Hồng Vũ Khán Ngưu
Hồng Vũ Chăn Trâu
Ngọ
Trung Bình
Lời thơ
Tuy thị tư cơ, dã yếu đãi thời,
Doanh mưu tự bản, thiết mạc vọng vi.
Ý nghĩa
Cá rồng lẫn lộn, đều cố ý muốn được thăng tiến, cho nên tốt nhất hãy nhẫn nại chờ đợi ở trong đầm sâu cho đến khi mệnh vận được hanh thông. Khi cơ duyên đến, sẽ có thể tung mình nhảy qua được Long môn.
Lời thẻ
Thừ quái ngư long vị biến chi tượng.
Phàm sự đãi thời chí khí dã
Ý nghĩa
Thẻ này là thẻ Trung Bình.
Dù có được căn cơ tốt đẹp, nhưng cũng phải tĩnh tại chờ đợi thời cơ. Mưu tính và hành động phải căn cứ vào hoàn cảnh thực tế, nhất thiết không được liều lĩnh làm bừa.
Đây là quẻ Quan Âm thứ 76 được xây dựng trên điển cố: Chu Nguyên Chương khán ngưu hay Chu Nguyên Chương chăn trâu.
Quẻ trung bình thuộc cung Ngọ. Dù có được căn cơ tốt đẹp nhưng phải tĩnh lại để mà chời đợi thời cơ. Mưu tính và hành động phải căn cứ vào hoàn cảnh thực tế, nhất thiết không được liều lĩnh cố chấp nhất nhất theo ý chủ quan của mình.
Thử quái ngư long vị biến chi tượng. Phàm sự đãi thời chí khả dã.
Điển cố quẻ Quan Âm: Chu Nguyên Chương Khán Ngưu
“Hồng Vũ” là niên hiệu của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (1328 – 1398), ờ đây chỉ Chu Nguyên Chương.
Quê hương của Chu Nguyên Chương là huyện Cú Dung tỉnh Giang Tô, tổ tiên của Chu Nguyên Chương đời đời làm nghề cày cấy. ông nội của Chu Nguyên Chương là Chu Sơ Nhất, vì không chịu được sự bóc lột của địa chủ và triều đình, đã đưa gia đình trốn đến Tứ Châu bên bờ sông Hoài để khai hoang canh tác. Sau khi Chu Sơ Nhất qua đời, gia đình rất nghèo khó, cha của Chu Nguyên Chương là Chu Ngũ Tứ phải chuyển nhà hết nơi này đến nơi khác, sau cùng mới định cư ở làng Đông, huyện Chung Ly của Hào Châu, Chu Nguyên Chương ra đời ở đây.
Khi Chu Nguyên Chương mười tuổi, người cha vì trốn chạy thuế má lao dịch nặng nề, lại một lần nữa chuyển nhà, đến Cô Trang ờ làng Thái Bình làm ruộng cho địa chủ Lưu Đức, Chu Nguyên Chương chăn trâu cho nhà Lưu Đức.
Năm 1343, Hào Châu xảy ra nạn hạn hán. Mùa xuân năm sau, lại xảy ra nạn châu chấu rất nghiêm trọng, lúa của trang trại bị châu chấu ăn hết sạch. Họa vô đơn chí, tiếp đó lại xuất hiện dịch bệnh. Trong một thời gian ngắn, nhà nào cũng có người chết, trong một thôn, một ngày chết đến mười mấy người. Không lâu sau, gia đình Chu Nguyên Chương cũng bị nhiễm bệnh dịch. Chưa đầy nửa tháng, cha, anh trai và mẹ là Trần thị của Chu Nguyên Chương đều lần lượt qua đời. Chu Nguyên Chương và người anh thứ hai tận mắt chứng kiến từng người thân ra đi, không những không có tiền mua quan tài, thậm chí đến miếng đất để chôn cất người thân cũng không có, hai người khóc lóc thảm thiết, làm kinh động đến người hàng xóm là Lưu Kế Tố, người hàng xóm bèn cho anh em họ một mảnh đất.
Để sinh sống, Chu Nguyên Chương cùng anh trai, chị dâu và cháu buộc phải phân ly, mỗi người tự đi tìm đường sống. Chu Nguyên Chương lúc này chẳng có đường nào mà đi, chợt nhớ đến ngôi chùa Hoàng Giác mà từ nhỏ đã phát nguyện đi tu, vì thế liền vào chùa cạo đầu làm hòa thượng, được làm hành đồng (*), hàng ngày làm những việc quét dọn,
(*) Hành đồng: Còn gọi là đồng hành, đạo giả, đồng thị, tăng đổng, chỉ những chú tiểu làm việc lặt vặt trong chùa: thắp hương, đánh chuông đánh trống, nấu cơm, giặt quần áo ở trong chùa.
Nhưng không lâu sau, lương thực trong chùa cũng không đủ cho các hòa thượng nữa, trong chùa cũng không nhận được bố thí, trụ trì chùa là pháp sư Cao Bân chỉ còn cách giải tán các sư tăng, cho các hòa thượng đi khắp nơi hóa duyên. Chu Nguyên Chương mới làm hành đồng được năm mươi ngày, không còn cách nào khác, đành phải rời chùa đi lang thang xin ăn. Lúc này Chu Nguyên Chương được mười bảy tuổi.
Cuộc sống lang thang gian khổ đã hình thành nên tính cách kiên định và quả cảm của Chu Nguyên Chương, nhưng cũng khiến cho ông trở nên tàn nhẫn và đầy nghi kỵ.
Sau đó Chu Nguyên Chương gia nhập đội quân Hồng Cân của Quách Tử Hưng, tham gia khởi nghĩa nông dân. Sau khi ông thay thế Quách Tử Hưng, đi chinh phạt khắp nơi, đánh bại thế lực Trần Hữu Lượng mạnh hơn mình, tiêu diệt Trương Sĩ Thành ở Triết Giang, dìm chết Hàn Lâm Nhi, tiến về phía bắc đánh Trung Nguyên, cuối cùng, vào tháng giêng năm 1368, ông xưng đế ở ứng Thiên, đặt tên nước là Đại Minh, lập niên hiệu là Hồng Vũ, chọn ứng Thiên làm kinh đô.
Ngư vượt longmôn phun châu nhả ngọc
Trường Lưu Thủy
No comments:
Post a Comment