Thursday, December 17, 2015

Kinh A Di Đà


NGHI THỨC TỤNG KINH A DI ĐÀ
CÚNG HƯƠNG



Nguyện đem lòng thành kính, 
Gởi theo đám mây hương, 
Phưởng phất khắp mười phương, 
Cúng dường ngôi Tam Bảo 
Thề trọn đời giữ đạo, 
Theo tự tánh làm lành, 
Cùng pháp giới chúng sinh, 
Cầu Phật từ gia hộ, 
Tâm Bồ Đề kiên cố, 
Xa bể khổ nguồn mê, 
Chóng quay về bờ Giác. 
[Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện]

TÁN THÁN PHẬT



Đấng Pháp Vương vô thượng, 
Ba cõi chẳng ai bằng 
Thầy dạy khắp trời người 
Cha lành chung bốn loài 
Quy y tròn một niệm 
Dứt sạch nghiệp ba kỳ 
Xưng dương cùng tán thán 
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng 
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn 
Lưới đế châu ví đạo tràng 
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời 
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện 
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam bảo. [1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo Chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ Tát.[1 lạy]
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Aâm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát. [1 lạy]
TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn 
Khắp xông pháp giới đạo tràng mườiphương 
Hiện thành mây báu kiết tường 
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền 
Pháp thân toàn thể hiện tiền 
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho
Nam mô hương vân cái Bồ Tát [3 lần]

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ Tát. [3 lần]
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô A rị da bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà da, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha. [3 lần]
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật [3 lần] 
 
NGHI THỨC SÁM HỐI
TRƯỚC KHI TỤNG KINH

[Dùng ba nghiệp thân khẩu ý, thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám hối. Sám hối tức là làm cho ba nghiệp thanh tịnh.]
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Chư Phật. [1 lạy]
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Tôn Pháp. [1 lạy]
Nam mô thập phương tận hư không giới nhứt thiết Hiền Thánh Tăng. [1 lạy]



[Qùy, tay cầm hương cúng dường phát nguyện]
Nguyện mây hương mầu này 
Khắp cùng mười phương cõi 
Cúng dường tất cả Phật 
Tôn Pháp, các Bồ Tát, 
Vô biên chúng Thanh Văn 
Và cả thảy Thánh Hiền 
Duyên khởi đài sáng chói 
Trùm đến vô biên cõi, 
Khắp xông các chúng sinh 
Đều phát lòng Bồ Đề, 
Xa lìa những nghiệp vọng 
Trọn nên đạo vô thượng. 
[Cắm hương, lạy 1 lạy] 
[Đứng chắp tay, xướng]
Sắc thân Như Lai đẹp 
Trong đời không ai bằng 
Không sánh, chẳng nghĩ bàn 
Nên nay con đảnh lễ. 
Sắc thân Phật vô tận 
Trí huệ Phật cũng thế, 
Tất cả pháp thường trú 
Cho nên con về nương. 
Sức trí lớn nguyện lớn 
Khắp độ chúng quần sanh, 
Khiến bỏ thân nóng khổ 
Sanh kia nước mát vui. 
Con nay sạch ba nghiệp 
Quy y và lễ tán 
Nguyện cùng các chúng sanh 
Đồng sanh nước An Lạc. 
Án phạ nhựt ra vật [7 lần].
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Thường tịch quang tịnh độ 
A Di Đà Như Lai 
Pháp thân mầu thanh tịnh 
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Thật báo trang nghiêm độ 
A Di Đà Như Lai 
Thân tướng hải vi trần 
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Phương tiện thánh cư độ 
A Di Đà Như Lai 
Thân trang nghiêm giải thoát 
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc phương Tây 
A Di Đà Như Lai 
Thân căn giới Đại Thừa 
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc phương Tây 
A Di Đà Như Lai 
Thân hóa đến mười phương 
Khắp pháp giới chư Phật. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc phương Tây 
Giáo hạnh lý ba kinh 
Tột nói bày y chánh 
Khắp pháp giới Tôn Pháp. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc phương Tây 
Quán Thế Aâm Bồ Tát 
Thân tử kim muôn ức 
Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc phương Tây 
Đại Thế Chí Bồ tát 
Thân trí sáng vô biên 
Khắp pháp giới Bồ Tát. [1 lạy]
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:
Cõi An Lạc phương Tây 
Thanh tịnh đại hải chúng 
Thân hai nghiêm: Phước, Trí 
Khắp pháp giới Thánh Chúng. [1 lạy]
[Đứng chắp tay, nguyện:]
Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng (1) nên qui mạng (2) sám hối (3).
[1 lạy, qùy, chắp tay sám hối]
Chí tâm sám hối:
Đệ tử ... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô lượng vô biên, nói không thể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong, chiếu soi tất cả. Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư không.
Con từ vô thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhơn duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6), trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. Kinh rằng: Đức Tỳ Lô Giá La thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường Tịch Quang, cho nên phải biết cảø thảy các pháp đều là Phật pháp, mà con không rõ, lại theo giòng vô minh vì thế trong trí Bồ Đề mà thấy không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ, ăn năn phụng đối trước các đức Phật và A Di Đà Thế Tôn mà phát lồ (7) sám hối, làm cho đệ tử cùng pháp giới chúng sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.
Đệ tử sám hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang nghiêm tịnh độ, khắp với chúng sinh, đồng sanh về nước An dưỡng.
Nguyện đức A Di Đà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn lành của đệ tử hiện tiền tăng tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh độ, đến giờ lâm chung, thân an lành, niệm chánh vững vàng, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A Di Đà cùng các Thánh Chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảnh sát na sanh ra trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ Tát, rộng độ khắp chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi quy mạng đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi, A Di Đà Như Lai, biến pháp giới Tam Bảo. [1 lạy]
[Lạy xong tiếp nghi thức tụng kinh.] 
NGHI THỨC TRÌ TỤNG
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngút chiên đàn 
Khói thơm ngào ngạt muông ngàn cõi xa 
Lòng con kính ngưỡng thiết tha 
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh. 
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma Ha Tát. [3 lần]
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
Án Lam [7 lần]
CHƠN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP:
Tu rị Tu rị ma ha Tu rị Tu rị ta bà ha. [3 lần]
CHƠN NGÔN PHỒ CÚNG DƯỜNG:
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. [3 lần]
BÀI VĂN PHÁT NGUYỆN:
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo [3 lần]



