Sunday, August 23, 2015

CANH DƯỠNG SINH - LẬP THẠCH HÒA.

file:///C:/Users/Administrator/Downloads/TL373.pdf

Hiện nay đang có Ngưu Bàng sạch từ ngoài Bãi Giữa Sông Hồng (Cô Trâm cung cấp) gởi vào, rất nhiều người muốn tự nấu CANH DƯỠNG SINH, vì vừa rẻ vừa yên tâm về chất lượng, cộng thêm cái tâm của mình trong lúc nấu. 

Trong sách "CANH DƯỠNG SINH" của tác giả Lập Thạch Hòa (Trần Anh Kiệt chuyển ngữ) có phân lượng như dưới đây, nhưng có người uống một thời gian thì thấy bị đau thận, nên không biết có phải do phân lượng củ cải trắng là quá nhiều so với Carot?
Xin các vị có kinh nghiệm chỉ giúp.


-Củ cải trắng: 250gr (1/4)
-Lá cải trắng: 50gr (1/4)
-Cà rốt :125gr (1/2)
-Ngưu Bàng: 125gr (1/4 củ Gobo) hoặc 80gr củ Gobo tươi, hoặc khỏang 30gr củ khô Gobo xắt lát
-Nấm đông cô Nhật: 25gr (1 tới 2 tai nấm – tùy theo nấm lớn hay nhỏ)


Rau củ tổng cộng 1 phần thì đổ 3 phần nước (tương đương với cân lượng rau củ kể trên thì cần khoảng 2.5 lít nước).

Cho tất cả vào nồi đun sôi, khi nước sôi, hạ nhỏ lửa nấu thêm chừng 1 giờ rưỡi đến 2 giờ cho đến khi nước cạn còn hơn phân nữa là dùng được (nghĩa là còn khoảng 1.8 lít). Cho vào bình thủy để uống dần trong 3 ngày (hoặc cho vào tủ lạnh, trước khi uống cần hâm lại cho nóng).

Mỗi ngày uống 600ml (như vậy có thể uống 5-6 lần/ ngày, mỗi lần 1 tách khoảng 100ml).
...

Ghi chú: Uống canh dưỡng sinh sẽ không hiệu quả nếu vẫn còn dùng quá nhiều thịt, cá, trứng, đường, sữa, cà phê, ca cao, bột ngọt, bia, rượu mạnh…

Cách uống trị động mạch não xơ cứng * Viêm tá tràng * gan * thận * máu trắng * họai huyết viêm tuyến sữa ở vú * chân cẳng sưng đau * viêm cổ họng* đau lưng * sạn thận * trĩ hậu môn * lợi tiểu * sạch mạch máu * bướu tử cung * ung thư cổ tử cung:

150cc Canh dưỡng sinh hòa với 30cc nước tiểu của chính người bệnh (giọt nước tiểu đợt đầu bỏ, dùng nước tiểu sau..) 
Kiêng ngặt thịt, cá và thực phẩm chế biến bằng kỹ nghệ. Chỉ được phép ăn rau trái thiên nhiên. 
Không được đeo vàng bạc (hoặc dùng nilon bọc quấn lại như đồng hồ đeo tay, cũng nói thêm đeo đồng hồ dây da hay nhựa tố hơn dây kim loại) 

Ghi chú:  Phụ nữ đeo đồ trang sức nhiều chừng nào thì dễ mắc bệnh bướu tử cung và ung thư vú nhiều chừng nấy. Mang giầy cao gót thường hay bị bệnh cao huyết áp. Mặc quần bó sát và chật lưng thường bị chứng thấp khớp, làm biến dạng lưng và tay chân cong vẹo. Ngòai ra thường ăn sữa chua (yoghurt) trẻ em dễ bị việm kết mạc và đục nhân mắt: uống 600cc canh dưỡng sinh hơn 10 tháng.

***

Cách thức sử dụng
Nồi nấu thuốc lọai thủy tinh có nắp đậy kín, không được loại kim khí. Tùy nồi lớn nhỏ mà sắc thuốc. Tất cả thuốc thái nhỏ 3 phần thuốc, 7 phần nước lọc – để lửa riu riu cháy nhỏ, nấu một giờ không cạn nước, để nguội vô bình cất tủ lạnh, uống ngày 4 lần, nửa chén ăn cơm sáng, trưa, chiều, tối khi bụng đói.
Cử uống các lọai thuốc, thịt, cá, tôm, cua và trứng; không uống rượu, hút thuốc, ăn đồ dầu mỡ xào, chiên nóng.
Bệnh nhẹ thì từ bốn đến sáu tháng, còn bệnh nặng thì tám tháng đến một năm thì hết tuyệt.

***
Bệnh tiểu đường:
Buổi sáng uống 600cc nước gạo lứt
Buổi chiều uống 400cc canh dưỡng sinh.

Viêm xương sống cấp tính * mãn tính:
Uống 600cc canh dưỡng sinh trong vòng ba tháng: tháng 1 tịnh hóa; tháng 2&3 phục hồi chức năng. Uống liên tục về sau bồi dưỡng sức khỏe.

Nguyên nhân các bệnh máu mỡ, sạn thận và mật, cao huyết áp, vỡ hay nghẹt mao huyết quản não bộ là do lười vận động.

Ung thư thời kì tuyệt vọng:

Hô hấp dưỡng khí
Truyền 200cc hỗn hợp nước canh dưỡng sinh * 200cc nước gạo lức vào bao tử. Cứ 45 phút cho vào một lần.
Sau khi hồi phục. Uống tiếp tục 600cc hợp chất canh dưỡng sinh*gạo lức (mỗi ngày) – Trong khi uống dưỡng sinh không cần uống hay chích thêm loại thuốc nào.

Tim Mạch:
Uống mỗi ngày 600cc hợp chất canh dưỡng sinh và gạo lức.

Ngừa sạn thận và sạn mật.
20-30gr nước cốt củ cải * 100ml rượu nho.

Tan mỡ béo thừa.
Nấu 15gr cà rốt (hồng la-bặc) và 15gr Daikon (củ cải Á châu=Chinese Radish) đã xắt nhỏ trong 250ml nước
Thệm 1 muỗng café nước cốt chanh,
5gr tảo biển.
Nấu sôi trong 5 phút.
Lọc và uống mỗi ngày 2 lần (sáng/chiều) trong 3-4 tháng.

Cà rốt.

Ăn mỗi ngày 1 củ rưỡi (ít bị ung nhũ từ 5 đến 8 lần) giãm nguy cơ stroke đến 40%; 1,7 đến 2,7mg beta carotene giảm ung thư phổi đến 40% (một củ cà rốt chứa khỏang 3mg beta carotene)


HUYT ÁP
Ung 600cc canh dưng sinh * nưc go lc rang mi ngày. Ung đưc 3 tháng thì có th giãm dn liu lưng thuc tây, không nên ngưng hn đt ngt. Đi vi máy đo huyết áp t đng thì gim bt 20 đ đim huyết áp cao và gia tăng thêm 10 đ đim huyết áp thp (mi chính xác)

BNHLÚLN
Ung 600cc canh dưng sinh
Ăn cơm go
Không ăn sa, tht
Không ung rưu
Đi b
Hn chế thuc men
Thưng xuyên nm ly bàn tay phi ca bnh nhn (dt tay đi b, trong lúc trò chuyn...)

