http://www.tuvienquangduc.com.au/Danhnhanvn/94nitruongnhuhoa.html
( 1925 – 2006 )
I . THÂN THẾ:
Ni Trưởng họ Hứa húy Thị Hai, sinh ngày 07 / 07 năm Ất Sửu (1925 ), tại làng Tân Nhựt, tỉnh Chợ Lớn – Sài Gòn.
Thân phụ là ông Hứa Khắc Lợi; Thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Năng; Gia đình có 02 người con, Ni Trưởng là chị cả và người em trai là Hứa Khắc Tuấn.
Cả nhà gồm 04 người, sau khi hiếu nghĩa vẹn toàn, tất cả đều xả tục xuất gia, trở thành các bậc Chơn Tăng. Cụ ông là Đại lão Hòa Thượnh thưọng Thiện hạ Hòa, nguyên là Viện Chủ Tổ Đình Ấn Quang, một bậc Cao Tăng Thạc Đức trong thời cận đại; Cụ bà là Sư Bà Như Nghĩa; Người em trai là Đại Sư Tịnh Đức, vị Giáo Thọ lỗi lạc của Phật Học Đường Phước Hòa tỉnh Trà Vinh, thuộc Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt, nhưng Đại Sư mất sớm khi tuổi đời vừa mới 29.
II . XUẤT GIA & HỌC ĐẠO:
Ni Trưởng xuất gia học đạo với nhiều nhân duyên thuận tiện,vào Thập niên 30, khi phong trào Chấn Hưng Phật Học ra đời, rất nhiều Phật Học Đường mở khắp nơi.
Năm Đinh Sửu (1937), vừa tròn 12 tuổi, Ni Trưởng được gia đình cho xuất gia thọ giáo với Hòa Thượng Viện Chủ Chùa Huê Lâm; cầu pháp với Hoà Thượng thượng Thiện hạ Hòa, Pháp danh Diệu Liên, tự Chơn Diệu, hiệu Như Hoa, đời thứ 10 thuộc Thiền phái Liễu Quán. Sau khi xuất gia, Ni Trưởng tu học tại Chùa Huê Lâm - Chợ Lớn Sài Gòn.
Năm Canh Thìn ( 1940 ), Ni Trưởng theo học tại Chùa Giác Linh ở An Hòa, Cái Tàu Hạ, Sa Đéc.
Năm Tân Tỵ (1941), Ni Trưởng theo học tại Ni Trường Phật Học Kim Sơn – Gia Định; cũng trong năm này, Ni trưởng thọ giới Sa-di Ni tại đây. Ni Trưởng là một trong những Học Ni nhỏ tuổi nhất của Ni Trường Kim Sơn, với căn bản Phật Pháp được un đúc từ khi còn tấm bé.
Năm Nhâm Ngọ ( 1942 ), Ni Trưởng được Sư Bà Kim Sơn gởi ra Ni Viện Phật Học Diệu Đức - Huế tham học . Một năm sau ( Qúy Mùi ,1943 ), Ni Trưởng lại trở về Ni Trường Phật Học Kim Sơn và được thọ giới Thức Xoa tại đây.
Với ý chí cầu học không ngừng, năm Giáp Thân ( 1944 ), Ni Trưởng cùng một số Pháp hữu đến cầu học với Hoà Thượng Huệ Quang ở Chùa Long Hòa - Tiểu Cần - Trà Vinh.
Năm Đinh Hợi (1947 ), Ni Trưởng thọ Tỳ Kheo Ni giới tại Đại Giới Đàn Thiên Bửu Hạ - Ninh Hòa - Khánh Hòa , do Hòa Thượng Phước Huệ Chùa Hải Đức - Nha Trang làm Đàn Đầu; và cũng trong dịp này, Giới Đàn chuyển về truyền Bồ Tát giới và Nhiên hương tại Chùa Hải Đức – Nha Trang . Pháp danh Chơn Hiệu được Hoà Thượng Phước Huệ Chùa Hải Đức cho trong khi thọ giới tại Đại Giới Đàn này.
Năm Canh Dần ( 1950 ), Ni Trưởng trở về tu học tại Chùa Huê Lâm và Ni Trường Phật Học Nam Việt Từ Nghiêm.
Năm Tân Mão ( 1951 ), Quý Hòa Thượng trong Ban Giám Đốc Phật Học Đường Nam Việt Chùa Ấn Quang khai giảng Ni Trường Dược Sư, Ni Trưởng được theo học tại đây. Năm Đinh Dậu ( 1957 ), Ni Trưởng được đề cử chức vụ Tri Sự Ni Trường Dược Sư.
III . HÀNH ĐẠO:
Với đức tính ôn hòa, nghi dung khiêm tốn, Ni trưởng tiêu biểu cho các bậc tiền bối của Ni giới Miền Nam vào thời hậu bán thế kỷ 20 . Sau khi thọ Đại giới năm Đinh Hợi, Ni Trưởng cùng với Ni Trưởng Như Liên khai sơn Chùa Vạn Thạnh – Nha Trang; Chùa này nguyên là Miếu Vạn Thạnh. Đây là ngôi Chùa Ni đầu tiên ở Nha Trang, và được xem là bước khởi đầu cho công cuộc hoằng hóa của Ni Trưởng . Lãnh Chùa xong, nhị vị Ni Trưởng độ một số Ni Chúng . Thời gian sau, Ni Trưởng một mình trở vào miền Nam tiếp tục tham vấn tu học .