Lạy đấng tam giới tôn 
Quy mạng mười phương Phật 
Nay con phát nguyện lớn 
Trì tụng Kinh A Di Đà 
Trên đền bốn ơn nặng 
Dưới cưú khổ tam đồ 
Nếu có ai thấy nghe 
Đều phát Bồ đề tâm 
Khi mãn báo thân này 
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật [3 lần]
BÀI KỆ KHAI KINH
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu 
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu 
Nay con nghe thấy chuyên trì tụng, 
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ Tát Ma Ha tát [3 lần] 
 
PHẬT NÓI 
KINH A DI ĐÀ 

Hán dịch, nhà Dao Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch.
KỲ VIÊN ĐẠI HỘI (3)
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là:
Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Na-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế.
Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát. cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội (4)
Y BÁO CHÁNH BÁO
Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.
Y BÁO TRANG NGHIÊM (5)
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. (6)
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bẩy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. [7]
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bẩy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.
Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. [8]
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la.
Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. [9]
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạt, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!
Xá-Lợi-Phất! Oâng chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?
Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. [10]
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí dụ như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.
Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà. [11]
Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay, đã được mười kiếp.
Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi!
Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.
Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ. [12]
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn.
Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. [13]
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.
SÁU PHƯƠNG PHẬT ĐỔNG KHUYÊN TIN
Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Aâm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Aâm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".
Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Aâm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật. Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này". [14]
Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói.
Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
THUYẾT KINH BẤT KHÓ
Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này".
Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó! [15]
Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra.
PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ
BỒ KHUYẾT CHƠN NGÔN
Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, a bát ra đế, yết đa chiết, chiết nại di. Aùn, kê di kê di, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa sơn đính, bát ra đeá, ô đát ma đát ma, đát tháp cát tháp nẫm, mạt ngõa hồng phấn tóa ha [7 lần]
Nam mô Hoa-Tạng Giáo Chủ Tỳ-Lô Giá-Na Phật [3 lần]
BỒ KHUYẾT TÂM KINH
Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh
Quán-Tự-Tại Bồ Tát hành thâm Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức: vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa cố, đắc a-nậu đa-la tam-miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng-đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thật bất hư.
Cố thuyết Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa chú. Tức thuyết chú viết:
"Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la- tăng yếr-đế, bồ đề tát-bà-ha". [3 lần]
VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. [3 lần]
Khể thủ Tây Phương An Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô thượng bồ đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh Tịnh Độ. Duy nguyện Từ phụ A Di Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A Di Đà thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang Trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật [niệm 10, 20, 30 câu, tùy ý]
Nam mô Quán Thế Aâm Bồ tát [10 niệm]
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát [10 niệm]
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát [10 niệm]
Nam mô Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng Bồ Tát. [10 niệm]
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh Độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cọng thành Phật đạo. 
 
TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm [1 lạy]
Tự quy Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải [1 lạy]
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. [1 lạy]
HỔI HƯỚNG 
Nguyện đem công đức này, 
Hướng về khắp tất cả. 
Đệ tử và chúng sinh, 
Đều trọn thành Phật đạo. 
THÍCH NGHĨA SÁM PHÁP

  • Phiền não, nghiệp nhân và quả báo, ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi là "Ba món chướng".
  • Đem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng, chính là nghĩa của hai chữ "Nam Mô".
  • Nói đủ là Sám-Ma hối quá. "Sám-Ma" là tiếng Phạn, nghĩa là "hối quá" tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.
  • Nhãn, Nhĩ, Thiệt, Thân, Ý tức sáu căn và ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý.
  • Giết cha, giết mẹ, giết Thánh nhân, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-Gián nên gọi là tội Vô-Gián. Ngục Vô-Gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.
  • A-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, các đường đó vui ít, khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.
  • Bày lộ tội lỗi ra trước chúnh nhân, không chút giấu che, thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng tức che giấu. Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bệnh cảm mà đặng phát hạn [ra mồ hôi].
    THÍCH NGHĨA A DI ĐÀ KINH
  • Trong kinh này, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của đức Phật a Di Đà Phật.
  • Triều-Tấn (Tàu), Diệu Hưng chiếm một phần đất xưng Vương, quốc hiệu là tần nên gọi là Diệu Tần. Bự thông hiểu tam tạng kinh, luật và luận, có thể giảng nói để dạy mọi người nên gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Tàu làm một nhà dịch kinh chữ Phạn ra chữ Tàu có danh tiếng nhất.
  • Ong Cấp Cô Độc Trưởng Giả mua khu vườn của ông Kỳ Đà Thái Tử, con vua Ba-Tư-Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng Tịnh Xá dể thỉnh Phật cùng chúng hội vể ở. Do đó nên hiệp cả hai tên của hai người để đặt tên chốn ấy mà gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên vậy. Đệ tử của đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1.250 người, nhưng vì 1.250 vị Đại A-La-Hán nầy là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.
  • A-Dật-Đa là tên của đức Di-Lặc Bồ Tát. - Càn-Đà Ha-Đề Bồ Tát là ngài Bật-Hưu-TưÙc Bồ Tát - Thích-Đề-Hoàn-Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.
  • - Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn v..v.. gọi chung là cõi nước, trong đây y báo là nước cưc lạc. - Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú..v..v.. trong đây chánh báo là đức Phật A Di Đà cùng Bồ tát, Thanh Văn ..v..v..
  • Cõi nước ta đương ở đây gọi là Ta Bà có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ.. Trái lại, bên cõi Cực lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.