Toa thuc hi phc chc năng ca thn:
5gr Mc Thiên Sâm
5gr Cam Tho
Cho Sâm và Cam tho vi 400cc nưc vào siêu thuc. Nu sôi vn la riu đ 15 phút ri tt la. Đ nguyên như vy đến khi tht ngui ri lưt ly nưc thuc. chia làm 3 phn bng nhau. Mi ngày ung 3 ln. Mi ln 1 phn.

BNH AIDS
Ung hn hp Nưc tiu * Canh Dưng Sinh. Mi ngày ba ln: sáng, trưa và ti.
Nưc tiu ly lúc sm, b phn đu, ch nưc tiu khang gia chng, đ vào ly thy tinh đúng 180cc.  Chia làm 3 phn, mi phn 60cc.
 (Ung mi ln: 60cc nưc tiu * 120cc canh dưng sinh) Mi ngày ung hn hp này ba ln.
(p.93 Canh Dưng Sinh – Ngài Lp Thch Hòa)

BCH HUYT * Bp tht mt mi.
Mi ngày ung 600cc  canh dưng sinh và 600cc nưc go lc rang: hng cu s tăng thêm 12 ngàn, bch huyết cu tăng t 700 đến 1100. Chng mt tháng phc hi đy đ.

TR UNG THƯ
Bui sm dùng nưc tica chính bnh nhân [chỉ lấy phn gia chng độ 30cc] hòa vi 150cc canh dưng sinh rồi cho bệnh nhân uống.

Ung T Cung và Nhũ hoa.
Ung nhũ nên kiên trì ung canh dưng sinh và nưc go lc mi ngày trong ba tháng tr lên.
600cc canh dưng sinh * 600cc nưc go lc rang. Ung mi ngày bưu sec mm và teonh đến khi hòan tòan mt dng.

Gii Phu.

Ung canh dưng sinh mi ngày 600cc t mt đến ba tháng: có th lành bnh hoc có gii phu thì vùng ung đã gom li d dàng cho vic m xẻ J


Phòng Ngừa Bệnh Ung Thư (kể cả bướu não 8 máu đông * cao huyết áp * viêm gan * viêm thấp nhị chi tràng * bệnh tim mạch * bệnh đục nhân mắt * đau khớp xương đầu gối * bệnh thấp khớp)

600cc Canh Dưỡng Sinh
600cc Gạo Lức Rang
Hòan Sơn Dịch Miêu (thuốc giảm đau khi cơ thể bị đau nhức) hoặc Liên Kiến Dịch Miêu
Tuyệt đối không dùng chất béo và chất Calcium.

Parkinson
Uống canh Dưỡng Sinh * nước Gạo Lức rang độ hai tuần thì hồi phục.
Lưỡi đóng trắng, bụng sinh đầy hơi, cảm mạo, ngủ o được.
Uống canh Dưỡng sinh * nước Gạo lức rang

Viêm Gan C
Uống canh Dưỡng sinh * nước Gạo lức rang trong vòng 5 tháng sẽ khỏi bệnh (HoangĐiềnGiaiTử Nữ sĩ, Tá Hồ Huyên)
Uống mỗi ngày từ 600cc đến 1000cc nước canh dưỡng sinh * uống thêm 600cc nước gạo lức rang.
Buổi sáng dùng 30cc nước tiểu hòa vào 150cc nước canh dưỡng sinh.

Nghẽn mạch máu não
600cc canh Dưỡng sinh * 600cc Nước Gạo Lức rang * nước tiểu của bệnh nhân (phần nước giữa) uống 3 tuần lễ chỗ nghẽn mạch máu không còn.

Xơ Gan * Sưng tuyến tiền liệt * Viêm Xoang Mũi * Nhuận tràng * Lọc máu * Tiểu đường * Nhiễm trùng đường tiểu * Tàn Nhang * Tóc bớt rụng * Da mịn * Ăn thấy ngon * Uống rượu o thấy say *

Buổi sáng uống 550cc canh dưỡng sinh. Sau xuống 400cc
Thống phong (Gout) * Sạn Mật

Ghi chú.
Nấu canh Dưỡng sinh không nên gạt bỏ lớp bọt nổi trên mặt hàm chứa nhiều tinh chất bổ dưỡng.
Có thể nấu với dung lượng uống được 15 lần. Để nguội, cho vào chai, nút kỹ, đặt vào tủ lạnh. Mỗi ngày uống 5 lần: buổi sáng uống 2 lần, buổi chiều và tối uống 3 lần. Uống được 3 ngày.
Dùng bã nấu chung với thức ăn.
Dùng nước canh tưới vào hoa kiểng, qua mùa xuân nó sẽ trổ bông tươi đẹp và trổ nhiều hơn.

Cách pha chế nước gạo lức.
180gr gạo lức
1.5 lít nước
Rang gạo lức trong chảo cho tới vàng nâu. Nấu 1.5 lít nước cho thật sôi. Rồi đổ tòan bộ gạo đã rang vào nước đang sôi. Lập tức tắt lửa, rồi để vậy trong vòng 5 phút. Sau đó lượt lấy nước trong để riêng.
Kế đó cũng nấu 1.5 lít nước khác cho sôi, rồi đổ tòan bộ xác gạo lức đã được lược ra vừa rồi. Sau đó vặn lửa riu riu và tiếp tục cho sôi thêm trong vòng 5 phút nữa rồi mới tắt lửa. Xong lượt lấy nước trong. Hòa nước gạo lức đã nấu lần trước và lần này lại với nhau cho đều rồi uống như nước trà.

Lưu ý: Khôngnên uống gạo lức chung với sữa bò hoặc chung với những thức ăn có chất đạm (protein)
Không nên hòa canh dưỡng sinh và nước gạo lức rang chung với nhau để dùng. Uống hai thứ nước này cách nhau tối thiểu 15 phút.

Chế thuốc ho và bổ phổi.
Mật ong nguyên chất và củ cải trắng
Củ cải trắng rửa thật sạch xắt nhỏ hơn hột bắp.
Lường 500cc mật ong và 500cc củ cải trắng xắt nhỏ đổ chung vào nhau trộn đều.
Khỏang 2 giờ sau củ cải trắng sẽ tan ra trong dung dịch.
Mỗilần uống một muỗng canh thuốc ho hòa tan trong nước sôi ấm. mỗi ngày uống bốn tới năm lần. Uống tới ngày thứ hai thì ho sẽ dứt.

Thuốc này cũng có công hiệu chữa trị bệnh suyễn rất hay.

Ung thư ti thi trm trng:
NIU LIU PHÁP.

Hi: Gn đây, chúng tôi có được đc cun sách “Niu liu pháp” ca bác sĩ F.O. Quinn (M) do NXB TPHCM xut bn năm 1989, trong đó đã đ cp đến phương pháp t cha bnh bng nước tiu được đánh giá là đơn gin, d kiếm, d dùng nhưng hiu qu tr bnh li rt cao. Chúng tôi hết sc băn khoăn vì ti sao mt phương pháp hay như vy mà li chưa được ph biến rng rãi. Mong bác sĩ tư vn giúp. (Trn Tâm - Tin Giang)

Tr li: Có l vì phương tin thông tin ta trong nhng năm 1989, 1990 còn hn chế nên bác không biết được là: vào thi đim này, cun sách nói trên đã gây xôn xao dư lun vì ni dung thiếu khoa hc ca nó và vì hu qu nng n mà niu liu pháp đã gây ra cho mt s người bnh. Cun sách đã không được phép lưu hành và ri dn trôi vào quên lãng. 

