Tuesday, September 6, 2016

BÓNG NGÀY QUA - QUÁCH TẤN


http://downloadsach.com/danh-nhan/ma-toi-trich-hoi-ky-bong-ngay-qua.html
Nhỏ thó, song thân vóc cân đối, thanh bai. Nước da trắng mịn. Tóc đen như huyền và dài chấm gót; mỗi lần gội phải đứng trên giường chải và hong cho khô. Thầy tôi bảo rằng lúc chải đầu, má tôi giống khóm liễu buông tơ trong bộ chén Mã-liễu của ông nội.
Má tôi là người có học, lúc nhỏ lại ở cùng bà ngoại tại An Thái là nơi thị tứ, cho nên từ ngôn ngữ, cử chỉ cho đến cách phục sức đều đoan trang thanh lịch. Ðoan trang thanh lịch chớ không kiểu cách xa hoa như phần đông con cái nhà phú trưởng giả chốn thị thành thời bấy giờ. Do đó, từ trong gia đình đến ngoài lân lý, ai nấy cũng thương yêu muốn làm thân. Dì hương Bỗng ở Xuân Hoà, mỗi lần về Trường Ðịnh thì trước hết chạy đi tìm má tôi. Và dì phó tổng Ninh ở Ðại Bình, “đi đâu cũng ghé vào nhà nói chuyện giây lát” 1. Bà Hay, bà Thi, bà Chiểu, bà Trét, bà tùng Dĩnh, bà Yên… ở trong thôn, tối nào cũng đến nhà chơi và làm dùm công việc… Bà Xã Cả (thân sinh cậu chánh Trần Trác, cậu tú Khương và dì hương Bỗng) mỗi lần gặp má tôi, đều cười:
– Thấy mầy, dù bận công bận việc đến đâu, tao cũng phải ngó.
Mợ tú Khương thường nói cùng chị em:
– Cùng một lứa tuổi mà bọn mình đứa nào cũng đã thành “đùm mắm nêm” cả (2) Chỉ có cô thông có bốn năm mặt con rồi mà vẫn còn mướt như mụt măng!
Mợ chánh Trác nghe mợ tú khen, không thích, nói:
– Người ta ăn ở không, chân giày chân dép. Còn mình rau heo, cháo chó, phơi lúa giã gạo, đầu tắt mặt tối, mà cũng bì.
……….

