Saturday, November 19, 2016

10 trọng 48 khinh

MƯỜI GIỚI TRỌNG

Ðức Phật bảo các Phật tử rằng : 
Có mười điều giới trọng. Nếu người thọ giới Bồ Tát mà không tụng điều giới nầy, thời người nầy không phải Bồ Tát, không phải là Phật tử. Chính ta cũng tụng như vậy.

Tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đang học !
Ðã lược giảng xong tướng trạng của giới Bồ Tát cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì.

Ðức Phật dạy :

1.- GIỚI SÁT SANH
Nếu Phật tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết.

Phàm tất cả loài hữu tình có mạng sống đều không ý giết. Là Phật tử lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng sinh mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát sinh, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

2.- GIỚI TRỘM CƯỚP
Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng bùa chú trộm cướp ; nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp ...Tất cả tài vật có chủ, dầu là của quỷ thần hay của kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không được trộm cướp. Là Phật tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui, mà trái lại trộm cướp tài vật của người, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

3.- GIỚI DÂM
Nếu Phật tử, tự mình dâm dục, bảo người dâm dục, với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến Thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng phi đạo mà hành dâm : nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả không được cố dâm dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả những chúng sinh, đem pháp thanh tịnh khuyên dạy người, mà trái lại không có tâm từ bi, làm cho mọi người sinh việc dâm dục, không lựa súc sinh, cho đến hành dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tõi ».

4.- GIỚI VỌNG
Nếu Phật tử, tự mình nói vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ : nhân vọng ngũ, duyên vọng ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng ngữ, tâm vọng ngũ. Là Phật tử, lẽ ra Phật luôn luôn chính ngữ, chính kiến, và cũng làm cho tất cả chúng sinh có chính ngữ, chính kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

5.- GIƠI BÁN RƯỢU
Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu : nhân bán rượu, duyên bán rượu, cách thức bán rượu, nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán - Rượu là nhân duyên sinh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sinh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sinh. Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

6.- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG
Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy : nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử, khi nghe những kẻ ác, ngoại đạo cùng người nhị thừa nói những điều phi pháp, trái luật trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy cho họ sinh tín tâm lành đối với đại thừa, mà trái lại Phật tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

7.- GIỚI TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Nếu Phật tử, tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người : nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người . Là Phật tử, lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô trương tài đức của mình, mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê, Phật tử nầy phạm « Bồ Tát Ba La Di tội ».

8.- GIỚI BỎN XẺN THÊM MẮNG ÐUỔI
Nếu Phật tử, tự mình bỏn xẻn, bảo người bỏn xẻn : nhân bỏn xẻn, duyên bỏn xẻn, cách thức bỏn xẻn, nghiệp bỏn xẻn.Phật tử khi thấy những người bần cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ. Mà Phật tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có ngươi đến cầu học giáo pháp, cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng, Phật tử này phạm « Bồ Tát Ba La Di tộỉ ».

9.- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI
Nếu Phật tử, tự mình giận, bảo người giận : nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Người Phật tử lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sinh được những căn lành không gây gổ ; thường có lòng từ bi, lòng  hiếu thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng sinh, cho đến trong loài phi chúng sinh, đem lời ác mạ nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ cho đến nạn nhân kia lấy lời nhỏ nhẹ xin lỗi, cầu sám hối tạ tội , nhưng vẫn còn không hết giận, Phật tử này phạm  « Bồ Tát Ba La Di tộỉ ».

10.- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO
Nếu Phật tử, tự mình hủy báng Tam Bảo, xúi người hủy báng Tam Bảo : nhân hủy báng, duyên hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy báng. Phật tử nghe một lời hủy báng Tam Bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự miệng mình hủy báng Không có đức tin và lòng hiếu thuận đối với Tam Bảo, lại còn giúp sức cho những kẽ ác, kẻ tà kiến hủy báng nữa, Phật tử này phạm « Bồ Tát Ba La Di tộỉ ».

Này các Phật tử trên đây là mười giới trọng của Bồ Tát, các Phật tử cần nên học..

Trong mười giới trọng đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu một mảy nhỏ như vi trần, huống chi phạm đủ cả mười giới ư ! Nếu có người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ đề tâm, rồi cũng mất ngôi Quốc Vương, ngôi Chuyễn Luân Vương, ngôi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni ; cũng mất những quả « Thập Phát Thủ, « Thập Trưởng Dưởng », Thập Kim Cương », « Thập Ðịa  », tất cả diệu quả Phật tính thường trú đều mất, đọa trong ba ác đạo, trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh tự của cha mẹ và Tam Bảo. Vì thế nên không được phạm một giới nào cả.Tất cả Bồ Tát các Ngài đã học sẽ học và hiện nay học. Mười giới như thế cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm «Bát vạn oai nghi có giảng rộng ».


48 ÐIỀU GIỚI KHINH


Ðức Phật bảo các vị Bồ Tát rằng :
Ðã giảng mười giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói về bốn mươi tám giới khinh :

1.GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN
Nếu Phật tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc vương, ngôi Chuyễn Luân vương, hay sắp lãnh chức quan, trước nên thọ Giới Bồ Tát. Như thế tất cả quỷ thần cứu hộ thân vua và thân các quan. Chư Phật đều hoan hỷ.

Ðã đắc giới rồi, Phật tử nên có lòng hiếu thuận và cung kính. Nếu thấy có bậc Thượng Tọa, Hòa Thượng, A Xà Lê, những bậc Ðại đức, đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân cho đến quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bậc ấy. Nếu Phật tử lại sinh lòng kiêu mạn, sân hận, ngu si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y theo pháp mà cúng dường, Phật tử này phạm « khinh cấu tộỉ ».

2.- GIỚI UỐNG RƯỢU
Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sinh ra vô lượng tội lổi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo : năm trăm đời không tay, huống là tự uống. Cũng chẳng được bảo người và tất cả chúng sinh uống rượu, huống là tự mình uống Tất cả các thứ rượu Phật tử không được uống . Nếu mình cố uống cùng bảo người uống. Phật tử này phạm  « khinh cấu tộỉ ».

3.- GIỚI ĂN THỊT
Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sinh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tính ; tất cả chúng sinh thấy đều tránh xa người này.Người ăn thịt mắc vô lượng tội lổi . Vì thế nên tất cả Phật tử không được ăn tất cả thứ thịt của mọi loài chúng sinh.  Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm « khinh cấu tội ».

4.- GIỚI ĂN NGŨ TÂN
Nếu Phật tử, chẳng được ăn « ngũ tân » -loại hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Loại ngũ người này gia vào trong tất cả thứ thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phất tử này phạm « khinh cấu tộỉ » .

5.- GIỚI KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI
Nếu Phật tử khi thấy nngười phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá giới, hay phạm thất nghịch, bát nạn tất cả tội phạm giới v.v...phải khuyên bảo người ấy sám hối. Nếu Phật tử chẳng khuyên bảo người phạm tội sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chung Bố Tát, đồng thuyết giới, mà không cử tội người ấy, không nhắc người ấy sám hối, Phật tử này phạm « khinh cấu tộỉ ».

6.- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư đại thừa, hay những bậc đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đại thừa, từ trăm dặm, nghìn dặm đến nơi tăng phường, nhà cửa, thành ấp, thời liền đứng dậy rước vào, đua đi, lễ bái, cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng dường , trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp hộ cho pháp sư. Mỗi ngày : sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp sư thuyết pháp và đảnh lễ. Không hề có lòng sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh pháp không mõi nhàm, chỉ trọng pháp chứ không kể thân. Nếu Phật tử không như thế thời phạm « khinh cấu tội ».

7.- GIỚI KHÔNG ÐI NGHE PHÁP
Nếu Phật tử, hàng tân học Bồ Tát, phàm nơi nào chốn nào có giảng kinh, luật, phải mang kinh, luật đến chỗ Pháp sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, trong vườn cậy, chùa, nhà v.v... tất cả chỗ thuyết pháp đều đến nghe học. Nếu Phật tử không đến nơi ấy để nghe pháp cùng thưa hỏi, thời phạm « khinh cấu tội ».

8.- GIỚI CÓ TÂM TRÁI BỎ ÐẠI THỪA
Nếu Phật tử, có quan niệm trái bỏ kinh luật Ðại thừa thường trụ, cho rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả cấm giới của Thanh Văn nhị thừa cùng ngoại đạo ác kiến. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

9.- GIỚI KHÔNG KHÁN BỊNH      
Nếu Phật tử, thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám phước điền, khán bệnh là « phước điền thứ nhứt ». Nếu như cha mẹ, Sư tăng cùng đệ tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều nên săn sóc cho được lành mạnh, Phật tử lại vì lòng hờn giân không chăm nuôi, nhẫn đến thấy trong Tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội đường sá có người tật bệnh mà không lo cứu tế, Phật tử nầy phạm « Khinh cấu tội ».

10.- GIỚI CHỨA KHÍ CỤ SÁT SINH
Nếu Phật tử, không được cất chứa binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, đáo v.v... cùng những đồ sát sinh như chài lưới, rập, bẫy v.v...Là Phật tử, dầu cho đến cha mẹ bị người giết còn không báo thù, huống lại đi giết tất cả chúng sinh ! không được cất chứa những khí cụ sát sinh ! Nếu cố cất chứa, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng phụng trì. Trong sáu phẩm sau có giảng rộng.

11.- GIỚI ÐI SỨ
Nếu Phật tử, chẳng được vì quyền lợi và ác tâm mà đi thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem binh đánh nhau làm cho vô lượng chúng sinh bị giết hại. Là Phật tử còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại cố làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

12.-GIỚI BUÔN BÁN PHI PHÁP     
Nếu Phật tử, cố bán người lành, tôi trai tớ gái, lục súc, buôn bán quan tài, ván cây, đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

13.- GIỚI HỦY BÁNG
Nếu Phật tử, vì ác tâm, nơi người tốt, người lành, Pháp sư, Sư Tăng, hoặc Quốc vương và hàng quý nhân, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bảy tội nghịch, mười giới trọng. Với cha mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đọa nơi ác đạo, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

14.- GIỚI PHÓNG HỎA     
Nếu Phật tử, vì tâm ác, phóng hỏa đốt núi, rừng, đồng nội. Từ tháng tư đến tháng chín phóng hỏa. Hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người và cung điện tài vật của quỷ thần. Tất cả chỗ có sinh vật không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đốt, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

15.-GIỚI DẠY GIÁO LÝ NGOÀI ÐẠI THỪA     
Nếu Phật tử, từ Phật tử, lục thân, tất cả thiện tri thức, đến ngoại đạo ác nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì kinh luật đại thừa. Nên giảng cho hiểu nghĩa lý khiến phát Bồ đề tâm, Thập Phát Thú tâm, Thập Trưởng Dưỡng tâm, Thập Kim Cương tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu pháp đụng tuần thứ của mỗi món. Mà Phật tử lại ác tâm, sân tâm đem kinh luật của Thanh Văn nhị thừa cùng các bộ luận của ngoại đạo tà kiến để dạy ngang cho người. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

16.- GIỚI VÌ LỢI MÀ GIẢNG PHÁP LỘN LẠO     
Nếu Phật tử, phải tận tâm học kinh luật oai nghi đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, khi thấy có hàng tân học Bồ Tát từ xa trăm dặm nghìn dặm đến cầu học kinh luật đại thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ hạnh, hoặc đốt thân, hoặc đốt cánh tay, đốt ngón tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng dường chư Phật thời không phải là hàng Bồ Tát xuất gia. Nhẫn đến xả thịt nơi thân cùng tay chân mà bố thí cho tất cả những cọp, sói, sư tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau mới tuần tự theo căn cơ của mỗi người giảng chánh pháp cho hàng tân học ấy được mở thông tâm ý. Nếu Phật tử vì quyền lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn không có thứ lớp trước sau, thuyết pháp có tính cách hủy báng Tam Bảo. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

17.- GIỚI CẬY THẾ LỰC QUYÊN TỞI     
Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi dưỡng, danh dự mà thân cận quốc vương, hoàng tử cùng các quan, nương quyền cậy thế bức người để lấy tiền của, lại bảo người khác cũng cầu lợi như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác cầu, đa cầu, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

18.- GIỚI KHÔNG THÔNG HIỂU MÀ LÀM THẦY TRUYỀN GIỚI     
Nếu Phật tử phải học mười hai phần kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày sáu thời, nghiêm trì Bồ Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý tính Phật tính của giới. Nếu Phật tử không hiểu một kệ một câu cùng nhân duyên của giới luật, mà dối rằng thông hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một pháp, không biết một luật mà lại đi làm thầy truyền giới cho người. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

19.- GIỚI LƯỠNG THIỆT ( lưỡi đôi chiều)    
Nếu Phật tử, vì ác tâm, thấy thầy Tỳ kheo trì giới tay bưng lư hương, tu hạnh Bồ Tát, tự đi đâm thọc hai đầu, cho sinh sự bất hòa khinh khi người hiền, tạo nhiều tội ác. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

20.-GIỚI KHÔNG PHÓNG SINH     
Nếu Phật tử, vì tâm từ bi mà làm việc phóng sinh. Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ năng là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác sinh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng sinh trong lục đạo đều la cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt, thời chính giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả chất tứ đại đều là bổn thân bổn thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng sinh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sinh, nên tìm cách cứu hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ ! Thường đem giới Bồ Tát giảng dạy để cứu độ chúng sinh.

