Sunday, December 20, 2015

người Việt trong làm ăn buôn bán

shared

http://vuongtrinhan.blogspot.com.au/search?updated-min=2008-01-01T00:00:00%2B07:00&updated-max=2009-01-01T00:00:00%2B07:00&max-results=50

20 THG 3, 2012


Trích từ chuyên mục
 Người xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn


Lời dẫn
Cuối 2011, có tin trong cuộc thi tay nghề quốc tế World Skills 2011 ở Anh, tổ chức ở khu Excell, phía Đông London, Việt Nam không đoạt được huy chương nào mà chỉ đem về 7 chứng chỉ ở các môn Công nghệ may thời trang, Nấu ăn, Lắp cáp mạng thông tin, Điện tử, Xây gạch, Công nghệ thông tin và Thiết kế trang web. Con số quả là rất nhỏ trên tổng số 950 chứng chỉ cấp cho 50 quốc gia tham dự.


Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số ra 11-3-2012 có bài  của  một quan chức  của cơ quan phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc. Ông này nhận xét đại ý là lao động Việt  thường ít nghĩ đường dài, cố cầy kiếm tiền hơn lo học hỏi để làm ăn lâu dài.
     Những tin tức loại này ngày càng được đưa ra trên báo chí. Chúng cho thấy điều mà người mình thường tự hào là giỏi giang chăm chỉ cần mẫn khéo tay cần phải xem lại. Nếu không phải là một huyền thoại, nghĩa là một điều ta tự lừa ta,  thì đó cũng là một phẩm chất không có gì chắc chắn, người ta rất dễ đánh mất.
    Đằng sau cái vẻ bề ngoài cố sống cố chết mang hết năng lực ra kiếm sống, thực ra con người vẫn chỉ dừng lại ở một quan niệm thô thiển về sự làm việc và cuộc sống nói chung.
     Dưới đây là những nhận xét tương tự về sự làm ăn buôn bán sản xuất kinh doanh của người Việt từ các bài viết của các trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, khi chúng ta chuyển mình theo hướng hiện đại hóa lần thứ nhất.
     Mấy năm trước chúng tôi đã có dịp sưu tầm và đưa ra rải rác các nhận xét này trên mặt báo, nay dồn cả lại thành một cụm kính trình bạn đọc.
    Điều cần nói thêm là từ những kém cỏi trong làm ăn buôn bán, nhiều nét tiêu cực trong cách sống cách nghĩ của người Việt đã được hình thành. Suy nghĩ nông nổi. Lừa lọc dối trá. Mua tranh bán cướp. Làm hàng giả…
    Và chúng cũng lan sang cả mối quan hệ giữa người và người giữa cá nhân và xã hội.
     Nhìn vào các lĩnh vực khác như học hành thi cử cầu cúng tín ngưỡng, văn hóa giáo dục, quản lý xã hội nói chung …đâu đâu ta cũng thấy đời sống kinh tế lạc hậu đã kéo thấp con người xuống, và đến lượt nó, sự hạn chế trong đời sống tinh thần lại quay lại làm cho sự sản xuất làm ăn không bao giờ phát triển lên được.
      
Thiếu cái gan làm giàu
   Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất là vì người ta tiên liệu đại lợi (3), kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước mắt có lợi mới chịu làm.
    Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng bông (4) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy; chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít (..) còn lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.
   Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.

(1) buôn bán lớn
(2) bỏ tiền của ra sử dụng
(3) tính trước rằng sẽ lãi lớn
 (4) Đại Nam quốc âm tự vị ghi nghĩa đen, chỉ hàng hoa quả bông trái ; nhưng ở đây có nghĩa rộng hơn chỉ việc buôn bán cò con, buôn đầu chợ bán cuối chợ.
                                                                          Lương Dũ Thúc
 Nông cổ mín đàm 1901  

Không lo xa, dễ thoả mãn
     Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.
      Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (...) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí (1) là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế (2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bởi làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi; cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở trở lại. Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời, sanh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.

(1)     khá giả một tí
(2)     làm le, làm dáng, khoe mẽ
(3)     bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa bọn khác kẻ khác
 Lương Dũ Thúc,
Nông cổ mín đàm, 1902

  Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá
     Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam, Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một người Chệt kia lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận thì lấy trong cái tiền lời ấy, chớ không khi nào đụng tới vốn bao giờ. Họ tính như 1đ00 mà làm lợi ra 0đ30, dầu có gian, chủ có hay, cũng dám nhắm mà cho gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ gốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ đã phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0đ50 cũng gian, 0đ30 cũng gian, làm sao mà không háp tiệm (3).
         Chuyện gì hồi lãnh coi công việc thì bần hàn ăn mắm muối, vợ rách con đói; chừng lãnh việc rồi, vợ đeo vòng con đeo vàng, chồng giày vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng trai gái đào đĩ, sắm giường sắm mùng riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ (5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy.

(1)     Chệt (có khi viết Chiệc): người Tàu; Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ; còn Tây và Nam, tức người phương Tây và người Việt
(2)                       ví dụ
(3)                       háp, nghĩa gốc là khô héo, háp tiệm đại ý cũng như sập tiệm
(4)                       liên tục, dồn dập
(5)               Chi họ, dòng họ
Trần Chánh Chiếu
 Lục tỉnh tân văn, 1908
Không biết chấn hưng thực nghiệp (1) 
    Người nước ta xưa nay chia ra bốn nghề sĩ nông công thương... Phàm những kẻ biết đôi chút từ chương là đã vênh vang tự cho mình là kẻ sĩ, không thèm đứng cùng hàng với nông công thương, cho họ là hèn hạ, gọi là dân buôn, dân thợ, dân cùng. Sĩ đã không biết việc nông công thương, mà nông công thương phần nhiều không học hành, không biết nông học là gì, công nghiệp là gì, địa lý là gì. Trăm môn chẳng biết môn nào, thực nghiệp mới không chấn hưng được.
      Ở các cửa khẩu thông thương, trăm người không ai không mặc vải Tây, mà vải Tây là lấy bông sợi của ta dệt ra (...) Các nhà buôn học thức nông cạn, người ta mang hàng đến mà mình không biết chở hàng đi (2). Nhà buôn trong nước rất tản mạn, chèn ép lẫn nhau, không có chủ trương nhất định...

