PHẦN
I
BÀI THỨ 21
DUY
NA, TĂNG TRỊ,
KIỀN
CHÙY, TÍCH TRƯỢNG
DUY NA: Chức Duy na bên Ấn Độ cùng
với nước ta không đồng nhau. Vì sao? Bởi Ấn Độ thẳng ngay chức Duyệt chúng gọi
là Duy Na, còn ở nước ta ngoài chức Duy Na có thêm chức Duyệt Chúng.
TĂNG
TRỊ: Trong chúng Tăng luân phiên trị
nhựt, để xem xét các việc chùa và chúng vậy.
KIỀN
CHÙY: Tức là bên tây Vức (Ấn Độ) mỗi khi tới kỳ nhóm chúng, thường đánh lên
những tiếng: Chuông, trống, mõ và khánh v.v… để chúng Tăng biết thời nhóm họp
gọi là tiếng Kiền Chùy.
TÍCH
TRƯỢNG: Tích trượng cũng gọi là Trí trượng. Thầy Tỳ Kheo đi khất thực, khi
đến ngoài cửa nhà của người, thì rung cây tích trượng cho có tiếng kêu lên nghe
lích kích, lích tích, để cho người biết đúng thời mà đem cơm ra cúng thí. Trên
đầu cây tích trượng có làm 4 khâu, 12 vòng, để tiêu biểu cho pháp Tứ Đế và pháp
Thập nhị nhơn duyên vậy.
LỜI
PHỤ:
Duy na: Là người đứng bên chuông( Khi khóa lễ để ra ni mẫu cách thức cho chúng
noi theo , cũng như người chỉ huy ra hiệu lịnh).
Duyệt chúng: Là người đứng bên mõ, đánh mõ cho có trường
canh, theo điệu “tiềng bần hậu phú”. Ban đầu tụng tiếng nhỏ và hưỡn đãi, sau
lần lớn và mau, làm cho trong chúng sanh lòng vui thích nên gọi là Duyệt chúng.
Tích trượng: Tích, là sắt; trượng, là gậy nghĩa là cây gậy
bằng sắt, có ba ý:
1) Khi rung làm cho người
trong nhà biết đem cơm ra cúng dường.
2) Khi đi đường gặp chó dữ nó
nhảy ra muốn cắn; liền đưa các đầu gậy tích (có 4 khâu, 12 hưỡng) này cho nó
cắn, nó cắn một hồi mệt mỏi, thì nó phải thua.
3) Khi qua sông, rạch, trước
hết phải lấy cây tích dò thử coi cạn sâu để tránh sự ướt át… hiểm nguy.
Trí trượng: Có nghĩa là người tu hành
nương nhờ cây gậy này mà sự tu hành càng thêm tăng tiến và phát sanh trí huệ,
nên gọi là trí trượng.
No comments:
Post a Comment