Nếu ngày cha mẹ hay anh em chết, nên thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Bồ Tát giới. Người chết nhờ phước đức ấy, hoặc được vãng sinh Tịnh độ ra mắt chư Phật, hay thác sinh trong cõi trời cõi người. Nếu không làm các điều trên đây, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».
Mười giới như thế cần nên học tập kính trọng phụng trì.Như trong phẩm « Diệt tội » giảng rõ mỗi giới.

21.- GIỚI ÐEM SÂN BÁO SÂN, ÐEM ÐÁNH TRẢ ÐÁNH     
Nếu Phật tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh em hay lục thân bị người giết cũng chẳng báo thù, hoặc quốc chủ bị người thí chết cũng chẳng được báo thù. Giết sinh mạng để báo thù sinh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa nuôi tớ, rồi đánh đập mắng nhiếc chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô lượng tội, nhất là khẩu nghiệp. Huống lại cố đi làm tội thất nghịch. Nếu xuất gia Bồ Tát không có lòng từ bi cố báo thù, nhẫn đến cố báo thù cho trong hàng lục thân. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

22.-GIỚI KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
Nếu Phật tử, mới xuất gia chưa hiểu kinh luật, mà tự ỷ mình là trí thức thông minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là dòng sang, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to, giàu lớn v.v... rồi sinh lòng kiêu mạn mà không chịu học hỏi kinh luật với các vị Pháp sư học đạo trước mình. Vị Pháp sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà hạ tiện, tuổi trẻ nghèo nàn, hèn hạ, hay có tật nguyền, nhưng lại thiệt có đức hạnh cùng thông hiểu nhiều kinh luật. Hàng tân học Bồ Tát không được nhìn vào dòng giống vị Pháp sư mà không chịu đến học đạo lý đại thừa với vị ấy. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

23.-GIỚI KHINH MẠN KHÔNG TẬN TÂM DẠỴ     
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ Tát, thời đối trước tượng Phật, cùng tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ Tát sám hối trong bảy ngày, hễ được thấy hảo tướng là đắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời phải sám hối mười bốn ngày, hăm mốt ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được hảo tướng. Khi được thấy hảo tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật Bồ Tát mà thọ giới. Như chưa thấy hảo tướng thì dầu có đối trước tướng Phật thọ giới vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp sư đã thọ giới Bồ Tát mà thọ giới, thời không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy ? Vì vị Pháp sư ấy là chư sư truyền giới cho nhau, nên không cần hảo tướng. Hễ đối trước vị Pháp sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên đắc giới. Nếu ở trong vòng nghìn dặm, mà tìm không được vị Pháp sư truyền giới thời, Phật tử được phép đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ Tát, nhưng cần phải thấy hảo tướng.

Nếu các vị Pháp sư ỷ mình thông kinh luật cùng giới pháp đại thừa, kết giao với các nhà quyền quý, khi có hàng tân học Bồ Tát đến cầu học nghĩa kinh, luật, lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị nầy phạm “khinh cấu tội”.

24.- GIỚI KHÔNG TẬP HỌC ÐẠI THỪA     
Nếu Phật tử, có kinh luật đại thừa pháp, chính kiến, chính tính, chấp pháp thân của Phật, mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những sách luận tà kiến của nhị thừa, ngoại đạo, thế tục, đó là làm mất giống Phật, là nhân duyên chướng đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ Tát. Nếu cố làm như vậy, Phật tử nầy phạm “khinh cấu tội”.

25.- GIỚI TRI CHÚNG VỤNG VỀ     
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt làm Pháp sư, Giảng sư, Luật sư, Thiền sư, Thủ tọa, Tri sự, Tri khách, phải có lòng từ bi khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ như của riêng mình, mà trở lại khuấy chúng gây gổ, kình chống, lung lòng xài của Tam Bảo, Phật tử nầy phạm “khinh cấu tội”.

26.- GIỚI RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG     
Nếu Phật tử ở trước trong Tăng phường, lúc sau thấy có khách Bồ Tát Tỳ Kheo đến, hoặc nơi thành ấp nhà cửa của Tăng hay của vua, nhẫn đến chỗ kiết hạ an cư cùng trong đại hội ... chư Tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho những đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế v.v... Nếu tự mình không có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách Tăng ấy. Nếu có thí chủ thỉnh chúng Tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri sự phải theo thứ tự phái khách Tăng đi thọ trai. Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà không phái khách Tăng đi, thời vị Tri sự mắc vô lượng tội, không đáng là hàng Sa Môn, không phải dòng Thích Tử, nào khác gì loài súc sinh. Phật tử nầy phạm “khinh cấu tội”.

27.- GIỚI THỌ BIỆT THỈNH     
Nếu Phật tử; tất cả chẳng được nhận của cúng dường dành riêng về mình. Của cúng dưòng nầy thuộc về thập phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập phương Tăng đem về phần mình. Và của vật trong tám phước điền : Chư Phật, Thánh nhân, các Sư Tăng, cha, mẹ, và người bệnh, tự mình riêng nhận dùng. Phật tử nầy phạm “ khinh cấu tội”.

28.- GIỚI BỆNH THỈNH TĂNG     
Nếu Phật tử, có những hàng Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia và tất cả đàn việt lúc muốn thỉnh Tăng để cúng dường cầu nguyện, nên vào Tăng phưòng thưa với vị Tri sự. Vị Tri sự bảo rằng  : theo thứ tự mà thỉnh thời được thập phương Hiền Thánh Tăng. Mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị A La Hán Bồ Tát Tăng vẫn không bằng theo thứ tự thỉnh một phàm phu Tăng. Trong giáo pháp của bảy đức Phật đều không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng đó là pháp của ngoại đạo, là không thuận với hiếu đạo. Nếu Phật tử cố thỉnh riêng thời phạm “khinh cấu tội”.

29.- GIỚI TÀ MẠNG NUÔI SỐNG     
Nếu Phật tử dùng ác tâm vì lợi dưỡng buôn bán nam sắc, nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sinh trai hay gái, bùa chú, pháp thuật, nghề nghiệp, phương pháp nuôi ó và chó săn, hòa hiệp trăm thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sinh kim, sinh ngân, độc sâu cổ, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

30.- GIỚI QUẢN LÝ CHO BẠCH Y     
Nếu Phật tử vì ác tâm, tự mình hủy báng Tam Bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì nói không, mà hành vi lại ở trong có, làm quản lý cho hàng bạch y làm mai làm mối cho nam nữ giao hội dâm sắc, gây thành các nghiệp kiết phược ; những ngày lục trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sát sinh, trộm cướp, phá trai, phạm giới. Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».
Mười giới như thế, cần nên học hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm « chế giới » có giảng rõ.

31.-GIỚI KHÔNG MUA CHUỘC
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt ở trong đời ác , thấy hàng ngoại đạo, bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ Tát, cha mẹ, đem bán kinh luật, đem bán Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni, cùng người hành đạo Bồ Tát, kẻ phát tâm Bồ đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ cho mọi người. Phật tử thấy những sự như thế, nên có lòng từ bi tìm cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật tử phải đi quyên tiền các nơi để chuộc hình tượng Phât, Bồ Tát và tất cả kinh luật, chuộc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, người tu hạnh Bồ Tát, kẻ phát tâm Bồ đề. Nếu không chuộc, Phật tử nầy phạm « Khinh cấu tội ».

32.- GIỚI TỔN HẠI CHÚNG SANH     
Nếu Phật tử không được buôn bán dao, gậy, cung, tên những khí giới sát sinh. Không được chứa cân non giạ thiếu. Không được nương thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Không được ác tâm trói buộc người, và phá hoại việc thành công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó. Nếu cố tâm làm các điều trên, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

33.- GIỚI TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN   8 )
Nếu Phật tử không vì ác tâm đi xem tất cả nam nữ v.v... đánh nhau, hay binh trận binh tướng hoặc cướp v.v... đấu chiến nhau. Cũng chẳng được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v... Cho đến bói xủ. Chẳng được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

34.- GIỚI TẠM BỎ BỒ ÐỀ TÂM     
Nếu Phật tử, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ Tát nầy. Nên giữ gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim cương, như đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ Kheo bị cột bằng dây đỏ. Thường có tín tâm lành đối với Ðại thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát Bồ đề tâm và giữ vững không thối chuyển . Nếu có một tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa hay ngoại đạo, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

35.- GIỚI KHÔNG PHÁT NGUYỆN
Nếu Phật tử,  nên phát những điều nguyện lớn : nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ, Sư Tăng - Nguyện đặng gặp được thầy tốt - bạn thiện tri thức - thường dạy bảo tôi các kinh luật Ðại thừa - dạy cho tôi về « Thập Phát Thú » - « Thập Trưởng Dưỡng » - « Thập kim Cương » - « Thập Ðịa » Cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng với chánh pháp - nguyện giữ vững giới của Phật : thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu các Phật tử không phát những điều nguyện trên đây thời phạm «  khinh cấu tội ».

36.- GIỚI KHÔNG PHÁT THỆ
Nếu Phật tử khi phát mười điều nguyện lớn trên đây rồi, phải giữ gìn giới cấm của Phật, thà nhảy vào vào đóng lửa, hố sâu, núi cao, quyết không cùng tất cả người nữ làm điều bất tịnhđể phạm điều cấm trọng kinh luật của Tam Thế chư Phật. Lại thề rằng: Thà lấy lưới sắt nóng quấn lấy thân mình cả nghìn lớp quyết không để thân này phá giới mà thọ những đồ y phục của tín tâm đàn việt.

Thà chịu nuốt hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm nghìn kiếp, quyết không để miệng nầy phá giới mà ăn các thứ thực phẩm của tín tâm đàn việt. Thà nằm trên đóng lửa lớn, trên tấm sắt nóng , quyết không để thân nầy phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín tâm đàn việt. Thà trong một, hai kiếp chịu cả trăm nghìn gươm giáo đâm vào mình, quyết không để thân nầy phá giới mà thọ các thứ thuốc men của tín tâm đàn việt. Thà nhảy vào vạt dầu sôi trong trăm nghìn kiếp, quyết không để thân nầy phá giới mà lãnh những phòng nhà, ruộng, vườn, đất đai của tín tâm đàn việt.

Lại phát thệ rằng: Thà dùng chài sắt đập vào thân này từ đầu tới chân nát như tro bụi, quyết không để thân này phá giớimà thọ sự cung kính lễ bái của tín tâm đàn việt. Lại phát thệ rằng: Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét đôi mắt mình quyết không đem tâm phá giới mà nhìn sắc đẹp của người. Thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình trải qua một, hai kiếp quyết không đem thân này phá giới mà nghe tiếng tốt giọng hây. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, quyết không đem tâm phá giới này, mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt lưỡi mình, quyết không đem tâm phá giới nầy mà ăn các thứ tịnh thực của người. Thà lấy búa bén, chặt chém thân thể mình, quyết không đem thân phá giới này mà tham mặc đồ tốt. Lại phát nguyện, nguyện cho tất cả chúng sanh đều thành Phật. Nếu Phật tử không phát các điều thệ nầy, thì phạm khinh cấu tội.

37. GIỚI VÀO CHỖ HIỂM NẠN
Nếu Phật tử mỗi năm hành dầu đà hai kỳ, mùa đông mùa hạ thời ngồithiền, kiết hạ an cư theo luật của Phật thường dùng nhành dương, nước tro, ba y bình bát, tọa cụ, tích trượng, hộp lư hương, đãi lược nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát, đi lại trăm dặm, nghìn dặm, mười tám món nàyluôn mang theo mình. Đây là hai kỳ hành hạnh đầu đà trong mỗi năm từ rằm tháng giêng đếng rắng tháng ba, và từ rằm tháng tám cho đến rằm tháng mười.