(1) thực nghiệp là từ chỉ chung các ngành sản xuất vật chất, bao gồm cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp
(2) chỉ lo nhập khẩu không biết xuất khẩu
Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục ,1907

Đồng tiền không dùng để sinh lợi
     Tiền của tức là máu mỡ của dân. Tôi không nói là không nên yêu tiếc. Nhưng yêu tiếc thì phải bảo vệ nó làm cho nó sinh sôi nẩy nở. Muốn vậy phải có cách để biến nó thành một món to, không phải chỉ một món nhỏ. Như thế mới gọi là yêu tiếc.
   Thế nhưng người nước ta yêu tiếc tiền của riêng thì lại chỉ để tiền của cung phụng cho cái mồm cái bụng riêng của mình, chứ không biết đến có việc gì khác, đó là một. Có kẻ lại bới đất đào lỗ để chôn giấu của cải, chỉ sợ người khác biết, chôn lâu đến hỏng nát, đó là hai. Cả hai hạng người này một bên thì xa xỉ, một bên thì keo kiệt, tuy không giống nhau, nhưng đều ngu như nhau.
 Phan Bội Châu
 Việt Nam quốc sử khảo, 1908

Những người thợ bất đắc dĩ
     Tính người mình không biết quý trọng công nghệ, người làm nghề  tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà  làm nghề  thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền  được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì  người có học thức không chịu làm, người chịu làm  thì lại là người không có học thức, chẳng  qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa  chớ không  nghĩ được cách thức nào mới.
    Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động, thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều, và cũng đã có người  sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn bán. Song cái tính khinh đường công nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có, song vẫn tự coi mình là đê tiện, phải mượn cái phấn ông hàn ông bá  mới là vẻ vang.
                                                                                           Phan Kế Bính
                                                                                Việt nam phong tục, 1915

Buôn bán lòng vòng trong phạm vi  hẹp
    Xét ra việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính, không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Ví dụ có đi chăng nữa,  thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây; xuôi Nam Định đã cho là xa xôi; ai bần cùng lắm mới lên đến  Lao Cai, Yên Bái  hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những  nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối, bán quẩn buôn quanh.
    Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu (1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn  một chút hoặc hơi vấp váp điều gì  thì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc  có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa.

(1) tức có kết quả
                                                                               
Phan Kế Bính                                                                                                              Việt nam phong tục, 1915

 Không có nghề nào đạt tới
trình độ chuyên nghiệp
     Phần nhiều người nước ta chỉ nô nức về đường công danh sĩ hoạn, mà coi nghề buôn bán là một nghề khinh thường. Người giàu có cho con đi học mong cho con về sau nhất ra thì làm nên ông nghè ông bảng, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác lái này ông lái nọ. Người làm quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm lan tốt, chè chuyên thuốc quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết gì ông chủ cửa hàng nọ ông quản lý cửa hiệu kia. Mà đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn làm thú trên đời, còn việc buôn bán thây mẹ đĩ.
     Té ra bao nhiêu ông việc buôn bán phần nhiều  ở trong tay người đàn bà  và ở trong bọn mấy chú lái  thì mong sao mở mang ra to được ?!                                                                                                                      
    Lại như việc chữa bệnh, xưa kia nước ta không biết trọng nghề làm thuốc, thường cho là một nghề nhỏ mọn, không mấy người lưu tâm. Chốn dân gian chỉ những người bất đắc chí trong đường khoa cử  mới xoay ra xem sách thuốc để lấy nghề sinh nhai. Phần nhiều là những người thiển học (1), rồi cũng dám lên mặt ông lang đi khắp chợ cùng quê để chữa bệnh cho thiên hạ. Mạch thấy nắm cũng nắm,  mà có hiểu thế nào là mạch thực mạch hư; bệnh thấy xem cũng xem, mà có hiểu thế nào là bệnh hàn bệnh nhiệt. Đệm thêm một nắm lá xì xằng cho gói thuốc to, để lấy cho đáng đồng tiền của người ta. Cũng may dân ta phần nhiều còn dại dột, sống chết đổ cho tại số, chớ không  thì các ông lang  ấy chắc không ăn ngon ngủ yên.

(1) sức học nông cạn
                                                                                                                      Phan Kế Bính
Việt nam phong tục, 1915
Không chịu học buôn học bán
     Nói đến cuộc thương mại nước nhà mà thêm chán. Bất quá trong nước được vài nhà buôn, còn thử đi qua các phố mà xem, chỉ những Chiệc với Chà (1) họ chiếm mất cả. Buôn bán với các nước, lại càng chẳng có ai gọi là tay đại doanh nghiệp.
     Vì cớ từ xưa đến nay, đàn ông ở ta chỉ lo học hành thơ phú ngâm nga, hi vọng làm quan, chứ buôn bán cho là mạt nghệ.
      Hai nữa là từ xưa không có học làm các sổ sách buôn bán, không có một trường nào dạy buôn bán như ở nước Tàu cũng như các nước bên Âu Mỹ.
       Nhẽ thứ ba, ta có buôn chỉ buôn quanh bán quẩn với nhau, không thực thà không đồng tâm, không thạo việc, không biết cách đối đãi với khách mua hàng.
     Vả lại bây giờ nước ta không giữ cái chủ nghĩa bế quan nữa, cửa ải đã mở rộng, nhưng mà cuộc thương mại với các nước ở tay ai chứ có ở trong tay mình đâu, mà dẫu có để cho mình cũng vị tất có đủ tài sức mà gánh vác.

