Thursday, March 31, 2016

NHỚ VỀ MỘT NHÀ THƠ LỚN.

**Anh Khoa ơi, đọc một số bài của anh bàn về phụ nữ, phải công nhận anh là một lão tán gái siêu khủng. Nghe cánh giang hồ đồn thổi, anh còn yêu một cô gái ở Bulgaria có tên là Hoàng Thu Hà. Anh có thơ tặng cô ấy:
Tôi nhớ là khi hoàng hôn buông tím – Tôi mới trở về căn phòng nhỏ của em – Giữa căn phòng có chậu trúc xinh – Em ríu rít mở toang cửa sổ - Tắt đèn đi cho ánh trăng vào – Rồi lặng ngồi bên cây đàn piano – Em khẽ lướt những ngón tay thon nhỏ - Căn phòng tràn đầy những âm thanh mới lạ - Nghe âm u như cánh rừng nhiều gió – Tôi cứ ngắm vầng trăng ngoài cửa sổ - Lặng lẽ rắc bụi vàng xuống thành Sophia – Những lứa đôi đi dạo dưới kia – Góc ngõ nhỏ cũng điện dăng sáng rực – Tôi cứ ước mang vầng trăng về nước – Ném lên đỉnh rừng cho bộ đội hành quân…”.
Tôi nhớ mang máng thế. Chẳng biết có đúng không? Thực hư chuyện ấy thế nào? Nếu không sợ Sư tử Hà Đông, anh có thể bật mí được chứ! (Vũ Thị Song Hà, Chợ Chùa – Phong Thịnh – Thanh Chương – Nghệ An)
Trần Đăng Khoa: Đúng như bạn nói. Đấy chỉ là chuyện giang hồ đồn thổi. Hoàng Thu Hà là con gái nuôi của bà Blaga Dimitrova. Bà là nhà thơ lớn, Phó Tổng thống Bulgaria. Bà đã sang Việt Nam 6 lần, có mặt ở những nơi bom đạn ác liệt nhất. Bà có ba tập sách đặc sắc viết về Việt Nam. Nhà thơ Xuân Diệu bảo: "Đọc Blaga mình sợ quá! Chị ấy bay bằng tên lửa, còn mình thì đi bằng hai chân què của con vịt bầu ". Rồi ông còn bảo: "Khi phụ nữ có trí tuệ ngang đàn ông thì họ hơn đứt cánh đàn ông cái tình cảm, xúc cảm. Chị Blaga là như thế đấy ".
Quả đúng như Xuân Diệu nói. Với những cuốn sách viết về Việt Nam, Blaga đã phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của ta, mà ta không thấy được. Nhìn những đứa trẻ đội nón lũn chũn đi dưới rặng tre xơ xác vì bom đạn, bà lại thấy đó là những con ốc đang vác theo cái nhà của mình. Đến Khâm Thiên, một khu phố vừa bị bom B52, Blaga gặp một người phụ nữ có chửa đang đi giữa một vùng ngổn ngang đổ nát. Cứ như cái nhìn của bà, thì người phụ nữ ấy đã ôm trọn cả quả địa cầu trước ngực. Chị gom nhặt từng mảnh vỡ của thế giới hoang tàn, đổ nát rồi cho vào cái bụng phình tròn của mình, để nhào nặn, hoài thai, rồi đẻ ra một thế giới nguyên vẹn, hoàn thiện và văn minh.
Blaga rất yêu Việt Nam. Bà ghé thăm trại trẻ Hải Phòng. Nhiều cháu bé lấm lét nhìn bà. Có cháu khóc ré lên vì sợ hãi. Đối với chúng, bà như người khổng lồ mắt xanh, mũi lõ. Chỉ duy nhất một cháu gái không sợ. Cháu lẫm chẫm đến bên bà, quạt cho bà, rồi múa bà xem. Trên tay cháu bé có cái vòng khắc một dòng chữ. Bà hỏi chữ gì. “Đấy là chữ Hà. Hoàng Thu Hà, tên của cháu.  Cô giáo khắc tên Hà vào đây, để nếu bom Mỹ có giết chết Hà thì cô giáo còn biết mà báo cho mẹ Hà...”. Nói rồi cô bé cười, nhưng bà thì khóc.
