Saturday, January 7, 2017

TÍCH NHÂN DUYÊN



<<<
Thuở xưa vua Liên Hoa Thật vào thành Vương Xá khất thực. Lúc đi vào cổng thành, ngài bị một con trâu cái vừa mới sinh húc chết. Do hoảng sợ và xấu hổ, ông chủ trâu bán nó cho người khác. Đương lúc kẻ kia định dắt trâu cho uống nước, nó từ đằng sau húc chết chủ nhân. Đứa con của người chủ kia vì quá tức giận nên lôi trâu đi giết và lấy thịt của nó đến chợ bán. Lúc ấy có một gã nông phu mua được cái đầu trâu và vác trên vai mang về. Khoảng hơn một dặm nữa thì tới nhà, hắn treo cái đầu trâu trên nhánh cây và ngồi ở dưới nghỉ ngơi. Chỉ chốc lát thì dây đứt, đầu trâu rơi xuống và sừng của nó đâm trúng kẻ đó nên hắn lập tức thiệt mạng.

Chỉ trong một ngày mà con trâu đó đã giết chết ba người. Khi việc ấy truyền đến vua Ảnh Thắng, ngài kinh ngạc và lấy làm lạ. Ngài cùng với các quần thần liền đi đến chỗ của Phật. Lúc đến nơi, họ đỉnh lễ rồi ngồi xuống.

Kế đến, nhà vua chắp tay và thưa với Phật rằng:

"Thật quái lạ, thưa Thế Tôn! Chỉ có một con trâu cái mà đã giết chết tới ba mạng người. Việc này chắc phải có nhân duyên. Con muốn được nghe Phật nói."

Phật bảo vua Ảnh Thắng:

"Tội báo đều có nguyên nhân. Chẳng phải bây giờ mới xảy ra đâu."

Nhà vua thưa rằng:

"Xin Ngài hãy kể rõ nguyên do."

Đức Phật bảo:

"Thuở xưa có ba thương gia đi đến nước khác kiếm sống. Họ đã ở trọ nhà của một bà lão cô độc. Lẽ ra phải trả tiền thuê nhà, song thấy bà lão đơn côi nên họ khinh miệt và chẳng muốn đưa tiền. Đợi lúc bà lão không có ở nhà, họ âm thầm bỏ đi và chẳng hề trả một xu nào. Khi về đến nhà, do không thấy các thương gia ở đâu nên bà lão liền hỏi những người xung quanh, và họ đều bảo là đã đi rồi. Bà lão nổi giận và đuổi theo ở phía sau đến gần như kiệt sức mới kịp. Rồi bà hỏi vặn tiền thuê nhà.

Trái lại, ba thương gia kia lại mắng chửi rằng:

"Trước đó chúng tôi đã đưa cho bà rồi mà. Sao giờ còn đòi nữa hả?"

Họ cùng nhau chối cãi và không chịu trả tiền. Bà lão côi cút một mình nên chẳng thể làm gì hơn.

Bởi đau buồn tột độ, bà lão đã nguyền rủa ba thương gia đó rằng:

"Lão nay đã nghèo xơ xác, vậy mà bọn ngươi còn nhẫn tâm lừa gạt. Ở mọi nơi sinh ra vào đời sau, nếu để ta bắt gặp, ta thề sẽ giết chết bọn ngươi. Dẫu cho đắc Đạo đi nữa thì ta cũng chẳng bỏ qua. Ta thề giết chết bọn ngươi mới thôi--mãi mãi không bao giờ tha!"

Phật bảo vua Ảnh Thắng:

"Bà lão thuở ấy, nay chính là con trâu cái đó. Còn ba thương gia, nay chính là vua Liên Hoa Thật và hai người kia; hai người bị trâu húc chết và một người bị sừng của nó đâm chết."

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

"Mắng chửi nói lời ác
Kiêu ngạo khinh miệt người
Dấy khởi việc ác này
Oán hận càng sinh thêm

Thuận ngôn lời khiêm tốn
Tôn trọng kính mến người
Nhẫn ác trừ phiền não
Oán hận tự diệt tan

Lòng ác ai luôn giữ
Như rìu ở trong miệng
Cho nên tự trảm thân
Do bởi nói lời ác"

Khi Phật nói lời ấy xong, vua Ảnh Thắng và quần thần, không ai là chẳng cung kính. Tất cả đều nguyện làm lành. Sau đó, họ đỉnh lễ Phật rồi cáo lui.