Trong hai kỳ hành đầu đà luôn mang theo mười tám món ấy, như chim hai cánh. Nếu đến ngày Bố tát, hàng tân học Phật tử, mỗi nửa tháng cùng chung Bố tát tụng mười 10 giới trọng và 48 giới khinh. Lúc tụng giới nên ở trước Phật và Bồ tát mà tụng, chỉ có một người Bố tát thì một người tụng. Nếy hai người ba người nhẫn đến trăm ngàn người, cũng một người tụng, còn bao nhiêu người lóng nghe. Lúc hành đầu đà chớ nên đi đến chỗ hiểm nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rập rạp, chỗ có giống sư tử, cọp, sói cùng lục, bảo, nạn cháy, giặc cướp, đường xá có rắn rít, chỗ nơi hiểm nãn ấy đều không được đến, chẳng những hạnh đầu đà, mà lúc kiết hạ an cư cũng không được đến những hiểm nạn ấy. Nếu cố vào những nơi ấy, như không như vậy, Phật tử này phạm kinh cấu tội.

38.-GIỚI TRÁI THỨ TỰ TÔN TY     
Nếu Phật tử, phải theo thứ tự đúng pháp mà ngồi : người thọ giới trước thời ngồi ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. Không luận già, trẻ, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Người sang như Quốc Vương, Hoàng tử, nhẫn đến kẻ hèn như huỳnh môn, tôi tớ v.v... tất cả đều theo thứ tự mà ngồi : người thọ giới trưóc thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau.
Không được như hàng ngoại đạo, si mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn xộn không có thứ tự, không khác cách ngồi của bọn binh nô. Trong Phật pháp của ta, hễ người thọ giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau thời ngồi sau.
Nếu Phật tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm « khinh cấu tội ».

39.- GIỚI KHÔNG TU PHƯỚC HUỆ     
Nếu Phật tử thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo tăng phường nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng Phật tháp, chỗ an cư, tọa thiền trong mùa Ðông mùa Hạ, tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến tạo.

Người Phật tử phải giảng thuyết kinh luật đại thừa cho tất cả chúng sanh. Lúc tật bệnh, nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa Thượng, A Xà Lê khuất tịch, và mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết kinh luật đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai nạn lụt, bão, hỏa hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to biển lớn, gặp quỷ La sát v.v... đều cùng đọc tụng kinh luật đại thừa. Nhẫn đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn, thất nghịch gông cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc ngưòi nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng kinh luật đại thừa nầy.

Nếu hàng tân học Phật tử không thật hành như trên đây, thời phạm « khinh cấu tội »

Chín giới như thế cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì. Trong phẩm « Phạm đàn” có giải rộng.

40.- GIỚI KHÔNG BÌNH ĐẲNG TRUYỀN GIỚI:
Nếu Phật tử, lúc có người thọ giới không được lựa chọn, tất cả hàng Quốc Vương, Hoàng tử, các Quan, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, tín Nam tín Nữ, dâm nam, dâm nữ, Phạm Thiên trong 18 cõi sắc, Thiên tử trên sáu cõi dục, người thiếu căn, hai căn, quynh môn, tôi tớ và tất cả quỷ thần đếu được thọ giới.

Tất cả y phục, ngọa cụ nên bảo phải hòa màu xanh, vàng, đỏ, đen, tím nhộm thành hoại sắc hợp với đạo. trong tất cả quốc độ theo y phục của người trong nước mặc, y phục của thầy Tỳ Kheo, đều phải khác với người thế tục, khi ai muốn thọ Bồ tát giới. Vị sư phải hỏi rằng: Trong đời này ngươi có phạm tội thất nghịch chăng? Bồ tát pháp sư không được cho người phạm tội thất nghịch thọ giới trong đời này. Đây là tội thất nghịch ác tâm, làm thân Phật chảy máu, hại bậc thánh nhơn, giết Cha, giết Mẹ, giết Hòa Thượng A Xà Lê, phá yết Ma Tăng, Chuyển Pháp Luân Tăng.

Nếu phạm tội thất nghịch thời hiện đời không đắc giới, ngoài ra tất cả người đều được thọ giới. Theo pháp của người xuất gia, không lạy Quốc Vương, Cha, Mẹ, Lục thân và quỷ thần, phàm ai nhận hiểu lời của pháp sư thời đều được thọ giới. Có người xa nghìn dặm đến cầu pháp, nếu Bồ tát Pháp sư vì ác tâm, sân tâm mà không mau mắn truyền giới Bồ tát cho người ấy, thời phạm khinh cấu tội.

41.- GIỚI VÌ LỢI MÀ LÀM THẦY:
Nếu Phật tử, giáo hóa người sanh lòng tin tưởng pháp đại thừa, Bồ tát làm Pháp sư giáo giới của người. Lúc ấy có người muốn thọ giới Bồ tát, nên bảo người ấy thỉnh hai đại sư, Hòa Thượng (Phật) và A Xà Lê (Bồ tát Di Lặc và Văn Thù) phải hỏi người ấy có phạm tội thất nghịch không, thời pháp sư không được truyền giới cho người ấy. Nếu có phạm trọng mười giới trọng, phải bảo người ấy sám hối, đối trước tượng phật và Bồ tát ngày đêm sáu thời tha thiết đảnh lễ, tam thế chư Phật, cho được thất hảo tưởng, đây là thấy hảo tướng, thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy quang minh, thấy được hoa báu v.v... các thứ cảnh tượng lạ thất được hảo tướng ấy là triều chứng tội đã tiêu diệt.

Nếu không được thấy hảo tướng, dầu sám hối vẫn vô ích, gnười này hiện đời tuy không đắc giới, nhưng tăng ích thọ giới. Nếu là người phạm trong 48 điều giới khinh đối sám hối thì tội đặng tiêu diệt, không phải như tội thất nghịch, vị pháp sư giáo giới trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu kinh, luật đại thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải chẳng phải, không hiểu đệt nhứt nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng giới, tánh chủng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, những quán hạnh đa thiểu, xuất nhập của các Pháp đó, cùng lo chi thiền. Tất cả pháp hạnh mỗi mỗi điều không thông hiểu, Phật tử vì tài lợi vì danh tiếng cầu quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông, nên phá giới tuông là mình thông hiểu biết tất cả kinh, luật để được cúng dường, đó là tự dối mình và cũng dối người khác. Nếu cố làm người sư truyền giới cho người, Phật tử này phạm khinh cấu tội.

42.- GIỚI VÌ NGƯỜI ÁC GIẢNG NÓI:
Nếu Phật tử, không được vì tài lợi mà đem đại giới chư Phật nói với người chưa thị giới Bồ tát hoặc với hàng ngoại đạo, những người tà kiến, trừ Quốc Vương, ngoài ra không được nói với tất cả những hàng người ấy. Những người chẳng thọ giới của Phật, gọi là Súc Sanh, đời đời sanh ra không gặp Tam Bảo, như cây đá, không có tâm thứ, gọi là ngoại đạo, bọn tà kiến nào khác cấy cối, với những hạng người ác ấy. Nếu Phật tử giảng nói giới pháp của chư Phật, thời phạm khinh cấu tội.

43.- GIỚI CỐ MÓNG TÂM PHẠM GIỚI:
Nếu Phật tử, do đức tin mà xuất gia, thọ chan1h giới của Phật, lại cố móng tâm hủy phạm chánh giới, thời không được lãnh thọ cúng dường của đàn việt, cũng không được đi trên đất của quốc dân, không được uống nước của quốc dân, năm ngàn đại quỷ luôn đứng án trước mặt, người đó gọi là bọn giặc. Nếu đi vào nhà, phòng, thành, ấp, các quỷ thường theo chà quét dấu chân của người ấy. tất cả người đời đều mắng người ấy là kẻ đại bộn trong Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều không muốn thấy người ấy, người phạm giới khác nào súc sanh, cây cỏ. Nếu cố hủy pháp của Phật, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
44.- GIỚI KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT    
Nếu Phật tử, phải thường nhất tâm thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, dùng giấy, vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc cùng hương hoa vô giá và tất cả châu báu làm hộp, rương, đựng những quyển kinh luật.

Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».

45.- GIỚI KHÔNG GIAO HÒA CHÚNG SINH     
Nếu Phật tử, nên có lòng đại bi, khi nào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những loài chúng sinh, phải xướng lên rằng : « Các người đều nên thọ tam quy và thập giới ». Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê v.v... nên tâm nghĩ miệng nói : « Các người là súc sanh phát Bồ đề tâm ».Khi Phật tử đi đến núi, rừng, sông, đồng nội cùng tất cả chỗ, đều làm cho tất cả chúng sanh phát Bồ đề tâm.

Nếu Phật tử không phát tâm giáo hóa chúng sinh, thời phạm « khinh cấu tội ».

46.- GIỚI THUYẾT PHÁP KHÔNG ÐÚNG PHÁP
Nếu Phật tử, thường nên có lòng đại bi phát tâm giáo hóa . Lúc vào nhà đàn hội sang giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết pháp cho hàng bạch y. Phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch y.

Vị Tỳ kheo Pháp sư không được đứng dưới đất thuyết pháp cho tứ chúng. Khi thuyết pháp , vị Pháp sư ngồi tòa cao, dùng hương hoa cúng dường, còn tứ chúng, hàng thính giả, thời ngồi dưới. Ðối với Pháp sư phải như là hiếu thuận cha mẹ, kính thuận Sư trưởng như Bà La Môn thờ lửa. Nếu Phật tử thuyết pháp mà không đúng như pháp thời phạm « khinh cấu tội ».

47.- GIỚI CHẾ HẠN PHI PHÁP    
Nếu Phật tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc vương, Hoàng tử, các quan, bốn bộ đệ tử tự ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới luật Phật pháp, lập ra điều luật chế, hạn chế bốn bộ đệ tử của Phật, không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ Tát, cùng Tháp và Kinh luật. Lại đặt ra chức quan đổng lý hạn chế tứ chúng, và lập bộ sổ ghi số Tăng. Tỳ Kheo Bồ Tát đứng dưới đất còn bạch y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi pháp như binh nô thờ chủ. Hàng Bồ Tát nầy chính nên được mọi người cúng dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các quan chức, thế là phi pháp phi luật.

Nếu Quốc vương và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm những tội phá Tam Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm « Khinh cấu tội ».

48.- GIỚI PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP    
Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng cùng tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc vương và các quan, làm những sự gông trói các Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, người thọ giới Bồ Tát như cách của ngục tù và binh nô ? Như trùng trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế các Phật tử tự hủy phá Phật pháp, không phải ngoại đạo hay Thiên ma phá được.
Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới luật của Phật như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.

Người Phật tử khi nghe ngoại đạo, người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phât, thời đau đớn không khác nào cả ba trăm cây dáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả nghìn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự cam vào ở địa ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu thuận, tự mình hủy báng phá giới pháp của Phật, hay làm nhơn duyên bảo người khác hủy phá. Nếu cố phá giới pháp, Phật tử nầy phạm « khinh cấu tội ».
Chín giới như vậy, cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì.

***

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc, hoặc tìm cách gửi gắm cho người khác chăm sóc, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.



I. Giới bổn Bồ tát tại gia

Giới: Tiếng Phạn Sila, theo nghĩa, dịch là giới. Giới [theo nghĩa hẹp] là những điều cấm chế, có công năng làm cho hành giả đề phòng, chế ngự thân, tâm, không cho phạm vào lỗi lầm (Hán: phòng phi chỉ ác). Giới là tiêu chuẩn quy định đệ tử Phật hành động thế nào là đúng pháp, hành động như thế nào là không đúng pháp.

Giới còn có nghĩa là "mát mẽ (Hán: thanh lương)". Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) giống như cơn lửa phiền não đốt cháy hành giả, còn giới thì có thể dập tắt cơn lửa phiền não, làm cho hành giả mát mẽ, cho nên gọi là "thanh lương".

Giới là bậc thang cho tất cả pháp lành, trong đó có bốn giai tầng là ngũ giới, bát giới, thập giới, và cụ túc giới. Phật tử nếu muốn từ địa vị phàm phu vượt lên thánh vị, phải theo thứ tự này mà tiến bước. (Ðây là nói theo Tiểu thừa, còn theo Ðại thừa, giới pháp Bồ tát bao quát cả bốn giai tầng này.) 

Giới có công năng giúp cho hành giả ngăn chận pháp ác, đoạn trừ tất cả tập khí ác, diệt tận phiền não loạn tưởng, chứng đắc Niết bàn. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: "Ðược gọi là giới, bởi vì nó có thể giúp hành giả diệt trừ các việc ác. Giới có thể giúp hành giả viên thành đạo quả, làm cho mọi người hoan hỷ. Giới, gọi là anh lạc trang nghiêm, vì làm cho hành giả hiện tướng trang nghiêm. Giới cấm của chư Phật, như bình Cát tường, tất cả nguyện cầu đều được toại ý; tất cả đạo phẩm đều do giới mà thành tựu. Như vậy, này các tỳ kheo! Kẻ nào tuân hành giới cấm, thì kẻ đó sẽ được đại quả báo, các điều lành sẽ đến. Kẻ đó được vị cam lộ, đến quả vị "vô vi", sẽ được thần thông, diệt trừ loạn tưởng, chứng đắc "sa môn quả", sẽ được Niết bàn."