Trên thc tế, vic s dng nước tiu đ cha bnh đã có mt lch s lâu đi. Trong kho tàng kinh nghim dân gian và các y thư c phương Đông như Bn tho din nghĩa, Bn tho cương mc, Bn tho kinh sơ, Bn tho thp di, Bn tho cu chân..., nước tiu vi nhiu tên gi như nhân niu, đng tin... đã được dùng làm thuc ung trong hoc xoa bôi bên ngoài đ cha nhiu chng bnh khác nhau. C nhân thường ly nước tiu gia bãi ca nhng người khe mnh nhưng tt nht là nước tiu ca tr em dưới 10 tui (được gi là đng tin). Thông thường người ta ch dùng nước tiu vào bui sáng sm khi tr mi ng dy, b đon đu và đon cui, ch ly đon gia, đang còn m mà ung ngay là tt nht. Người ta còn dùng cn đóng thành bánh ca nước tiu đng lâu trong chu đ làm thuc, được gi là nhân trung hoàng hay nhân niu bch, thu bch sương... 

Ngoài ra, y hc c truyn còn dùng nước tiu đ bào chế mt s v thuc ví như tm hương ph vi nước tiu ri sao trong quy trình “hương ph t chế”. Dược hc c truyn cho rng nước tiu v mn, tính lnh, có công dng tư âm giáng ha, ch huyết tiêu , thường được dùng đ cha các chng bnh như âm hư phát nhit (st do thiếu phn âm), khái huyết (ho ra máu), th huyết (nôn ra máu), nc huyết (chy máu các l t nhiên), huyết vng (hoa mt chóng mt, tay chân lnh do huyết dn lên đu), sn hu huyết, tn thương do trt đ, huyết tác thng (các chng đau do huyết) 

Như vy có th thy, vic s dng nước tiu đ tr bnh không phi là mi l. Nhưng vn đ quan trng là ch: phi biết la chn và ch đnh mt cách cn trng da trên nhng kinh nghim đã được thc tin kim nghim hoc kết qu ca các công trình nghiên cu được tiến hành mt cách khoa hc, công phu và nghiêm túc. 

Hơn na, nước tiu vn dĩ là mt th dch cha các cht tha mà cơ th con người ch đng thi ra ngoài đ duy trì cân bng ni môi; hay nói theo y hc c truyn phương Đông: nước tiu là th trc trong th trc (loi dch bn nht) cn phi được thi ra ngoài đ gi cân bng âm dương cho nhân th. Vì vy không th coi nó là mt th thuc b theo đúng quan nim ca y hc c truyn: b có nghĩa là bù đp nhng gì mà cơ th còn thiếu. 

Tóm li, theo chúng tôi ni dung mà “Niu liu pháp” đưa ra ch nên đ tham kho, chưa nên thc hành trong cha bnh, bo v và nâng cao sc khe. Nếu có thì nht thiết phi da trên các kết qu nghiên cu khoa hc nghiêm túc và phi được s cho phép ca các thy thuc chuyên khoa. Tuyt đi không nên t dùng mt cách tùy tin.
Thc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN.



***
Đây là PP tr bnh bng cách ung nước tiu ca chính mình và bôi nước tiu vào vết thương ngoài da.

Thành ph
n nước tiu thay đi tùy theo món ăn, thc ung ca mình (Ăn nhiu mui, nước tiu s mn, nhiu đường , nước tiu ngt, nhiu thc phm chế biến, nước tiu s đng…)

Theo Nguy
n Bá Tòng nhà DS 50 năm đã viết gn 30 quyn sách DS,trong nước tiu có kháng th cha bnh ( nước tiu BN tiu đường có Insulin, nước tiu BN ung thư có cht kháng u Antineoplasm, nước tiu người nghin ma túy có Endorphin…) .
N
ước tiu có các tính cht sau:
-Lo
i đc
-c
m máu
-Sát trùng
-Gi
m đau
-Gi
m nga
-Gi
m sưng
-Nhu
n trường
-Tr
chng khó tiêu
-Tr
chng khó ng, mt ng.Nước tiu làm cho ta ng ngon, gic ng sâu
-T
t cho h tiêu hóa, h tun hoàn, h min dch, h thn kinh
-Bôi vào khóe m
t, tr đau mt, mt đ, mi mt (bôi c mí mt,chân mày trên và dưới)...
-Nhai n
ước tiu 10 phút/ ngày làm chc răng ,hết đau răng
-Nh
vào tai tr viêm tai, tai có m
-B
đt tay, dp tay ,gh nga, phng,..bôi nước tiu s cm máu , gim đau,gim nga…vết thương mau lành
-U
ng nước tiu (kết hp ăn TD) làm sn thn b v và bn ra ngoài
-Kinh nguy
t không đu dùng nước tiu tr con có kết qu tt
-Sau khi sanh, u
ng nước tiu tr con , t cung co rút và cm máu

http://diepluc.vn/forums/showthread.php?t=700.

***

Tại sao canh Dưỡng Sinh chữa lành hầu hết bệnh tật?
Giải đáp: 

13. Chữa lành ung thư chưa đủ!
Tháng 10 năm 1980

Nhìn vào bảng thống kê, ta thấy nguyên nhân tử vong của dân chúng Mỹ đã chuyển từ bệnh tim mạch sang bệnh ung thư và tỷ lệ tử vong vì ung thư đang tăng vọt. Điều này có ý nghĩa gì?

Bệnh tim mạch giết người đột ngột gần như không báo hiệu trước. Đó là triệu chứng dương quá thịnh do dùng quá nhiều loại thực phẩm dương như thịt bò, thịt gà, cá, thịt lợn, pho mát...

Trái lại ung thư phát hiện rất chậm. Bệnh nhân không biết được bệnh chứng ở giai đoạn đầu. Hầu hết đều nhận biết quá trễ. Vì thế ung thư là bệnh thuộc âm tính (bành trướng) hay âm thịnh do lạm dụng các chất cực âm như đường, rượu và hóa chất.

Giữa bệnh tim và ung thư còn có một khác biệt nữa. Bệnh tim là bệnh của máu và của bắp thịt, còn ung thư là bệnh của tế bào. Đó là một trong những nguyên nhân khiến cho ung thư khó chữa. Y khoa hiện đại chưa hiểu rõ về sự phát triển của tế bào, nên không biết cách nào chữa trị sự tăng trưởng bất thường của nó. Arthur Guyton phát biểu trong cuốn Chức năng cơ thể con người: “Trong cơ thể của một người bình thường, việc điều tiết sự sản sinh và tăng trưởng tế bào vẫn còn là điều bí ẩn. Chúng ta gần như không biết gì về cơ chế điều chỉnh số lượng thích hợp của các loại tế bào khác nhau trong cơ thể”. 

