Địa ngục chính là hình bóng của đau khổ và Địa ngục đã đương nhiên trở thành một đối tượng ẩn mực trong trái tim trí tuệ của Địa Tạng Vương Bồ Tát với thệ nguyện vang lừng ba cõi:
“Địa ngục vị không, thệ bất thànhPhật
Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề.”
Hôm nay ta giảng cho con hiểu thế nào là Địa ngục. Khi một chúng sanh trong giây phút nào đó chợt thấy mình có mặt giữa cuộc đời, chợt nhìn lại mình trong cuộc hành trình sinh tử, và bắt đầu băn khoăn về thân phận, thì cũng từ lúc ấy Địa ngục là hình ảnh rõ dần dần trong ý thức. Đó là những ý niệm mơ hồ, đậm nhạt về nỗi đau khổ xen lẫn trong chập chùng niệm tuởng, trong biết bao ước mơ về danh lợi, hạnh phúc. Phải chăng ý thức con người tạo nên Địa ngục hay Tôi khổ chỉ vì Tôi cho rằng đời là bể khổ. Xa hơn nữa, có phải chăng ở thế giới bên kia, các thảm cảnh dầu sôi, lửa bỏng chỉ là sản phẩm của sự tưởng tượng phóng đại. Và tại sao ở các cõi trời phi tưởng, Địa ngục vẫn theo đuổi chúng sinh như hình với bóng. Vậy thì Địa ngục khởi đầu, kết thúc nơi đâu? Thật có hay không thật có? Hoặc do phủ nhận, xác nhận mà Địa ngục tồn tại hay diệt vong?
Con ơi! dù cho con chưa một lần nghĩ đến Địa ngục đã sừng sững nơi tâm tự bao giờ, âm ỷ trong những nỗi buồn không tên, thiêu đốt tâm hồn trong dục vọng, vang động khôn nguôi trong biết bao điều dang dở của cơn mộng đời. Và không chỉ thế, còn vây hãm lấy con ngay trong cả những niềm vui tưởng chừng bất tận. Con đã từng nghe về các cõi trời, thọ mệnh chúng sinh nơi ấy dài không kể xiết, hoan lạc chẳng lúc nào vơi. Nhưng là gì, nếu không là Địa ngục? Khi nỗi lo âu về tương lai bất ổn của niềm hoan lạc ấy vẫn thường trực ẩn nấp trong lòng, vì có thọ mạng nào dài mà không kết thúc?
Như vậy Địa ngục là biểu tượng của đau khổ. Nhưng con hiểu Địa ngục theo nghĩa nào? Nước mắt ta không ngừng tuôn rơi dù chỉ còn một sinh linh bị đọa đày. Không còn Địa ngục nào được xem là nhẹ, không có khổ đau nào mà không đáng kể. Không một chúng sinh nào ở bất kỳ cảnh giới nào mà không hít thở bầu không khí bất an, vô thường. Vô lượng chúng sanh không thể chỉ hiểu là vô lượng sinh mệnh mà còn phải hiểu là vô lượng sinh tử xảy ra trong một kiếp sống. Thế nên, khi nói một chúng sanh được thành Phật, vô lượng chúng sanh được giải thóat, chính là nói về thật nghĩa bình đẳng.