Ở nhà quê thời bấy giờ sách in rất hiếm. Những sách học như Ngũ kinh Tứ thư, Sử ký… mà cũng ít nhà có được trọn bộ. Nhà họ Trần có tủ, song sử thì chỉ có Hán sử và Tống sử là hai bộ sử cần thiết cho học trò đi thi. Má tôi mua được một bộ Nam sử, và mượn của ông nội tôi bộ Tây Sơn dã sử. Khi dạy chúng tôi thường đem sự tích nước nhà ra làm ví dụ. Một hôm nói về tình hình anh em, má trách vua Quang Trung sao nỡ đem quân về vây đánh vua Thái Ðức. Thầy tôi cười:
– Vua Quang Trung dựng nên sự nghiệp nghìn thu là do hai trận dẹp quân cướp nước là Xiêm La và Trung Quốc. Còn sự nghiệp vua Thái Ðức chỉ có nhất thời. Nếu không có vua Quang Trung đem quân vây Hoàng Ðế thành thì làm gì có được một lời nói bất hủ:
– Bì oa chử nhục, đệ tâm hà nhẫn.
Má không đáp, chỉ mượn ý câu “bì oa…” mà ngâm:
– Lỗi lầm anh vẫn là anh
Nồi da nấu thịt sao đành hỡi em ?!
Thầy nghe, cảm động ứa nước mắt.
Và lời ngâm của má tôi, giọt nước mắt của thầy tôi thấm sâu vào lòng anh em chúng tôi từ lúc nhỏ 4.
** *
Má tôi tuy rất thông Hán văn và chữ quốc ngữ không học, chỉ nghe thầy tôi dạy học trò, mà đọc được viết được rành rẽ. Song dạy con chỉ dạy cách làm người, còn chữ nghĩa thì phó thác cho thầy học.
Gặp trường hợp nào dạy con được là má chụp ngay để dạy.
Một hôm tôi làm được một chiếc ná cao su rất đẹp, lượm sạn toan đi bắn chim. Má tôi trông thấy hỏi tôi:
– Khi má đi đâu lâu về con có trông chăng?
Tôi không hiểu ý má tôi muốn dạy tôi điều gì, nghe hỏi liền thưa:
– Hôm trước má lên thăm ông nội, tối không về, chúng con nhớ ngủ không được; chốc chốc mở cửa ra đứng trông.
Má cười:
– Chim con cũng như các con. Chúng thương mẹ chúng lắm. Con bắn chết mẹ chúng, chúng làm sao sống?
Chúng tôi cảm động ứa nước mắt. Từ ấy không còn muốn bắn chim và bắt ổ chim nữa.
Trước nhà thờ trong vườn tôi có mấy cây lựu, chim sâu thường đến lót ổ để đẻ. Nhớ lời má, chúng tôi chẳng những không dám phá, mà còn thay phiên nhau canh không để cho lũ trẻ láng giềng đến bắt trộm.
Chim sâu đến lót ổ nơi cây lựu nhà thờ đó có ba giống. Một giống rằn ri, một giống xanh lá mạ và một giống lưng xám, ức đỏ; mỏ và chân vừa dài vừa đen nhánh. Mỗi giống một cặp. Hai cặp trước lót ổ dính sát trên cành như ổ chim thường và lót trên cao. Cặp áo xám lót ổ như ổ dồng dộc treo lòng thòng ngay ở trước cửa nhà thờ, vừa tay với. Thấy anh em tôi tới lui thường mà không có ý phá hại chúng, nên chúng không sợ hãi, tha mồi về đút cho con một cách tự nhiên. Chúng tôi đứng nhìn chúng, trong lòng vui thích lạ thường!
Chúng tôi sợ mất ổ chim áo xám lắm, nên luôn luôn chạy ra thăm chừng và ngõ luôn luôn khép, nhất là lúc chim sắp đi chuyền.
Một hôm đi học về, tôi chạy ra nhà thờ thì ổ chim áo xám mất, em tôi lại không có ở nhà, ngõ bỏ trống… Tôi tức giận chạy đi kiếm em về, xẳng giọng hỏi:
– Ổ chim đâu?
Em tôi mặt tái mét, vừa nói vừa mếu máo khóc:
– Em không biết. Má dặn không nên phá ổ chim. Em không có phá.
Trước mặt thì em run sợ, trên cành thì đôi chim sâu nhảy qua nhảy lại kêu thảm thiết, lòng giận của tôi đổi thành lòng thương. Tôi bưng mặt khóc. Em tôi cũng khóc theo, rồi lại một bên tôi nói:
– Em không phá. Anh đừng thưa với má đánh em…
Tôi lau nước mắt, dắt em tôi vào nhà. Ðôi chim sâu kêu hồi lâu rồi bay đi mất. Từ ấy không trở lại… Nhưng hình ảnh của đôi chim và cảnh tượng khi mất ổ chim vẫn còn mãi trong tâm khảm tôi. Ðã gần năm mươi năm nay rồi mà vẫn còn phảng phất…

><><


Thơ Về 

Giấc mộng nghìn xưa đương mải mê, 
Vùng nghe cảm hứng báo thơ về. 
Sóng mài nghiên biển ngòi non chấm,....... 
Gió trải tà mây chữ nhạn đề. 
Vồn vã tiếng dương ngâm lại đọc, 
Rỡ ràng sắc rớn điểm rồi phê. 
Tứ tràn ra mãi trong cao rộng... 
Thiên nữ bưng hoa rắc xuống tề. 

Quách Tấn 


Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu 

Từ ô y hạng rủ rê sang, 
Bóng lẩn đêm thâu tiếng rộn ràng... 
Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng 
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng. 
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc, 
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng. 
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi, 
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang 

Quách Tấn 


Dưới Liễu Chờ Xuân 

Tin Xuân gió rải khắp nơi nơi, 
Dưới liễu chờ Xuân gắng gượng cười. 
Bạn khắp non sông mà vắng vẻ 
Tình trong gang tấc vẫn xa xôi ! 
Thân gầy với nguyệt bao phân nữa ? 
Tóc rụng theo sương mấy lớp rồi ! 
Giòng cũ Ngân Hà sâu bến đợi, 
Muốn đem sầu gởi nước trôi xuôi... 