Năm Đinh Dậu ( 1957 ), sau khi dư khóa tu học tại Ni Trường Dược Sư, Ni Trưởng trở lại Chùa Vạn Thạnh, giảng dạy Phật pháp cho Ni Chúng tại Đây.
Năm Qúy Mão ( 1963 ), Ni TRưởng cho trùng tu Chùa Vạn Thạnh để Ni Chúng có nơi tu học.
Năm Bính Ngọ ( 1966 ), Ni Trưởng xây dựng trường Bồ Đề Trí Đức và Bồ Đề Nguyệt Quang – Nha Trang làm cơ sở giáo dục cho con em Phật Tử . Cũng trong thời gian này, Ni Trưởng được đề cử làm Giới Sư cho các Đại Giới Đàn Kiều Đàm tổ chức tại Trung Ương Ni Bộ Từ Nghiêm – Sài Gòn.
Năm Kỷ Dậu (1969 ), Ni Trưởng đảm nhận chức vụ Tổng Thư Ký Ni Bộ Bắc Tông, thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhiệm Kỳ III ( 1969 – 1973 )
Năm Canh Tuất (1970 ), Ni Trưởng giữ chức Giám Viện Trung Đẳng Phật Học Chuyên Khoa tại Ni Viện Hoa Quang – Phú Nhuận ; đồng thời nhận trách nhiệm Giám Học Phật Học Ni Viện Từ Nghiêm (1970 – 1976 ). Cũng trong năm này, Sư Bà Như Hạnh trụ trì Chùa Phật Tánh Trà Ôn, hiến cúng Chùa Phật Tánh và ký thác đệ tử cho Nì Trưởng giáo dưỡng .
Năm Nhâm Tý ( 1972 ), nhận trụ trì Chùa Viên Giác, Quận 8 – Sài Gòn; kể từ khoảng thời gian này về sau , Ni Trưởng thường được cử làm Đệ Nhứt Tôn Chứng, kiêm Điển Lễ trong các Đại Giới Đàn Ni .
Năm Qúy Sửu ( 1973 ) làm Đặc Ủy Xã Hội của Giáo Hội PGVNTN tỉnh Gia Định .
Năm Át Mão ( 1975 ), mở lớp Phật Pháp Gia Giáo tại Bồ Đề Lan Nhã - Quận 10 Sài Gòn; đồng thời được Qúy Ni Trưởng đề cử chức vụ Trụ Trì Tổ Đình Từ Nghiêm để thay thế cho Ni Trưởng Huệ Lâm già yếu.
Năm Nhâm Tuất ( 1982 ), Ni Trưởng tổ chức Lớp Học Phật Pháp Gia Giáo tại Chùa Giác Hoa - Quận Gò Vấp.
Từ năm Giáp Tý tới năm Tân Tỵ ( 1984 – 2001 ), Ni Trưởng làm Chứng Minh Thiền Chủ tại các Trường Hạ : Dược Sư, Phổ Đà, Liên Hoa, Phước Thiện, Vạn Phước.
Năm Giáp Tý ( 1984 ), Ni Trưởng làm Giáo Thọ Ni, tại Giới Đàn Nhơn Thứ, Chùa Linh Phong - ĐàLạt .
Năm Kỷ Tỵ ( 1989 ), Ni Trưởng nhận Trụ Trì Chùa Mai Sơn – Bình Chánh .
Năm Ất Hợi ( 1995 ), Ni Trưởng làm Giáo Thọ Ni, tại Giới Đàn Chùa Long Thiền Biên Hòa .
Năm Bính Tý ( 1996 ), Ni Trưởng làm Yết Ma Ni, tại Giới Đàn Minh Tánh, Chùa Thiên Phưóc - Long An ; đồng thời xây dựng Thiền Thất Hương Quang .
Năm Đinh Sửu ( 1997 ), Ni Trưởng thường chủ trì truyền giới Bát Quan Trai hàng tháng cho các Chùa Thích Ca ( Q.3 ), Bồ Đề Lan Nhã ( Q.10 ), Chùa Liên Hoa ( Bình Chánh ) .
Năm Tân Tỵ ( 2001 ),Giáo Thọ Ni cho Giới Đàn Quảng Đức tại Chùa Từ Nghiêm, đồng thời xây dựng Chánh Điện Thiền Thất Hương Quang .
Năm Nhâm Ngọ ( 2002 ), làm Hoà Thượng Đàn Đầu Đàn Thức Xoa, tại Đại giới Đàn Chùa Thiên Phước – Long An ; cũng trong thời gian này được suy cử Ủy Viên BTS Thành Hội Phât Giáo TP. Hồ Chí Minh, tham dư Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo Toàn Quốc nhiệm kỳ V, tại Hà Nội .