<<<<
http://daitangkinh.net/?f=Kinh-Phap-Cu-Thi-Du/1#c7
Thuở xưa có một nước lớn ở tại vùng biên giới. Vua của nước này tên là Hòa Mặc. Bởi chưa từng thấy Tam Bảo cùng với sự giáo hóa vi diệu của thánh nhân, vị quốc vương này phụng sự Phạm Chí và yêu tà của ngoại đạo. Toàn dân trong nước đều theo tà pháp, sát sinh cúng tế và cho đó là lẽ thường.

Bấy giờ mẹ của nhà vua lâm bệnh và nằm liệt trên giường. Tuy nhà vua đã sai ngự y đến chữa trị nhưng thuốc thang đều vô hiệu. Nhà vua lại sai người đến các bà đồng cốt để thỉnh cầu. Trải qua nhiều năm nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm.

Sau đó, nhà vua lại triệu tập 200 Phạm Chí trong nước. Ngài mời họ vào cung, thỉnh ngồi, rồi dọn ẩm thực để cúng dường.

Sau đó nhà vua nói với họ rằng:

"Mẹ của trẫm đã bệnh nặng rất lâu, song vẫn không biết vì sao mà chẳng lành. Các khanh đây đều là những bậc tài trí, thông hiểu tướng số, và tinh tú trong trời đất. Các khanh cứ nói rõ nguyên nhân bệnh tình cho trẫm biết.

Các Phạm Chí tâu rằng:

"Tâu đại vương! Đó là bởi tinh tú đảo lộn, âm dương bất điều. Cho nên mới khiến cho thái hậu bệnh nặng như thế."

Nhà vua hỏi rằng:

"Vậy trẫm phải làm sao mới khiến thái hậu lành bệnh?"

Các Phạm Chí tâu rằng:

"Tâu đại vương! Tại chỗ đất trống sạch sẽ ở ngoài thành, ngài hãy cử hành lễ tế đàn cho các vị thần nhật nguyệt tinh tú và tứ sơn ngũ nhạc. Trong lễ tế đàn này cần phải có 100 cái đầu của các loài súc vật và phải giết một đứa con nít để tế trời. Đại vương cũng phải tự mình dẫn thái hậu đến nơi đó, hãy quỳ lạy và cầu xin thì sau đó mới lành."

Nhà vua liền nghe theo lời của các Phạm Chí và sai người chuẩn bị. Họ bắt một đứa con nít và lùa các súc vật đến chỗ tế đàn, nào là voi, ngựa, bò, dê. Trên đường đi, cả người lẫn thú kêu la thảm thiết và làm chấn động trời đất. Chúng từ cổng thành phía đông ra khỏi và bị lùa đến chỗ tế đàn, rồi sẽ bị giết để tế trời.

Khi ấy với lòng đại từ, Thế Tôn muốn rộng độ chúng sinh. Ngài cũng vì thương xót vị quốc vương này đã quá ngu si mê muội. Tại sao chỉ vì muốn cứu một người mà khởi lòng ác, rồi đi giết mạng sống của những chúng sinh khác?

Lúc bấy giờ Thế Tôn dẫn theo đại chúng và đi đến nước kia. Trên đường đến cửa thành phía đông, Đức Phật gặp quốc vương của nước này và các Phạm Chí. Họ đang ra lệnh cho lùa một bầy súc vật với tiếng kêu la thảm thiết từ cổng thành đi ra. Từ nơi xa, nhà vua thấy Đức Phật như mặt trời mọc và như ánh trăng rằm, quang minh tướng hảo chói lòa và chiếu sáng rực rỡ khắp đất trời. Khi nhân dân thấy Phật, không ai là chẳng cung kính. Còn đứa trẻ và các súc vật bị lùa đi cúng tế, chúng đều mong thoát khỏi.