Bồ tát: Bồ tát là gọi tắt của "Bồ đề tát đỏa", là dịch âm từ chữ Phạn Bodhisattva. "Bồ đề" dịch là giác, còn "tát đỏa" dịch là hữu tình, hợp lại gọi là "giác hữu tình", có nghĩa là bất cứ đệ tử nào của Phật, hễ phát tâm "trên cầu Phật đạo, dưới độ hữu tình", thì kẻ đó được gọi là Bồ tát.

Tại gia: Ðệ tử của Phật được chia làm hai hạng xuất gia và tại gia. Tại gia gồm hai chúng là ưu bà tắc và ưu bà di. Ưu bà tắc, là dịch âm từ chữ Phạn upasika, theo nghĩa, được dịch là cận sự nam, hoặc cận thiện nam, hoặc cận túc nam, v.v... Thế nhưng, chỉ có nghĩa "cận sự nam" là chính xác nhất. "Cận", có nghĩa là thân cận (gần gũi), "sự" có nghĩa là phụng sự, tức là thân cận phụng sự Tam bảo. Người nam gọi là ưu bà tắc, người nữ gọi là ưu bà di.

II. Sáu giới trọng:

(1) Giới giết hại:

Chư phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến, cũng không được giết hại. Nếu phạm giới giết hại, hoặc bảo người giết, hoặc tự mình giết, sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ nhất.

Dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến, cũng không được giết hại: Ðối với cảm quan của loài người, cho rằng trùng, kiến là những loài vật bé nhỏ, cho nên coi thường sinh mệnh của chúng. Khi giết hại những loài trùng kiến này, không những không cảm thấy xúc động, mà nhiều khi lại còn cảm thấy "thích thú". Thế nhưng, đối với Phật pháp, tất cả sinh mệnh của chúng sanh đều bình đẳng. Sinh mệnh của loài trùng kiến cũng là sinh mệnh của chính chúng ta. Nếu chúng ta biết yêu tiếc thân mệnh mình, thì loài trùng kiến cũng biết yêu tiếc thân mệnh của chúng. Do đó, chúng ta không có quyền tước đoạt sinh mệnh của bất cứ loài vật nào.

Vì lý do này, các ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, dù cho hy sinh thân mạng của chính mình, cũng không được sát sinh; do đó mới nói: "Dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến cũng không được sát hại". Ðến như giết người, thì tội lại càng nặng hơn. Ngoài việc phá giới, mất giới thể và chiêu cảm ác báo trong tương lai, lại còn không thể sám hối (Theo Ðại thừa, tuy có thể sám hối, song sự sám hối cũng không phải dễ dàng, phải thấy được điềm lành, như thấy Phật đến xoa đầu, hoặc thấy hương thấy hoa, v.v..., thì tội phá giới mới tiêu diệt, thế nhưng, ác báo trong tương lai vẫn không bị trừ diệt).

Ðối với những loài vật nhỏ trong các dạng thái: như sinh ra từ trứng, sanh nơi ẩm thấp, sinh ra bằng sự biến hóa, v.v..., nếu vô ý sát hại, tuy không phạm giới, song vẫn phải sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng. Còn nếu cố tâm sát hại, thì vẫn là phạm vào điều giới này.

Bảo người giết: (Hán: giáo nhân sát): Có hai loại, (1) sai: là dùng lời nói, cử chỉ, hay dấu hiệu, cho kẻ thuộc hạ ra tay sát hại đối phương, dưới sự hiện diện của mình; (2) khiển: ra lệnh, bằng lời nói hay thư từ, cho thuộc hạ truy lùng đối phương để sát hại.

Tự mình giết: nghĩa là tự mình ra tay sát hại. Có ba loại: (1) hoặc dùng nội sắc: nghĩa là dùng tay, chân, hoặc các bộ phận khác của thân thể mình, xúc chạm trực tiếp vào thân thể của đối phương; (2) hoặc dùng ngoại sắc: nghĩa là dùng dao, gậy, cây, đá, v.v... quăng, ném, phóng vào đối phương; (3) hoặc dùng nội ngoại sắc: nghĩa là tay cầm dao, gậy, cây, đá, v.v... xúc chạm vào đối phương.

Mất giới: tức là mất giới thể. Theo Tiểu thừa, mất giới thể là vĩnh viễn mất hẳn, không thể sám hối. Thế nhưng, theo Ðại thừa, mất giới thể, chỉ có nghĩa là giới thể tạm thời bị mất đi cái công năng "phòng phi chỉ ác (đề phòng lỗi lầm, đình chỉ việc ác)". Giả như, hành giả đem tâm cực kỳ thành khẩn sám hối, theo kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, nếu thấy được điềm lành, như trong mộng thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu, thuyết pháp, hoặc thấy hương, thấy hoa, v.v..., thì tội liền được tiêu diệt, và hành giả có thể thọ giới lại, khôi phục giới thể thanh tịnh của mình.

Noãn pháp: Trong giáo pháp Tiểu thừa, trước tiên cần phải vượt qua bốn giai đoạn, gọi là bốn gia hạnh vị, tức là Noãn pháp, Ðảnh pháp, Nhẫn pháp, và Thế đệ nhất pháp, sau đó mới có thể chứng đắcÕ bốn thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, và A la hán. Muốn biết thêm chi tiết xin xem Phật học từ điển.

Huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm: Theo giáo pháp Tiểu thừa, người tại gia, tối đa, có thể chứng đến thánh quả A na hàm, chỉ có hàng xuất gia mới chứng được thánh quả A la hán.

Phá giới: tức là hủy phạm những giới trọng mà mình đã thọ. Theo thuật ngữ giới luật, gọi là phạm Ba la di. Ðối với bốn giới căn bản, dâm, sát, đạo, vọng, nếu phạm trọng sẽ mất giới thể. Còn hai giới trọng thứ năm và thứ sáu, tuy cũng phạm trọng, song không mất giới thể.

Xú uế: nghĩa là mùi hôi thối, mọi người ngửi đến cảm thấy nhờm gớm. Trong Phật pháp, tất cả điều ác, đều là do sự tham muốn sanh tử sanh ra, đều bị coi là ô uế. Cho nên kẻ phá giới, do vì tâm sanh pháp ác, giống như mùi hôi thối của xác chết, không ai dám ngửi.

Cấu ô: Chữ cấu, có nghĩa là trần cấu. Bởi vì thân thể bài tiết ra những chất bất tịnh, kết thành cấu uế nhơ nhớp. Trong Phật pháp, đem chất cấu nhớp trên thân ví cho vọng tưởng điên đảo. Tâm tính xưa nay vốn thanh tịnh, bởi do vọng tưởng điên đảo (phiền não) làm ô nhiễm, mà trở thành cấu ô (nhơ nhớp).

Chiên đà la: là giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Ðộ, chuyên làm nghề đồ tể. Kẻ Bồ tát tại gia thọ giới, xưa nay vốn đầy đủ tất cả thiện căn, nếu không giữ gìn giới pháp, giống như đem tất cả thiện căn ra giết sạch. Ðiều này giống như bọn đồ tể chiên đà la, dòng dõi thấp hèn.

Bị triền phược: có nghĩa là bị trói buộc, tức là hành giả bị phiền não trói buộc, kết hợp, thành thử bị trói buộc trong sinh tử luân hồi.

Giới giết hại, có năm duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là người, (2) tưởng là người, (3) có tâm sát hại, (4) lập phương tiện, (5) đối phương bị đoạn mệnh.

(Chú ý: Ở đây chỉ đề cập đến trường hợp phạm trọng, mất giới thể, thành thử đối tượng cho sự sát hại là con người, còn như sát hại những sinh vật khác, sẽ phạm tội nhẹ hơn. Trong giáo pháp Ðại thừa, tuy công nhận tất cả chúng sanh đều bình đẳng, song hàng tại gia thọ Bồ tát giới còn đang ở trong giai đoạn "chập chửng" học tập Bồ tát hạnh, không thể phán tội quá nặng, giống như các vị Bồ tát đăng địa được. Giả sử, nếu các Bồ tát thập địa phạm giới sát, thì sẽ phạm trọng mất giới thể, không kể đối tượng là ai! Còn như các vị tại gia sơ cơ, nếu bị phán tội giống như các vị Bồ tát thập địa, e rằng giới luật sẽ trở thành quá khắc khe, không ai có thể hành trì được. Có lý có tình, đây là tinh thần của giới luật.)

(2) Giới trộm cắp:
Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, ngay đến một đồng tiền, cũng không được trộm cắp. Nếu phạm giới trộm cắp sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ hai.

Trộm cắp: Ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp là ba hành vi ác. Ý nghĩa của chúng gần giống nhau, nghĩa là thừa dịp kẻ khác không chú ý, hoặc không đề phòng, mà đoạt lấy đồ vật của họ, về làm của riêng của mình. Trong Phật pháp gọi là "không cho mà lấy" (Hán: bất dữ thủ).

Kẻ trộm cắp, đầu tiên là do lòng tham muốn, kế đó bắt đầu dự mưu, tính toán, sau đó thực hành ý đồ của mình, đoạt lấy của cải của kẻ khác đem về làm của riêng, để thỏa lòng tham muốn của mình.

Trộm cắp, không phải là lấy lầm, mà là biết rõ tài vật đó là của người khác, không phải của mình, hơn nữa, tự mình không có món vật tương tự như vậy, đây hoàn toàn là một hành vi "bất chính".

Ngay đến một đồng tiền: Ðây là dùng số lượng nhỏ để ví cho số lượng lớn. Chỉ cần lấy trộm một đồng tiền, cũng đã phạm vào điều giới này, huống chi là lấy trộm một số tiền lớn hơn. Theo giới luật quy định, nếu trộm "năm tiền" sẽ phạm trọng, mất giới thể. Thế nhưng, "năm tiền" là tính theo đơn vị tiền tệ của nước Ma Kiệt Ðà của vua Tần Bà Sa La vào thời Ðức Phật còn tại thế. Hiện nay, "năm tiền" trị giá bao nhiêu, khó mà biết một cách chính xác. Có một số Luật sư Nam truyền, cho rằng "năm tiền" tương đương với khoảng "hai mươi đô la Mỹ" hiện nay. Thế nhưng, theo ý người dịch, chỉ trộm "hai mươi đô la" mà bị mất giới thể, e rằng quy định như thế là quá "nghiêm khắc". Chỉ có cách là khuyên các vị ưu bà tắc, ưu bà di, sau khi thọ giới Bồ tát, đối với điều giới này phải nên rất cẩn thận.

Giới trộm cắp có sáu duyên thành phạm trọng: (1) vật có chủ, (2) biết là vật có chủ, (3) có tâm trộm cắp, (4) vật có giá trị "năm tiền" hay hơn "năm tiền", (5) lập phương tiện, (6) di động vật rời chỗ, dù chỉ là xê xích một li.

(3) Giới đại vọng ngữ:

Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được nói dối: "Tôi đã chứng được pháp quán bất tịnh", hoặc: "Tôi đã chứng được thánh quả A na hàm", vân vân, ... Nếu phạm giới đại vọng ngữ sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ ba.  

Nói lời không thực, lừa dối phàm thánh, mê hoặc lòng người, gọi là nói dối. Trong đây phân làm bốn trường hợp: (1) Vọng ngữ: tức là thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; nghe nói không nghe, không nghe nói nghe, v.v... Trong đây lại chia làm hai loại: (a) đại vọng ngữ, nghĩa là chưa chứng pháp quán bất tịnh, lại nói rằng đã chứng pháp quán bất tịnh, nhẫn đến chưa chứng thánh quả lại nói rằng đã chứng thánh quả; (b) tiểu vọng ngữ: tức là ngoài những lời đại vọng ngữ ra, tất cả những lời vọng ngữ thông thường khác, gọi là tiểu vọng ngữ. (2) Nói lời vô nghĩa (Hán: ỹ ngữ): tức là nói những lời phù phiếm, hoa hòe, nhẫn đến bàn tán những chuyện nhãm nhí, không lợi ích cho mình và người. (3) Nói lời đâm thọc (Hán: lưỡng thiệt): còn gọi là nói lưỡi hai chiều, tức là đến đây nói kia, đến kia nói đây, mục đích gây tạo sự chia rẽ, hiềm khích. (4) Nói lời độc ác (Hán: ác khẩu): tức là nói những lời tục tằn, chửi rủa, trù ẻo, v.v..., làm cho đối phương không thể nhẫn chịu được.  

Ðiều giới này là muốn phán tội của sự đại vọng ngữ, nếu như đại vọng ngữ, sẽ phạm trọng, mất giới thể; còn như nói các lời hư vọng khác, sẽ phạm trung tội hoặc tiểu tội, không mất giới thể. 