Tháng 11 / 2002 , làm Hoà Thượng Đàn Đầu Đàn Sa Di Ni , tại Đại Giới Đàn Chùa Thanh Long – Biên Hòa .
Năm Qúy Mùi ( 2003 ),làm Giáo Thọ và Hòa Thượng Đàn Đầu Đàn Sa Di Ni, tại Đại Gìới Đàn Diệu Hoằng , Chùa Linh Phong - ĐàLạt; làm Giáo Thọ Ni, tại Đại Giới Đàn Thiện Hòa Chùa Từ Nghiêm – TP. Hồ Chí Minh; được mời làm Cố Vấn Ban Chủ Nhiệm lớp Sơ Cấp Phật Học , tại Chùa Vạn Phước - Quận Bình Chánh – TP. Hồ Chí Minh.
Năm Giáp Thân ( 2004 ), làm Hoà Thượng Đàn Đầu Ni, tại Đại Giới Đàn Huệ Thành Chùa Long Thiền – Biên Hòa .
IV . VIÊN TỊCH :
Sau thời gian thọ bệnh, như đã “dự tri thời chí “, ngày mồng 03 tháng 05 năm Bính Tuất ( 29 / 06 / 2006 ), Ni Trưởng quyết định về lại Chùa Vạn Thạnh, nơi mà sáu mươi năm trước Ni Trưởng đã khai sơn ngôi Ni Tự đầu tiên tại TP. Nha Trang, và cũng là nơi Ni Trưởng xây Bảo Tháp an trí Hài Cốt cho Sư Bà Thân Mẫu của Ni Trưởng . Vâng theo tôn ý , các Pháp hữu và đệ tử đưa Ni Trưởng về lại chốn cũ Chùa xưa để an lạc lúc xế chiều . Với tuổi già sức yếu, thân tứ đại đã mõi mòn , biết ngày về với Phật không xa, Ni Trưởng đã dặn dò mọi việc. Ngày 26 / 06 năm bính Tuất ( nhằm ngày 21 / 07 năm 2006 lúc 7g30 sáng, Ni Trưởng đã an lành xả bỏ báo thân, tại Chùa Vạn Thạnh, TP. Nha Trang , Trụ thế 82, với 60 Hạ lạp .
Cả cuộc đời Ni Trưởng là một bài học về thân giáo. Ni Trưởng luôn thể hiện nếp sống của một Lão Ni phụng hành Bát Kỉnh, Giới đức tinh nghiêm, khiêm cung giao tiếp, từ hòa hóa độ, tiếp dẫn hậu lai,… vẫn còn hiện rõ; cùng gương tận tụy hy sinh suốt đời cho sự nghiệp đào tạo Ni tài mà Ni Trưởng lúc nào cũng canh cánh bên lòng .
Hôm nay, Ni Trưởng không còn nữa, hàng môn đồ đệ tử và những người thọ ân Pháp nhũ từ Ni Trưởng lạc lõng bơ vơ, vì đã mất đi một bậc Thầy trí đức kiêm ưu, nghiêm trì giới luật,…
“Than ôi !
Sữa Pháp mất rồi lòng con đói mãi
Biết cậy ai ngày la đêm nhắc
Biết mong ai sớm dắt tối dìu
Biết hỏi ai mở trí nguyên thần
Biết nhờ ai nuôi thân tuệ mạng. “
NAM MÔ TÂN VIÊN TỊCH LIỄU QUÁN PHÁP PHÁI ĐỆ THẬP THẾ, KHAI SƠN VẠN THẠNH NI TỰ, TỪ NGHIÊM, MAI SƠN NHỊ TỰ TRÚ TRÌ, HÚY HÚY thượng DIỆU hạ LIÊN, tự CHƠN DIỆU, hiệu NHƯ HOA TRƯỞNG LÃO TỲ KHEO NI GIÁC LINH.
Môn Đồ Pháp Quyến
Đồng kính ghi
Đồng kính ghi
ĐIẾU VĂN
Thượng tọa Thích Giác Thiện, viện chủ Tu Viện Phước Long.
Thượng tọa Thích Minh Trí, viện chủ chùa Phước Lâm .Tưởng niệm Ni trưởng Thích nữ Như Hoa.
Thượng tọa Thích Minh Trí, viện chủ chùa Phước Lâm .Tưởng niệm Ni trưởng Thích nữ Như Hoa.
Kính bạch Chư tôn Hòa thượng giáo phẩm Phật giáo tỉnh Khánh Hòa.
Kính thưa Chư tôn Thiền đức Ban tổ chức tang lễ.
Kính bạch giác linh Ni trưởng thượng Như hạ Hoa. Viện chủ Phật Học Ni Trường Từ Nghiêm, Viện chủ chùa Mai Sơn, Viện chủ chùa Vạn Thạnh, nguyên Chánh thư ký Ni bộ Bắc Tông.
Cùng môn nhân pháp tử học đồ.