Nhà vua liền tiến về phía trước, rồi xuống xe và bảo kẻ hầu cầm lọng lui ra. Sau đó ngài đỉnh lễ Phật, hai gối quỳ, chắp tay và thăm hỏi Thế Tôn. Phật bảo nhà vua hãy an tọa, rồi hỏi nhà vua muốn đi đâu.

Lúc đó nhà vua chắp tay và thưa rằng:

"Thưa đại thánh! Quốc thái phu nhân lâm bệnh đã lâu. Con đã cho mời mọi danh y và cầu xin quỷ thần, song đều chẳng trị lành. Bây giờ con muốn đi cúng tế các vị thần nhật nguyệt tinh tú và tứ sơn ngũ nhạc để ngỏ hầu mẹ sẽ bình phục."

Phật bảo nhà vua rằng:

"Hãy lắng nghe lời Ta nói.

- Nếu muốn được lúa gạo thì hãy đi trồng trọt.
- Nếu muốn được giàu sang thì hãy làm bố thí.
- Nếu muốn được sống lâu thì hãy tu lòng từ.
- Nếu muốn được trí tuệ thì hãy siêng học tập.

Nếu ai thực hành bốn việc này thì sẽ tùy theo điều làm của họ mà được kết quả. Người phú quý thì không ham thức ăn của kẻ bần tiện. Chư thiên có cung điện bảy báu, y phục và thức ăn tự nhiên hiện ra. Há có lý nào họ lại bỏ thức ăn cam lộ cõi trời mà đến dùng thức ăn thô kệch và dơ bẩn của nhân gian hay sao? Những kẻ dâm loạn, hoặc tin theo tà đạo cúng tế, lấy tà cho là chính, hoặc sát sinh để sinh sống, thì họ cách xa Đạo thăm thẳm. Chỉ vì muốn cứu một mạng người mà đi giết hại biết bao chúng sinh khác, thử hỏi việc đó sẽ mang lại an lạc chăng?"

Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

"Dẫu ai trọn suốt đời
Phụng thờ khắp thần linh
Voi ngựa mang tế trời
Chẳng bằng hành từ bi"

Lúc nói kệ xong, Phật liền phóng quang minh chiếu sáng khắp đất trời. Các chúng sinh ở ba đường ác và chốn tám nạn, không ai là chẳng hoan hỷ. Tùy theo xứ sở của họ mà ai nấy đều được lợi ích. Khi nghe diệu Pháp và lại thấy quang minh, vua Hòa Mặc vui mừng khôn xiết và liền thấy dấu Đạo. Mẹ của nhà vua do nghe được Pháp nên tình thức của năm căn hòa vui và bệnh cũng tiêu trừ. Khi thấy quang minh tướng hảo của Phật và lại một lần nữa nghe được lời dạy của Ngài, 200 Phạm Chí sinh lòng hổ thẹn, sám hối lỗi lầm, và xin làm đệ tử của Phật. Đức Phật liền thu nhận. Họ đều trở thành Đạo Nhân và ai nấy được như sở nguyện.

Bấy giờ nhà vua cùng các đại thần thỉnh Phật cúng dường đến trọn một tháng. Kể từ đó, do nhà vua dùng Chính Pháp trị quốc nên đất nước hưng thịnh thái bình.
>>>
http://daitangkinh.net/?f=Kinh-Phap-Cu-Thi-Du/1