Tại sao y học hiện đại không hiểu nổi sắp xếp và cơ cấu phát triển của các tế bào? Theo tôi, vì họ hiểu sai nguồn gốc của tế bào bình thường và tế bào ung thư.

Bác sĩ Morishita có nói trong cuốn Sự thật tiềm ẩn trong bệnh ung thư: “Sự tin tưởng vào quan niệm của Virchow cho rằng một tế bào chỉ sinh ra từ một tế bào khác là trở ngại khắt khe nhất để nghiên cứu nguồn gốc thật sự của tế bào ung thư. Nhận định này đưa đến các luận điểm về nguồn gốc của tế bào ung thư: 

1. Tế bào ung thư xâm nhập từ ngoài vào.
2. Tế bào ung thư đã hiện diện trong cơ thể ngay từ lúc nó ở thời kỳ phôi thai. 
3. Sự đột biến từ tế bào lành mạnh thành tế bào ung thư.

Y học hiện đại ít tán thưởng 2 luận điểm đầu, luận điểm thứ 3 được ủng hộ nhiều nhất. Do đó các nhà khoa học đang tìm tác nhân tạo ra sự biến thể tế bào lành thành tế bào ung thư. Kết quả họ đã tìm ra hàng ngàn chất sinh ung thư và nhiều nguyên nhân có thể gây ra ung thư. Theo y học hiện đại, các nguyên nhân chính là:

- Các chất gây ung thư: hắc ín, thuốc nhuộm, kích thích tố nữ (eustrogen), thạch cao, asbestos...
- Chất phóng xạ
- Khói thuốc lá
- Vi khuẩn
- Tế bào lành mạnh biến thành tế bào ung thư do thiếu oxy (học thuyết của Warbury) 
- Trầm uất (stress): tế bào lành trở thành ung thư do cảm xúc tiêu cực.

Nguyên nhân sau cùng (trầm uất) không phải lúc nào cũng là căn nguyên; đôi khi có người sống trong gia cảnh đầm ấm vẫn bị ung thư. Cách đây vài năm ông Suzukiroshi, người sáng lập trung tâm Zen ở San Francisco đã chết vì ung thư. Ông ta có tinh thần an định và chan chứa tình thương trong suốt cuộc đời. Tạp chí Bungei Shunju trong năm 1979 có viết một bài về thái độ của 50 bệnh nhân đã chết vì ung thư: “Họ đã tỏ ra rất yên tâm, đầy lòng nhân ái đến độ làm mọi người phải ngạc nhiên”. 

Ngược lại với quan niệm của y học hiện đại, các bác sĩ K. Chishima và K. Morishita cho rằng máu tạo ra tế bào: “Các tế bào được hình thành từ chất hữu cơ, mà chất này thì không hội đủ điều kiện để tạo ra tế bào. Protein tạo ra nhân tế bào và DNA” (Theo cuốn Nguyên nhân, ngăn ngừa và trị liệu ung thư của K. Chishima, Hội Tân Huyết học Nhật Bản, trang 8). 

Theo ý tôi, tế bào ung thư có thể tạo ra hoặc do các tế bào lành mạnh hoặc do máu. Dĩ nhiên máu và tế bào được hình thành từ thức ăn. Thực phẩm là nguồn gốc của tế bào. Không có thực phẩm thì không có tế bào. Không có thực phẩm thì không có phôi tế bào và thể tế bào (germ cells and soma cells). Thực phẩm tạo ra tế bào ung thư. Thực phẩm gây ra sự biến thái từ tế bào lành thành tế bào ung thư. Không hiểu như vậy đừng mong chữa lành ung thư.

Làm thế nào thực phẩm gây ra tế bào ung thư hay biến đổi tế bào lành thành tế bào ung thư?

Tế bào sống trong thể dịch của cơ thể, luôn luôn có kiềm tính như Alexis Carrel đã xác minh: “Môi trường nội quan không bao giờ bị axit hóa” . Sự việc này càng gây ngạc nhiên, nếu ta biết rằng các mô không ngừng thải ra và đưa một số lượng lớn khí carbonic, axit lactic và axit sulphuric... vào bạch huyết. Những loại axit không gây phản ứng với huyết tương vì chúng trung tính do có chứa muối cacbon và photphat (Con người – một thực thể chưa được biết, NXB Harper & Row, 1961).

Cơ thể duy trì kiềm tính của thể dịch không chỉ nhờ hệ thống điều hòa tự nhiên của nó, mà còn do các thực phẩm ta ăn vào. Có 2 loại thực phẩm: một tạo ra tính axít, một tạo ra tính kiềm. Nếu ăn nhiều thực phẩm tạo ra axit trong một thời gian dài, thể dịch sẽ bị axit hóa tới mức độ có tính chất gần như axit. Tức là độ pH nhỏ hơn 7.

Khi thể dịch có pH 6,9 thì tình trạng hôn mê xảy ra. Do đó nếu thể dịch giao động giữa 7,0 và 6,9 thì các tế bào chỉ có khả năng hoạt động cầm chừng. Một số chết và và một số biến đổi để thích nghi với môi trường này. Sự thích nghi này là kết quả của sự biến đổi gen. Với gen mới, các tế bào có thể sống trong điều kiện axit, thiếu ôxy. Đây là sự sinh ra của các tế bào ung thư. Tế bào ung thư có thể sống trong điều kiện tồi tệ nhất của thể dịch - thể dịch axit.

Vì vậy, theo tôi, ung thư là kết quả của khả năng thích ứng của cơ thể và kết quả của sự nỗ lực để tồn tại trong môi trường nội quan bị ô nhiễm (có dịch thể axit). Do đó, các tế bào ung thư hấp thụ chất thải của các tế bào lành trong cơ thể. Nói cách khác, một số tế bào lành sẽ thay đổi thành tế bào ung thư hay các tế bào ung thư là sản phẩm từ máu, có thể sống vô hạn sau khi các tế bào lành chết đi (dĩ nhiên, nếu các tế bào ung thư phát triển nhanh hơn các tế bào lành ở một cơ quan nào đó, thì cơ quan đó ngừng hoạt động và chết). Nếu tế bào ung thư phát triển, nó gần như không thể thay đổi trở lại thành tế bào lành được nữa, bởi vì nó được cung cấp thức ăn là chất thải của các tế bào lành, luôn luôn có mặt trong cơ thể trong quá trình sống.

Do đó, một khi tế bào ung thư phát triển, điều duy nhất ta có thể hy vọng là không để nó phát triển thêm nữa. Để làm được điều này, chúng ta phải tránh việc ăn những sản phẩm giàu axit như đường, rượu, bia, thịt gà, thịt lợn, cá, trứng và pho-mát. Mặc dù hoa quả là những thực phẩm giàu kiềm, bệnh nhân ung thư cũng nên tránh hoa quả bởi vì hoa quả chứa nhiều axit sacaric, là nhân tố phát triển tế bào ung thư. Bệnh nhân ung thư phải tuân theo chế độ ăn uống bao gồm cốc loại, đậu đỗ, tất cả các loại rau (trừ những loại rất âm như khoai tây, cà và cà chua), tảo biển, các loại hạt; gia vị chứa kiềm tự nhiên như misô, tương và muối biển; và trà như trà xanh (không phân hóa học, thuốc trừ sâu), trà bancha. Cố gắng tránh các thức ăn nguồn gốc động vật (trứng, bơ, sữa, sản phẩm của sữa) và thực phẩm có phụ gia hóa học và nhuộm màu...