Hôm nay đất Nha Trang mây sầu ảm đạm
Biển Thái Bình sóng dậy đượm màu tang
Không gian mịt mù, gió thu biếng thổi
Cây cỏ chẳng buồn lay, mọi vật rũ cảnh như chờ người vĩnh viễn ra đi.
Kính bạch giác linh Ni trưởng,
Nơi Vạn Thạnh Ni trưởng chấn tích hóa duyên, không phải là quê hương của người sinh ra. Quê hương ấy, đất Bình Chánh, chợ Đệm là nơi chôn nhau cắt rốn , Ni trưởng là con trưởng của cố Hoà thượng Thích Thiện Hoà . Ni trưởng xuất thân trong một gia đình trâm anh thế phiệt, sớm nhận thức được thế sự là vô thường, xuất gia khi tuổi vừa mười sáu, thuận duyên trên bước đường tu học . Với đạo hạnh nghiêm minh và đức tánh từ hòa, nhã kính Ni trưởng được Tăng Ni đồng quý trọng, tài đức của Ni trưởng từng cảm hóa khắp Tây Đông, với sáng tạo tinh thông Ni trưởng từng làm Hòa thượng ni, từng làm yết ma, từng làm giáo thọ, từng làm điển lễ cho các Đại Giới Đàn . Với ngôn từ đạo hạnh, Ni trưởng từng làm giám học cho Ni trường Từ Nghiêm, Dược sư . Lời của Ni trưởng như một mũi tên thẳng về mục đích.
Ôi !
Pháp tướng oai nghi
Pháp từ thanh thoát
Giới đức kim ưu nay còn đâu !
Nơi Vạn Thạnh biển tâm dậy sóng cồn thương tiếc
Đất Nha Trang đưa tiễn bậc chân tu.
Sinh tiền Ni trưởng từng làm đạo nơi miền Nam nước Việt
Bao tòng lâm . Bao già lam . Bao lang nhã nguy nga .
Biết bao tình pháp lữ kính tiếc Ni trưởng.
Biết bao ni chúng học đồ cảm nhận ơn hóa độ.
Sao Ni trưởng không thị hiện viên tịch nơi miền Nam, chốn uy nghi vàng son một thuở, mà lại thâu thần nơi chốn biển Nha Trang ?
Có phải chăng Ni trưởng học đòi đức hạnh của Thế Tôn khi Linh Sơn Pháp hội, khi Trúc Lâm, khi Kỳ Hoàn,, khi Vương Xá kiêu sa mà Thế Tôn lại thị hiện Niết Bàn nơi Sa La song thọ . Ôi gương đức hạnh khi còn sanh tiền, Ni trưởng tam thân hóa đạo, hôm nay tịch diệt chọn nơi chốn không môn xã báo, có phải chăng bậc đại sĩ suốt đời hoằng pháp ; vô kỷ lợi tha .
Ni trưởng là bậc ni lưu mà tâm thức là bậc trượng phu đại sĩ như ngài Quốc sư Ngọc Lâm xưa là bậc thầy của thế chủ, bậc đạo sư của tông môn, suốt đời hoằng pháp lợi sanh từ lầu son phạm vũ đến cung ngọc nguy nga, nhưng đến khi thâu thần ngài lại chấn tích đến vùng cập miệt lệ sa, chọn một ngôi già lam điêu tàn sắp đỗ để tịch diệc .
Giờ đây Ni trưởng viên tịch nơi chùa Vạn Thạnh khiêm tốn này xa nơi kinh đô vàng son quý trọng, là Ni trưởng thể hiện tấm gương trong sạch của người chân tu thực học, Ni trưởng đã thể hiện bài pháp mà Đức Phật dạy trên hai mươi hai năm bằng vô ngôn “ Thị chư pháp không tướng “.
Chúng tôi đứng trước linh quang của Ni trưởng ôn lại đôi nét hành trạng của Ni trưởng mà cũng là bài thuyết pháp để chúng tôi học hạnh.
Các vị môn đồ pháp quyến của Ni trưởng Như Hoa,
Các vị đã có túc duyên sinh được làm người cụ túc,
Các vị lại được xuất gia trong giáo pháp của Như Lai
Các vị lại được bậc thầy mô phạm trượng phu Như Hoa,
Cuộc đời của Ni trưởng Như Hoa là bổn sư của các vị
Bao lời dạy dỗ, bao công hạnh là một bài pháp vi diệu.
Các vị pháp tử học đồ phải học hạnh, noi gương của thầy.
Để làm hành trang tu học cùng hoằng pháp lợi sinh thật chí đạo.
Than ôi !