Giới đại vọng ngữ có chín duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là người, (2) mình biết đối phương là người, (3) cảnh giới không thật, (4) tự mình biết cảnh giới không thật, (5) có tâm lừa dối, (6) nói cảnh giới không thật, (7) tự nói mình chứng được cảnh giới đó, (8) lời nói rõ ràng, (9) đối phương hiểu ý mình muốn nói.

(4) Giới tà dâm:

Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được tà dâm. Nếu phạm giới tà dâm sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ tư.  

Dâm, được phân làm hai loại là chính dâm và tà dâm. Chính dâm là sự giao phối giữa hai vợ chồng chính thức. Ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, vẫn có thể làm chuyện "chính dâm" này. Thế nhưng, trong sáu ngày "bát quan trai" trong tháng, ngay cả việc "chánh dâm" cũng bị cấm đoán, mà phải hoàn toàn đoạn dục.

Còn tà dâm là sự giao phối với kẻ thứ ba, không phải vợ hay chồng chính thức của mình, không luận kẻ đó là nam, nữ, súc sinh, quỷ thần, phi nhân, hoàng môn (bán nam bán nữ), v.v..., dù là còn sống hoặc đã chết (hành dâm với thây chết). Nếu hành tà dâm, sẽ phạm trọng, mất giới thể. 

Nếu gặp kẻ không phải vợ chồng chính thức của mình, cưỡng bức mình làm chuyện tà dâm, dù cho mất thân mệnh cũng không để cho kẻ đó xâm phạm mình. Huống hồ, đã thọ giới Bồ tát, lại càng không thể cưỡng bức kẻ khác làm chuyện tà dâm. 

Ngoài ra còn thêm một điều giới liên quan đến sự tà dâm, là điều giới khinh thứ hai mươi (Hành dâm không đúng thời, không đúng chỗ). 

Giới tà dâm có hai trường hợp: (1) tự mình tà dâm, (2) bị kẻ khác cưỡng bức tà dâm. 

Tự mình tà dâm, có năm duyên thành phạm trọng: (1) không phải người phối ngẫu chính thức của mình, (2) chánh cảnh (người nữ ba chỗ: nữ căn, miệng, và hậu môn; người nam hai chỗ: miệng và hậu môn); (3) khởi tâm dâm dục, (4) lập phương tiện, (5) hợp với chánh cảnh (dù độ sâu chỉ bằng hột mè). 

Bị cưỡng bức tà dâm, có năm duyên thành phạm trọng: (1) không phải người phối ngẫu chính thức của mình, (2) chánh cảnh (người nữ ba chỗ: nữ căn, miệng, và hậu môn; người nam hai chỗ: miệng và hậu môn); (3) bị cưỡng bức dâm dục, (4) hợp với chánh cảnh (dù độ sâu chỉ bằng hột mè), (5) cảm thọ khoái lạc.

(5) Giới rao nói tội lỗi của bốn chúng:

Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được rao nói tội lỗi của bốn chúng: tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Nếu phạm giới rao nói tội lỗi của bốn chúng sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, hoặc A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây là giới trọng thứ năm. 

Rao nói (Hán: tuyên thuyết): có nghĩa là dùng ngôn ngữ, bao hàm lời nói, văn tự, tranh ảnh, v.v..., để truyền bá cho mọi người biết.  

Tội: nếu như trong Phật pháp, là chỉ cho sự phá giới, còn như trong thế gian pháp, là chỉ cho sự phạm pháp. 

Lỗi: tức là những lỗi lầm tương đối nhẹ khác. 

Bốn chúng đệ tử, tuy đã tiếp thọ giới pháp tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, nhưng tất cả đều vẫn còn là phàm phu, vẫn có thể phạm vào lỗi lầm. Trên thế gian, không có ai là kẻ toàn thiện, trừ đức Phật. 

Tỳ kheo, tỳ kheo ni, có ba nghĩa: (1) bố ma: khi một người xuất gia thọ giới cụ túc, ma cung liền bị chấn động, đồng thời, ma vương cũng cảm thấy sợ hãi, cho nên gọi là bố ma; (2) khất sĩ: trên thì khất (xin) pháp của chư Phật, dưới thì khất thực (thức ăn) của chúng sanh; (3) phá ác: tỳ kheo, tỳ kheo ni tu tập giới, định, tuệ, phá diệt tất cả các pháp ác như tham, sân, si, v.v..., cho nên gọi là phá ác.

Vì tỳ kheo, tỳ kheo ni có đầy đủ ba nghĩa như trên, cho nên nếu rao nói tội lỗi của họ, cũng tức là phá hoại Tam bảo. Còn ưu bà tắc, ưu bà di, là những người hộ trì Tam bảo, nếu rao nói tội lỗi của họ, sẽ là cho họ thoái thất tâm hộ trì Phật pháp. Vì những lý do này, đã thọ giới Bồ tát, nếu rao nói tội lỗi của bốn chúng, sẽ phạm trọng.

Bốn chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, là bốn cột trụ của tòa nhà Phật pháp. Nếu phá hoại một trong bốn cột trụ đó, thì tòa nhà Phật pháp sẽ bị sụp đổ. Nếu như thấy có người trong bốn chúng phạm tội, hoặc làm lỗi, nên khéo léo khuyến cáo họ một cách kín đáo. Nếu như họ không chịu nghe lời khuyên nhắc, cũng không nên đem tội, lỗi đó ra mà rao nói cho kẻ khác biết. Ngài Liên Trì có nói: "Không thấy lỗi của người xuất gia, đây là liều thuốc hay nhất của hàng cư sĩ." Bởi vậy, cư sĩ tại gia, tuyệt nhiên không nên nói lỗi lầm của người xuất gia.

Sự học của các bậc thánh mới thực là sự học "đến nơi đến chốn". Ðức Khỗng tử nói: "Ba người cùng đi, ắt phải có vị thầy của mình. Thấy điều thiện thì học hỏi, thấy cái không thiện thì nhân đó mà cải đổi chính mình." Các vị Phật tử, nếu thấy người khác có lỗi lầm, nếu như mình đã khuyên nhắc kín đáo mà họ vẫn không nghe, chỉ nên đi tìm vị thiện tri thức khác để học hỏi, tuyệt nhiên không nên rao nói lỗi lầm của họ. Các vị ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, phải nên cẩn thận điều này.

Giới nói lỗi của bốn chúng có năm duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là một trong bốn chúng, (2) biết đối phương là một trong bốn chúng, (3) có tâm rao nói tội lỗi, (4) rao nói tội lỗi, (5) người nghe hiểu ý mình muốn nói.

(6) Giới bán rượu:

Chư Phật tử! Sau khi thọ giới Bồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được bán rượu. Nếu phạm giới bán rượu sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tát phá giới, Bồ tát xú uế, Bồ tát cấu ô, Bồ tát chiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Ðây gọi là giới trọng thứ sáu. 

Ðiều giới này tương tự với điều giới trọng thứ sáu, Không được bán rượu, của kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới. 

Rượu, là một chất độc là cho người uống mê say, đánh mất nhân tính. Uống rượu không những nguy hại đến sức khỏe, mà còn, nếu uống quá lượng, sẽ làm cho người uống trở thành nghiện ngập, lại còn có thể làm cho họ phát cuồng, phát điên. Vì thế bán rượu cho người khác uống, thì cũng gần giống như giết người; hơn nữa, kẻ say rượu lại có thể làm nguy hại đến luân lý xã hội, cùng những việc nguy hiểm đến tính mạng kẻ khác, do đó, ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, nếu còn bán rượu sẽ phạm trọng. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có nói: "Tất cả rượu đều không được bán. Rượu là nhân duyên sinh ra tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí tuệ sáng suốt, mà trái lại đem sự say mê điên đảo đến cho họ. Phật tử này phạm Bồ tát ba la di tội."  

Các Bồ tát tại gia, nếu trước đó đã làm nghề bán rượu, thì phải tức khắc đổi sang nghề khác. Tuy có do đây mà bị thất nghiệp, hoặc cuộc sống bị nguy ngập, cũng không trở lại làm nghề bán rượu này. Nếu như người nhà phản đối, thì nên để cho kẻ chưa thọ giới Bồ tát tiếp tục làm, còn vị ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, tuyệt đối không nên dính líu vào công việc làm của họ. Nếu không lại phạm vào tội đồng lõa, hoặc phạm vào điều giới "chỉ dạy cho kẻ khác bán rượu".  

Giới bán rượu có năm duyên thành phạm trọng: (1) đối phương là người, (2) biết đối phương là người, (3) có tâm bán rượu cầu lợi, (4) rượu thật, (5) bán cho đối phương.

III. Hai mươi tám giới khinh:

(1) Giới không cúng dường cha mẹ, sư trưởng:

Chư Phật tử! Ðức Phật đã dạy: Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Cúng dường: có nghĩa là đem vật sở hữu, tùy khả năng của mình, bố thí cho cha mẹ, sư trưởng và các bậc có đức sử dụng; mà trong đó, đặc biệt nên "cúng dường" cha mẹ, sư trưởng. Bởi vì, (1) "thân người khó được", mà cha mẹ lại là kẻ sinh ra thân mệnh mình; (2) "Phật pháp khó nghe", mà sư trưởng lại là kẻ giảng dạy Phật pháp cho mình. Ơn nghĩa của cha mẹ, sư trưởng đối với chúng ta sâu rộng như trời biển, bởi thế chúng ta phải nên cúng dường phụng sự. 

Kinh Trang Nghiêm, quyển mười hai, có nói: "Các Bồ tát vì muốn thành tựu lục độ, cho nên trong mỗi địa, đều nhất định phải tu sáu việc: (1) phải tu cúng dường, đây là thành tựu bố thí ba la mật; nếu như không bố thí lâu dài, thì sẽ không thành tựu bố thí độ, ...." Nếu đã là bồ tát thì phải tu lục độ. Cúng dường, tức là bố thí ba la mật, cho nên cúng dường cha mẹ, sư trưởng, tức là để thành tựu, viên mãn "bố thí độ" vậy. 

Nếu kẻ nào không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, thì đó là kẻ ngỗ nghịch vô đạo. Pháp thế gian còn không dung thứ, huống hồ là trong Phật pháp! Kẻ không cúng dường cha mẹ, sư trưởng, là kẻ đi ngược lại bổn nguyện của chư Phật, Bồ tát, cho nên, tuy họ nhất tâm niệm Phật, niệm Bồ tát, thì vẫn không thể nào tương ưng với chư Phật, Bồ tát được. 

Tội sơ ý: có hai lối giải thích, (1) theo ngài Thái Hư Ðại sư, sơ ý là không chú ý (Anh: unmindful) mà phạm, hành giả có thể sám hối, và không bị mất giới thể, (2) theo lối giải thích thứ hai, sơ ý là sự [tạm thời] quên mất tâm Bồ đề, cùng ý thức về sự lập thệ thọ giới, và ý thức về vai trò Bồ tát của mình (Anh: not being mindful and losing the initial intention in taking the precept.) 

Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi (Hán: Bất khởi đọa lạc, bất tịnh hữu tác): Kẻ nào phạm vào những điều giới này, nếu không khởi tâm thành khẩn sám hối, sẽ bị đọa lạc vào ba đường ác, đó là kẻ cấu uế, bất tịnh, tiếp tục tạo nghiệp sinh tử luân hồi (Anh: If one does not have the mind of repentance, one will deteriorate. One is impure, and will continue to create defiled karma that leads to transmigration in the cycle of birth and death).

(2) Giới uống rượu:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, ham mê uống rượu, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Ham mê (Hán: đam nhạo): nghĩa là quá phần ham thích, đến độ mê luyến. 

Như điều giới trọng thứ sáu, Giới bán rượu, có nói sơ lược, uống rượu làm tổn hại sức khỏe, lại còn làm cho tâm thần mê muội, mất hết nhân tính, nhẫn đến phát cuồng phát điên. Không những không thể tu hành, mà còn lại không thể làm những nghề nghiệp sinh sống chánh thường. Do đó, Bồ tát tại gia không nên uống rượu. 

Uống rượu là nghiệp ác, thế nhưng, vì chỉ tự hại mình, thành thử phạm tội tương đối nhẹ, song nếu đưa rượu cho người khác uống, quả báo sẽ nặng hơn. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới nói: "Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo năm trăm đời không tay (nghĩa là đọa vào loài súc sanh)". Còn như bán rượu, tội lại càng nặng hơn nữa, tức là sẽ phạm trọng, và quả báo sẽ ở địa ngục.

(3) Giới không chăm sóc người bệnh:
Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, gặp người bệnh khổ, sinh khởi ác tâm, bỏ phế không chăm sóc, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Ác tâm: Chữ ác, theo tiếng Hán có ba nghĩa: (1) ác độc, (2) ghét, (3) nhờm gớm. Nói chung, ác tâm có nghĩa là tâm không lành, không từ bi, v.v...