Nói tóm lại, bệnh nhân ung thư phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ ăn uống thực dưỡnghàng ngày và áp dụng cách nấu ăn để phòng chống bệnh ung thư. (Tìm đọc Cách nấu ăn phòng chống bệnh ung thư theo phương pháp Thực Dưỡng - ND)

Như vậy, liệu đã đủ để chữa ung thư chưa?

Một người bạn của tôi mắc bệnh ung thư mà ông ta không hay biết. Sau khi tới gặp Ohsawa, ông bắt đầu ăn theo Thực Dưỡng rất trung thành. Ông học hỏi rất tốt từ Ohsawa. Ohsawa như một người cha tinh thần, một guru đối với ông. Ông trở thành người hướng dẫn Thực Dưỡng, giảng dạy và in tạp chí. Ông rất gắn bó với Ohsawa - ông gần như mất trí khi Ohsawa mất năm 1966. Sau đó, theo lời vợ ông kể lại, ông bắt đầu ăn uống ở nhà hàng và uống cà phê. Rồi bệnh ung thư tái phát trở lại. Năm 1967, ông đau ốm đến mức phải tới Nhật để điều trị ung thư, nhưng đã quá muộn và ông chết ở Nhật. Qua mổ xác, người ta khám phá ra rằng ông đã bị ung thư nhiều năm rồi. Nói cách khác, 7 năm ăn uống Thực Dưỡng không chữa được nó, mà chỉ dừng sự phát triển của nó mà thôi.

Một người bạn khác của tôi cũng mắc ung thư khi ở Nhật. Sau đó, ông tới gặp Ohsawa và bắt đầu chế độ ăn kiêng và ngăn được ung thư, nhưng ông nghĩ ung thư đã được chữa khỏi hẳn. Sau đó, ông tới Mỹ và bắt đầu mở các nhà hàng Thực Dưỡng. Tiếp đó, ông mở dịch vụ hướng dẫn du lịch cho khách Nhật Bản. Ông thường đi ăn với khách du lịch người Nhật ở các nhà hàng sang trọng, nơi thức ăn được dùng với đầy phụ gia, chất hóa học và màu thực phẩm trông giống như thực phẩm động vật.

Ông theo nguyên tắc Thực Dưỡng 20 năm, đáng lẽ ung thư phải nhỏ đi, nếu không nói là dứt hẳn. Đằng này ung thư lại phát triển lại. Ông đi Nhật Bản để phẫu thuật và mất tại đó.

Ông Ohmori, một y sĩ chữa bệnh ung thư, có lần đã nói là các bệnh nhân ung thư không sống quá 5 năm sau khi được chữa lành bằng pháp Thực Dưỡng. Theo ý tôi, ung thư không được trị lành hẳn mà chỉ ngưng phát triển. Tuy nhiên, bệnh ung thư có thể được kiểm soát chừng nào bệnh nhân còn theo đúng phương pháp Thực Dưỡng. Đây không phải là cái cớ chứng tỏ Thực Dưỡng là lối trị liệu tạm thời có giá trị trong vòng 5 năm, nhưng nó chứng tỏ lời Ohsawa thường nói rằng Thực Dưỡng chỉ cứu người ta một lần thôi.

Muốn trị dứt ung thư ta phải hiểu rõ trật tự vũ trụ vô biên, đó là sự công bằng, để bệnh nhân tuân thủ phương pháp ăn uống Thực Dưỡng với niềm tin yêu chân thành. Thực Dưỡng không phải lối chữa đối chứng trị liệu. Hiểu rõ như thế, ta sẽ sống trọn đời với nguyên lý Thực Dưỡng. Như vậy bệnh nhân sẽ phải thay đổi hoàn toàn về chế độ ăn uống, nếu không như vậy thì khó chữa lành được bệnh ung thư. 

Tiên sinh Ohsawa dạy rằng: “Niềm tin là hiểu được trật tự vũ trụ vô biên. Thiếu niềm tin thì bệnh ung thư không lành. Ung thư là một thử thách khiến bệnh nhân phải tái lập niềm tin để hòa nhập vào vũ trụ vô biên. Đánh mất niềm tin, ngay cả pháp Thực Dưỡng cũng chỉ là lối chữa trị tạm thời”.

Trong “Thiền Thực Dưỡng” (Zen Macrobiotics - Tân Dưỡng Sinh), xuất bản năm 1965, Ohsawa nói: “Nếu bạn có niềm tin thì không có cái gì khó khăn cả. Vì niềm tin của bạn chưa bằng hột cải nên mới có khó khăn. Tội lỗi, thù nghịch, nghèo nàn, chiến tranh và những chứng bệnh bất trị rốt cuộc chỉ là hậu quả của sự thiếu vắng niềm tin”.

Niềm tin là sự đánh giá vô biên. Không hiểu rõ trật tự vũ trụ, bạn không có được niềm tin. Nếu bạn chỉ tin vào các sự việc người đời bày vẽ ra như luật pháp, quyền uy, kiến thức, khoa học, tiền, thuốc men… thì bạn chỉ tin vào thế gian tương đối, chứ không phải vô biên. Mọi sự đánh giá tương đối chỉ là tạm thời, ít có giá trị, nên bạn phải học quán chiếu siêu thể của vô biên hay Thái cực, học về quyền năng tạo hóa vĩnh cửu.

Cấu trúc của vô biên thì toàn năng (omnipotent), toàn trí (omniscient), trùm khắp (omnipresent). Vô biên thì tối thượng và còn được gọi bằng một cái tên khác nữa là Thượng đế. Thượng đế tạo ra vạn vật, vì thế bệnh tật hay sức khoẻ cũng do ý muốn của Thượng đế. Thượng đế hiện ra khắp nơi ở 2 thể trạng: bệnh tật và sức khoẻ. Con người được tự do chọn lựa ốm đau hay khỏe mạnh, điều dĩ nhiên là chúng ta luôn lựa chọn sức khoẻ. Để làm được điêu này, chúng ta phải học để hiểu trật tự vũ trụ. Nói cho rõ hơn, ta phải sống an nhiên tự tại thay vì bị dính mắc vào giác quan, lệ thuộc xác thân có khuynh hướng chọn thức ăn vì lợi dưỡng. Con người tự do chọn thức ăn để khai mở tâm linh, để sống với thể tánh tinh minh.

Vậy ung thư là sản phẩm của Thượng đế, mà nhờ đó con người học được cách sống lành mạnh. Chỉ đến khi bệnh nhân hiểu điều này thì ung thư mới được chữa lành. Nhưng ai đã được một lần chữa khỏi bệnh ung thư nhờ pháp Thực Dưỡng và bị bệnh trở lại, thì hầu hết đều là những người không thể hết bệnh. Trong Thiền Thực Dưỡng trang 9, Ohsawa viết cách đây 20 năm: “Không có bệnh nào bất trị, nếu ta sống hòa hợp với Thượng đế, Đấng tạo hóa của vũ trụ vô biên này, của thế giới tự do, hạnh phúc và công bằng này. Nhưng vẫn có một số người bệnh không thể được chữa lành, hay không thể được giáo dục để tự chữa lành.