Và rồi từ ấy, cứ nhắm mắt lại bà lại thấy những trái bom săn tìm cháu bé. Bà muốn cứu cháu bé thoát khỏi những trái bom. Phải vất vả lắm, bà mới đưa được cháu bé về Bulgaria. Hơn mười năm sau, Hoàng Thu Hà đã là nghệ sĩ piano. Cô nói giỏi tiếng Bulgaria, nhưng tiếng Việt thì không còn nhớ nữa. Blaga không muốn cô trở thành một kẻ xa lạ với Tổ quốc mình. Bà thư cho Xuân Diệu, nhờ tôi thỉnh thoảng viết thư cho Hoàng Thu Hà, để qua những bức thư đó, cô bé làm quen lại với tiếng Việt. Cũng vì thế mà tôi thành người thân của gia đình bà.
Tôi còn nhớ lần qua Bulgaria cách đây đã trên 20 năm, vào những ngày cuối cùng, trước khi rời Bulgaria, tôi mới gặp được bà Blaga Dimitrova. Lúc ấy, như tất cả các nhà văn Bulgaria, bà không có lương, chỉ sống bằng nhuận bút. Gặp tôi và GS  Hà Minh Đức, bà ấn vào tay mỗi người 200 lêva, bằng cả số tiền Hội Nhà văn Bungari cho để ăn trong vòng một tháng. Tôi và GS Hà Minh Đức kiên quyết từ chối, nhưng không nổi.
Bà bảo: "Vải Bulgari rất tốt, cháu nên mua về cho gia đình, mua cả xà-phòng nữa. Ở Việt Nam bây giờ xà-phòng hiếm lắm. Ngoài chợ đen, người ta còn pha cả tạp chất vào nữa, không giặt được đâu, chịu khó mang nhiều xà - phòng về".  Lúc bấy giờ, Blaga vừa in tập thơ mới. Tôi muốn mang về giới thiệu ở Việt Nam. Bà bảo: "Cháu cho cô địa chỉ, cô sẽ gửi qua bưu điện cho. Mang theo người không nên, cháu sẽ mất một bánh xà-phòng đấy. Va-ly chỉ được 20 kg thôi". Rồi bà kiên quyết không trao tôi tập thơ, mà chỉ gửi qua đường bưu điện. Blaga Dimitrova đúng là một phụ nữ. Hiểu người Việt và thương người Việt như bà, có lẽ chẳng ai như thế đâu.
Trước khi rời nước Bulgarria, tôi lại có nhuận bút thơ. Đùng một cái có đến hàng đống tiền mà chẳng biết mua gì. Tôi quyết định thay mặt đoàn nhà văn Việt Nam mời gia đình bà một bữa cơm thịnh soạn. Bà Blaga đưa tôi vào một quán ăn trên đỉnh núi Vitosa. Đó là một cái quán nhỏ dựng bằng gỗ sồi nằm chìm trong cây lá. Ngồi trong quán, qua những tấm cửa kính, có thể nhìn thấy những chú nai rừng đi lững thững bên triền núi. Dưới kia, sau màn sương mờ huyền ảo như khói là toàn cảnh thành phố Sofia. Ngọn tháp truyền hình và những khu nhà cao tầng trông nhỏ xíu như đồ chơi con trẻ.
Tôi với tờ thực đơn, chọn món ăn. Vì không biết tiếng, nên tôi chỉ nhìn vào những con số. Cứ món nào đắt, số to là tôi lấy bút bi chọc vào. Bàn ăn bày la liệt toàn những món hảo hạng. Rồi rượu Whisky, rượu Napoleon. Rồi hoa quả. Rồi đồ tráng miệng. Tôi áng chừng khoảng 400 lêva. Bà Blaga tủm tỉm: "Đúng là cách ăn của người nghèo”.