Đèn thiền xao gió, trăng với lờ mây
Nét bước tượng vương nơi cửa pháp mơ màng trước gió
Tiếng kêu sư tử giữa rừng chiên đàn văng vẳng bên tai
Lẽ chăng hai sắc tướng trò chơi
Đất cửu trụ vẫn chán thân ngũ uẩn
Ngặt vì nỗi sư đồ nghĩa nặng
Trời tứ không còn khóc cảnh song lâm
Đức hạnh Ni trưởng bao lần nêu thiện chí
Gương tánh trong ngần, sóng tình bặt dứt
Xuất gia khi mười sáu tuổi xanh
Cụ túc đăng đàn khi tuổi vừa hăm bảy
Long Triều tự tầm sư thọ phái
Chùa Ấn Quang học lại kinh văn
Diệu Đức thần kinh trung đẳng dự phần
Vạn Hạnh phân khoa Phật học
Gót ni lưu khắp ta bà dạo bước
Chốn môn đình tuân giữ nghiệp gia phong
Bắc tông Ni bộ từng nêu gương thiện chí
Xóm tối ân cần tinh chuyên tu niệm
Xứng ngôi bốn chúng tôn thờ
Đáng bậc mọi người cung kính
Nào ngờ bây giờ,
Chốn song lâm mây ẩn bóng ưu đàm
Đức Thế Tôn an nhiên vào đại định
Miền thiếu thất trăng lòng gương Bát Nhã
Bậc chân tu bỗng chốc lìa trần ai .
Ôi ! thật là một nỗi đau buồn trĩu nặng tiếc thương kính quý một bậc đại sĩ ni lưu chi bảo của tòng lâm.
Tôi đọc trong kinh,
Lời kinh không nói được : “ Thị chư pháp không tướng “
Mây đi ai biết bao giờ lại
Xa cách chân trời dấu nhạn bay
Ánh lửa về đâu khi diêm tắt
Ai nghe tiếng vỗ một bàn tay
Nam mô pháp giới tạng A Di Đà Phật
Ai điếu trọng thu Bính Tuất niên
Tu viện Phước Long.
BAN TỔ CHỨC TANG LỄ
Chứng minh : HT. THÍCH CHÍ TÍN
HT. THÍCH THIỆN BÌNH
HT. THÍCH HUỆ QUANG
HT. THÍCH TRÍ TÂM
Phất trần : HT. THÍCH HUỆ QUANG
Chủ sám : HT. THÍCH NHƯ Ý
Cố vấn : TT. Thích Quảng Thiện
TT. Thích Trí Viên
TT. Thích Minh Thông
Chấp lệnh : HT. Thích Tịnh Nghiêm
TT. Thích Ngộ Tánh
Kinh sư : TT. Thích Nguyên Quang
TT. Thích Minh Châu
TT. Thích Thiện Vinh
TT. Thích Đức Bổn
ĐĐ. Thích Đức Thành
ĐĐ. Thích Giác Nghĩa
Ban tổ chức :
Trưởng ban : NT. Thích nữ Đạt Hương
Phó ban : NT. Thích nữ Như Chánh
NT. Thích nữ Lưu Phương
NT. Thích nữ Như Hạnh
NT. Thích nữ Như Dung
NT. Thích nữ Như Hải
Ủy viên : Ni trưởng Thích nữ Diệu Ý, ni sư Thích nữ Như Minh, ni sư Thích nữ Diệu Thanh, ni sư Thích nữ Diệu Nguyện, ni sư Thích nữ Minh Liễu,ni sư Thích nữ Huệ Như, ni sư Thích nữ Diệu Đức .
Thư Ký : ĐĐ. Thích Nhật Hiếu, ĐĐ. Thích Nguyên Thịnh, sư cô TN. Diệu Phúc, sư cô TN. Thuần Hạnh
Xướng Ngôn : TT. Thích Trí Viên, ĐĐ. Thích Chúc Minh, ĐĐ. Thích Giác Tịnh, ni sư Thích nữ Thông Thuận
Thủ quỹ : Sư cô TN. Như Tuyết, sư cô TN. Minh Hiền
Tiếp tân : TT. Thích Quảng Thiện, TT. Thích Thiện Vinh, ni trưởng TN. Lưu Phương, ni sư TN. Diệu Nguyện, ni sưTN. Huệ Như, ni sư TN. Như Minh, ni sư TN. Diệu Thanh , ni sư TN. Chất Liên, ni sư TN. Như Hân
Cung Nghinh : ĐĐ. Thích Giác Nghĩa
Trần Thiết : ĐĐ. Thích Nguyên Thành
Âm thanh – ánh sáng : GĐPT Vạn Thạnh
Tiếp lễ : Ni sư TN. Minh Liễu, ni sư TN. Diệu Vân, sư cô TN. Thông Mẫn, sư cô TN. Diệu Định, sư cô TN. Viên Tịnh, sư cô TN. Thuần Hạnh.