Quách Tấn 


Cảm Thu 

Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu, 
Ðây lòng ta đó một trời thu. 
Gió vàng cợt sóng sông chau mặt 
Mây trắng vờn cây núi bạc đầu. 
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đấy, 
Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu ? 
Hỡi người chinh phụ nương rèm liễu, 
Sùi sụt chi thêm bận vó câu. 

Quách Tấn 

Trời Ðông 

Chuông gióng Hàn San bẵng tiếng ngân, 
Ngàn xa tiếng địch cũng xa dần... 
Lá thương nhánh nặng bay hầu hết, 
Trời sợ non côi xích xuống gần 
Ngần ngại gió mưa chim ẩn bóng 
Quây quần mây khói liễu riêng xuân 
Ðêm như dài lắm... người Vân Hớn, 
Trong giấc thăm nhau được mấy lần 

Quách Tấn 


Trời Khuya 

Sương buông màn lượt phủ bao la 
Non nước chìm sâu trong giấc mơ. 
Cung quế im lìm mây ấp nguyệt, 
Song đào âu yếm gió hôn hoa. 
Hương trà pha lẫn hương trầm thoảng 
Tiếng dế hòa ăn tiếng địch xa. 
Lẳng lặng thâu đêm người đối cảnh, 
Hồn tan theo mộng tứ theo thơ. 

Quách Tấn 


Gió Khuya 

Ngọn gió muôn xa đưa đẩy vào 
Nửa phòng mây rộng một trăng cao. 
Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu 
Hương chập chờn bay khóm trúc đào. 
Vàng ngọc nhảy reo câu khiển hứng, 
Non sông huyền hoặc sắc chiêm bao. 
Lòng chan chứa biết bao cay đắng, 
Tan sạch còn lưa chút ngọt ngào. 

Quách Tấn 


Mộng Thấy Hàn Mặc Tử 

ÔỊ Lệ Thanh ! Ôi Lệ Thanh ! 
Một giấc trưa nay lại gặp mình. 
Nhan sắc châu pha màu phú quí, 
Tài ba bút trổ nét tinh anh. 
Rượu tàn thu cũ say sưa chuyện, 
Hương tạ trời cao bát ngát tình. 
Tôi khóc , tôi cười vang cả mộng... 
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành 

Quách Tấn 


Trơ Trọi 

Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ ! 
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ ! 
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ, 
Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ ! 
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng, 
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ... 
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại ? 
Con thước qua song lại ỏm ờ ! 

Quách Tấn 


Hiu Quạnh 

Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi, 
Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi ! 
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp, 
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi ! 
Lá rắc thêm sầu rơi gió một, 
Chim đành riêng thú liệng trời đôi. 
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh, 
Cúc nở nhìn nhau mỉm miệng cười. 

Quách Tấn 


Nhắn Ai 

Thềm xuân mấy lượt lệ hoa rơi, 
Mấy lượt mưa thu liễu rối bời ! 
Nhớ chập chồng non mây sớm tối, 
Tình lai láng biển nước đầy với. 
Chiêm bao lẩn quẩn trăng dầm gối, 
Tin tức nôn nao nhạn lạc trời. 
Gương nhạt cảnh đời chung tấc bóng, 
Tâm hồn riêng gởi nước non ai. 

L.T. và Q.T 


Lại Nhắn Ai 

Còi xe đêm trước lọt rèm xưa, 
Tin gởi vào ai đã đến chưa ? 
Tỉnh mộng nằm ôm tràng mộng cũ, 
Mong thơ lần giở xấp thơ xưa... 
Cỏ sương rung động niềm thương nhớ, 
Mây nước nôn nao ý đợi chờ. 
Lơ đễnh bên người ôm mặt khóc, 
Hỏi tra duyên cớ, ngại ngùng thưa. 

T.T. và Q.T 


Chiều Xuân 

Chim mang về tổ bóng hoàng hôn, 
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn. 
Cành gió hương xao hoa tỉ muội, 
Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn. 
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng, 
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn. 
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá! 
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn. 