Thuở xưa, khi năm đức trời của Năng Thiên Đế lìa khỏi thân [và xuất hiện năm tướng suy], ngài tự biết thọ mạng sắp hết, rồi sẽ sinh xuống thế gian và thác vào thai của một con lừa ở trong nhà của một người thợ gốm. Năm tướng suy là những gì?
1. ánh sáng nơi thân diệt mất
2. hoa báu trên đầu héo úa
3. không thích ngồi yên ở tòa báu
4. dưới hai nách chảy mồ hôi và bốc mùi
5. đất bụi dính nơi thân
Với năm việc này mà Năng Thiên Đế tự biết phúc của mình sắp hết. Thế nên ngài hết sức buồn bã.
Rồi tự nghĩ thầm:
"Trong ba cõi, ai có thể cứu người thoát khỏi khổ ách? Duy chỉ có Đức Phật mà thôi."
Và thế là, ngài liền chạy vội đến chỗ của Phật.
Khi ấy Đức Phật đang ngồi thiền và nhập Phổ Tế Chính Định trong một hang đá ở trên núi Thứu Phong. Khi thấy Phật, thiên đế cúi đầu, rồi đỉnh lễ sát đất, và với lòng chí thành mà Quy Y Phật Pháp Tăng. Đương lúc vẫn còn chưa đứng dậy, thần thức hốt nhiên rời khỏi và liền đến nhà của một người thợ gốm, rồi vào trong bụng của một con lừa mẹ để làm con.
Bấy giờ con lừa mẹ tự làm cho dây cột bị lỏng ra, rồi nó chạy đến chỗ làm gốm mà phá vỡ những đồ sành. Lúc ấy, do bị ông chủ đả thương nên nó liền sẩy thai. Nhờ đó mà thần thức của Năng Thiên Đế liền trở về, rồi vào lại trong thân cũ với năm đức trời trọn đủ.
Khi ấy Phật vì thiên đế mà từ chính định dậy, rồi Ngài ngợi khen rằng:
"Lành thay, thiên đế! Ông đã ở khoảnh khắc cuối cùng trước khi lìa đời mà có thể Quy Y Tam Bảo. Do nghiệp tội đã hết nên ông không còn phải chịu khổ nữa."
Lúc bấy giờ Thế Tôn nói kệ rằng:
"Tất cả hành vô thường
Đều là pháp hưng suy
Mới sinh liền phải diệt
Tịch diệt an vui nhất
Ví như người thợ gốm
Trộn đất nắn làm đồ
Chúng thảy rồi vỡ nát
Mạng sống cũng như vậy"
Khi nghe kệ xong, Năng Thiên Đế biết được trọng yếu của vô thường, thông đạt sự biến đổi của phúc cùng tội, và hiểu rõ căn gốc của pháp hưng suy. Rồi ngài nương theo Pháp tịch diệt, hoan hỷ phụng trì, và đắc Quả Nhập Lưu.
>>>
https://rongmotamhon.net/xem-sach_Mot-tram-truyen-tich-nhan-duyen-(Tram-bai-kinh-Phat)_sppggtt_show.html

Lúc ấy, Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Hoàng hậu của vua Ba-tư-nặc là phu nhân Mạt-lỵ vừa hạ sinh một công chúa, dung mạo cực kỳ xấu xí. Thân thể thô kệch, da thịt xù xì, đầu tóc cứng nhắc, bờm xờm như đuôi ngựa.

Vua Ba-tư-nặc nhìn thấy con như vậy thì không vui chút nào, liền dặn nội thị phải thận trọng giữ kín, không được để cho người ngoài nhìn thấy hoặc hay biết chuyện này. Vua lại nghĩ rằng: “Con bé ấy tuy hình dung xấu xí, nhưng dù sao cũng là do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.” Liền dặn người phải chăm sóc nuôi dưỡng cẩn thận.

Khi công chúa lớn lên, đến tuổi gã chồng, vua lo buồn suy nghĩ, chẳng biết làm sao, vì công chúa xấu quá. Liền gọi một vị đại thần đến, dặn kín rằng: “Ngươi hãy vì ta mà đi tìm cho công chúa một người chồng. Nên tìm người nào trước đây thuộc dòng hào tộc, nhưng gia thế nay đã suy sụp, túng thiếu bần hàn thì mới thích hợp.”

Đại thần vâng lệnh, tìm khắp nơi, được một người trước đây vốn con nhà hào tộc danh gia, nhưng hiện tại bần cùng đói khổ. Liền đưa đến bái kiến vua.

Vua liền đưa người ấy vào chỗ kín đáo, đuổi hết kẻ hầu chung quanh ra, rồi mới bảo rằng: “Ta nghe nhà ngươi vốn dòng hào tộc, giờ đây túng thiếu bần cùng. Vậy ta sẽ chu cấp các thứ tài vật trân bảo cho ngươi, khiến cho được giàu có như xưa. Nay ta có một đứa con gái, diện mạo cực kỳ xấu xí, mong ngươi hãy thuận ý ta, nhận nó làm vợ.”