(1)     người Trung Hoa và người Ấn Độ
 Lê Đức Mậu
 Bàn về thương nghiệp, Hữu thanh, 1921

  Khéo tay mà trí không khôn  
     Xét ra ở nước Nam ta  mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với các nước;
     nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa có thể thống gì,  chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các phương pháp;
     thợ thuyền  phần nhiều là những người vô học, phi quen tay phóng lại lối cũ, thời  bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn  giữ được tinh thần cốt cách cũ, tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mới;
     nóí tóm lại là không có trí sáng khởi (1)  khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề  một cái thể thức trang nghiêm mà đặc biệt.
      Cho nên các nhà nghề ta, không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho  có cái trí khôn nưã.
      Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức,  thời  không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ,  sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2),  để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học  cho biết nghề mình duyên cách (3)  thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy mà  giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biến đổi dần.
                                                                                                                                                                                 
(1) bắt đầu dựng lên
(2) quan hệ của những cái liên tiếp. Cũng nghĩa như  hệ thống
(3) duyên  ( có khi đọc diên ) ở đây  là thủ cựu, cách là đổi mới.Duyên cách  : Tình hình cũ và mới   
                                                                                     Phạm Quỳnh
                                                                                Pháp du hành trình nhật ký 1922

Không ai chuyên nhất việc gì

    Các nước phú cường, người nào làm việc gì thì chuyên việc ấy. Nhà khoa học lo cả đời phát minh; người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc; trong khi làm bàu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu  sang Pháp làm chính  trị.
   Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn nại.

Tân Việt (*)
Mỗi người một việc – Đông Pháp thời báo, 1928(*)Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi  ký chung trênĐông Pháp thời báo 1928 ( theo Lại Nguyên Ân ). Nghe giọng  thì người viết ở đây  có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?).


Làm hàng bán hàng đều kém 
   Nước ta  khi xưa chỉ có những  tiểu công nghệ  như quay tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới,  làm mắm muối v..v.. chứ không có  đại công nghiệp để làm giàu như các nước khác.. Người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì  thì lập thành phường, như thợ mộc thợ nề  thợ rèn thợ đúc đồ gốm v..v.. Phường nào có tục lệ riêng của phường ấy. Những người làm nghề thợ thường là người ít học, quanh  năm ngày tháng đi làm  thuê làm mướn chỉ  được đủ ăn mà thôi.
   Người thiên hạ đi buôn nước này bán nước nọ, xuất cảng nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn  kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời không đi đến đâu,  chỉ quanh quẩn ở trong nước,  buôn bán những hàng hoá lặt vặt,  thành ra bao nhiêu mối lợi  về tay người ngoài (1) mất cả. Thỉnh thoảng có một ít người  có mươi lăm chíêc  thuyền mành,  chở  hàng từ xứ nọ đến xứ kia, lưng vốn đọ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.

(1)  ám chỉ  Hoa kiều, trước 1945  thường gọi là khách, như trong các từ hiệu khách, phố khách 
                                                                                                        Trần Trọng Kim
                                                                                                    Việt Nam sử lược,1925
Tài trí thua kém
     Nghĩ như nước ta, ruộng đất tốt, rừng núi nhiều, các mỏ có, phận đất duyên hải cũng thật dài, vậy mà cuộc kinh tế mỗi ngày mỗi khó, thời là sao?
     Nói về tài trí, quốc dân ta thứ nhất đã kém về cơ khí cho nên công nghệ phải thua. Vật xấu mà giá bán đắt hơn thời còn mong gì tiêu thụ cho ngoại quốc (1). Ngay trong bản quốc, vẫn phải cần dùng đồ nước ngoài. Bài trừ ngoại hoá chẳng qua là câu chuyện nói chơi, khó thay sự thực. Như ở Nam Kỳ nhà máy xay gạo của người ngoại quốc thì không sao; người nước ta chỉ có một cái nhà máy xay mà cháy. Ở mặt bể, tàu của người ngoại quốc thời không sao, người nước ta có một cái tàu Bình Chuẩn (2) mà chìm. Nghĩ ra cũng là tài trí thua kém.
     Nói về tư bản (3), nguyên người nước ta đã không lấy đâu có được nhiều người có tư bản to ví với người ngoại quốc, mà sự chiêu phần (4) lập hội thời cái bụng ăn ở với nhau kém, cho nên không mấy hội được bền, nghĩ chỗ đó thật đáng buồn, mà có nói lắm cũng vô ích.

(1)      tức không thể xuất khẩu.
(2)     tàu chở hàng trên biển, trọng tải 600 tấn, do công ty Bạch Thái Bưởi khai trương từ 1919.
(3)     của cải vốn liếng
(4)     gọi người mua cổ phần
 Tản Đà
 An Nam tạp chí, 1931
Thời gian phí phạm
cách sống làm điệu làm dáng
    Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng là cơm vua ngày trời, tỏ ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữ làm việc quan là làm việc rồi (1), làm đù đưa đủng đởn.
      Phải, phàm kẻ làm việc quan, không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm đúng đắn làm kịp thời kịp vụ làm chi!
       Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không có đồng hồ. Chẳng những vì khoa học không có mà không làm được đồng hồ. Mà chính vì cái quan niệm cơm vua ngày trời, và làm việc quan ấy nó choán sẵn trong đầu rồi, không có sự cần, nên không sinh ra khoa học mà không làm đồng hồ được.
    Có người đeo cái đồng hồ không chạy. Máy ở trong đã hư hết nhưng mà vì nó đẹp, nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.
     Bỏ cái quan niệm cơm vua ngày trời đi, rồi mới dùng được đồng hồ theo như chỗ dùng của nó.
      Cũng như bỏ cái căn tính cẩu thả đi, rồi mới dùng được những chữ dân quyền tự do bình đẳng theo ý nghĩa của nó. Hiện nay thì những chữ dân quyền, bình đẳng, tự do ở nước Việt Nam cũng còn như cái đồng hồ của người Việt Nam!

(1) rổi ở đây có nghĩa như trong thành ngữ “ăn không ngồi rồi “. Làm rồi: làm rất nhàn nhã, thế nào cũng được

 Phan Khôi
 Cái đồng hồ của người Việt NamPhụ nữ tân văn,1931

 Quan niệm về kinh tế quá cổ lỗ 
      Tư tưởng kinh tế nước ta phần nhiều bị cái triết học của người đời (1) nó đè nén. Sách Đại học(2) có câu “ Đức là gốc mà của là ngọn “, ông Mạnh tử  nói “ nhân nghĩa là đủ, sao cứ nói lợi “. Xưa nay không ai không lấy sự dè sẻn làm chủ nghĩa rất cần, nói đến tài chính không ai không lấy sự “ xem số thu vào để  liệu số chi ra “  làm chủ đích. Sự hơn đong kém bán bị  khinh rẻ, người mưu lợi bị chê bai …
      Bởi đấy nên tư tưởng  kinh tế  phương đông tản tác mà lộn xộn, tư tưởng kinh tế  phương Tây tề chỉnh mà phân minh.
      Tư tưởng đã tản tác mà lộn xộn thì  kết quả không tiến bộ chút nào;  tư tưởng đã tề chỉnh  và phân minh  thì kết quả lại có phần tiến bộ nhiều lắm.  

