa ch . Hin nay có cháu nào cùng  vi ch, các cháu thay phiên nhau xoa hai bàn tay hai bàn chân. Phi gi m cho bt run. À mắt anh có còn nhìn thy ch to không? Có nhìn được bnh, hình không chị? Ch bn lm thì không phi tr li thư cho tôi đâu, ch bo cháu nào viết cho tôi vài câu, ví d như: hôm nay anh bt ho. Anh vui hay bun. Tôi rt thông cm vi ch
                                                Thân ái và ký tên.
           Tôi nhận ra tình bạn hai người thật tuyệt vời! Tôi mong mình có được người bạn như vậy! Bạn trai của tôi ư? Khi bị khước từ họ trở nên xa lạ, có người còn không muốn đội chung trời với tôi. Còn ba và cô, tuy ai cũng có gia đình riêng, song vẫn lo lắng và quan tâm đến nhau. Tôi trân trọng tình bạn thủy chung trước sau như một của hai người.
           Hè năm 2002, ra thăm Hà Nội, tôi và má đem Hồi ký “Yến Lan, nhmãi v anh” vừa xuất bản, tặng cô. Cô liền khoe “Mình cũng vừa xem bài giới thiệu trên Báo “Người Lao Động”. Nói rồi cô vào nhà lấy ra một bìa sơ-mi cứng, màu hồng, vân đen; bên trong là những mẫu giấy được cắt từ báo ra. Cô cẩn thận lấy từng mẫu đưa tôi xem. Đó là những bài viết về Yến Lan. Tôi sững sờ trước sức nặng “ngàn cân” của sự thủy chung, trọn vẹn, giàu tính nhân văn mà cô dành cho ba tôi.
 Trước khi quay vào Sài Gòn, tôi đến thăm cô lần nữa. Cô nhìn tôi cười, nói nhỏ “Cô xem xong Hi ký ri, cháu giúp  má viếđược hi ký này là gii lm! Còn điu này, cô là người Hi An ch không phi người Nam B đâu” Rồi cô nói nhỏ với theo “Ba cháu là một ngườđặc bit, rt khác vi nhng ngườiđàn ông khác. Ba cháu ý nh lm!”.
           Có gì đó sâu thẳm trong trái tim người đàn bà này mà tôi chưa rõ khi nói với tôi: “Kể t khi biết ba cháu đến nay, h đọbáo thấy tên Yến Lan thì cô lp tc ly kéo ct và gi cn thn, không sót bài nào”. Câu cô nhận xét về ba tôi “ba cháu ý nhị lm” khơi gợi trong tôi sự tò mò sẵn có. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được điều ý nhị của ba tôi mà chỉ có cô mới thấu đáo; đó là khi đọc thơ của ông, cô nhận ra ngay “chữ nào, câu nào là ông dành cho cô”  Ví dụ bài thơ “Xào xạc lá đa”, viết tại Hà Nội, song hoài niệm về cái thuở hai người mới quen đã quay trở lại:

                                Xào xạc sân chùa rng lá đa
                                Tuổi thơ như thế đến tìm ta                 
                               Tiếng trong, tiếng đục nhòa nhân nh
                                Tô thếp bao nhiêu v nht m  

    Thực ra cô quá lo xa đấy thôi. Mỗi lá thư cô gửi cho ba; má tôi đều cảm nhận được tình nồng thắm, thiết tha giữa hai người, song thật khó giải thích cho đúng nghĩa, vì nó không mang dáng vẻ của tình yêu giữa nam nữ để người thứ ba hiểu nhầm. Chẳng thế mà có lần, má tôi đã hỏi, và cũng tự hỏi mình “Tại sao hai người thương nhau như vy mà không ly nhau nh?”. Tôi nheo mắt, nhìn má cười ý nhị, chậm rãi thưa:  “Nếu nói v tình bn ca hai người thì hơi quá, nhưng v tình yêu thì chưa thy gì”. Câu nói của tôi làm bà tức cười, mắng yêu: “Cha cái con này!”
 LBT
http://maithin.vnweblogs.com/post/937/425184