Kẻ ốm đau không ngớt cầu xin được chữa lành. Họ mong có được ý chí để thoát khỏi bệnh chứng khổ đau. Ước muốn như thế, chỉ là khát vọng trốn khỏi hiện trạng mà thôi. Ôi ! Cả một tư tưởng chủ bại. Đó là thái độ muốn chối bỏ trật tự vĩnh hằng của vũ trụ, một trạng thái dao động giữa khó khăn và khoái lạc, giữa bệnh tật và sức khoẻ. Muốn sống trong tâm tĩnh lặng, mà bám chặt một trong hai cực đối lập thì không thể được. Chúng ta phải thường xuyên tái tạo hạnh phúc cho chính chúng ta, bằng cách công nhận bệnh chứng và chữa lành vào mỗi khoảnh khắc của đời ta.

Một số người trông chờ người khác, hoặc máy móc chữa lành bệnh, ngay sau đó họ tỏ ra không can hệ gì đến bản thân, và đấy chính là căn nguyên của bao bệnh tật.” 

Nói tóm lại, người nào chữa lành ung thư nhờ phương pháp Thực Dưỡng mà không tự suy xét cặn kẽ rằng chính họ (hay tự ngã) là duyên cớ của ung thư và rằng dục vọng của họ đã vượt quá xa mức trung bình của sức khoẻ (mức đó là sống đạm bạc, thức ăn hầu hết thuộc cốc loại hay rau quả) thì người đó vẫn còn bệnh. (BÀI THỨ 13 - KÍNH VẠN HOA - HERMAN AIHARA)


http://thucduong.vn/forums/index.php?showtopic=196&mode=threaded

***

III.- Ung thư: Nguyên nhân và hình thành


Trong môn cơ thể học, người ta biết rằng đơn vị nhỏ nhất để cấu tạo thành cơ thể con người là tế bào. Nguyên lý căn bản của nó là có thể tăng trưởng, giảm thiểu, chết đi hay tái sinh trở lại.

Bệnh ung thư phát khởi từ đâu ?

So sánh ra thì nó liên lạc mật thiết tới nguyên lý sinh trưởng của tế bào. Nói đến ung thư là phải đề cập tới tế bào của cơ thể con người. Bởi vì thuốc men và chất hoá học hợp lại trong cơ thể dẫn đến sự biến hóa hóa học mà đôi khi trở thành đột biến. Sự biến hoá tế bào này đã làm cho các tế bào bị hủy diệt hoặc bị phân vỡ.

Ở khoảng trống giữa các tế bào bị phân hoá, một số các tế bào khác đã xuất hiện để thay thế. Những tế bào đặc biệt này, trong quá trình phát triển, có khả năng tự chuyển hóa thành tế bào ung thư. Nếu chúng ta giải phẫu cắt bỏ nó đi, nó vẫn phát triển trở lại. Chúng tập trung nhanh hơn ở một chỗ để tạo thành một khối u, gọi là ung bướu (tumor).

Ung bướu là các tế bào bị phân hóa tập họp lại với nhau. Có khi chúng phân hoá tới một lúc nào đó rồi ngưng, thành ra cục bướu vẫn trơ trơ như không phát triển hoặc phát triển rất chậm. Trường hợp này gọi là bướu lành hay bướu luơng tính (benign), đối với sức khoẻ con người không có gì đáng ngại. Ngược lại, nếu các tế bào đó tập trung lại rồi nhưng vẫn tiếp tục gia tăng tốc độ phân hóa không ngừng, làm những cục bướu lớn nhanh thì những bướu đó gọi là bướu độc, bướu ác tính hay bướu ung thư.

Tại sao trong cùng 1 cơ thể mà lại có những tế bào "phản phúc" gia tăng tốc độ phân hóa một mình bất chấp quy tắc?


Nguyên do là vì những tế bào đó tuy cũng là tế bào của cơ thể trong một bộ phận của con người nhưng lại là những tế bào không cần thiết (phi tất yếu). Cho nên nó có khả năng tách rời đồng bọn mà tự hành động một cách đơn phương. Theo nguyên tắc thì những tế bào của con người không thể tách rời nhau mà phải cùng nhau kết hợp để tạo thành bộ phận trong cơ thể. Nếu 1 hay nhiều tế bào bị hủy diệt thì lập tức những tế bào khác tự sản sinh ra bằng cách trực phân để bù đắp cho số lượng trở lại rồi ngừng nghỉ. Ðó là những tế bào khoẻ, tế bào bình thường trong 1 cơ thể khoẻ mạnh.

Ngoài ra, chất đạm (protein) có hàm chứa một nguyên tố khác gọi là chất "giao nguyên". Chất này có liên quan mật thiết với sự phát triển của tế bào ung thư. Giao nguyên là chất protein chủ yếu để cấu tạo thành cơ thể của động vật. Nó có ở trong da, xương dẻo, gân (tendon), lông và tóc... và đóng một vai trò chủ yếu. Nó chiếm 1/3 thành phần của chất protein. Người ta có thể quan sát nó bằng kính hiển vi điện tử.

Chất giao nguyên lại được tổng hợp bởi nhiều nguyên tố khác. Khi bị đun nóng, giao nguyên sẽ bị nóng chảy và khi nguội thì đông lại thành 1 chất trong suốt và dẻo. Các tế bào giao nguyên thường hay phân hủy nhất. Có 2 trường hợp phân hoá dị thường:

1.- Thứ nhất là khi người ta hấp thụ quá độ vào cơ thể chất béo động vật và chất vôi (calcium). Các chất này thường hàm chứa trong sữa bò, phó mát (cheese) và thịt động vật.

2.- Thứ hai là các nguyên liệu hóa học phụ gia trong thực phẩm và nước uống được biến chế bằng kỹ nghệ. Nếu dùng quá độ các thực phẩm gia công biến chế hay nước uống hoá học này rất có hại. Các chất này phần lớn là chất lạ đối với tế bào, nên thường gây ra các phản ứng dị thường. Các tế bào cũng bị kích động và bị lôi cuốn phân hủy theo nên thường xẩy ra bệnh tật mà điển hình là bệnh Ung thư.

Khi thử nghiệm những tế bào của những bệnh nhân chết vì ung thư phổi, người ta phát giác ra chất calcium dầy đặc trong các phế bào nhiều gấp 15 đến 23 lần đối với người bình thường. Ðồng thời bên cạnh chất vôi đã bao bọc cứng các phế bào, chính là tế bào ung thư vây quanh hàng hàng lớp lớp. Trong số 10 người chết vì ung thư phổi đã có 9 người có tình trạng giống như vậy. Tóm lại tế bào ung thư là nguyên nhân đã gây nên cái chết cho bệnh nhân hay chính chất vôi kết hợp tế bào lại thành khối cứng đã gây ra cái chết? Giờ đây các khoa học gia còn phân vân chưa giải thích thỏa đáng được.

Ngoài ra khi quan sát tim của những bệnh nhân chết vì bệnh tim mạch, người ta cũng phát hiện 90% chất vôi đóng đầy các cơ tâm làm cho trái tim cứng giống như "đá" vậy .