(1 )  triết học nhân sinh
(2) một trong Tứ thư bốn bộ sách chính của đạo Nho. Ba cuốn kia là Luận ngữ, Trung Dung Mạnh Tử
                                                                               Nguyễn Xuân Dương
                                          Sự so sánh về tư tưởng kinh tế Đông Tây An Nam tạp chí, 1931

Giữa chủ và thợ không tìm được
hình thức cộng  tác thích hợp
   Những nhà nông trồng ra  cây mía, nấu thành muống đường (1).
   Những người làm nên đường cát mà mang đi bán lại là người khác, tức là nhà buôn đường.
    Người có tư bản  xuất vốn ra và làm chủ rồi rủ dăm ba người trai tráng làm  bạn (2), gọi là công –xi, một bên xuất tài (3) một bên xuất lực.
    Mãn mùa rồi tính trừ tiền vốn và tiền tổn ra  còn lãi bao nhiêu chia thành hai,  chủ phần nửa, các bạn phần  nửa.
     Song ở trong có sự rất xấu là những người chủ thường  ăn lấn các bạn. Hạng trai tráng đi làm bạn  phần nhiều là ngu dốt không biết gì, chủ tính trời tính đất chi thì tính,  họ cứ việc dạ, miễn còn dư đôi ba đồng  đem về cho vợ đã là quý rồi.
    Thường thấy những  công-xi làm đường  chủ nhân làm nhà gạch mua đất tư  còn các bạn thì khố một vẫn hoàn khố một.
(1)Tạm hiểu là đường sơ chế 
(2) một cách  gọi những người cộng tác; thực chất   là  thợ
(3) tài ở đây không phải tài năng, mà là tiền của.

                                                   Trích ở bài Nghề làm đường ở Quảng Nam, Quảng Ngãi
                                                                            Thực nghiệp dân báo, 1923
                       
                                                                             
Những gia truyền dần dần mất đi
         Xét những thức quà của ta, thật có nhiều thứ ngon, mùi vị rất dồi dào. Là sản phẩm của  đồng ruộng của núi sông, những thứ quà ấy là dấu hiệu sự thưởng thức của người mình, vừa tao nhã lại vừa chân thật. Đó là những vật quý mà sự mát đi, nếu xảy đến, sẽ khiến người sành ăn phải ngậm ngùi.
          Nhưng người mình tham thanh chuộng lạ đã bắt đầu khinh rẻ những thứ đáng yêu ấy, có cái ngon mà họ đã gần quên mất mùi vị.
         Một đằng khác, không ai chịu để ý và hết sức làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn lên, cải cách cho hợp với thời mới.
         Những cái gia truyền dần dần mất đi, những cái khéo léo không còn giữ được …
                                                                    
                                                                                             Thạch Lam                                                                                   Hà Nội băm sáu phố phường, 1940
  Ngủ yên trên danh vọng
      Đi với bánh đậu, còn có các thứ bánh khảo, kẹo lạc, kẹo vừng.
       Ngày trước, hiệu Ngọc Anh có tiếng khắp kẻ chợ thôn quê; nhưng từ  ngày Cự Hương ở tỉnh Đông (1) dồn lên, thì ngôi bá chủ đã thay người.
       Trong khi Cự Hương mỗi ngày một tiến bộ trong cách tìm tòi, khiến cho bột bánh được mềm dẻo, nhân đậu được nhuyễn trong, và cách trình bày được  sạch sẽ tinh tươm  thì Ngọc Anh nằm ngủ trên cái danh vọng cũ của mình, uể oải bán hàng cho khách. Hiệu đó hình như giàu rồi mà lại …
      Mà  phần nhiều giàu rồi thì không hay  cố nữa. Đó là  cái tật chung của người mình  khiến cho không một công cuộc nào phát đạt được lâu dài, cả từ trong cách buôn bán  cho đến những công nghệ khác. 
      Tài làm bánh của người mình không phải là kém cỏi. Cái thứ bánh dẻo Trung thu của Cự Hương không kém gì bánh của Tàu  và các thứ bánh kem của Việt Hưng không  thua gì bánh của Tây.
     Ta chỉ còn thua cái chí nữa mà thôi; nhưng như thế  nghĩa là còn thua  nhiều nhiều lắm.
(1) tức vùng Hải Dương
                                                                                    Thạch Lam                                                                              Hà Nội băm sáu phố phường,1940

Bôi bác, giả dối, chỉ cầu rẻ 
    Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: món quà bán thì cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn cái phẩm có tốt hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất to bột, nặn xuề xoà để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc (2) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
   Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó mà lấy nhiều hoa mắt người ta được.
   Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản.
     Đó là một sự thực giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.
 (2) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.
 Thạch Lam  
 Hà Nội băm sáu phố phường, 1940

Người làm nghề không ngóc đầu  lên được 
    Đời sống nông nghiệp vẫn ràng buộc sức phát triển của công nghệ, mà những người làm nghề ở Việt Nam phần nhiều là nông dân chỉ coi nghề của mình là một nghề phụ để kiếm thêm chứ không trau dồi cho nó ngày một tinh xảo.
     Lại thêm chính những người có nghề muốn giữ nó làm của riêng không muốn truyền dạy cho người ngoài.
     Dụng cụ thường thô sơ và y nguyên kiểu xưa.
     Tài khéo thường bị mai một. Vật liệu để dùng thì cũng vẫn tìm quanh tại chỗ chứ ít khi phải mua tận nơi xa.
    Cách chế tạo cũng chỉ theo phương pháp tổ truyền, không mấy ai chịu thay đổi.