    KHỒ Ở CÕI TA BÀ
  • Tam Khổ:
  • Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai nầy đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chồng thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét..v..v..
  • Hoại khổ: vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành, tang thương xây chuyển, như sương đầu cỏ.
  • Hành khổ: trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
  • Bát Khổ:
  • Sanh khổ: ở thai bào tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
  • Lão khổ: lụm cụm già nua, mắt mờ tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối dùn, mặt nhăn đần bạc..
  • Bệnh khổ: đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.
  • Tử khổ: ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút..
  • Cầu bất đắc khổ: lợi danh không toại, muốn phước trở mang họa, cầu thọ mà yểu vong..
  • Aùi biệt ly khổ: cốt nhục phân tán, sanh biệt tử ly.
  • Oán tắng tội khổ: oan gia, đối đầu, cừu thù gặp gỡ..
  • Ngũ ấm xí thạnh khổ: thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác.
  • VUI Ở CỰC LẠC
    Tam Lạc:
  • Lạc trung lạc: thân cùng độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khương kiện.
  • Bất biến hoại lạc: thân mạng trường tồn, cõi nước không thiêu diệt.
  • Bất động trí lạc: định huệ dung thông, chánh tri bất động.
  • Bát lạc:
  • Sanh Lạc: thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh..
  • Vô lão lạc: mãi mãi trẻ trung, không già không yếu.
  • Vô bịnh lạc: hằng hằng khương kiện, không bệnh, không đau yếu.
  • Vô tử lạc: thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt.
  • Toại nguyện lạc: tùy ý quả toại, y thưc tự nhiên.
  • Vô ái biệt ly lạc: bạn lành hải chúng, thân cận không rời..
  • Vô oán tắng hội lạc: thuần là Thượng-Thiện-Nhân, đồng tâm xứng ý..
  • Vô ngũ ấm sanh lạc: thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời..
  • Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cưc Lạc, vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta bà mà nguyện về chốn Cưc Lạc.
  • Bốn báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng ,bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, và mã não. Trong Quán Kinh nói: hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc..v..v.. hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly..v..v.. - Dầu bằng chất thất bửu chớ vẫn là cây sống, cũng như cây bên này bằng chất gỗ.
  • Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng nầy mà gọi thế, chớ chính thật cõi cực lạc thuần bằng chất vàng.. Tuyệt không có thứ đất bùn cát sỏi. - Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc:trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm thuần, êm đềm hòa huỡn, uống vào hết đói khát, và bổ khỏe thân tâm.
  • Người nước Cực Lạc đều có thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi trải qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy gẫm tưởng niệm những pháp lành. Phật, Pháp và Tăng. Đi kinh hành có hai điều lợi ích: (1) Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm loạn tưởng cùng biếng lười ngủ nghỉ, và (2) điều hoà thân thể, huyết khí lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
  • Tinh, tấn, niệm, định, huệ: người tu hành có năm đức nầy thời vững chắc trên đường đạonhư cây có rễ nên gọi là ngũ căn (cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể khuấy rối làm lay động được, thời năm đức trên gọi là ngũ lực (sức mạnh). Thất Bồ Đề Phần cũng gọi là Thất giác chi (7 đức giác ngộ) là Trạch pháp, Niệm, Tinh tấn, Hỉ, Khinh an, Định, và Xả. Bát Thánh Đạo Phần là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Ở trong cõi Ta bà nầy, những loài chim nhiếp thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thời khác hẳn, không phải là giống vật tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của đức A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
  • Đoạn nầy là đức Phật tự định danh nghĩa của ba đức A di Đà, vì có hai điều vô lượng: (1) Vô lượbg quang, (2) Vô lượng thọ, nên đức Phật bên nước Cực Lạc hiệu là a Di Đà.
  • A-bệ-bạt-trí (Phạn âm) Hán dịch là bất thối chuyển, vào bực này thời một mực đi trên đường Thánh thẳng đến thành Phật, không còn bị thối sụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cưc Lạc đều vào bực bất thối cả, trong hàng bất thối lại có vô số bậc nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát (vì Bồ tát chỉ còn là Bồ tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thời thành Phật, như hiện ay đức Di Lặc Bồ tát ở cung trời Đâu Suất nội viện là bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhứt sanh bổ xứ Bồ tát.
  • Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn phước đức rất lớn, đến khi lâm chung đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Aâm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát ..phóng quangđến rước, quyết định đặng sanh cõi Cưc Lạc. - Niệm Phật không còn móng tưởng gì khác, không có mảy may thinh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động gọi là nhứt tâm bất loạn.
  • Người tu Tịnh Độ phải có đủ ba điều: Tín 9tin thật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cưc Lạc) Trong ba điều nầy, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo, cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
  • Hằng hà sa số: là số cát sông Hằng. Sông Hằng là con sống lớn bên Thiên Trúc, nguồn từ dãy núi Hi Mã, chảy ngang xứ Thiên Trúc, đổ vào Aán Độ Dương. Lòng sông và hai bên bãi có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lớn quá nhiều thời mượn số cát trong sông Hằng mà nói.
  • Tướng lưỡi rộng dài biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới?
  • Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới [1 tiểu thế giới x 1.000 x 1.000 x 1.000 = Đại thiên thế giới].
  • Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà dịch là Kham khổ ngụ ý rằng trong cõi nầy có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn kham chịu được.


  • Ngũ Trựơc: (1) Kiếp trược: kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thời là thời đại đục nhơ. (2) Kiến trược: Những điêu mê chấp, tà kiến, điên đảo. (3) Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện như tham, sân, si, mạn bất tín. (4) Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ,) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng. (5) Mạng trược: Số thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. Bốn món trên đây tánh cách nhiễu nãi, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).
    MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
  • Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh.
  • Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dạy.
  • Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.
  • Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
  • Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo.
  • Giao tiếp đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.
  • Với người thì đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.
  • Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ.
  • Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.
  • Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa xả.

    BỞI VẬY ĐỨC PHẬT DẠY:
  • Lấy bệnh khổ làm thuốc thần
  • Lấy hoạn nạn làm giải thoát
  • Lấy khúc mắc làm thú vị
  • Lấy ma quân làm bạn đạo
  • Lấy khó khăn làm thích thú
  • Lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ
  • Lấy người chống đối làm nơi gia du
  • Coi thi ân như đôi dép bỏ
  • Lây sự xả lợi làm vinh hoa
  • Lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.

    Nên chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Đức Thế Tôn thực hiện tuệ giác bồ đề ngay trong sự trở ngại, như Ương -Quật hành hung, Đề-Bà quấy phá, mà Ngài giáo hóa cho thành đạo cả. Như vậy há không phải chính sự chống đối lại làm sự thuận lợi và sự phá hoại laị làm sự tác thành cho ta?
    Ngày nay, những người học đạo, trước hết không dấn mình vào trong mọi sự tri73 ngại, nên khi trở ngại áp đến thì không thể ứng phó. Chánh pháp chí thượng vì vậy mất hết, đáng tiếc đáng hận biết ngần nào!
    Luận Bảo Vương Tam Muội
    PHẬT NGÔN
    Sau khi ta nhập Niết bàn, các con hãy lấy Giới Luật của Ta làm Thầy. Giới Luật còn là Ta còn vậy.
    Kinh Đại Bát Niết Bàn
    Xin nguyện đem công đức ấn tống kinh này hồi hướng cho Nhứt Thiết Pháp Giới Chúng Sanh Đồng Văn Phật Giáo, Đồng Kiến Phật Kinh, Đồng Ngộ Phật Tâm, Đồng Thành Phật Đạo.
    Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.