Ðiều giới này và điều giới hai mươi tám (Ði đường gặp người bệnh không chăm sóc) tương đương với điều giới ba mươi hai (Không chăm sóc người bệnh) trong quyển Du Già Bồ Tát Giới. Thế nhưng lời văn của quyển giới bổn Bồ tát tại gia này quá đơn giản, thành thử phải dựa vào quyển Du Già Bồ Tát Giới để giải thích, mới có thể giúp cho người thọ giới Bồ tát tại gia thọ trì đúng pháp.

Ðại ý của điều giới này và điều giới hai mười tám, muốn nói là nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thấy người bệnh, lại khởi tâm ác, không chăm sóc, lo lắng cho người bệnh, sẽ phạm tội sơ ý. Còn nếu như không phải vì ác tâm, mà chỉ vì biếng nhác, vô trách nhiệm, thì cũng phạm, song tương đối nhẹ hơn. Theo quyển Du Già Bồ Tát Giới, có mười trường hợp khai duyên, tuy không chăm sóc người bệnh, mà vẫn không phạm, là khi: (1) tự mình có bệnh; (2) hoặc mình không đủ khả năng, sức lực; (3) hoặc mình nhờ kẻ có sức lực, có khả năng, chăm sóc dùm người bệnh; (4) hoặc mình biết người bệnh có bà con, thân thích, có thể chăm sóc cho họ; (5) hoặc người bệnh còn sức lực, có thể tự lo liệu; (6) hoặc bệnh của người đó thường phát tác (lành rồi lại bệnh, bệnh rồi lại lành); (7) hoặc người đó bị bệnh kinh niên; (8) hoặc mình đang phải chuyên tâm tu tập, không thể tạm bỏ phế việc tu hành; (9) hoặc tự mình là người ám độn, sự tu tập hạnh Bồ tát chưa được tiến bộ; (10) hoặc mình đang chăm sóc người bệnh khác.

(4) Giới không bố thí người đến xin:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thấy người đến xin, không tùy sức mình mà bố thí ít nhiều, để cho kẻ đến xin ra về tay không, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Bố thí: bao gồm cả tài thí, pháp thí, và vô úy thí.

Ðể cho kẻ đến xin ra về tay không (Hán: không khiển hoàn): Theo nghĩa chữ Hán, không những không cho mà còn xua đuổi (khiển) họ đi. Ðiều giới này, đối với Bồ tát Bồ tát tại gia, vì còn ở trình độ sơ cơ, nên phán tội tương đối nhẹ, còn nếu y vào Du Già Bồ Tát Giới mà phán tội thì: nếu có người đến xin mà bỏn sẻn, không bố thí (dù ít dù nhiều), mà lại còn xua đuổi, sẽ phạm trọng (ba la di tội).

(5) Giới không chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, gặp các vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc các vị Bồ tát tại gia thọ giới trước, không đứng dậy tiếp đón, lễ lạy, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Bồ tát tại gia thọ giới trước: nghĩa là những kẻ thọ giới Bồ tát tại gia trước mình (dù một ngày, một giờ, hay một phút).

(6) Giới khinh mạn người phạm giới:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thấy tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di phạm giới, sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình hơn họ, họ không bằng mình, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Kiêu mạn là một trong năm phiền não căn bản, tức là tham, sân, si, mạn, và nghi. Tự cho mình là cao, rồi từ đó lăng nhục, khinh miệt kẻ khác, không có lòng bao dung, kính trọng. Do đó mà tự chiêu lấy rất nhiều phiền não. Kinh Ðại Tập nói: "Phá núi kiêu mạn, nhỗ cây sinh tử", do đây mà biết rằng kiêu mạn và sinh tử là hai sự chướng ngại quan trọng ngang nhau, mà hành giả tu tập Phật pháp cần phải phá diệt trước nhất. 

Hơn nữa, Phật nói nhân quả, tự mình làm tự mình chịu. Kẻ trì giới được quả lành, kẻ phạm giới bị quả ác, do đây, thấy kẻ khác phạm giới, tự mình nên đề cao cảnh giác, hoặc đem lòng từ bi mà đối đãi với họ. Nếu sinh tâm khinh mạn, tức là đi ngược lại bổn nguyện của mình, vi phạm giới pháp mà mình đã thọ, do đó Phật mới chế định điều giới này để răn cấm chúng ta. Còn như, nếu lại đi rao nói sự phạm giới của họ, thì sẽ phạm vào điều giới trọng thứ năm, rao nói tội lỗi của bốn chúng.

(7) Giới không thọ sáu ngày bát quan trai giới mỗi tháng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, mỗi tháng không thọ sáu ngày bát quan trai giới, không cúng dường Tam bảo, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Nếu mỗi tháng không thọ sáu ngày bát quan trai giới (Hán: Nhất nguyệt chi trung, bất năng lục nhật thọ trì bát giới): Sáu ngày bát trai giới, tính theo âm lịch, là các ngày 8, 14, 15, 23, 29, 30 (28, 29, nếu là tháng thiếu). Tám điều giới gọi là quan (đóng lại), nghĩa là đóng cửa tà ác, còn điều "không ăn phi thời" gọi là trai, tức là không ăn quá ngọ. 

Phụ chú: Nếu Bồ tát tại gia, vì hoàn cảnh không thuận tiện, không thể thọ trì sáu ngày bát trai giới trong một tháng, tốt nhất nên tạm xả điều giới này, sau đó chọn những ngày thuận tiện trong tháng để thọ bát trai giới, cũng sẽ hoạch được rất nhiều công đức.

(8) Giới không đi nghe pháp:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, trong vòng bốn mươi dặm có chỗ giảng kinh thuyết pháp mà không đến nghe, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Trong vòng bốn mươi dặm: Bốn mươi dặm là tính theo dặm Tàu, tức là khoảng mười hai cây số. Thời đức Phật, phương tiện giao thông chính là đi bộ, cho nên thời gian để đi bộ mười hai cây số là khoảng bốn tiếng đồng hồ. Hiện nay, giao thông tiện lợi, khoảng cách có thể tùy đó mà nới rộng ra. 

Phụ chú: Ðức Như Lai chế định giới luật, không phải là những giới điều cứng nhắc, mà luôn luôn tùy hoàn cảnh của kẻ thọ giới mà phán định. Giả như kẻ thọ giới không có phương tiện giao thông, hoặc bận rộn công việc, lo sinh kế gia đình, không thể đến nghe pháp, thì có thể mượn băng giảng kinh về nghe cũng tốt, song công năng phát sinh do sự nghe băng không thể so với công năng của sự nghe trực tiếp với vị thầy giảng pháp.

(9) Giới thọ dụng đồ dùng của chư Tăng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, thọ dụng đồ dùng của chư Tăng, như ngọa cụ, giường, ghế, v.v..., thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Thọ dụng đồ dùng của chư tăng (Hán: thọ chiêu đề tăng ngọa cụ, sàng, tòa): Trong câu chữ Hán, "chiêu đề tăng", dịch là tứ phương tăng, nếu nói tổng quát là chỉ tất cả các bậc xuất gia. Ngọa cụ, theo nghĩa rộng là đồ nằm, tức là mền, mùng, chiếu, gối, v.v..., sàng tòa, tức là ghế, bàn, giường, v.v... Hơn nữa, chữ thọ, theo tiếng Hán, có hai nghĩa: (1) nhận lấy, (2) sử dụng. Thành thử, điều giới này có hai lối giải thích: (1) không được thọ nhận đồ của chư tăng (nếu họ cho mình), (2) không được sử dụng đồ của chư tăng. 

Bản chú giải tiếng Hoa của cư sĩ Trí Minh giải thích như sau: "Ưu bà tắc, ưu bà di, tuy đã thọ giới Bồ tát tại gia, song thân tâm vẫn còn "bất tịnh", nếu sử dụng đồ dùng của "chiêu đề tăng", như đồ nằm, giường, ghế, v.v..., không phải là không nhiễm ô (bị nhiễm ô), đây là sự bất kính. Vì lý do này, Bồ tát tại gia không thể sử dụng." 

Phụ chú: Kẻ tại gia sử dụng đồ đạc của người xuất gia, e rằng đối với các bậc xuất gia sẽ sinh tâm khinh lờn, vì thế tốt nhất nên giữ khoảng cách, đối với đồ dùng của các bậc xuất gia, không nên sử dụng.

(10) Giới uống nước có trùng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nghi nước có trùng, mà vẫn cố ý uống, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Nghi nước có trùng: Chữ trùng ở đây, phải hiểu là những sinh vật có tầm kích mà mắt có thể thấy được, do đó một bản giới bổn tiếng Anh dịch là "insect". Nếu như mắt thường không thể nhìn thấy thì kể như không có, và được xem là không phạm. Còn nếu như cho rằng chữ trùng có nghĩa là vi sinh vật (micro-organism), thì e rằng tất cả loại nước mà chúng ta sử dụng, trừ loại nước thuần khiết (pure water), đều có trùng ở trong, và như vậy, đã ra ngoài phạm vi của điều giới này.

Phụ chú: Ðiều giới này, trong hoàn cảnh hiện nay, tương đối khó phạm, vì mọi nơi đều có cung cấp nước uống tinh khiết, chỉ khi nào lâm vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, như đi lạc vào rừng sâu, chẳng hạn, mới phải đặt ra vấn đề này. Ðiều quan trọng ở đây là sự "cố ý uống", còn nếu như vô ý, không biết có trùng, thì không phạm.

Ngài Ấn Thuận, trong bài "Bàn luận về sự ăn chay", đã viết cảm nghĩ như sau: " ... Có kẻ chủ trương ăn thịt không có gì phương ngại, hoặc có kẻ cho rằng không thể không ăn thịt. Những kiến giải của những kẻ ăn thịt này, rất là phức tạp, nhưng điều mà bọn họ coi thường mọi người nhất, là treo lên cái chiêu bài giả dối, mệnh danh khoa học. Bọn họ cho rằng: "Chúng ta không thể không sát sinh, không sát sinh là điều bất khả". Cho nên theo bọn họ, từ sự không sát sinh đưa đến sự không ăn thịt, là điều vô ý nghĩa. Bọn họ cho rằng cây cỏ cũng có sinh mệnh, cho nên những kẻ ăn rau trái, cũng không tránh khỏi sự sát sinh. Bọn họ cho rằng: "Ăn chay (không ăn thịt) cũng không phải là triệt để, như khi uống một hớp nước, trong nước có biết bao nhiêu sinh vật! Hít một hơi thở vào, trong không khí cũng có biết bao nhiêu sinh mệnh. Nếu như muốn chân thật không sát sinh, không ăn thịt, thì phải nên không uống nước, không hít thở không khí. Như thế, chỉ có sự chết mà thôi!

... Phật giáo nói đến sự sát sinh và không sát sinh, trong đó bao hàm tính chất thiện ác (đạo đức, không đạo đức). Ðiều này chẳng phải thuộc về phạm vi của thế giới khoa học (vật lý, hoá học, v.v...), mà cũng chẳng phải là những vật hiện ra dưới kính hiển vi, hay trong kính viễn vọng (trong khoa học vật lý không có sự phân biệt giữa thiện và ác), mà đây là sự việc thuộc về phạm vi của thế giới đạo đức, là nơi có sự pha trộn giữa lý và tình, có sự tương quan giữa tâm và sắc, cho nên vấn đề phải được bàn luận qua sự quan hệ của tình và lý, tâm và cảnh.

Trước tiên, từ đối tượng của sự sát sinh mà nói: sát sinh, nghĩa là muốn nói đến sự sát hại những sinh vật có tình thức (cũng gần giống như người thường nói đến động vật). Các chúng sinh có tình thức, đều có bản năng là "ham sống sợ chết". Nếu như chúng nó bị tổn thương, hay bị giết chết, đều sinh khởi sự sợ hãi, thống khổ, oán hận, phẫn nộ, chống đối. Ví như, nếu có sự giết nhau giữa người và người, đôi bên sẽ tạo thành sự kết thù, kết oán, mưu hại lẫn nhau. Còn cây cỏ là những vật không có tình thức, tuy có những hiện tượng của một sinh mệnh như sinh sản, dinh dưởng, v.v..., thế nhưng, lúc bị tổn hại, chúng chỉ có những phản ứng vật lý, mà không có những phản ứng tâm thức. Chẳng hạn, như khi chúng ta đốn cây, chặt cỏ, điều này không làm cho cây cỏ sinh khởi sự chống đối, tàn hại lẫn nhau, vì thế, chúng ta cũng không bị ảnh hưởng bởi nghiệp lực của sự tàn sát. Cho nên, Phật giáo nói đến sát sinh, là chú trọng đến vấn đề đối phương có sinh khởi phản ứng của tâm thức hay không? Nhân đây có đưa đến liên hệ của sự thù hận, đối địch hay không? Cái luận điệu "ăn chay là sát sanh", hiển nhiên là do việc không hiểu rõ sự thực này, mà cũng không hiểu rõ ý nghĩa thực sự của sự tại sao lại cấm đoán sát sanh! ..."