Dâng lễ : GĐPT Nha Trang
Vận Chuyển : Phật tử Nguyễn Quang Huy
Trật tự : TT. Thích Quảng Thiện, GĐPT Kỳ Viên
Thị giả : Sư cô TN. Huyền Diệu, sư cô TN. Diệu Châu
Hầu kim quan : Điều hành : sư cô TN Diệu Nhàn
Trai soạn : Sư cô TN. Diệu Minh ( HCM )
Hành đường : Ni sư TN. Huyền Quán, ni sư TN. Diệu Giác
Y tế : Ni sư TN. Huệ Hải
Môi trường : Phật tử Vạn Thạnh
|
Tưởng niệm Ân Sư
(bài viết của đệ tử Như Nhật)
(bài viết của đệ tử Như Nhật)
ÂN SƯ
(Thành kính tưởng niệm Ni Trưởng thượng Như hạ Hoa)
Khi nói đến Ân Sư, Sư trưởng hay Giáo thọ Sư. Tất cả đều là tên gọi chỉ cho những bậc Thầy tinh thần, hình thành nên giới thân huệ mạng của người con Phật. Vị Ân Sư mà tôi muốn nói đó là vị Thầy Bổn Sư, người đã trực tiếp đứng ra tác lễ quy y và thế phát cho tôi. Ni Trưởng thượng Như hạ Hoa. Cầm bút viết về Thầy, khi bên ngoài lất phất những hạt mưa nhẹ, thoáng đâu đó cái lạnh dần đổ về. Trong tôi dâng lên bao nổi hoài niệm, cảm nhớ ơn Thầy và hình ảnh Thầy cứ dần hiển hiện trước mắt tôi.
Nhớ lại từ thuở xuất gia nương Thầy tu học, trong số đệ tử của Thầy, có thể nói tôi là người có tánh dị biệt và ngang bướng nhất. Có lẽ vì vậy mà Thầy tôi đã phải thương lo và quan tâm tôi nhiều hơn trong số huynh đệ. Nói như vậy không có nghĩa là tôi luôn được Thầy cưng chìu và cận kề bên Thầy đâu. Bởi thời đó tôi còn nhiều thô vụn lắm, đã vậy thì đừng mong có được cơ hội hầu Thầy. Tuy không được gần Thầy, nhưng tôi không bao giờ có cảm giác Thầy xa cách mình cả. Ánh mắt từ bi và nụ cười bao dung của Thầy đã nói lên được điều này. Vào mỗi khi Thầy đi Phật sự nhiều ngày mới về lại Bổn tự, thấy bóng Thầy ngoài cổng là tôi mừng vui đến reo hò lớn tiếng như trẻ nhỏ mừng mẹ về. Thầy tôi với ánh mắt đầy tình thương và niềm hoan hỷ, khẻ nhìn tôi nở nụ cười rồi nhè nhẹ nói:
- Con đừng lớn tiếng như vậy, đã là Sa di rồi, oai nghi tế hạnh của một cô Ni, con nhớ cần phải giữ gìn.
Tôi nhoẻn miệng cười tươi rồi lại lớn tiếng thưa vang:
- Dạ thưa Thầy con biết rồi!
Ngay đó, hai tay vội bưng miệng, vì biết mình đã phạm lại lỗi lầm. Thay vì quở rầy, Thầy chỉ lại cười và nhẹ nhàng bước đi. Tôi nối gót theo sau mà nghe lòng vui sướng lạ. Niềm vui sướng được đi bên Thầy dù chỉ vài mươi bước...!
Trong sự tu hành, tuy tôi có được nhiều may mắn hơn người, nhưng cạnh đó vẫn là trùng trùng nghiệp chướng luôn bủa vây, khiến cuộc sống tu hành của tôi luôn rất nhiều chìm nổi, lênh đênh, hoạn họa, oan khiên luôn tìm đến tôi không một chút nhân nhượng. Đã đôi lần tôi muốn bỏ cuộc vì mệt mõi, chán chường và tuyệt vọng. Bởi con đường tu sao mà gian nan quá! Nhưng không hiểu sao mỗi lần gặp nạn, mỗi khi có ý định buông xuôi tất cả thì Thầy luôn là người duy nhất bên cạnh giải nạn cho tôi, vực tôi đứng dậy mỗi khi tôi ngã dài trong lý tưởng tu hành. Và với tất cả tình thương, sự kiên nhẫn, Thầy luôn từng bước dắt dìu,an ủi, động viên, khuyến tấn :
- Huệ Nhật, con không được ngã, con hãy cố gắng vững tin mà đi tới…!
Câu nói tuy ngắn gọn nhưng nơi đó dung đầy tình thương của Thầy và tôi luôn nương vào đó mà lần bước đi tới, mãi đến bây giờ , hai mươi sáu năm rồi..!
Hai mươi sáu năm, ngần ấy thời gian, thế mà tôi vẫn chưa có được thành quả lớn lao gì trong tu học, để có thể kính dâng lên Thầy, như một món quà thay cho lòng hiếu đạo.
Người xưa nói : “Khi Thầy còn sống, đệ tử nên theo hạnh Thầy mà hành theo. Khi Thầy qua đời, nên xem nguyện Thầy mà noi theo”
Khi Thầy tôi còn hiện thế, lập hạnh, lập nguyên của Thầy nhiều lắm. Với đức tính nhẫn hòa, khiêm nhượng, nhân từ và độ lượng, Thầy luôn là hình ảnh tiêu biểu của một Đức Ni mô phạm khả kính được bao người ngưỡng quý, mến thương. Không biết phước duyên bao đời, tôi may mắn được nương Thầy thế độ. Nhưng có lẽ, trong đời tôi vẫn còn quá nhiều nghiệp chướng sâu dày, thế nên, dù cố gắng nhiều trong tu tập, nhưng tôi vẫn không thể noi theo được hạnh sáng của thầy. Có lẽ vì vậy mà trên bước đường tu hành tôi luôn gặp thất bại nhiều hơn là thành công, bị khiển trách nhiều hơn là khích lệ. Thật hổ thẹn thay khi nói lên lời này !