  • [Thắp ba cây hương qùy ngay thẳng, 
    cầm hương ngang trán tưởng chú niệm bài cúng hương cầu nguyện]




    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Kính thưa chư liên hữu đồng tu. HT. Tịnh Không thường giảng rằng: “thấy người hiền ta phải bắt chước học theo. Thấy người làm thiện ta nên tùy hỷ tán thán công đức”. Chính vì thế, nhân dịp 1 chuyến đi Hộ Niệm xa tại tỉnh Daklak. Người viết tận mắt chứng kiến “người hiền – gia đình có 7 người con hiếu tử”. Cảm động trước tinh thần HIẾU ĐẠO CỦA 7 NGƯỜI CON. Người viết xin mạo muội viết lại đôi dòng suy nghĩ cảm tưởng của mình. Kính gởi đến chư vị bài viết về đạo lý NHÂN VĂN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI.
    GIA ĐÌNH CÓ 7 NGƯỜI CON HIẾU TỬ
    TRONG THỜI ĐẠI MỚI
    ____________________________________________

    Ngày nay, khi mà xã hội khoa học kỷ thuật ngày càng phát triển không ngừng. Thì nền NHÂN VĂN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI hình như ngày càng đi xuống. Khi mà tiền tài, danh vọng như một con Ma, một án mây đen đang len lỏi vào tâm thức con người để rồi phủ mờ đi ánh trăng lý trí. Họ đã quên đi công ơn sanh thành dưỡng dục 3 năm nhũ bộ 9 tháng cưu mang, để bảo vệ hình hài viên ngọc vô giá của người mẹ, cha. Họ quên đi tất cả lu mờ lý trí cũng chỉ vì đồng tiền, và rồi không 1 chút do dự họ đã cầm dao giết đi người mẹ, người cha đã sinh mình ra trên cuộc đời này (hiện nay những thông tin này phổ biến trên báo pháp luật rất nhiều).
    Xã hội như một vườn hoa đủ màu sắc, hương vị, mỗi gia đình là một bông hoa. Bên cạnh những bông hoa màu sắc không tươi đẹp, tất nhiên cũng có bông hoa màu sắc mùi hương tỏa ra thoang thoảng say đắm lòng người. Vâng! Trong xã hội này rất nhiều gia đình có phước lành sinh ra những người con hiếu thảo. Có thể tôi chưa nghe hoặc không biết đến những gia đình này. Vì thế, trong phạm trù bài viết nhỏ này tôi xin kể ra để cùng chia sẻ chư vị GIA ĐÌNH CÓ 7 NGƯỜI CON HIỂU TỬ.
    Vừa qua trong 1 chuyến đi Hộ Niệm xa, tại huyện Eah’leo tỉnh Daklak. Đó là gia đình của cô Phật tử NGUYỄN THỊ ĐINH LAN – PD SƠN HÒA và LÊ CÔNG TÂM. Cô sinh ra 5 người con 3 trai 2 gái cùng với 2 người con dâu. Cuộc sống khó khăn khổ cực nơi miền núi, cô và chồng hầu như làm tất cả mọi công việc để rồi chắc chiu từng đồng tiền ít ỏi nuôi 5 người con ăn học đại học, có người học đang học thạc sĩ. Hiện nay, hầu hết những người con này có được công việc ổn định làm trong Ngân hàng tại Tp.HCM. Cuộc sống đang ềm đềm phẳng lặng thì bỗng nhiên gia đình xảy ra sự buồn. Cô bị bệnh đưa vào bệnh viện bác sĩ khám nói cô bị ung thư đường ruột. Cô có người em rể là Trưởng Ban Hộ Niệm khuyên cô và gia đình nên đưa về nhà để Hộ Niệm. Thế là tôi lên Daklak để Hộ Niệm. Thời gian tôi ở để Cộng Tu Hộ Niệm là 16 ngày. Trong khoảng thời gian này tôi có dịp chứng kiến tinh thần chữ hiếu được thể hiện rõ nét hơn. Có thể lâu nay tôi chỉ đọc những bài viết nói về chữ hiếu qua sách báo. Hôm nay, mới có dịp thấy tận mắt. Tôi thường đi Hộ Niệm, và cũng có dịp đi nhiều nơi nhưng quả thật chưa có 1 gia đình nào để lại trong tôi nhiều ấn tượng đẹp như gia đình của cô NGUYỄN THỊ ĐINH LAN này. Có rất nhiều gia đình tôi đến Hộ Niệm thường thấy cảnh, các người con thường viện cớ lấy lý do là con bận đi làm, nếu nghỉ làm sẽ bị công ty đuổi. Thế là không chăm sóc cha, mẹ. Thậm chí, có những gia đình khi biết cha mẹ mình bị bệnh bỏ mặc không chăm sóc, để người mẹ của mình nằm trong 1 cái kho để đồ phế liệu. Còn rất nhiều rất nhiều những gia đình có những trường hợp gần giống như thế. Họ hầu như quên đi bổn phận của người con, tinh thần chữ hiếu.