Quách Tấn 

Ðêm Mơ 

Thuyền ai neo nguyệt bến sông Ngân, 
Khúc nhạc giao bôi rót xuống trần 
Sương bạc vấn vương lòng quả phụ, 
Trúc vàng tha thướt bóng giai nhân. 
Hồ im vẻ ngọc mơ duyên lá, 
Sân vén rèm hoa đón ý xuân. 
Muôn dặm gió về say lảo đảo, 
Cành hương chợt tỉnh ngát hương lân. 

Quách Tấn 

Thi Nại Hoài Cổ 

Thi Nại xưa kia vũng chiến trường, 
Nổi chìm thế sự mấy sao sương ? 
Non cao còn thoáng hơi binh dữ, 
Biển thẳm chưa phai sắc máu hường. 
Gành Ráng sóng vờn gương đế bá, 
Phương Mai rừng đắp vết tang thương. 
Bùi ngùi ngắm cảnh quay trông lại, 
Lớp lớp xa ai rộn phố phường. 

1932 
Quách Tấn 


Về Thăm Nhà Cảm Tác 

Quê người nương náu bấy nhiêu lâu, 
Vườn cũ về thăm cảnh dãi dầu ! 
Trống trải ba gian nhà nhện choán, 
Ngửa nghiêng bốn mặt dậu bìm leo ! 
Cội tùng bóng ngả sương rơi lệ ! 
Ngõ trúc mây che quốc giục sầu. 
Lẳng lặng bên thềm ôn chuyện cũ... 
Giật mình ngỡ đến chốn nào đâu ! 

Quách Tấn 
1932 


Đêm Xuân 

Lơ lửng từng mây vọng tiếng tơ, 
Ðêm trong như kính dịu thu mờ. 
Phấn sương điểm má đào thơ thớ, 
Gương nước soi mày liễu nhởn nhơ. 
Mượn lược nường trăng soi chải tóc, 
Khai tình chị gió lá đề thơ. 
Bồng lai một giấc muôn năm cũ, 
Mơ ước chi cho bướm phỉnh phờ 

Quách Tấn 


Ông Thích Chi 

Người hỏi: bình sinh ông thích chi ? 
Hoa thơm gái lịch với thơ hay. 
Sống trăm năm đó chơi cho thú, 
Chết một lần thôi sợ quái gì . 
Chúa Phật hầu non: Nguyễn Uy Viễn, 
Non tiên rêu biếc: Tràn Hy Di. 
Chị em thương tớ đừng khuyên tớ... 
Lúc hứng trời xanh bé tỉ ti . 

Quách Tấn 


Chút Lòng 

Từ phen biển mộng khép trăng song, 
Nửa mẫu vườn quê tạm náu lòng. 
Ði đứng luống thương đường lối hẹp, 
Ăn nằm dám phụ nước non chung. 
Mười phương tin tức mây hờ hững, 
Ba kiếp văn chương bút ngại ngùng! 
Bạn tác ví thương tình gặp gỡ, 
Ðừng đem mây ráng đọ nghi dung. 

Quách Tấn 


Qua Xuân 

Ðôi tiếng chim vàng nghe chửa nhuyễn, 
Nhìn xuân bóng ngựa đã xa lơ...! 
Biết bao tươi thắm sai hò hẹn, 
Còn chút thơm thanh dám hững hờ. 
Cánh phấn ấp iu cành nhả kén, 
Nhụy hồng dan díu nhện trương tơ. 
Một mai trăng chở thu về cúc, 
Rèm cuốn sương hương tỏa lững lờ. 

Quách Tấn 


Bóng Giai Nhân 


Sen vàng từ độ cách trùng dương, 
Ðâu nửa ? Khi xuân đón hải đường. 
Nắng gợn ly đào son hé ngọc, 
Gió nâng tà lụa tuyết vương hương... 
Bồi hồi trăng nước say cơn mộng, 
Thao thức cầm thi lạnh ải sương. 
Thoảng cánh buồm mây nương ráng lại, 
Lòng thu vời vợi sóng tiêu tương 

Quách Tấn 


Lại Tản Cư 

Vừa mới hồi cư đã tản cư ! 
Vận nhà vận nước biết nên hư ? 
Máu xương chiến đấu thương đà lắm, 
Nanh vuốt xâm lăng giận chửa trừ ! 
Vườn cũ tả tơi trời tháng chạp, 
Ðường khuya khấp khểnh nguyệt canh tư. 
Gió sương chếch chóng hồn ly loạn, 
Ước nguyện bình sinh nửa có như ? 