                                                                                                            Lương Đức Thiệp
                                                                                                      Xã hội Việt nam, 1944
Không biết thích ứng
  với xã hội hiện đại 
     Tất cả  các công nghệ cổ truyền  đều chỉ có công cụ thô sơ.
     Chúng không có nhiều cơ hội để phát triển: thợ thủ công Việt Nam quả thật rất khéo léo và sẽ có thể trở thành những thợ mỹ nghệ tuyệt vời  nhưng họ rất thiếu nhìn xa  nên không thể nghĩ đến  việc đặt công nghiệp của  họ trên những cơ sở kinh tế hiện đại.
      Họ sống ngày nào hay ngày ấy  và chẳng có khả năng gì chống chọi với sự cạnh tranh của  các vật dụng hiện đại được sản xuất với số lượng lớn hơn nhiều mà lại  được nâng đỡ bởi một thị hiếu vừa dễ dãi vừa thất thường.
                                                                                                     Nguyễn Văn Huyên
                                                                                Văn minh Việt Nam,194

29 THG 3, 2012




                                    Những nhận thức cần được đào sâu  
                                          
   Nhà văn Tô Hoài có lần bảo tôi truyện vừa và tiểu thuyết Việt Nam thường chỉ được vài chương, nhất là các chương đầu, các chương sau phần lớn đuối, kém. Nói chung là có hiện tượng xôi đỗ, chỗ được chỗ hỏng. 

     BáoTia Sáng 24/02/2012 trong bài Làng nghề gốm: Yếu nhất ở khâu sáng tạo,  ghi lại ý của họa sĩ Lê Thiết Cương -- nhân triển lãm gốm Việt Nam “Rồng và Sen” đang diễn ra tại Bảo tàng Nghệ thuật Birmingham, Mỹ -- nói về tình trạng của gốm VN hiện nay.
Thật tiếc phải nói rằng truyền thống [ tốt đẹp xưa ] đã bị đứt đoạn, không được kế thừa. Đã có quá nhiều thứ thay đổi, mất đi. Nhưng cứ giả sử rằng, những cái thuộc về kỹ nghệ có tính gia truyền bí truyền vẫn còn, đất và men (men tự nhiên chứ không phải men hóa chất) của ngày xưa vẫn còn, và những tay nghề giỏi vẫn có, thì chúng ta cũng không cách nào mà tạo ra được những sản phẩm đẹp như từng có trong quá khứ. Bởi lòng người đã thay đổi rồi. Họ chỉ muốn sản xuất sao cho nhiều và rẻ, mà như thế thì chỉ có cách ăn cắp công đoạn thôi. Bên cạnh đó, đã là đồ thủ công, thì dù chỉ là cái nón lá hay đôi guốc gỗ cũng cần có hàm lượng mỹ thuật nhất định. Nhưng những gì chúng ta nhìn thấy ở các làng gốm ngày nay, nếu không phải là sao chép người xưa, sao chép vốn cổ từ dáng, men cho đến họa tiết thì cũng là những thứ “phá gốm”. Đó là những thứ gốm có cốt đất nhưng lại được sơn phủ bằng sơn công nghiệp, hay còn gọi là gốm sơn mài ở Bát Tràng; hay những thứ gốm được tô, đắp, khoét, như trường hợp gốm Nhung ở Phù Lãng. Phá gốm vì không có khả năng sáng tạo.
Trong những lần đi khảo sát các làng gốm Bát Tràng, Phù Lãng, Thổ Hà, Hương Canh hay Cậy, ngoài hai dòng gốm như kể trên, thỉnh thoảng tôi [ chỉ còn ]bắt gặp những sản phẩm gốm rất đẹp làm theo đơn đặt hàng của người nước ngoài.

    
      Nếu hiểu mấy chữ sản xuất làm ăn theo nghĩa rộng của nó, mở rộng sự quan sát ở nhiều ngành nghề, chúng ta sẽ còn có thể bắt gặp nhiều câu chuyện  thú vị.
     Từ những nhận xét cụ thể  ấy, người ta có thể đi tới hiểu thêm về cả cách tư duy cách sống cách tổ chức xã hội của người Việt.
     Câu chuyện của Tô Hoài toát lên cái ý người mình thường ngắn hơi, thiếu khả năng ngựa chạy đường trường. Rộng ra mà nói tức là người lao động không đặt cho mình những yêu cầu cao, không có nhu cầu đi tìm cái tối ưu cái hoàn hảo, vốn là một đặc tính cần thiết của những sáng tạo lớn.
     Lê Thiết Cương vạch rõ một mối nguy hại sờ sờ của lối làm ăn vô hồn. Hóa ra cái sự ăn mày dĩ vãng lười biếng và thiếu khát vọng sáng tạo dẫu sao còn tạm thời chấp nhận được. Nguy cơ lớn hơn còn là sự bất chấp  chuẩn mực làm gốm mà là phá gốm. Nghịch lý là ở chỗ chúng ta đang thoái hóa đi trên con đường gia nhập thế giới hiện đại.
    Trở lại với các mẩu chuyện của các trí thức tiền bối.
     Các câu chuyện của Lương Dũ Thúc cũng như Thạch Lam ( nhận xét về các hàng bánh kẹo) gặp nhau ở cái ý dân ta không biết lo xa, dễ thoả mãn, vừa thành công ra đã muốn nghỉ ngơi tận hưởng lạc thú và nói như ngày nay, làm mất thương hiệu như chơi .  
     Tản Đà gói ghém khái quát những hạn chế của người mình trong mấy chữ tài trí kém.
     Phan Kế Bính rất có lý khi tố cáo người làm nghề ở ta không yêu nghề, chỉ biết chạy theo số lượng. Ông đã đi vào gan ruột tất cả đám thợ bất đắc dĩ chúng ta khi nói rằngngười làm nghề thường “ không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn.”
     Ông cũng đã đi tới một sự giải thích xác đáng khi nói rằng trong các thành phẩm của người mình, tỷ lệ của lao động trí óc thấp. Vì sự phát triển chung cũa xã hội, bộ phận trí thức – thời phong kiến gọi là kẻ sĩ –đã yếu kém lại chỉ lo thi cử làm quan không có sự đóng góp vào các công việc làm ra của cải.
     Nếu được phép nghĩ rộng ra thêm, ta sẽ thấy nhiều khi từ một mẩu chuyện có thể rút ra nhiều ý khái quát khác nhau.
     Không khó khăn gì để nói rằng từ câu chuyện về những chiếc bánh mằn thắn mà Thạch Lam từng kể, ta nhận ra thói làm ăn hời hợt cẩu thả của người mình. Nhưng  từ đây còn có thể rút ra thêm hai ý:
   1/ nhiều ngành nghề làm ăn của ta thực ra có nguồn gốc ngoại lai; suốt trường kỳ lịch sử những chú khách từ phương bắc tới đã mang lại cho thị trường một loạt ngành nghề mới.
   2/ nhưng trong việc đi học thiên hạ, dân ta thường có lối vội vội vàng vàng làm nhanh làm ẩu bất chấp chuẩn mực do đó tự mình triệt đường làm ăn của mình; vô tình hóa ra giả dối lừa lọc.