    Riêng gia đình của cô NGUYỄN THỊ ĐINH LAN. Khi biết mẹ mình bị bệnh không thể nằm trong bệnh viện cần đưa về nhà để dưỡng bệnh và Hộ Niệm. 7 người con liền xin phép nghỉ làm. Thấy vậy tôi mới hỏi:
    - Con nghỉ làm vậy không sợ ngân hàng đuổi hay sao?
    Các người con đều nói: “ Dạ! Thưa không sợ. Đuổi thì mình tìm xin việc khác làm, thiếu gì việc làm. Chăm sóc mẹ bị bệnh mới là điều quan trọng”.
    Tôi có vài người bạn thân, nghe nói xin vào ngân hàng làm rất khó. Không phải chuyện dễ dàng. Vậy mà những người con này dám nghỉ. Đây là việc không phải những người con nào cũng làm được điều này. Rồi hằng ngày 7 người con thay phiên nhau chăm sóc người mẹ. Một ngày 2 lần vệ sinh lau rửa người mẹ đến 7 người con đều cùng làm. Họ làm một cách vui vẻ, hình như những người con này đang nghĩ rằng được chăm sóc làm vệ sinh cho người mà đã sinh ra mình đây là 1 điều diễm phúc, 1 ân huệ mà khó có được. Bên cạnh ngồi bên giường bệnh, niệm Phật cùng với người mẹ của mình 24/24. Có nhiều đêm khoảng 2, 3giờ sáng tôi thức giấc xem thử thế nào thì thấy chúng vẫn ngồi bên giường bệnh niệm Phật, canh nhìn người mẹ kính yêu ngủ. Đây là việc làm mà không phải gia đình nào cũng làm được. Tôi đi Hộ Niệm cho 1 gia đình nào đó cũng thường bảo những người con nên thay phiên ngồi bên giường bệnh vừa canh vừa vừa niệm Phật, để có vấn đề gì thì gọi điện thoại cho BHN ngay. Nhưng hầu như họ ngồi canh thì được, còn niệm Phật thì không niệm. Tôi hỏi họ thì họ bảo là ngại, hoặc có khi niệm cho qua lo, niệm cho lấy lệ.
    Mỗi lần Cô ho, hay cô đau nhứt vì căn bệnh ung thư hoành hành. Các người con rất lo âu, cuốn quýt lên, rối lên, các người con như đau thắt từng khúc ruột, tôi cảm nhận được điều đó thể hiện qua khuôn mặt của chúng. Tôi luôn nghĩ rằng từ bấy lâu nay mình cũng có hiếu cũng lo lắng cho người mẹ của mình nhiều lắm. Nhưng khi thấy 7 người con này chăm sóc lo lắng cho người mẹ. Tôi cảm thấy mình thua xa những người con hiếu tử này. Trong đoàn cùng đi Hộ Niệm ai ai cũng khen, gia đình thật có phước. Nhưng vấn đề gì cũng có nhân có quả. Mọi hiện tượng sự việc xảy ra trên cuộc đời này không ngoài đạo lý nhân quả. Chúng tôi nghe những người em, những bà con trong gia đình kể lại rằng là ngày xưa cô LAN này rất có hiếu với cha mẹ. Nên bây giờ sinh 5 người con ra người nào cũng có hiếu với cô. Ngay đến 2 người con dâu cũng rất mực hiếu thảo.
    Đến khi cô lâm chung, các người con này càng thể hiện lòng hiếu thảo của mình rõ rệt hơn. Hôm đó ngày mùng 2/7/ GN. Buổi sáng thấy cô ói ra máu BHN thấy nguy kịch nên đã bắt đầu niệm Phật, lạy Phật từ lúc 8g sáng đến khoảng 2g chiều thì cô trút hơi thở cuối cùng trong sự Hộ Niệm của BHN và gia đình. 7 người con này đã vì Mẹ mà lạy Phật cầu đức Từ phụ A DI ĐÀ PHẬT phóng quang tiếp dẫn Mẹ mình vãng sanh Tây phương Cực lạc. Các người con này lạy Phật xuyên suốt liên tục trong cuộc Hộ Niệm, tôi ít thấy