Trường Ðịnh 1947 
Quách Tấn 


Lánh Cư 

Khôn tới đào nguyên tránh loạn ly, 
Thôn côi nương náu tạm qua thì. 
Mây trưa mống xế chung thời tiết, 
Rẩy mít vướng thơm ít thị phi. 
Phòng vắng ngẩn ngơ hồn Tử Mỹ 
Ngày dài gượng gạo giấc Hy Di. 
Ðem đêm nằm đợi canh gà giục, 
Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri. 

Phú Ân 1947 
Quách Tấn 


Nhớ Tản Ðà 

Ðà Giang từ độ rụng văn tinh, 
Tản Lĩnh đìu hiu rọi bóng mình. 
Móng đỏ in sâu lòng tuyết trắng, 
Tơ vàng mang nặng nợ dâu xanh. 
Hàm Rồng nắm cỏ chưa tròn mộng, 
Khê Thượng nguồn thơ luống quăn tình. 
Chén rượu đêm nay nồng nã nhớ, 
Hồn ai lai láng ánh trăng thanh 

Phú Phong 1949 
Quách Tấn 


Lại Bị An Trí 

Vườn quê hẩm hút thú ăn làm 
Mỗi bận nghi tình mỗi bắt giam ! 
Năm nắng mười mưa thân đã dạn, 
Ba cha bảy mẹ phận đành cam. 
Lạnh lùng tiếng ngựa run cơn bấc ! 
Da diết lòng chim vọng nhành nam. 
Lắm lúc thẫn thờ ven nẻo mộng, 
Trời cao bể rộng giọt sương lam. 

Phú Nhiêu 1953 
Quách Tấn 


Bước Cùng 

Năm ngoái năm nay gặp bước cùng, 
Lỡ bề gánh xách lỡ bề bưng ! 
Văn xưa dạy học trườn bôn thải, 
Sức yếu làm thuê thế chẳng dùng. 
Thân thích khó nhờ, sơ khó cậy, 
Ruộng nương thì có, lúa thì không !! 
Ngày mùa đành vẫn ăn cơm ghé, 
Cha nhịn con ăn vợ nhịn chồng. 

Phú Phong 1953 
Quách Tấn 


Trời Chiều 

Năm lụn ngày qua thân mỏi mòn 
Buồn trông thoi thóp ráng đầu non... 
Ấm no trước đã không cha mẹ, 
Thiếu hụt rày thêm khổ vợ con ! 
Lặng lẽ mây trôi làn viễn vọng. 
Ngập ngừng sương úa giọt hoàng hôn. 
Trăng non một mảnh tình lưu luyến... 
Người có như trăng khuyết để tròn ? 

Phú Phong 1953 
Quách Tấn 


Xí Xóa 

Bóng dâu đã xế mái đầu xanh, 
Mà việc chi chi cũng chửa thành ! 
Tình nghĩa thoảng qua cơn huyễn mộng, 
Văn chương rớt lại chút hư danh ! 
Chừ đây mới biết vàng là quí 
Năm ngoái còn mua sách để dành ! 
Phải quấy sự đời thôi xí xóa, 
Kìa đoàn con trẻ nhịp đồng thanh... 

Phú Phong 1954 
Quách Tấn 


LỊU ĐỊU*. 

Áo giũ ngày sương gió 
Lên chùa thăm cố nhân 
Non nghiêng thềm nắng xế 
Lịu địu bóng nhàn vân. 

TÌNH CỐ NHÂN. 

Mây nước nhiễm phong trần 
Nơi đâu tình cố nhân 
Những đêm buồn tĩnh giấc 
Chùa cũ tiếng chuông ngân. 

THÂM U. 

Thoảng tiếng chuông chùa vọng 
Bóng đèn khuya runh rinh 
Nao nao lòng giếng quạnh 
Hơi thu tràn hư linh. 

ÂM BA. 

Sương xuống hồi chuông lặng 
Dư âm tràn hư không 
Lửng lơ vàng gợi sóng 
Trăng hồ thu mênh mông. 

Quách Tấn. 
*bài Lịu Địu ông làm khi lên chùa Hải Đức/ Nha Trang, hay Phạm Công Thiên đã rời chùa vào Sài gòn không biết bao giờ trở lại.

No comments:

Post a Comment