(11) Giới đi một mình trong chổ nguy hiểm:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, đi một mình trong chỗ nguy hiểm, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Chỗ nguy hiểm (Hán: hiểm nạn xứ): tức là, như trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới, điều giới khinh thứ ba mươi bảy có nói rõ: "Chớ đi đến những chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, những chỗ có sư tử, cọp, sói, cùng những nơi có lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, hoặc đường sá có rắn rít, v.v..."

Ði một mình (Hán: vô bạn độc hành): Dù có bạn cùng đi, cũng vẫn phải suy xét là có thể cùng nhau giải trừ các hiểm nạn hay không. Nếu có thể, thì nên đi; còn nếu không, cũng không nên đi vào những chỗ nguy hiểm. 

"Thân người khó được", nay đã được thân người, phải khéo sử dụng nó, không thể mạo hiểm một cách phi lý, làm tổn hại thân mệnh. "Phật pháp khó nghe", những kẻ đã thọ giới Bồ tát tại gia, đều đã phát tâm Bồ đề, đã phát bốn hoằng thệ nguyện "trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh", nếu mạo hiểm gặp sự tổn hại, đây cũng là một sự "mất mát" cho Phật pháp.

(12) Giới một mình đến ngủ đêm tại chùa ni (tăng):

Nếu Bồ tát tại gia nam (nữ), sau khi thọ giới, một mình ngủ đêm tại chùa ni (tăng), thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Ðiều giới này được phân làm hai trường hợp: (1) Bồ tát tại gia nam (ưu bà tắc), một mình đến ngủ đêm tại chùa ni, (2) Bồ tát tại gia nữ (ưu bà di), một mình đến ngủ đêm tại chùa tăng. 

Ưu bà tắc, vì hộ trì đạo trường, có những nhân duyên như xây cất, thỉnh tượng, phóng sinh, in kinh, cúng dường, v.v..., thường tới lui với ni chúng. Nếu như một mình đến ngủ đêm tại chùa ni, người khác thấy được, sinh tâm nghi ngờ, hoặc tạo khẩu nghiệp như dị nghị, đàm tiếu, phỉ báng, v.v... Nếu như thường tới lui, phát sinh tình cảm, và do đó, một mình đến ngũ đêm ở chùa ni, e rằng sẽ dễ phạm giới dâm. Vì lý do này, Ðức Phật cấm chế ưu bà tắc không được một mình đến ngủ đêm tại chùa ni. Cùng những lý do như trên, ưu bà di cũng không thể một mình đến ngủ đêm tại chùa tăng.

(13) Giới vì của đánh người:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, vì tiền của mà đánh đập chửi rủa tôi tớ, hoặc người ngoài, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Người ngoài: nghĩa là không phải tôi tớ, hay người thân thuộc của mình. 

Ðánh đập là thân nghiệp, chửi rủa là khẩu nghiệp, giận dữ (nguyên nhân của sự đánh đập chửi rủa) là ý nghiệp. Như vậy, hành động đánh đập chửi rủa đã tạo tác ba nghiệp thân khẩu ý bất tịnh.

(14) Giới bố thí thức ăn thừa cho bốn chúng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, đem thức ăn thừa bố thí cho tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc ưu bà tắc, ưu bà di khác, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Thức ăn thừa: tức là thức ăn mà mình hoặc người khác đã dùng qua, còn thừa lại, như cơm, rau, trà, trái cây, bánh mứt, v.v... 

Bố thí: vốn là một việc làm phúc đức, như trong kinh Phật Thuyết Hiền Giả Ngũ Phúc Kinh có nói "Người đem thức ăn bố thí cho chúng tăng, sẽ được năm điều lợi: (1) tướng mạo trang nghiêm, (2) sức lực dồi dào, (3) thọ mạng lâu dài, (4) an ổn không bệnh, (5) có tài ăn nói". 

Mục đích của sự bố thí là tập xa lìa sự bỏn sẻn, cho nên, đối với bốn chúng, phải đem lòng thành kính, bố thí thức ăn ngon lành tinh khiết. Nếu như, đem thức ăn thừa bố thí các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, điều này chứng tỏ tâm bỏn sẻn còn quá nặng, vả lại, cho kẻ khác ăn thức ăn thừa cũng là một hành vi bất kính, và hơn nữa làm mất đi ý nghĩa của sự bố thí.

(15) Giới nuôi mèo, chồn:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nuôi dưỡng mèo, chồn, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Mèo chồn: hai loài này tính tình rất hung tàn, thích giết hại loài vật khác. Loài mèo, ngoài việc bắt chuột, đối với những động vật nhỏ khác, hễ thấy là sát hại; còn loài chồn (thợ săn thường huấn luyện để bắt các loại động vật khác), tính tình cũng giống loài mèo, thích giết hại các loài vật khác. 

Nuôi mèo, nuôi chồn, để chúng giết hại loài vật khác, thì cũng giống như tự mình giết, hoặc bảo kẻ khác giết, cho nên ưu bà tắc, ưu bà di, sau khi thọ giới Bồ tát, không nên nuôi dưỡng bọn chúng.

(16) Giới nuôi súc vật:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, lừa, hoặc các loại súc vật khác, không chịu tịnh thí cho người chưa thọ giới, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, lừa, hoặc các loại súc vật khác: Sáu loài động vật này, đều có thể phục dịch tối đa cho loài người, hoặc bằng sức lực, hoặc cung cấp da, lông, v.v..., hoặc cung cấp thực phẩm; còn các loài súc vật khác như heo, gà, vịt, v.v..., thì đa số cung cấp thực phẩm. Ðức Phật từ bi, căn cứ trên sự bình đẳng của sinh mệnh của tất cả chúng sinh, cho nên chế định ưu bà tắc, ưu bà di, sau khi thọ giới Bồ tát, không được nuôi dưỡng những loại súc vật này. 

Không chịu tịnh thí cho người chưa thọ giới: Tịnh thí, tức là trong lúc bố thí, không cầu sự khen ngợi, hoặc phúc báo thế gian, mà đem công đức của sự bố thí hồi hướng đến quả báo giải thoát Niết bàn. Còn nếu bố thí với mục đích mong cầu quả báo thế gian, thì gọi là bất tịnh thí. 

Nuôi dưỡng những loài súc vật này chướng ngại cho sự tu hành, vì nếu chúng không tuân mệnh, chúng ta sẽ khởi tâm sân hận, đánh đập, chửi rủa, trù ẻo, v.v..., gây tạo ba nghiệp ác thân, khẩu, ý. Cho nên, tốt nhất là không nên nuôi những loài vật này. Còn những loại động vật khác như cá kiểng, chim kiểng, v.v..., nếu như tịnh thí mà không người nhận, hoặc không có hoàn cảnh thiên nhiên thích hợp cho sự phóng sinh, thì có thể nuôi dưỡng, cho đến khi chúng chết già một cách tự nhiên (không nên đem phóng sinh một cách bừa bãi, vô trách nhiệm).

(17) Giới không chứa ba y, bình bát, tích trượng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, không chứa sẳn ba y, bình bát, tích trượng để cúng dường chúng tăng, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Ba y: tức là (1) tăng già lê (y chín điều trở lên), (2) uất đa la tăng (y bảy điều), (3) an đà hội (y năm điều). Tỳ kheo, tỳ kheo ni, thường phải có sáu vật không được rời thân, (1) tăng già lê, (2) uất đa la tăng, (3) an đà hội, (4) bình bát, (5) tọa cụ, (6) lọc nước, gọi là tam y lục vật. 

Tích trượng: còn gọi là trí trượng, đức trượng. Bên Hiển giáo dùng để đi khất thực (khua tiếng cho thí chủ biết mình đang hiện diện, hoặc để xua chó dữ), hoặc đuổi trùng (khi ở trong rừng, hay dưới gốc cây, khua tiếng cho những loài trùng như rắn, rết, đi tránh chỗ khác), v.v.... 

Các bậc xuất gia là những kẻ đã xả bỏ tất cả: nhà cửa, tiền của, vợ con, v.v..., để cầu giải thoát. Các ưu bà tắc, ưu bà di, đã thọ Bồ tát giới, vì hộ trì Phật pháp, cúng dường tăng bảo, cho nên phải chứa những đồ vật mà chúng tăng thường dùng, để có thể tùy thời cúng dường cho các bậc xuất gia khi họ cần. 

Ðiều giới này thích hợp với thời đại nông nghiệp, vì trong thời đại đó, vật chất thiếu thốn, phương tiện giao thông không được thuận tiện, do đó, Ðức Phật đã quy định Bồ tát tại gia phải chứa sẳn những vật trên để tùy lúc cúng dường những đồ vật mà chư tăng đang cần dùng. Còn hiện nay, trong thời đại công nghiệp, vật chất phong phú, phương tiện giao thông tiện lợi, mua sắm dễ dàng, thành thử Bồ tát tại gia cũng không cần phải tích chứa những món này. Mà những vật như bình bát, tích trượng, lọc nước, ngay đến người xuất gia cũng ít ai dùng đến, do đó, tốt nhất là cúng dường tiền mặt để họ tiện việc mua sắm những đồ vật mà họ đang cần thiết. (Chú ý: Sự cúng dường tiền mặt sẽ không vi phạm điều giới "không giữ tiền bạc" của người xuất gia. Ðiều giới "không giữ tiền bạc" của tỳ kheo đã được khai duyên trong bộ luật "Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ") 

(18) Giới không lựa chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt:


Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, làm nghề canh tác sinh sống, không tìm chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Sinh sống (Hán: vị thân mệnh): tức là duy trì sự sinh hoạt của chính mình hoặc gia đình mình, nếu nói rộng ra, bao hàm cả sự sinh hoạt của các vị xuất gia, cùng những kẻ ăn xin. Vì sao? Vì các vị xuất gia, cùng những kẻ ăn xin, đều phải nương nhờ vào sự cúng dường của người tại gia. 

Không tìm chỗ nước sạch: nghĩa là chỗ nước không có trùng (có thể thấy được bằng mắt thường). Như khi trồng lúa, cần phải dẫn nước vào ruộng; vì trong nước, hoặc ao, hoặc sông, hoặc hồ, thường có những sinh vật (mà mắt thấy được), e rằng sinh mệnh của chúng bị tổn hại bởi sự cầy cấy, cho nên, lúc dẫn nước vào ruộng, nên cho qua lưới lọc, hầu tránh sát hại những sinh vật này (nếu mắt thường không thấy được thì không kể đến --- như điều giới khinh thứ mười đã có nói qua). 

Ðất cao ráo (Hán: lục chủng xứ): Theo tiếng Hán, lục chủng là những loại thực vật có thể được trồng ở nơi cao ráo (không cần nhiều nước như lúa gạo), như lúa mạch, bông vải, khoai, đậu, rau cải, dưa, trái cây, v.v... Các loại thực vật này, vì không cần phải dẫn nước, không đến nỗi tạo thành nghiệp sát sanh nghiêm trọng như trồng lúa gạo. Thế nhưng, khi canh tác, trồng trọt, vẫn phải cố gắng hết sức mình, để tránh sự ngộ sát các loài côn trùng. Không nên tùy tiện dùng thuốc hóa học cố ý sát hại. Chớ vì một chút lợi nhỏ trước mắt mà không nghĩ đến quả báo trong tương lai. Nếu đã thọ giới, phải nên cẩn thận chú ý vấn đề này.

(19) Giới buôn bán không chân chánh:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, làm nghề mua bán: lúc bán hàng, một khi đã đồng ý giá cả, không được lật lọng, đem bán cho kẻ trả giá đắt hơn; lúc mua hàng, nếu thấy người bán cân lường gian lận, phải nói lỗi họ, để họ sửa đổi. Nếu không làm như thế, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Nếu thấy người bán cân lường gian lận, phải nói lỗi họ, để họ sửa đổi: Ưu bà tắc, ưu bà di, sau khi thọ giới Bồ tát, khi mua đồ vật, nếu thấy người bán trong lúc cân, lường, dùng cân non, giạ non, v.v..., nghĩa là thấy rõ đối phương dùng tâm dối trá, gian lận, lúc đó nên bảo rõ cho họ biết, để họ chỉnh đốn lại hành vi, cân lường chân chánh. Nếu như thấy rõ đối phương dùng những thủ đoạn gian giảo, lừa dối, mà không nói rõ cho họ biết, âm thầm chịu thiệt thòi, tức là đã vô tình khuyến khích đối phương tiếp tục làm ác. Vị Bồ tát tại gia đó đã không từ bi cứu vớt bọn họ; không những để cho bọn họ tiếp tục tạo tội, mà chính mình cũng đã tạo nghiệp (tán thành việc ác của kẻ khác). Vì thế, Bồ tát tại gia, trong những trường hợp này, phải nên rất tế nhị, dùng những phương tiện khéo léo để khuyên nhắc, đề tỉnh đối phương. Còn nếu mình biết rằng đối phương là kẻ bất lương, hung ác, không biết phục thiện, lời mình nói ra có thể sẽ đem đến sự nguy hiểm tính mạng cho chính mình, thì có thể im lặng, chờ cơ hội khác.