họ nghỉ ngơi, ngủ nghỉ gì. Cuộc Hộ Niệm này từ lúc 8g sáng ngày 2/7 cho đến 5g chiều ngày 3/7. Tổng cộng cuộc Hộ Niệm là 33g. Thì các người con đã niệm Phật lạy Phật gần 30g (trừ thời gian ăn uống nghỉ ngơi chút ít). BHN có những thành viên lạy Phật cũng rất nhiều nhưng khi thấy những người con này lạy Phật cũng thán phục, hết lời khen ngợi. các thành viên BHN đều không hiểu vì sao họ có 1 năng lực, 1 sức mạnh, 1 ý chí kiên định dũng mạnh như thế. Phải chăng vì muốn trả chữ HIẾU. Khi biết mẹ mình được vãng sanh. Họ vui mừng khôn tả, những nụ cười tươi như xua tan hết những mệt nhọc của họ. Đây là thành quả đền đáp xứng đáng cho con những người con chí hiếu. Các người con nói “con thật sự muốn Mẹ vãng sanh hơn là bớt bệnh, bớt bệnh sợ mất phần vãng sanh”.
    Khi tẩn liệm, các người con này cũng chính tay mình lau rửa, mặc áo quần cho người Mẹ của mình và tự tay khiêng thân xác người Mẹ Kính yêu để vào áo quan tài, trong tiếng niệm Phật của chư vị đồng tu BHN. Các người con còn phát tâm ăn chay trong vòng 49 ngày, đang học thạc sĩ đang làm trong ngân hàng nhưng xin nghỉ làm để vào chùa làm công quả trong vòng 49 ngày để lấy công đức hồi hướng cho hương linh của người kính yêu. Nhằm giúp cho phẩm vị của Mẹ được nâng cao nhằm hoa sen trên cõi Tây phương mau nở thấy Phật Ngộ Vô Sanh.
    Thiên kinh vạn quyển, cổ thánh tiên hiền vị nào cũng đều khen “trăm điều thiện Hiếu đứng đầu”. Đại sư Liên Trì vị Tổ thứ 8 của Tịnh độ nói: “ Cha Mẹ được xa rời trần cấu, thì đạo làm con mới vẹn toàn” “xa trần cấu” ý của Tổ sư là “Cha Mẹ thoát khỏi lục đạo luân hồi vãng sanh Tây phương Cực lạc. Thì đạo làm con mới viên tròn chữ Hiếu”. Đức Phật thì dạy: “ Sinh ra thời không gặp Phật, thì khéo phụng dưỡng Cha Mẹ. Đó là Hiếu”.
    Tuy thời gian tôi ở cùng những người con Hiếu tử này chỉ 16 ngày, khoảng thời gian không lâu lắm nhưng tôi đã cảm nhận được phần nào tinh thần Hiếu Đạo của những người con này. Thật sự tôi khó có thể diễn tả hết sự cảm nhận của mình cho chư vị hiểu. Bởi vì, dân gian có câu “ ngôn ngữ trần gian là túi rách, đựng sao đầy 2 tiếng Mẹ yêu” cũng một danh nhân nói rằng: “trong một hoàn cảnh nào đó đôi khi ngôn ngữ biến thành những hình thức và cấu trúc chết cứng” không thể nào diễn tả hết cảm xúc của con người. Ví dụ các vị nói “Con Yêu Mẹ” tuy chỉ có 3 từ giản dị, mộc mạc nhưng chứa đựng biết bao tình cảm sâu thẳm của người con thương yêu Mẹ. Tôi quả quyết rằng cho dù chư vị có tốn bao nhiêu giấy mực cũng không thể nào diễn tả được thứ tình cảm “của một người con hiếu thảo dành tặng người Mẹ kính yêu” cho người khác hiểu được. Bởi thế đạo Phật có câu: “Như nhân ẩm thủy. Lãnh noãn tự tri” nghĩa là “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”.
    Vâng! Chính vì thế mà bản thân tôi cũng như chư vị đồng tu trong BHN đều có cùng chung 1 suy nghĩ, đó là: “ĐÂY LÀ 1 ĐẠI GIA ĐÌNH PHƯỚC ĐỨC NÊN CÓ 7 NGƯỜI CON HIẾU TỬ”
    ----------------------------------------
    Thưa chư liên hữu đồng tu. Đây là cuộc Hộ Niệm đặc biệt trong những cuộc Hộ Niệm từ trước đến nay. Đặc biệt bởi những điểm sau đây:
    1. Ca Hộ Niệm được cộng tu liên tục trong vòng 12 ngày ( mỗi ngày khoảng 5 tiếng, sáng - chiều - tối + phóng sanh mỗi ngày). Phật tử NGUYỄN THỊ ĐINH LAN – PD SƠN HÒA mới xả báo thân. Trong vòng 12 ngày cộng tu cùng BHN cô rất tinh tấn niệm Phật trước ngạc nhiên và hoan hỷ của BHN. Cô quyết lòng niệm Phật vãng sanh. Buông xả vạn duyên.