Ngày nay vì sức khoẻ, người ta thường hay dùng thực phẩm chứa nhiều calcium hay uống thuốc calcium để bồi bổ. Một câu hỏi được đặt ra là nếu sử dụng quá độ calcium thì sao? Quý vị độc giả sẽ suy nghĩ để tự trả lời.

Làm thế nào để phòng ngừa bệnh ung thư?


Sau đây tôi đề nghị cho quý vị độc giả phương pháp kiện thân để phòng ngừa bệnh ung thư hữu hiệu nhất. Hằng ngày quý vị nên dùng 600cc (2.5 cup 1 cup=240cc) Canh Dưỡng Sinh và 600cc nước gạo lức rang. Ðấy là liều lượng vừa phải, không nên dùng quá liều. Ngoài ra tôi đề nghị quý vị nên dùng thêm Hoàn Sơn Dịch Miêu hay Liên Kiến Dịch Miêu. Hoàn sơn dịch miêu là vị thuốc giảm đau khi cớ thể bị đau nhức.

Khi ung thư mới phát khởi xin tuyệt đối không dùng chất béo và calcium. Phương pháp phòng ngừa này hữu hiệu cho các chứng ung thư kể cả bướu não. Ngoài ra nó còn phòng chống được các chứng máu đông, cao áp huyết, viêm gan, viêm thập nhị tràng, bệnh tim mạch, bệnh đục nhân mắt, đau khớp xương đầu gối và bệnh thấp khớp. Khi bắt đầu uồng đến ngày thứ 15 thị lực sẽ gia tăng, uống từ 4 tháng trở lên sức khoẻ sẽ sung mãn.

Miễn dịch và kháng thể

Miễn dịch (Immunity)

Là đặc tính trong cơ thể con người hay động vật đề kháng lại với 1 hay nhiều bệnh tật. Có 2 loại miễn dịch: a. tiên thiên miễn dịch là tự nhiên cơ thể có sức chống cự lại sự tấn công của vi khuẩn hay bệnh tật nào đó như là một loại miễn dịch bẩm sinh; và b. hậu sinh miễn dịch cũng có 2 loại:

1. Nhân tạo miễn dịch có nghĩa là người ta cố ý tạo ra cho cơ thể có đặc tính chống lại vi khuẩn và bệnh tật (các thứ thuốc chích ngừa).
2. Hậu bệnh miễn dịch là khi một người bị bệnh nào đó sau khi được chữa lành rồi sinh ra tính miễn dịch nghĩa là sau này cơ thể sẽ không bị nhiễm loại bệnh tương tự như vậy nữa. Vì vậy mà có 1 số bệnh chỉ xẩy ra một lần cho một con người mà thôi.

Kháng thể (Antibody)

Là sức đề kháng của cơ thể có khả năng chống lại bệnh tật. Chủ lực của kháng thể là bạch huyết cầu hay một kháng tố đủ sức tiêu diệt được vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể để gây bệnh tật.

Nguyên nhân của bệnh hoại huyết

Bệnh hoại huyết gây ra do sự sử dụng quang tuyến liệu pháp hay quang tuyến tầm bệnh quá nhiều làm cho tế bào bị hủy diệt. Muốn chữa bệnh này nên dùng 600cc Canh Dưỡng Sinh và nước gạo lứt. Mỗi ngày hồng huyết cầu sẽ gia tăng được 12 ngàn bạch huyết cầu sẽ gia tăng khoảng 700 đến 1100. Ðộ 1 tháng sau có thể hồi phục số lượng đầy đủ.

Lý do sử dụng niệu liệu pháp

Tôi đã có khinh nghiệm áp dụng niệu liệu pháp từ nhiều năm qua. Tuy có nhiều ý kiến phản đối tuy nhiên mục đích của tôi là nghiên cứu tất cả mọi phương pháp hầu cứu chữa bệnh nhân. Phương pháp này dùng những vi khuẩn đã có tính cách phản kháng lại bệnh hoà chung với Canh Dưỡng Sinh để trở thành một loại thuốc có sức đế kháng rất cao đối với bệnh tật.

Cách dùng: Buổi sáng khi bệnh nhân tiểu tiện lần đầu, phần nước tiểu đầu tiên bỏ đi, chỉ hứng lấy phần giữa khoảng 30cc (30 ml hay 1/8 cup), đem hòa chung với 150cc Canh Dưỡng Sinh.Phải dùng nước tiểu của chính bệnh nhân mới có công hiệu, vì trong đó đã có chứa sẵn kháng thể ngay trong cơ thể bệnh nhân với nồng độ mạnh. Phương pháp niệu liệu pháp này hoà chung với Canh Dưỡng Sinh có hiệu nghiệm nhanh chóng gấp 3 lần cách chỉ dùng Canh Dưỡng Sinh một mình và đã cứu chữa được rất nhiều người.

Lưu ý là muốn chữa bệnh Aids thì phân lượng nước tiểu phải thêm 180cc mỗi ngày chia làm 3 lần (60cc) cộng với 120cc Canh Dưỡng Sinh nếu đã đến thời kỳ nguy ngập.

Trị bệnh nội tạng và đường tiểu

Ngăn ngừa và trị bệnh tiểu đường


Thông thường trong nước tiểu bài tiết ra ngoài có lượng đường, người ta bảo người đó bị bệnh tiểu đường. Tuy nhiên bệnh tiểu đường không phải chỉ biểu hiện ở bên ngoài mà còn ở trong nội tạng của con người nữa. Sự kiện này đối với sự phát hiện lượng đường trong nước tiểu không giống nhau. Trong trường hợp này cần phải lưu ý đến triệu chứng của nó. Có những bệnh nhân bất thình lình bị ngất xỉu hay toàn thân run lẩy bẩy, được đưa vào bệnh viện để khám nghiệm mới hay là mình mắc bệnh tiểu đường.

Về cách trị liệu bàng Canh Dưỡng Sinh thì mỗi ngày uống 600cc nước gạo lứt và 600cc Canh Dưỡng Sinh. Sau một năm trị liệu như vậy đã có gần 90% người khỏi bệnh. Thường ngày đi làm có thể mang theo nước gạo lứt để uống thay nước trà, còn sáng và tối uống Canh Dưỡng Sinh. Bình thường trong sự ăn uống chúng ta không nên kiêng cữ quá khắt khe, như ăn đường và uống rượu chẳng hạn, chỉ sử dụng ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên ta nên ăn cơm thay vì ăn bánh mì và kiêng cữ sữa bò, các sản phẩm có hợp chất sữa bò, bơ, thịt các loại, nhưng thỉnh thoảng có thể ăn cá vì trong cá có 3 tới 7 lần chất dinh dưỡng thiên nhiên nhiều hơn như calcium, chất sắt và sinh tố B2 và chứa rất ít chất mẫn cảm đối với bệnh tật.

Sau khi uống Canh Dưỡng Sinh độ 10 ngày thì 63% bệnh nhân có kết quả khả quan hơn nghĩa là không còn chất đường trong nước tiểu của họ nữa. Sau 1 năm uống Canh Dưỡng Sinh bệnh nhân sẽ hoàn toàn bình phục và khoẻ mạnh. Các bệnh nhân tiểu đường cũng nên lưu ý đừng để lượng đường trong máu xuống quá thấp.