Địa ngục ở đâu? Ở nơi nào mà con trụ tâm, dù con trụ vào Niết Bàn tối thượng. Khi tâm con dòng sinh hóa thường hằng ngưng đọng lại, tâm ấy đã xa lìa tự tánh của muôn pháp, tâm ấy hóa thành chủ khách, mở đầu cho một chuỗi niệm tư tưởng hư vọng, đăng đẳng liền nhau muôn kiếp sống. Trụ tâm là Ngã, vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của Ngã. Chủ thể mà con tưởng lầm là mình chỉ là màn sương khói vô minh che lấp chân tánh khách thể mà con tưởng lầm là khác mình, thật ra chỉ là muôn vàn ảo ảnh biến hiện trong màn vô minh ấy. Chủ thể và khách thể đọan diệt, thăng trầm theo nghiệp quả. Từ cái đó mà người ta gọi là định mệnh của con, chính là định mệnh của nghiệp. Và nghiệp là sản phẩm của trụ tâm, của Tâm bất định, Tâm phân biệt. Nghiệp là Ngã vậy. Trong vòng luẩn quẩn mê lầm đó, Địa ngục hiện diện trong mỗi thân phận chúng sanh, dù khắt khe nhưng rất công bằng. Cho nên hiểu định mệnh như người đời thường hiểu là sai lầm vô cùng lớn, từ đó nấy sinh ra hai thái độ:
· Hoặc đối kháng, đấu tranh để vượt qua số phận bằng tất cả sức lực bình sinh mà thắng hay bại đều đắp đổi bằng mất mát của mình hay của kẻ khác. Đó là ác, được ngụy trang bằng ngôn từ hoa mỹ, được bào chữa bởi mọi điều nhân danh. Không ai mà không trách cuộc đời, kẻ cướp đọat của mình sự trong sáng ban sơ. Nhưng dòng đời tự nó vẫn luôn luôn tuôn chảy theo quy luật tự nhiên của vũ trụ, mà vũ trụ là chí thiện. Đấu tranh, đối kháng như thế không thể là sinh tồn mà là tự hủy, đó là chấp đọan.
· Hoặc xuôi tay theo định mệnh như thể định mệnh là một thành lũy nặng nề kiên cố, vây chặt lấy thân phận tối tăm bé nhỏ của mình. Tôi sinh ra đời là như thế, lìa đời cũng sẽ như thế, chẳng có gì đáng vui hay đáng buồn. Tôi và đau khổ chấp nhận nhau như một đôi bạn song hành. Nhưng có thật đó là sự an ổn hay không? Đó là an ổn thua, vì không thể thắng, đó là chấp nhận một kiếp sống lê thê không kêu đòi, chấp nhận chết vĩnh viễn. Trong khi chết là điều không thể có cũng là ác, vì kẻ ấy đã phủ nhận sự thiêng liêng của mình, đồng thời phủ nhận cả thế giới xung quanh. Đó là chấp thường, khác với thái độ của một người thức tỉnh, không chấp nhận sự phi lý muôn thủa của một người thức tỉnh, không chấp nhận sự phi lý muôn thủa của thân phận mình trong luân hồi nghiệp quả, dành tất cả nỗ lực cho một hành trình của mình về phía mặt trời, dưới dông tố tơi bời của nghiệp, dành cuộc đời của mình cho bao cuộc hóa sinh để đi đến cuộc hóa sinh vĩ đại cuối cùng là giải thóat.
Hai thái độ trên do đó đều không ổn thỏa, đều là vong thân, đều là nền tảng của bao nền triết học hiện thời. Không có định mệnh, chỉ có định nghiệp. Định nghiệp là Ngã, Ngã là huyễn mộng, hiểu như thế thay vì phải gian truân vô ích vì nhân thế, con sẽ định hướng cuộc đời xứng đáng với sự có mặt của mình. Không ai có thể chạy trốn định nghiệp, làm sao có thể chạy trốn chính mình. Cũng không ai có thể phán xử hay đặt để cho ai một địa ngục nếu tâm người đó không sẵn sàng bước vào, lại càng không một ai có thể cứu thoát cho ai.