    2. Chiều ngày 30/6 vào lúc 4g. Cô ói ra máu, BHN và gia đình thấy vậy niệm Phật Hộ Niệm cho cô, cô niệm Phật liên tục từ 4g chiều đến 10g tối. thấy cô niệm Phật cũng lâu, sợ cô mệt nên BHN mới nói cô nghỉ 1 chút. Nhưng cô nói: “CON KHÔNG MỆT, CON SỢ NGỦ QUÊN RỒI PHẬT KHÔNG ĐẾN TIẾP DẪN”. BHN rất động phục trước tinh thần, ý chí, nghị lực kiên cường, sự quyết tâm vãng sanh về Tây phương của cô.
    3. Ông Chồng nói với Vợ là:
    Bây giờ Tui với Bà KHÔNG CÒN TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG nữa. Thay vào là TÌNH LIÊN HỮU ĐỒNG TU, TUI SẼ HỘ NIỆM ĐƯA TIỄN BÀ VỀ TÂY PHƯƠNG. Sau đó Bà nhớ cứu độ lại Tui cùng các con để gia đình mình cùng về Tây phương. Thế là ông Chồng nói bà Vợ mốc tay quéo HỨA.
    Các người con thì nói:
    Con muốn Mẹ con vãng sanh, chứ không muốn Mẹ con hết bệnh, Vì hết bệnh sợ Mẹ mất phần vãng sanh.
    Tuy là 2 Lời nói mộc mạc giản dị chất phát thật thà. Nhưng chứa đựng bao nhiêu thâm ý cao đẹp.
    1. Hộ Niệm 33 tiếng ( từ 08g sáng ngày mùng 2/7 – 5g chiều ngày 3/7). Cô niệm Phật cùng BHN và gia đình xuyên suốt từ 08g sáng đến 10g trưa. Bỗng nhiên cô nói với BHN: CÔ THẤY PHẬT A DI ĐÀ MỈM CƯỜI VỚI CÔ. Đến lúc 12g trưa, Lúc này cô mệt quá nên không niệm Phật nữa và nhắm đôi mắt lại nằm nghỉ ngơi (tuy rằng miệng không niệm Phật nữa nhưng tai cô vẫn nghe tiếng niệm Phật của BHN). Đến 2g chiều cô bắt đầu đưa hơi lên chuẩn bị trút hơi thở cuối cùng, BHN thấy vậy lấy hình đức PHẬT A DI ĐÀ đưa đến trước mặt cô, cô liền mở mắt nhìn và miệng cô nói câu gì đó....... nhưng rất tiếc là cô nói quá nhỏ nên BHN ko nghe rõ được là cô nói câu gì?
    5. Khi tẩn liệm và đưa HL vào áo quan đều diễn ra trong tiếng niệm Phật của BHN (khoảng 2 giờ) . Ngoài ra không đọc kinh hay chú gì khác?
    6. Trong thời gian 4 ngày từ ngày mùng 3/7 – 6/7 quàng tại nhà. Mỗi ngày BHN và gia đình cũng cộng tu niệm Phật khoảng 5 giờ (sáng - chiều - tối) để lấy công đức hồi hướng cho hương linh.
    7. Ngoài thời gian cộng tu 5 tiếng thì mở máy niệm A DI ĐÀ PHẬT liên tục 24/24. Không có tổ chức nhạc, kèn, trống.
    8. Ngày đưa quan tài ra nghĩa trang cũng diễn ra trong tiếng niệm Phật của BHN và gia đình từ nhà ra đến nghĩa trang. Đặc biệt, đêm trước khi đưa quan tài ra nghĩa trang trời mưa suốt đêm, mưa rất to – lớn. Ai cũng lo lắng sợ rằng sáng mai trời mưa như thế rất khó cho BHN và gia đình niệm Phật ra đến nghĩa trang. Nhưng điều bất ngờ xảy ra sáng hôm sau trời tạnh mưa, khô ráo. Nhưng đến khi đưa quan tài xuống huyệt thì trời đổ mưa to.
    9. Trong thời gian từ khi bắt đầu Cộng Tu Hộ Niệm cho đến khi Lo xong Hậu sự là 16 ngày. Gia đình đều ăn chay trường. Trong vòng 49 ngày các người con hứa sẽ cố gắng ăn chay trường, có người còn vô chùa vừa tu tập vừa làm công quả để lấy công đức hồi hướng cho Mẹ.
    10. Tiền phúng điếu có bao nhiêu các người con đều đem đi cúng dường chùa, ấn tống tượng Phật, phóng sanh. không giữ lại 1 đồng riêng nào cho gia đình. Tiền lo Hậu sự là tự gia đình anh chị em bỏ tiền riêng của bản thân.
    blank
    Gia Đình 7 Người Con Hiếu Tử.

    No comments:

    Post a Comment