Người bần cùng ấy liền quỳ tâu lên vua rằng: “Xin theo lời dạy của vua. Dù vua có bảo tôi lấy chó làm vợ, tôi cũng không dám trái ý, huống hồ công chúa vốn thật do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.”

Vua liền mang công chúa gã cho người ấy. Rồi ban cho nhà cửa cao rộng, dặn người chồng phải thường xuyên đóng chặt cửa nhà, nếu có đi ra ngoài thì phải khóa lại, chẳng cho người ngoài ra vào, sợ nhìn thấy công chúa xấu xí. Về phần công chúa cũng phải giữ kỹ trong nhà chẳng cho đi ra bên ngoài. Vua nói với phò mã rằng: “Con ta xấu lắm, chẳng nên để cho người ngoài trông thấy.”

 Vua ban cho rất nhiều tài vật, trân bảo, lại phong cho phò mã làm đại thần.

Qua một thời gian, vị đại thần ấy trở nên giàu có, thường giao du đi lại với các nhà hào tộc, phú gia. Ngày kia có lễ hội lớn, hết thảy mọi người đều đến dự. Người nào cũng đưa vợ đến để cùng vui chơi.

Những người dự hội khi ấy thấy vị đại thần ấy dự hội một mình, không có vợ cùng đi, liền sinh nghi ngờ, hỏi nhau rằng: “Người ấy không đưa vợ đến đây, hoặc giả là vợ anh ta đẹp quá, không muốn cho ai nhìn thấy, hoặc là xấu xí cùng cực, chẳng muốn để lộ ra?” Bàn qua nói lại, chẳng ai biết được thực hư thế nào, liền cùng nhau lập kế tìm hiểu.

Cả bọn luân phiên chuốc rượu cho người ấy đến say mèm, nằm lăn ra đất. Xong, họ cử ra năm người đi đến nhà người ấy mà xem cho biết sự thật.

Khi ấy, công chúa xấu xí ở nhà trong lòng phiền não, tự hối trách mà suy nghĩ rằng: “Ta xưa đã tạo ác nghiệp gì mà nay phải thọ khổ thế này? Hình dung xấu xí khiến cho chồng chẳng dám cho ra bên ngoài, phải thường ở trong phòng kín, chẳng được giao tiếp cùng ai cả.” 

Rồi lại nghĩ rằng: “Nay có Phật ở đời, thường lấy tâm từ bi mà quán sát hết thảy chúng sanh, cứu độ cho những ai khổ nạn.” Nghĩ vậy rồi liền quỳ xuống mà vọng bái đức Thế Tôn, nguyện được ngài thương tưởng mà hiện đến giáo hóa cho. Lòng cô chân thành, chí tâm cầu thỉnh, nên Phật biết tâm nguyện của cô liền hiện đến.

Thoạt tiên, đức Thế Tôn hiện cho cô thấy đỉnh đầu của ngài. Cô nhìn thấy rồi trong lòng vui sướng, hân hoan, sinh lòng tin phục sâu vững. Bỗng nhiên tóc trên đầu cô hóa ra mềm mại, óng mượt, xinh đẹp vô cùng. 

Dần dần, Phật hiện cả toàn thân cho cô chiêm ngưỡng. Khi cô nhìn thấy toàn thân Phật rồi, lòng cô vui mừng khôn xiết, trong tâm hoan hỷ, thanh thản nhẹ nhàng, bao nhiêu lo buồn, sầu khổ đều mất hết. Bỗng nhiên thân hình cô hóa ra đoan chánh, mỹ miều, dáng vẻ xinh đẹp như tiên giáng thế.

Khi ấy, Phật hiện hào quang sắc vàng rực rỡ quanh thân cho cô thấy, cô liền sinh lòng kính tín, khát ngưỡng. Phật vì cô mà thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe, ngay khi ấy cô liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Thuyết pháp xong, Phật trở về tinh xá Kỳ Hoàn.