    Chính theo tinh thần mà các trí thức lớp trước gợi mở, tôi đã thử trình bày các suy luận của mình trong một số bài báo.


                            CÁC BÀI PHIẾM LUẬN TÔI ĐÃ VIẾT
                                               CÓ LIÊN QUAN TỚI CHỦ ĐỀ TRÊN 

 Làm ăn kém nên nghèo,  bởi nghèo nên xấu tính 
    Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật thích viết rằng những người làm tranh Đông Hồ chỉ là những người nông dân lúc rỗi rãi thì vẽ thêm tranh. Mục đích của họ cốt cho người ta thấy nghệ thuật ở VN “ gắn liền với đời sống “. Có biết đâu làm thế chỉ là một cách tốt nhất để phô ra một sự thật: trong xã hội VN, trình độ sống và làm việc là thiếu chuyên nghiệp. Không sớm có sự phân công lao động. Con người nhởn nhơ dông dài ngay trong sự chăm chỉ của mình.
   Tình trạng của nghề làm tranh cũng là tình trạng của nghề dệt, nghề đúc đồng,nghề làm muối, nghề làm đồ gốm, cả nghề làm ruộng… Chỗ nào người ta cũng thấy sự ngưng trệ. Kỹ thuật cổ lỗ. Năng suất thấp. 
    “Cối xay tre, nặng nề quay, từ ngàn đời nay, xay nắm thóc “. Trong lời thuyết minh viết cho phim Cây tre Việt Nam 1955, Thép Mới từng viết một câu văn xuôi mang đầy chất thơ để hằn sâu vào tâm trí của nhiều thế hệ học sinh tiểu học như vậy. Vào những năm năm mươi của thế kỷ trước, nó gợi một cảm giác về sự nhẫn nại bất khuất kiên cường. Nhưng sang đến thế kỷ XXI này đọc lại thấy dấu hiệu của một cuộc sống ù lì tăm tối.
     Người Việt tự nhủ Đói cho sạch rách cho thơm. Ảo tưởng nhắc lại mãi nghe như có lý. Song khi người ta quá nghèo thì khó lòng giữ được sự tử tế. Chính nhiều người từ xa tới  đây cũng sớm hiểu điều đó.      
    Trong cuốn Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài 1688, (bản của NXB Thế giới, 2006) một nhà thám hiểm người Anh là  W.Dampirer ghi lại một nhận xét chung: “Cư dân ở đây rất lễ độ và thật thà với người nước ngoài, nhất là những người đến giao dịch và buôn bán. Những kẻ quyền quý thì tỏ ra kiêu căng, hách dịch và tham lam trong khi đám lính tráng  thì hỗn xược.”
    Rồi ông ghi thêm “Cư dân lớp dưới lại hay trộm cắp làm cho nhà buôn và những người đến giao dịch ở đây bắt buộc phải canh gác cẩn thận về đêm “.
    Điều đáng nói là  W. Dampirer đã có cách riêng để giải thích hiện tượng này. Trước đó nhà cửa người Việt ngay ở Kẻ Chợ, tức thủ đô, được tác giả mô tả là quá đơn sơ tầm thường. Nhà nhỏ và thấp. Mấy tấm phên che dột nát tạm bợ. Bên trong chia làm nhiều gian, mỗi gian có những cửa sổ để lấy ánh sáng thực chất là những lỗ đục xấu xí. Theo W.Dampirer, nhà cửa như vậy thường làm mồi cho bọn người trộm cắp. Chúng có thể dễ dàng thực hiện mưu đồ đào tường khoét ngách.
  Khó lòng kể hết những dấu ấn mà sự thấp kém về trình độ sản xuất để lại trong tính cách người Việt. 
  Trước tiên là một tâm lý tự ti mệt mỏi không thấy hứng thú trong lao động.
   Đã nhiều người gặp nhau ở nhận xét là người Việt rất chăm chỉ năng động. Phan Kế Bính tỏ ra tinh nhạy hơn người khi nêu cùng lúc cái tình trạng nước đôi: người Việt vừa cần cù, vừa cho người ta cảm thấy họ coi lao động là bất đắc dĩ, chẳng qua không có cách nào khác nên phải chân lấm tay bùn vậy.
   Xã hội thiếu đi sự quyết liệt tìm tòi.
   Nhà nho xưa nhiều người kiêm cả thày lang. Trong một lần so sánh văn hóa Trung quốc và VN, Phan Ngọc nhắc lại cái ý mà nhiều thế hệ nho sĩ truyền miệng với nhau. Đó là một nhận xét của người Tàu: người Việt sống trên cả đống nguyên liệu dùng làm cây thuốc nhưng vẫn chết vì thiếu thuốc.  
     “Việc lớn thì kinh, việc nhỏ thì khinh, việc bình thường thì không thích “-- thái độ người mình với công việc được Nguyễn Tất Thịnh cô lại trong một nhận xét thật gọn ghẽ.( báoTiền phong, 6-10-06).
    Nhiều nhân vật trong những truyện cười dân gian là những chàng lười. Ca dao hóm hỉnh dựng lại một chân dung, ngày nay ta tưởng là bịa, song thực ra rất sẵn trong nông thôn VN thời trung đại : “ Con cò đậu cọc cầu ao / Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng /  Chú tôi tốt tóc đen răng / Hay ăn làm biếng hay nằm ngủ trưa / Ngày thì ngóng những ngày mưa / Đêm thì ngóng những đêm thừa trống canh ”.
    Vốn rất thông minh nhạy cảm nên không phải là người Việt không biết thực trạng kém cỏi trong làm ăn sản xuất của mình. Nhưng do thiếu sự mở đường của trí tuệ nên người ta cảm thấy đó là cả một định mệnh. Thấy thiên hạ cái gì cũng hơn mình. Bất lực. Cay đắng. Chán chường.
    Một niềm tự ti nằm rất sâu trong tâm lý, mang lại nhiều biến thái: lo học nhưng chỉ học mót học lỏm; sợ người ta coi thường nên phải tìm cách nhấn mạnh cái riêng, và nhắc đi nhắc lại rằng mình chẳng kém gì mọi người. Sống gồng lên ra vẻ thế nọ thế kia, sẵn sàng giả dối cốt sao khỏi bị mất mặt.
   W.Dampier, trong cuốn sách của mình, còn ghi nhận một điều mà sau này các nhà nghiên cứu văn hóa VN từ Phan Kế Bính Đào Duy Anh tới Nguyễn Văn Huyên Lương Đức Thiệp đều chia sẻ, là thói máu mê cờ bạc của người Việt. Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn,-- khi rỗi rãi người ta lao đầu vào cuộc đỏ đen một phần là vì bế tắc trong cuộc sống. Toan tính duy nhất ở đây là ngẫu nhiên tìm được một cơ may giữa đời sống tuyệt vọng.      

