Tuesday, December 8, 2015

CÁCH LÀM TƯƠNG (Tương Trúc Lâm)

SHARED http://www.tuvienquangduc.com.au/Nghile/16nghile10.html

DỤNG CỤ:
-                                 2 cái khạp da bò (loại lớn cở 3 thùng thiết)
-                                 1 cái lon sữa bò
-                                 1 cái thùng thiết (loại thùng dầu lửa để xách nước)
NGUYÊN LIỆU:
-                                 nước mưa 5 thùng
-                                 đậu nành sống 45 lon séc
-                                 nếp lức 40 lon séc
-                                 muối sống 65 lon séc
CÁCH LÀM:
            NẾP: Hấp bằng chỏ cho chín và khô, đừng cho nhão, vì nhão khi ủ sẽ sanh mốc đen và trắng thì tương chua mất ngon. Hấp xong, xôi đổ banh ra nia dầy cở 1 phân rưởi tây (1,5 cm). Kê hỏng đít nia cho thông hơi, đợi xôi nguội lấy lá chuối và đệm đậy kín.
            Ủ xôi đủ 3 đêm, dở ra dùng cái khăn khô chặm mồ hôi, rồi trở bề dưới lên trên, nếu thấy nóng quá, mồ hôi nhiều thì bớt đồ đậy, còn lạnh quá thì ủ dầy thêm. Ủ tiếp 2 đêm nữa, tức là 5 đêm, nếu thấy xôi nếp mốc lên đủ 5 màu: vàng, đỏ, xanh, đen, trắng thì thôi đậy. Đem phá mốc bóp nát, nếu mốc khô thì phải dùng nước thấm ướt tay đặng bóp cho mốc khỏi bay. Để trần một đêm, qua ngày thứ sáu, đem mốc phơi ba, bốn nắng cho thật khô.
            MUỐI: Đem rang cho hết nổ, rồi lấy ra 20 lon đem trộn với mốc khô, trộn xong để vô chậu.
ĐẬU NÀNH: Đem rang lộn với cát, mỗi lần rang chừng vài chén, rang cho vàng, không được cháy hoặc sống, vì đậu cháy thì đen tương, còn sống thì tương không đỏ và chua.
Rang đậu với cát đậu mới chín đều. Rang xong đem xay cho bể hai hoặc ba, xay xong, lấy vỏ đậu nấu riêng, nấu rồi vắt lấy nước bỏ xác, còn đậu thì nấu riêng, nước mưa dùng để nấu đậu cở 2 thùng rưởi, đậu nấu cở nửa ngày, chừng nào thấy mềm mới thôi.
Chờ cho nguội, đem đổ vô khạp, đổ lúc còn nóng sợ bể khạp. Nước vỏ đậu cũng đổ chung vô 2 khạp đó.
Dùng vải thưa bịt cho kín miệng khạp kẻo ruồi vô, hư tương.
Để khạp ngoài nắng, trời mưa đậy nắp lại. Ủ đậu 3 đêm, đêm thứ tư bắt đầu hôi, ủ luôn đến sáng ngày thứ sáu, múc nước đậu đổ vào chậu mốc khô đã trộn 20 lon muối đó, quấy sệt sệt đem phơi, qua ngày mai, sáng sớm nếu thấy mốc khô thì múc nước đậu cho thêm vào rồi phơi nữa, phơi ba, hoặc bốn ngày cho thật khô.
Lấy số muối còn lại, đổ nước mưa vào quấy cho tan ở ngày thứ 7, đến ngày thứ 8 lọc nước muối ấy cho sạch cặn, đem để vô hai khạp tương quấy cho đều (số nước muối đổ vo 2 khạp phải chia cho thật đồng kẻo bên lạt bên mặn).
Đợi mốc khô đã thấm muối có mùi thơm thì đổ vô khạp luôn cùng một lúc với nước muối, rồi đánh cho đều.
Cứ mỗi buổi sáng sớm quấy cho đều lên rồi đậy lại cho đủ sáu ngày (tính từ ngày đổ mốc), nếm thử, nếu vừa ăn thì phải thêm muối nữa để lâu mới không chua, còn như mặn thì khỏi thêm muối nữa.
CHÚ Ý:
1.      Khi ủ đậu đã sình kỳ nhứt rồi thì đổ muối vô, đừng để sình (thúi) lại kỳ hai mà hư tương. Trường hợp ủ mốc kịp vào tương thì khỏi sợ tương thúi kỳ hai.
2.      Khi đổ đậu nấu vào khạp phải dùng dây quấn vải nhúng dầu lửa nịt nơi hông khạp cho kiến đừng lên.
3.      Khi ăn, múc tương vào buổi sáng và phải quấy lên cho đều rồi hãy múc. Mỗi lần múc chừng hai, ba ngày ăn mới được múc nữa. Muốn làm để lâu mới ăn thì phải thêm muối cho mặn mới không hư.
4.      Phải tính truớc, đừng vào tương vào những ngày MÙNG (tức là từ MÙNG 1 cho đến ngày MÙNG 10). Nên coi lịch coi ngày nào hiệp tương được, rồi mình tính trước ngày mà làm (trong lịch nói Hiệp tương, ta gọi là gầy tương là để tương chung vào). Và nhớ đừng để phụ nữ đến kỳ bất tịnh xem lúc vào tương.
5.      Sửa tương cho hết chua:
a.       Tương mặn mà chua: Muốn cho hết chua, ta mua chừng 4 lon đường đen, múc nước tương của 2 khạp để vào son lớn (nồi nhôm to cũng được) nấu cho sôi mới trút đường vào nồi, quấy tan, đang nóng chia làm hai cho đều đổ vào hai khạp tương, đừng quấy.
b.      Tương lạt mà chua: Muốn hết chua, ta đem 10 lon muối rang cho nổ, đang nóng đổ vào mỗi khạp 5 lon, đùng quấy và cũng đừng đậy kín lắm, độ một giờ sau mới đậy kín. Sáng bửa sau mới khuấy đều.
            Bài tương này của Thầy Lưu Đoan sưu tập lúc ở chùa Trúc Lâm Huế. Ứng dụng ở chùa Long Khánh, Vĩnh Bình. Biên vào ngày 11-9-1972 âm lịch.

No comments:

Post a Comment