Bữa tiệc tàn, tôi ra quầy thanh toán, và rất kinh ngạc khi ông chủ hiệu chỉ lấy có 5 lêva, bằng giá tiền của một cốc Whisky. "Đây là quán ăn dành cho người nghèo, chỉ những người nghèo mới đến ăn ở đây! Đồ ăn ở đây rẻ hơn nhiều lần so với những nơi khác”. - Bà Blaga giải thích. Tôi hỏi Hà, Hà bảo: "Cô Blaga nói đúng đấy. Ở quán ăn này, món nào người ta cũng giảm giá".
Tôi đem chuyện đó kể ở Đại sứ quán ta tại Bulgaria. Ông Tham tán văn hoá phì cười: "Trời ơi, thế là anh bị bà Blaga lừa rồi. Đó là quán ăn cổ có trên hai trăm năm. Quán đó đắt lắm đấy. Bà ấy đã trả tiền trước rồi, anh chỉ trả tượng trưng tiền một ly rượu thôi!"
Tôi vô cùng ân hận. Hoá ra mình lại trút lên vai bà Blaga một gánh nặng nữa. Bà chỉ sống bằng nhuận bút, có lương đâu. Ở nước Bulgaria, cũng như rất nhiều nước khác, nhà văn không có lương. Bởi thế, chỉ những người thực sự có tài văn mới trụ được ở nghề văn. Còn những anh làng nhàng, sẽ không thể sống nổi, phải chuyển sang nghề khác.
“Anh ân hận quá, Hà ạ. - Sau gần 30 năm, tôi mới nói được với Hà, khi cô trở về thăm Việt Nam - Hồi ấy, anh làm khổ cô Blaga quá. Anh không hề biết gì cả, vì quá tin em, cứ tưởng em đứng về phía anh cơ...”. “Tất nhiên em bao giờ cũng đứng về phía anh, phía người nghèo, nhưng em cũng đứng về phía cô Blaga nữa. Cô ấy muốn như thế mà…
Bây giờ cô Blaga yếu lắm. Hơn tám mươi tuổi rồi. Đau ốm luôn. Hồi được bầu làm Phó Tổng thống, cô ấy cứ đòi từ chức. Cô ấy bảo: Nhân dân yêu mình, tin mình, bầu mình lên, chứ mình có phải là Phó Tổng thống đâu. Người ta yêu cô Blaga lắm. Bao nhiêu người chuyển tiền cho cô để cô làm từ thiện, cứu những người nghèo khổ. Em phải giúp cô ấy nhận, vào sổ sách, làm giấy tờ. Cô Blaga còn sẻ vào đó một nửa lương mỗi tháng để giúp đỡ, cứu trợ người nghèo. Đó là cái hồi cô ấy làm Phó Tổng thống...”.
“Thế còn bây giờ? Bây giờ cô ấy có lương không, hay vẫn chỉ sống bằng nhuận bút?”. “ Cô ấy có lương. Lương Phó Tổng thống về hưu...”. “Khoảng bao nhiêu?”. “Vài trăm đô, nếu đổi ra ngoại tệ…”. “Thế thì sống làm sao được?”. “Sống được đấy. - Hoàng Thu Hà nhìn tôi rất nghiêm trang. - Với cô Blaga thì chỉ cần chút bánh mì với nước lã là đã hạnh phúc rồi. Cô ấy đã sống như thế và dạy em sống như thế. Cô ấy là thi sĩ, là người ở trên giời. Mà người giời thì chỉ cần như thế là sống được thôi...”
Chuyện thật là như thế. Bây giờ, cũng như Xuân Diệu, Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên… Blaga đã thành người của cõi nhớ thương rồi. Bà đã ra đi cách đây 7 năm. Xin được coi mấy dòng tâm sự này là một nén nhang thành kính tưởng nhớ bà!/.
Trần Đăng Khoa/VOV

No comments:

Post a Comment