Một quan niệm đơn sơ về thế giới 
    Sự đơn điệu nghèo nàn là cảm giác chính còn lại trong Nhất Linh sau khi dự Hội chợ hàng VN 1934 mở ở Nhà Đấu xảo Hà Nội
  Trong bài tường thuật trên Phong Hóa số ra 30-11-1934,người đứng đầu văn đoàn Tự Lực viết :”Mấy gian hàng Hải Dương Nam Định vẫn như mọi năm không có gì tiến bộ.Thăm gian hàng Trung Kỳ, người ta cảm thấy như sống lùi lại mười năm trước bởi chỉ có ít đồ gỗ nét chạm non nớt. Đồ đồng của ta có lẽ nghìn vạn năm nữa không thay đổi. Từ cái thau cái mâm cho đến cái đỉnh, thứ nào cũng nguyên như cũ, hình như đổi mới nó đi là một cái tội vậy. Đồ sứ Bát Tràng men trông cũng khéo, chỉ tiếc rằng kiểu không đẹp. Phần nhiều là bắt chước Tàu.“.
   Những nhận xét này có thể áp dụng cho toàn bộ thế giới đồ vật mà Việt sáng tạo ra để phục vụ đời sống của chính mình. Một đôi dép để đi ư ? Ở Bắc bộ, nó chỉ là một chiếc mo cau hoặc miếng da, có thắt một nút trồi lên vừa để xỏ một ngón chân. Trong khi người dân nông thôn xưa chỉ đi chân đất thì một đôi dép như thế còn là xa xỉ, và chỉ những dịp hội hè người ta mới dám sử dụng. Một cái diều ư? Chỉ là mấy tờ giấy phết vội trên mấy nan tre. Một cây sáo ư, chỉ là một ống tre có khoét mấy lỗ sơ sài. Nếu chúng ta biết rằng trên thế giới này, không chỉ Trung Quốc Nhật Bản mà cả các nước phương Tây những cái diều bộ sáo có cấu tạo phức tạp tinh vi như thế nào thì người ta  phải tự trách rằng sao  dân mình dễ bằng lòng với những gì làm ra, tức dễ dừng lại trên đường sáng tạo đến thế.
   Thời nay, khi làm hàng xuất khẩu, người mua các nước cũng thường chê hàng Việt mẫu mã đơn giản, có học lỏm được cái gì của người khác thì cũng chỉ loay hoay ở vài cái lặt vặt mà không biết khai thác hết những khả năng đa dạng có thể có.  
   Chẳng những chúng ta rất ít phát minh mà nhìn vào cái đã phát minh ra, thấy không vượt khỏi tình trạng bột phát ban đầu. Các ý tưởng không được hoàn thiện và đẩy tới cùng. Nguyễn Văn Vĩnh sớm nói thẳng là  trước khi học của nước ngoài, những cái nhà của chúng ta quá trống trải và chẳng có gì mà bày, ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề, nếu cố trau chuốt thì lại phô ra một mỹ cảm cầu kỳ vụn vặt.
   Ở đồng bằng Bắc  bộ, ngoài nghề trồng lúa nước, gần như không có nghề làm vườn. Các giống vật nuôi trong nhà không đặc biệt, như con chó Vịệt, đặc tính chính của nó là sự tầm thường. Không có con đường làng nào là thẳng, con đường nào cũng cong queo vẹo vọ.
  Tự bằng lòng với cuộc sống tự nhiên của mình ở các làng quê, người Việt cố ý  từ bỏ khả năng tổ chức lại cuộc sống một cách có suy nghĩ ở các đô thị.
   Cho đến cả trong cách tổ chức xã hội, trí tưởng tượng nghèo nàn cũng níu kéo chúng ta lại.
   Thần thánh trong các truyện thần thoại cổ tích của ta quá gần người và cũng nghèo như người, cả về vật chất lẫn tinh thần.
   Còn những ước mơ của chúng ta thì sao ? Ngày xưa, bao chàng trai bỏ làng ra đi chống ngoại xâm, rút cuộc “ súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa “ ( thơ Nguyễn Đình Thi ), mơ ước lớn nhất là quay về làng tiếp tục đi cày và cưới được cô thôn nữ.
   Còn hôm nay, có một câu chuyện dân gian đang được lưu truyền rộng rãi. Một thanh niên Nhật hỏi người Việt cùng tuổi với mình là mơ ước gì thì được trả lời là mơ ước có cái Honda để đi, nhà có cái tủ lạnh Hitachi, cái máy giặt Sanyo để dùng. Nói chung là ao ước dân Nhật xài đồ gì thì mình có đồ đó để xài.
   Ngược lại người thanh niên Nhật khi được hỏi, chỉ nói gọn một câu là ước sao giỏi giang hiểu biết để thực hiện được tất cả những ước mơ của các bạn Việt cùng tuổi.
   Câu thơ của Chế lan Viên “ Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp – Giấc mơ con đè nát cuộc đời con “ không chỉ đúng với con người thời tiền chiến mà đúng với người Việt gần như suốt thời quá khứ, không chỉ con người bình dân mà cả những tầng lớp tinh hoa. Và đang đúng với cả hôm nay.