(20) Giới hành dâm không đúng thời, không đúng chỗ:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, hành dâm không đúng chỗ, không đúng thời, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Không đúng chỗ (Hán: phi xứ): có hai nghĩa: (1) ngoài bộ phận sinh dục của người nữ ra, tất cả các chỗ khác trên thân đều gọi là phi xứ (không đúng chỗ); (2) ngoài phòng ngũ chính thức của hai vợ chồng ra, tất cả những nơi khác, như phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, ngoài đồng trống, v.v..., đều gọi là phi xứ.

Không đúng thời (Hán: phi thời): cũng có hai nghĩa: (1) lúc người vợ đang có thai, hoặc vừa mới sanh đẽ xong chưa được bao lâu; (2) trong những ngày rằm, ngày vía, hoặc những ngày bát quan trai (một tháng sáu ngày, như đã nói rõ trong điều giới thứ bảy).

Nên chú ý, trong những ngày bát quan trai, dù là vợ chồng chính thức cũng không được hành dâm, nếu không, sẽ phạm giới trọng thứ tư (không dâm dục), mất giới thể. 

Phụ chú: Nếu vợ chồng cùng đến ở trong chùa, không được hành dâm, nhẫn đến không được ngũ cùng phòng. Hoặc ở nơi thờ phượng, dù là trong nhà mình, hoặc ở nơi có treo tranh ảnh, hoặc đặt để tượng Phật, Bồ tát, cũng không được hành dâm; nếu như buông lung không kiêng cử, làm việc bất tịnh ở những nơi tôn nghiêm, sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián, như trong kinh Ðịa Tạng đã nói. Hơn nữa, những kẻ dù chưa thọ ngũ giới, nếu xâm phạm tiết hạnh của người xuất gia, dù họ đồng ý hay không, sẽ phạm biên tội. Kẻ đó, trong đời hiện tại sẽ không được thọ ngũ giới, bát giới, không được xuất gia. Cho nên, khuyên các vị tại gia, đối với các bậc xuất gia, phải nên rất cẩn thận, không nên khởi tâm bất chính.

(21) Giới gian lận thuế:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, làm nghề thương mại, công nghiệp, v.v..., không chịu nộp thuế, hoặc khai thuế gian lận, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Không chịu nộp thuế (Hán: bất du quan thuế): Chính phủ tuy quy định nhiều loại thuế, song thuế hàng hóa và thuế lợi tức là hai nguồn thuế chính yếu. Nộp thuế là nghĩa vụ mà tất cả mọi công dân trong nước phải tuân hành. Nếu không nộp thuế, tức là vi phạm luật pháp quốc gia. Các vị đã thọ giới ưu bà tắc, ưu bà di, dù làm bất cứ nghề nghiệp nào, cũng phải nên trung thực nộp thuế cho nhà nước.  

Khai thuế gian lận (Hán: đạo khí khứ giả, Anh: report dishonestly): tức là tuy nộp thuế, song báo cáo gian lận tiền thuế đáng lẽ phải nộp cho nhà nước. Ví dụ, một công xưởng sản xuất một số lư‏ợng sản phẩm, thông thường phải khai báo đầy đủ số lư‏ợng sản xuất để nộp thuế, song lại báo cáo gian lận, hầu mong trả thuế ít hơn số ngạch đã quy định. Hoặc giả, tuy báo cáo trung thực, song đến lúc nhà nước ấn định số thuế phải nộp, lại không chịu nộp thuế, bỏ phế nghĩa vụ đóng thuế của mình. 

Phụ chú: Không chịu đóng thuế, hoặc khai báo gian lận, sẽ phạm hai tội, một là vọng ngữ, hai là trộm cắp. Nếu số tiền thuế gian lận lớn hơn một số lượng nào đó, sẽ phạm vào giới trọng thứ hai (không trộm cắp), mất giới thể. Nếu không thọ giới thì thôi, còn nếu đã thọ, phải cố gắng cẩn thận giữ gìn.

(22) Giới phạm luật pháp quốc gia:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, vi phạm luật pháp quốc gia, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Vi phạm luật pháp quốc gia: luật pháp quốc gia, tức là những điều lệ mà quốc gia đã quy định, như chế độ, pháp lịnh, quy ước, nhẫn đến những phong tục tập quán thuần lương của nhân gian. Phạm luật pháp quốc gia, tức là vi phạm vào chế độ, pháp lịnh, quy ước của nhà nước, hoặc có những hành vi đi ngư‏‏ợc với phong tục thuần lương của nhân gian.  

Các vị đã thọ giới Bồ tát, nếu vi phạm luật pháp quốc gia, không những làm cho kẻ khác chê cười, phỉ báng, tạo khẩu nghiệp, mà còn làm chướng ngại cho việc hoằng dương của Phật pháp.

(23) Giới được thực phẩm mới mà không cúng dường Tam bảo trước:


Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, lúc lúa, trái cây, rau cải được mùa, không dâng cúng Tam bảo trước, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Lúc lúa, trái cây, rau cải đư‏ợc mùa (Hán: tân cốc, quả, lỏa, thái, nhứ): tức là lúa mới gặt, hoặc những trái cây, rau cải lúc mới được thu hoạch lần đầu trong mùa. 

Không dâng cúng Tam bảo trước: Những vị đã thọ giới Bồ tát, làm nghề canh nông, khi thu hoạch được thóc lúa, hay trái cây, rau cải đầu mùa, trước tiên nên đem cúng dường cho Tam bảo để tỏ lòng thành kính, rồi sau đó mới đem bán chác, hoặc thực dụng. Còn các vị Bồ tát tại gia khác, tuy không làm nghề canh nông, song mỗi khi có cây trái đầu mùa, cũng nên mua sắm, trước là để cúng dường Tam bảo, rồi sau đó thọ dụng. 

Phụ chú: Cúng dường rau trái đầu mùa, có nghĩa là chỉ mỗi năm vào đầu mùa gặt hái, thì mới cúng dường rau quả gặt hái lần đầu, chứ không bắt buộc là mỗi khi mua sắm đều phải đem cúng dường. Nếu không, sự cúng dường Tam bảo sẽ trở thành một gánh nặng phiền toái cho hàng cư sĩ tại gia. Cư sĩ tại gia, mỗi khi mua sắm thức ăn, rau trái, v.v..., tuy không bắt buộc đem đến chùa để cúng dường, tuy thế, cũng nên đem cúng ở bàn Phật trong nhà, trước khi thọ dụng, để tỏ lòng tôn kính.

(24) Giới Tăng già không cho thuyết pháp mà tự chuyên:

Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nếu Tăng già không cho phép thuyết pháp, mà vẫn cứ làm, thì phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Tăng già không cho phép thuyết pháp: Các vị ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, nếu chúng tăng không cho phép thuyết pháp, thì không được đi ngược lại lời khuyến cáo của Tăng già. 

Thuyết pháp, có nghĩa là tụ hợp một số đông người lại để giảng giải Phật pháp. Thuyết giảng Phật pháp, xưa nay vốn là trách nhiệm của hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, vì các vị này, đã lãnh ngộ được ý nghĩa tương đối thâm sâu của kinh điển. Còn các vị cư sĩ đối với kinh điển, nếu chỗ lãnh ngộ chưa được thấu triệt, thì sự giảng giải Phật pháp của họ có thể không hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa chân thực của kinh điển, và như thế sẽ dễ dàng đem đến sự hiểu lầm đối với giáo nghĩa của Ðức Thế Tôn. 

Ðối với các vị ưu bà tắc, ưu bà di đã thọ giới Bồ tát, nếu như Tăng già nhận thấy chưa đủ trình độ thuyết pháp, và đã lên tiếng khuyến cáo không nên giảng kinh, mà vẫn ngoan cố không tuân hành lời khuyến dạy của Tăng già, sẽ phạm vào điều giới này. Còn như, nếu vị cư sĩ đó có đủ khả năng, hơn nữa, Tăng già đã đồng ý, thì vị đó nên nỗ lực hổ trợ tăng già trong việc hoằng dương chính pháp của đức Như Lai.

(25) Giới đi trước năm chúng xuất gia:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nếu ra đường đi trước các tỳ khưu, sa di, v.v..., thì sẽ phạm tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.

Năm chúng xuất gia: tức là tỳ kheo, tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni. 

Nếu ra đường đi trước (Hán: đạo lộ nhược ... tiền hành): Các vị đã thọ giới Bồ tát tại gia, khi ra đường, phải nên đi sau các vị xuất gia, không được cố ý đi trước. Nếu như lúc đang đi, phía trước có chướng ngại, có thể đi đến phía trước để dẹp trừ, hoặc nếu phía trước có những sự nguy hiểm, thì có thể đi ra phía trước để ngăn chận, bảo hộ cho các vị ấy, hoặc vì một lý do nào đó, các vị xuất gia cho phép đi phía trước, thì cũng phải tuân hành chỉ thị của họ. 

Phụ chú: Ði phía sau các vị xuất gia, mục đích là tôn kính Tam bảo; nếu đi phía trước, đây là sự biểu hiện của hành vi bất kính. Theo sự chế định của đức Phật, khi đi, thứ tự trước sau phải là: tỳ kheo, sa di, tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di ni, ưu bà tắc, ưu bà di.

(26) Giới phân phối thức ăn cho chư Tăng không bình đẳng:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, trong lúc phân phối thức ăn cho chư Tăng, lại sinh tâm thiên vị, lựa những món ngon, nhiều hơn phần người khác, để cúng dường thầy mình, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Phân phối thức ăn cho chư Tăng: Chư Tăng, là chỉ chung cho các vị xuất gia, tụ họp để thọ thực, chứ không phải chỉ có một vị xuất gia hiện diện. 

Sinh tâm thiên vị ... thầy mình (Hán: nhược thiên vị sư): Chữ thầy, có nghĩa, hoặc là thầy bổn sư mà mình quy y, hoặc là thầy truyền giới, hoặc là thầy giáo thọ, hoặc là những vị thầy mà mình có cảm tình hoặc kính trọng. Sinh tâm thiên vị, nghĩa là đặc biệt trọng đãi các vị thầy mà mình ưa thích, kính trọng, còn đối với các vị thầy khác thì chỉ đối đãi lơ là, hoặc lấy lệ. Tâm thiên vị này đi ngược lại tinh thần bình đẳng của Phật giáo. 

Lựa những món ngon: tức là lúc dâng thức ăn, lại phân biệt, lựa chọn món ăn ngon, quý, v.v..., đem dâng cho các vị thầy mà mình ưa thích, kính trọng. Cái tâm thiên vị này, không những là nhân duyên chướng đạo cho chính mình, mà lại còn làm cho các vị thầy được ưu đãi sinh tâm ngã mạn, cống cao, tham lam, v.v..., tức là tạo thành nhân duyên chướng đạo cho họ.

(27) Giới nuôi tằm:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, nuôi tằm lấy tơ, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Nuôi tằm lấy tơ, là làm tổn hại đến sinh mệnh của loài vật, vì khi lấy tơ, phải trụn kén vào trong nước sôi, giết chết con nhọng trong kén, trước khi nó cắn đứt bọng kén để chun ra ngoài.  

Ở đây, cấm chế việc nuôi tằm, do đó nếu nuôi tằm sẽ phạm điều giới này. Còn như, nếu nuôi tằm lấy tơ, làm tổn hại sinh mệnh của loài vật, sẽ phạm vào giới trọng thứ nhất, cấm sát sanh.

(28) Giới đi đường gặp người bệnh không chăm sóc:

Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc, hoặc tìm cách gửi gắm cho người khác chăm sóc, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu không khởi tâm sám hối, sẽ bị đọa lạc. Ðó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. 

Ði đường gặp người bệnh, phải nên ghé đến xem xét, tìm tất cả phương tiện để giúp đỡ, hoặc giao phó cho những người ở lân cận chăm sóc, đây là nghĩa vụ của tất cả mọi người con Phật, trong việc cứu khổ cứu nạn tất cả chúng sanh. Nếu như thấy mà lại làm lơ bỏ đi, không có một chút lòng thương xót, thì đây là đã đi ngược với lòng từ bi của Phật giáo. Vì vậy, đức Thế Tôn chế định điều giới này là để khuyến nhắc các đệ tử thực hiện hạnh từ bi của Bồ tát. 

Phụ chú: Ðiều giới này tương tự với điều giới khinh thứ ba, không chăm sóc người bệnh. Xin xem lại điều giới thứ ba phía trên

No comments:

Post a Comment