Nhiều lần tôi tự hỏi lòng mình :Mình phải thế nào đây để đáp ân Thầy Tổ ?
Một vai trò trụ trì với mái cong Phật lớn, đệ tử đông vầy ?
Một giảng sư thuyết pháp (đó đây ) được nhiều người biết đến ?
Một vài học vị cao trong Phật học ? hay một thành đạt nào đó trong địc vị Giáo hội ?
Mọi điều như thế, có thể nói lên được lòng hiếu đạo của đệ tử đối với Ân Sư hay không ?
Nhớ thuở xưa kia, thiền sư Thần Tán sau nhiều năm du phương tham học với Tổ Bách Trượng. Sau khi ngộ được bản tâm, được tổ Bách Trượng Ấn chứng, liền đó Ngài trở về ngôi chùa củ, nơi chốn của Thầy bổn sư, tiếp tục lặng lẽ với công việc hầu Thầy, làm điệu.
Để đáp ơn Thầy thế độ, thiền sư Thần tán rất muốn giúp Thầy mình cũng được kiến tánh như Ngài. Thế nên, Ngài đã vận dụng mọi phương tiện hết lần này đến lần khác, với hy vọng một ngày rất gần Thầy mình sẽ liễu ngộ bản tâm.
Một hôm, nhân lúc vị Thầy đang chăm chú xem kinh. Ngài Thần Tán đứng bên hầu quạt, chợt thấy con ruồi đang lui hui nhủi đầu vào cửa sổ để tìm lối ra., Ngài Thần Tán liền lớn tiếng nói:
- Thế giới thênh thang rộng mở, sao không chịu ra, lại cứ dùi đầu vào cánh cửa biết đến khi nào mới ra được ?
Liền đó Ngài tiếp bài kệ :
Không môn bất khẳng xuất
Đầu song giả tự si
Bách niên toàn cố chỉ
Hà nhật xuất đầu thì
Tạm dịch:
Cửa trống chẳng chịu ra
Chui cửa sổ thật si
Trăm năm dùi giấy cũ
Ngày nào thoát ra được.
Vị Thầy nghe đệ tử mình nói thế, ngẩng đầu lên nhìn Ngài với đầy vẻ ngạc nhiên, rồi sau đó cuối đầu xem tiếp trang kinh mà không nói lời gì.
Lại một lần khác, nhân khi kỳ lưng cho Thầy, Ngài vỗ nhẹ trên lưng Thầy mà nói:
- Điện Phật tuy đẹp mà thánh không linh
Vị Thầy nghe thế liền nhìn Ngài, Thiền sư Thần Tán lại nói tiếp:
- Tuy Phật không thánh linh, nhưng vẫn có thể phóng quang..!
Sau khi tắm xong, vị Thầy liền hỏi Ngài Thần Tán :
Ngươi đi phương xa học đạo đã ngộ được gì ?
Ngài Thần Tán liền thưa:
- Con ở chỗ của Tổ Bách Trượng đã thấy được con đường tu hành, nay muốn báo đáp ơn Thầy.Liền đọc bài kệ của Tổ Bách Trượng :
Linh quang độc chiếu, quýnh thoát căn trần
Thể lộ chơn thường , bất cầu văn tự
Tâm tánh vô nhiễm, bổn tự viên thành
Đản ly vọng duyên, tức như Chư Phật.
Sau khi nghe xong bài kệ, vị Thầy liền tỏ ngộ khai tâm, bèn trãi tọa, theo pháp thỉnh Ngài Thần Tán đăng tòa thuyết Pháp.
Trong tâm mắt tôi, hình ảnh đó đẹp và cao vút làm sao! Việc làm đáp đền ân Thầy của thiền sư thần tán, nếu không là Bậc Đại khí, Đại lực, Đại hiếu thì sao có được hiếu Đạo, hiếu Tâm tuyệt vời như thế !
Ôn lại gương sáng người xưa, trong tôi dấy lên bao niềm ưu tư, vẫn câu tự vấn: “Phải thế nào đây để cân xứng ân Thầy ?”
Những Bậc đại tu xưa kia dùng sự đạt ngộ để báo đền thâm ân. Còn đối với tôi, một người tối căn, đa nghiệp, mạt hoc… Phải chăng tôi chỉ có thể bắt đầu bằng vào sự tu hành với tất cả thật tâm, thật nguyện, luôn phản hồi chính mình, từng bước đi tới trong sự dắt dìu đầy tình thương của Thầy, dù rằng Thầy nay đã đi rồi.
Một nổi hoài niệm, một nổi ngậm ngùi. Đốt nén tâm hương, con thành tâm khấn nguyện Giác Linh Thầy chứng tri !