TT&aVH 19-6-07              
                        
 Cạn nghĩ, ngắn hơi, dễ thỏa mãn
  
   Không chỉ tinh tế khi tả thức ăn mà trong Hà Nội băm sáu phố phường (in trên Ngày naytừ 1940), Thạch Lam còn khéo ghi nhận cái thói quen dễ dãi cẩu thả của người mình trong cách làm thức ăn. Như trong câu chuyện về  mấy bát mằn thắn. Trong khi bát mì của mấy chú khách (tức đám Hoa kiều ) đầy đặn thì người mình chỉ giỏi giả lễ bà chúa mường. Bát mằn thắn của các ông chủ người Việt có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt, song mằn thắn bột thì thô, nhân là một tí thịt bạc nhạc, nước rất nhiều nhưng nhạt.
      Cho đến những năm cuối thế kỷ XX đầu XXI này nhiều người đi nước ngoài còn chứng kiến kiểu làm ăn tương tự. Như ở Paris, một  nhà báo kể với tôi là chả có cửa hàng ăn nào của người Việt đậu được lâu. Lúc mới khai trương cũng rôm rả. Nhưng chỉ một hai năm là chất lượng kém hẳn đi và người ăn bỏ hết sang các hiệu khác.  
      Người ta bắt gặp ở đây một quan niệm sống tầm thường dễ dãi, không bao giờ duy trì được sự liên tục có trước có sau tức không đạt tới một trình độ chuyên nghiệp ổn định.      Một thói xấu khác của các nhà hàng buôn bán người mình được Thạch Lam ghi nhận là thói dễ thỏa mãn. Ông lấy ví dụ như mấy hiệu kẹo lạc kẹo vừng Cự Hương, Ngọc Anh. Lúc đầu còn chịu khó làm thật ngon để chiều khách, sau ngủ yên trên danh vọng.
     Hình như dân mình động giàu là ra mặt vênh váo và bắt đầu làm ăn chểnh mảng - tác giả Gió đầu mùa khái quát. Và ông hồn nhiên tự hỏi “Ồ, sao sự cố gắng ở nước này không được lâu bền nhỉ !“.

     Người xưa có câu “Nhân bần trí đoản”, với nghĩa người nghèo hèn, kẻ hiểu biết nông cạn thì không còn đáng để ai đếm xỉa tới nữa.
      Không đâu thấy rõ sự ngắn hơi và dễ thỏa mãn như trong hoạt động của người làm nghệ thuật ở Việt Nam. Làng tranh Đông Hồ quê gốc tôi có nhiều nghệ nhân có tác phẩm để đời. Nhưng tên tuổi tác giả những bức tranh đó thì không ai biết. Đại khái đó là những ông thợ tài hoa nhưng cẩu thả, lúc vợ ốm con đau hoặc thua bạc cần tiền thì vẽ vội mấy bức mang bán cho các nhà giàu trong làng, và không có ý niệm gì về bản quyền trên tranh. Cũng giống như các cửa hàng kẹo bánh của Thach Lam “không biết rằng hàng của mình ngon hơn hàng khác “, các nghệ nhân đó cũng không thể nghĩ rằng lẽ ra tên tuổi mình có thể còn mãi với lịch sử mỹ thuật. Chính họ tước đi khả năng đó ở họ.
    Theo các nhà nghiên cứu văn hóa thì thời cổ, văn xuôi Trung quốc chỉ có biền văn, chưa có tự sự. Tự sự Trung quốc là học được từ Ấn Độ qua du nhập sách Phật. Nhưng khi đã nắm được rồi thì người Trung Hoa đưa nghệ thuật này lên đến đỉnh điểm. Những bộ tiểu thuyết như Hồng lâu mộng, Kim bình mai có độ dài và trình độ kết cấu không thua kém gì những thiên tự sự đồ sộ nhất của phương Tây.
   Trong khi đó các tác phẩm tự sự của người Việt chỉ theo dõi con người trong những khoảng thời gian ngắn. Không tìm đâu ra loại tác phẩm có khả năng bao quát cuộc sống nhân vật trong thời gian dài, dựng lại lịch sử cả mấy thế hệ như truyện Tàu. Các cuốn tiểu thuyết hiện đại thường kém về kết cấu toàn cục. Cố lắm chỉ được vài chương đầu. Càng về cuối càng hỏng.
   Manh mún nhỏ lẻ không chỉ là cách làm ruộng đi buôn mà cũng là cách người Việt làm nghệ thuật. Chúng ta chỉ có những tác phẩm nhỏ nhỏ xinh xinh, chùa Một Cột chẳng hạn chỉ tồn tại như một ý niệm hơn là một công trình thực tế.
  Nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng có lần bảo với tôi: Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay của chùa Bút Tháp đẹp thật, nhưng lưng tượng thì chỉ được làm dối dá cốt cho xong chuyện. 
   Trong truyện ngắn Đất xóm chùa , nhà văn Đoàn Lê viết một câu tạt ngang : “Khốn nạn, cái vạt đất tí hin bị bỏ quên sau mấy lũy tre, mơ ước hào hoa nhất chỉ là nồi cơm Thạch Sanh cả làng ăn không hết, chuyện tinh tướng  bốc giời nhất cũng chỉ chuyện củ khoai to bằng cái đình …..Cứ ra cái điều !”

TT&VH 10-7-07

No comments:

Post a Comment