Cuối cùng Địa ngục cũng không là nơi giam giữ chúng sanh đời đời như nhiều ngừời thường nghĩ. Hình ảnh Ma vương, Quỷ vương canh giữ tội nhân cùng những khổ hình nơi mười hai cửa ngục chính là sự phóng rọi, biến hiện và trói buộc của nghiệp cảm. Mỗi người đều có một ngày Diêm chúa nơi tâm mà không tự biết. Đó là sự lên tiếng mãnh liệt của Chân Tánh, sư phán xét sau cùng của Chí thiện. Như xưa kia miếng cơm từ tay Bồ Tát Mục Kiền Liên đến mịệng Thanh Đề nào đó đang phải chịu khổ hình nặng hơn, miếng cơm sẽ trở thành quả cầu gai lửa, không thể nhả ra mà phải nuốt vào, nuốt đến đâu cơn nóng bén nhọn chạy đến đó, quả cầu gai lửa lại hóa ra vô số quả cầu gai lửa khác cào xé và thiêu đốt tòan thân. Khi cơn nóng ấy tạm ngưng, cơn đói khủng khiếp lại dâng lên, khiến tội nhân lại đòi ăn cơm để chịu khổ hình tiếp tục. Nhưng cơm từ đâu mà có, cũng như các khổ hình kia? Cơm từ vọng thức, từ tham lam độc ác hóa thành. Điều đó cho con thấy nghiệp cảm của chúng sanh trong thời mạt thế sâu dày biết bao.
Sao gọi là Địa ngục vô gián? Vì Ngã vô gián, vì niệm tưởng mê vọng vô gián. Khi Đức Thế Tôn thuyết về Địa ngục, ngài phương tiện phân biệt các cảnh giới nơi ấy cùng các tội hình nặng nhẹ cốt để chúng sanh biết ghê sợ tội lỗi nơi mình mà từng bước hành thiện. Mục đích tối hậu của Ngài là thị hiện nơi thế gian này là khai thị nghĩa rốt ráo nơi Địa ngục, khai thị Tri kiến giải thóat, giải quyết tận gốc rễ biển sợ hãi trong tâm tưởng của chúng sanh. Địa ngục huyễn mộng vì Ngã huyễn mộng. Thật tánh của Địa ngục là Không, liễu ngộ Địa ngục là liễu ngộ thực tướng của Niết Bàn. Thâm quán Địa ngục là bắt đầu hành trình về cõi Phật, là hành thâm Bát Nhã Ba La Mật, chính là nội quán. Niết Bàn vô tướng nên Địa ngục vô tướng. Niết Bàn không xứ sở nên Địa ngục không xứ sở.
Lại nữa vì sao khi con niệm Địa ngục, Địa ngục lại hiện tiền, khi con niệm Niết Bàn, Niết Bàn lại không hiện hữu? Vì niệm chính là Ngã. Vô Niệm là nơi niệm mà không trụ, cũng không lìa là Vô Ngã. Diệt Ngã là diệt mọi ý niệm về Ngã, phi Ngã, diệt cả ý niệm diệt. Ngã diệt tận, Địa ngục liền diệt tận, đó là Đại Định. Không phải tâm phân biệt thiện ác mà là tâm vượt qua, là tâm chí thiện nơi con thể nhập vào đại dương mênh mong đồng nhất thể bình đẳng với chư Phật, cũng là chư Phật tận độ chúng sanh. Khi ấy dù con sống nơi Địa ngục, tâm thường lìa Địa ngục. Hiện tướng hòa cùng muôn khổ lụy của chúng sanh, tâm thường lìa phiền não. Vì con không còn có ý lựa chọn cho mình một định nghiệp, nên không một định nghiệp nào trói buộc được con. Tâm thường lìa Địa ngục, không trụ Niết Bàn, Tâm vô trụ là Đại Bát Niết Bàn.
Con hãy thâm quán Địa ngục, quán đến bao giờ không còn thấy Địa ngục, không còn thấy quán và không quán. Khi ấy Địa ngục trong con hóa hiện Niết Bàn. Khi ấy khổ đau không bến bờ hạn lượng của chúng sanh nơi con, hóa thành công đức vô lượng, vô biên, được chư Phật mười phương đồng khen ngợi, chính là đại nguyện của Ta đã thành tựu vậy.