Mây đi ai biết bao giờ lại
Xa cách chân trời dấu nhạn bay
Ánh lửa về đâu khi diêm tắt
Ai nghe tiếng vỗ một bàn tay …!
Perth. Tháng 4 năm 2007
Như Nhật
KHOẢNG CÁCH
Mỗi buổi sáng đi học, thay vì ngồi xe đến trường thì tôi lại chỉ thích đi bộ mà thôi. Những lúc như thế tôi có dịp tiếp xúc với bầu trời xanh, ngắm nhìn mây trắng bay và từng đàn chim lượn cánh hót vang, hít thở không khí trong lành của xứ Úc, ngưởi được mùi thơm của cỏ cây và vui cười cùng hoa lá. Tất cả tạo nên bức tranh thiên nhiên đầy sức sống.
Đi dọc theo những lối nhỏ, tôi lại có dịp ngắm nhìn những dãy nhà rất đẹp, rất xinh và trang nhã. Nhà cửa nơi xứ Úc được dựng xây một cách rất thanh nhã và thoáng mát, mà không nhiều cầu kỳ, lộng lẫy như những nơi khác, khiến người nhìn vào luôn có được cảm giác nhẹ nhàng và yên tỉnh. Mỗi nhà đều cách nhau bởi những khoảng đất rộng và được phân chắn bởi những bờ tường khá cao, không nhiều kiên cố nhưng đầy khoảng cách cho nhau.
Khác hẳn với quê hương mình, người ở đây nhà ai nấy ở, không ai qua lại với ai cả. Người ta có thể cả năm suốt tháng không biết mặt nhau, không nói với nhau một lời, dù hai nhà sát cạnh bên. Họ thật sự không có thời gian để nhìn nhau, phần lớn tất cả đều đổ dồn cho việc kiếm ra tiền, phần thời gian còn lại quá ít ỏi, không đủ để trang trãi cùng với người thân là vợ hay chồng, là con hay Mẹ… nói chi đến những người đâu đó cạnh nhà. Có qua đây rồi, tôi mới thấy được giá trị và sức mạnh của đồng tiền là như thế nào. Tất cả mọi người đều phải làm việc hết sức mình để đáp ứng cho nhu cầu sống quanh mình. Nhìn ra cuộc sống bên ngoài, ai ai cũng quá nhiều lo toan, chạy đuổi theo cơm áo, bạc tiền, danh thơm tiếng tốt và sự hưởng thụ nào đó. Còn những người như chúng tôi lẽ ra phải nhiều thảnh thơi lắm, bởi là con Phật mà. Ấy thế mà chúng tôi cũng phải bộn bề, lo tính bởi viêc dựng chùa, xây đạo tràng và cái gì đó gọi là Phật sự. Rồi thì cùng phải mọi điều cần phải có cho một ngày mai… Và thế là cũng như bao người, phải phương tiện hóa, với mọi diệu dụng quyền biến để có ra thu vào. Cuối cùng nhìn chung chẳng ai thoát ra khỏi lưới giăng của bạc tiền !
Như vậy cũng hay, bởi vì không còn ai còn nhiều sự ỷ lại bởi sự ban cho từ người, hay từ đấng thần linh, Phật trời. Và cũng nơi đây mọi người đều nhận ra được khả năng tự lực vốn có nơi chính mình.
Cuộc sống nơi đất Úc rất nhiều ổn định so với những quốc gia khác và thật sự là một nơi rất an bình, hiền hòa. Tôi có cảm giác hình như bao điều tốt lành đều đổ dồn cho xứ sở này. Một nơi có rất nhiều chủng tộc chung sống với nhau. Có quá nhiều sự bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, truyền thống… Ấy vậy mà tất cả đều có thể đến với nhau trong công việc một cách trôi chảy, từ đó dễ dàng có ra mọi điều cho chính mình và gia đình mình. Tuy nhiên, đời sống vật chất càng dư thừa bao nhiêu thì tình người càng thu hẹp lại bấy nhiêu. Người ta có thể cho ra bao lời nói vui đầy khách sáo, đẩy đưa ngoài miệng, nhưng lời nói thật và để đến với nhau trong chơn tình thì hiếm hoi quá, khó quá..! Trong vô tình hay dường như là một nguyên tắc chung của cuộc sống, ai nấy cũng đã và tự giam thêm mình trong những lồng son sơn thếp mà nơi đó chỉ có mặt dẫy đầy của sự ích kỷ, hơn thua, toan tính, của tranh chấp được còn… và để rồi không ai có thể đến cùng ai.
Mọi người thật sự đã quên mất một điều, chúng ta đang cùng đứng chung một mảnh đất và cùng thở bầu không khí chung của cả nhân loại.
Ước mong sao nhà với nhà chỉ ngăn cách bởi bờ tường, hay chỉ là hàng rào, bờ cỏ dại, mà không ngăn cách bởi tình người biết sống cho nhau
Để mỗi khi bình minh trở giấc, ánh mặt trời chiếu sáng, cả hai bên đều có thể chia cho nhau nụ cười và màu tươi của cuộc sống.
Như Nhật
No comments:
Post a Comment