Bấy giờ, năm người do nhóm trưởng giả nơi lễ hội cử đến cũng vừa tới nơi. Họ giả vờ gọi cửa bảo là đem tin của ông đại thần về. Công chúa cho người mở cửa mời vào. Nhìn thấy công chúa rồi, bọn họ tâm thần mê mẩn, đều khen là chưa từng được thấy ai xinh đẹp đến thế. Họ bảo nhau: “Thảo nào ông ta không dám đưa vợ đến nơi lễ hội.” Rồi họ trở về chỗ lễ hội mà loan tin ấy với mọi người. Được thỏa mãn rồi, ai nấy đều giải tán.

Ông đại thần tỉnh rượu, tự tìm về nhà. Ông thấy một người con gái xinh đẹp tuyệt thế ở trong nhà mình thì hết sức kinh ngạc, liền lên tiếng hỏi: “Nàng là ai? Vì sao lại đến đây?” Công chúa đáp: “Em là vợ của chàng đây mà.” Rồi cô đem hết mọi sự thuật lại cho chồng nghe. Kể xong, cô lại nói: “Xin chàng vì em đến tâu với phụ vương, xin cho em gặp mặt.” Người chồng nhận lời, vào cung xin gặp vua Ba-tư-nặc.

Khi gặp vua rồi, người nói: “Công chúa muốn gặp đại vương.” Vua đáp: “Chớ nói điều ấy. Ngươi chỉ nên canh chừng cửa nẻo cho nghiêm nhặt, đừng để nó đi ra bên ngoài.” Người chồng nói: “Sao lại như vậy được? Công chúa bây giờ nhờ oai đức của Phật, đã thay hình đổi dạng xinh đẹp như tiên nga, chẳng còn xấu xí như trước nữa.”

Vua nghe rồi chưa tin là thật, liền truyền xa giá đến thăm con gái ngay khi ấy. Gặp con rồi, thấy quả thật như lời người chồng nói, trong lòng vua vừa mừng vui, lại vừa nghi ngại. Vua liền truyền quân chuẩn bị xa giá, cùng với công chúa đi đến chỗ Phật.

Đến nơi, vua lễ bái Phật rồi quỳ xuống bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Không biết công chúa trước đây tạo nghiệp thiện ác như thế nào, mà nay tuy sinh vào hoàng tộc lại phải thọ thân xấu xí? Xin đức Thế Tôn từ bi dạy cho được biết.”

Phật bảo: “Ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị trưởng giả giàu có vô cùng. Trưởng giả ấy thường thỉnh một vị Phật Bích-chi đến nhà cúng dường, lễ bái. Phật Bích-chi ấy dung mạo cực kỳ xấu xí, thân thể thô kệch khó coi.

Ông trưởng giả có người con gái nhỏ, thấy Phật Bích-chi dung mạo xấu xí thì sinh lòng khinh miệt, dùng những lời nặng nề, thô bỉ mà xúc phạm.

Vị Phật Bích-chi ấy vẫn cứ đến thọ nhận sự cúng dường của ông trưởng giả rất lâu. Đến khi ngài sắp nhập Niết-bàn, mới dùng thần thông bay lên hư không, hiện đủ mười tám phép biến hóa, đi đứng nằm ngồi trên không trung, tự tại không ngăn ngại, khiến cho cả nhà ông trưởng giả ấy đều được chứng kiến. Xong rồi, ngài mới từ trên hư không mà hạ xuống nơi nhà ông trưởng giả.

Ông trưởng giả thấy vậy thì vui mừng, hoan hỷ lắm. Riêng cô con gái tự sinh lòng hổ thẹn, hối trách, liền quỳ xuống trước Phật Bích-chi mà chí thành cầu xin sám hối.”

Phật lại dạy rằng: “Cô con gái nhà trưởng giả, thuở ấy khinh miệt, xúc phạm vị Phật Bích-chi, ngày nay thọ thân làm công chúa xấu xí đó. Tuy nhiên, nhờ phước đức cúng dường, nên thường được sinh vào nhà quyền quý, giàu sang, chẳng chịu sự khổ đói thiếu. Lại nhờ biết chí thành sám hối lỗi lầm, nên nay được gặp ta cứu cho thoát khổ.”

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và quần thần, chúng dân, nghe Phật thuyết nhân duyên nghiệp báo của vị công chúa xấu xí ấy rồi, tâm ý liền khai mở, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

No comments:

Post a Comment