Vận động thân thể liên quan đến sự điều tiết hormone


Sự vận động thân thể liên quan đến việc khống chế lượng đường gia tăng trong máu. Cho nên người bị tiểu đường nên chú ý tới hoạt động thể lực để cho việc phân phối chất hormone được điều hòa.

Có 2 loại hormone: Loại "Tâm Phòng Tính (ANP) và loại "Não Tính (BNP). Người ta đã thí nghiệm trên cơ thể con chuột chất hormone ANP làm giảm lượng đường trong máu còn loại hormone BNP thì điều tiết sự hoạt động của thận và huyết áp.

Những người năng làm việc hoạt động chân tay, khiêu vũ ca hát và cười lớn tiếng vân vân, là những người luôn luôn được khoẻ mạnh. Ngược lại những người ít hăng hái hoạt động ăn no rồi ngủ là những kẻ dễ mắc bệnh tiểu đường và những bệnh tật khác. Do đó trong cuộc sống hằng ngày chúng ta tránh lo lắng suy tư, giận dữ vì đó là nguyên nhân là cho chất hormone và betacarotene phân phối rối loạn và không đầy đủ có ảnh hưởng đến sự bài tiết lợi tiểu và điều hoà áp huyết. Chúng ta nên làm việc một cách tự nhiên thoải mái và nên vận động bản thân như đi bộ, chạy chậm chậm, lên xuống thang lầu nhiều lần trong ngày.

Làm thế nào khắc phục bệnh lú lẫn của người già


Trí năng khi phát triển tới một giới hạn nào đó thì vì bệnh hoạn hay tuổi tác có thể bị suy thoái. Không phải chỉ riêng lý trí mà tình cảm và cảm giác cũng đồng thời suy thoái theo.

Phần đông khi đến tuổi già, về mặt sinh lý thì dù nhiều hay ít cơ thể và tinh thần cũng đều thoái hóa, cho nên người già thường hay mau quên và lẫn lộn. Nưng nếu cường độ suy thoái quá cao thì lẫn lộn trở thành lú lẫn, mất trí nhớ và tính phán đoán và lý giải sai biệt, trông có vẻ khù khờ hơn lúc còn trẻ. Gần đây chứng Alzheimer là chứng lú lẫn trầm trọng của người già cũng trở thành một vấn nạn cho cả thế giới. Y khoa thế giới hiện nay vẫn chưa giải đáp nguyên do một cách thoả đáng và phương pháp chữa trị vẫn chưa rõ ràng.

Có thể giải thích đơn sơ là tế bào thần kinh liên lạc giữa não bộ và tiểu não nửa chừng bị gián đoạn hoặc không còn ăn nhịp với nhau nữa. Khi giải phẫu não bộ người ta thấy những đường dẫn vi điện trên não bộ cũng vận hành một cách bình thường. Tuy nhiên vì con người ta hấp thụ quá nhiều calcium và chất béo động vật cho nên nó làm cản trở sự truyền sóng gây phản ứng nên sinh ra lú lẫn. Còn có một giả thuyết cho là người bị bệnh Alzheimer là do dùng thuốc thuốc men qua lâu dài, dù rằng một số thuốc bảo rằng không có hại nhất là loại thuộc vượng tim và những loại thuốc trị bệnh cao áp huyết.

Sữa và thịt đã được biến chế sẵn có thể gây ra chứng lãng quên


Phần lớn những chất đạm trong thịt động vật, sữa bò và các sản phẩn từ sữa bò ra biến chế ra có thể làm sai lệnh tính miễn dịch của cơ thể và tuổi thọ của con người. Ngày nay có những trường hợp lạ lùng là thiếu niên mới mười mấy tuổi mà tóc đã bạc, bị bệnh áp huyết cao, tiểu đường, thập nhị chỉ tràng và loét bao tử; đôi khi có người mới 20 thôi mà đã mắc chứng lú lẫn của người già thì chỉ vì họ hấp thụ quá nhiều thịt động vật và sữa bò trong quá trình phát triển cơ thể và trí não của họ.

Khi quan sát não bộ một tử thi chết vì bệnh Alzheimer người ta tìm thấy các sắc tố của chất hoá học, chính những chất này làm gián đoạn hay che khuất cơ năng của não, khiến cho sự truyền đạt tin tức bị trở ngại. Nhiều người có thói quen uống một lúc 2, 3 thứ thuốc vì không hiểu rằng thuốc men đều có tác dụng phụ có thể phản ứng với nhau gây ra chất độc.

Canh Dưỡng Sinh chữa được chứng lú lẫn của người già


Mỗi ngày bệnh nhân nên uống 600c Canh Dưỡng Sinh trở lên, vì nước canh này hàm chứa một chất lượng lân tinh khá lớn giúp ích cho tế bào não tăng trưởng.

Ngoài ra tránh việc dùng máy sưởi mà nên cho đầu và thân thể mình hưởng chút lạnh dễ chịu hơn. Nhiều nơi đã bắt đầu chữa trị bệnh lú lẫn và phong thấp của người già bằng cách cho họ vào phòng lạnh Ợ30 C đến Ợ 40 C trong vòng 2, 3 phút đã đạt được kết quả hữu hiệu.

Nghiên cứu trường hợp 140 bệnh nhân tại Nhật Bản, để điều tra lý lịch và xem quá trình họ có cha mẹ, anh em bị bệnh lú lẫn không, thấy bệnh lú không có di truyền. Sau một năm nghiên cứu và đây là kết quả của những phụ nữ thanh xuân hay đeo đồ trang sức so với những người không đeo trang sức:

  • Ðôi vai đau nhức và thấp khớp
  • Rối loạn thính giác, không nghe được âm thanh nhỏ
  • Thị giác bị chướng ngại (loạn, viễn hay cận thị). Nhiều khi còn trẻ mà mắt đã bị cườm
  • Phản ứng và suy nghĩ chậm chạp
  • Mất ngủ, táo bón, cơ thể mất tính đàn hồi, bắp thịt không rắn chắc
  • Tinh thần nhu nhược không ổn định.

Ðã thực hiện những thí nghiệm như sau:

1. Ðeo khoen với vàng 3 carat vào hai tai của con dơi: nó không bay được 

2. Ðeo khoen vào hai tai con chuột: nó chạy vòng vòng chứ không còn biết phương hướng khác

3. Ðeo khoen vào tai con rắn: Nó nằm như cục gỗ không bò thẳng được 

4. Ðeo khoen vào tai hay cổ con chó hay con mèo: không bao lâu con vật sẽ chết

Do đó đưa đến kết luận là sinh vật rất nhạy cảm với các chất kim loại nên sanh ra phản ứng tai hại. Con người đeo nhiều nữ trang quá sẽ cản trở cho việc truyền điện vì cơ thể con người thường phát sinh ra một dòng điện rất thấp. Dòng điện xuyên qua lớp da truyền đạt qua thần kinh, mang những mệnh lệnh phát ra từ não bộ phần phối đi khắp bộ phận trong cơ thể. Kim khí làm cản trở và gián đoạn hệ thống truyền tin có thể không nhận lệnh phản công được khi bị vi trùng hay vi khuẩn tấn công nên thua trận và sinh ra bệnh tật.

Thông thường con người khi qua 25 tuổi sẽ mất khoảng 100,000 tế bào 1 ngày nhưng nếu đeo nhiều kim khí quá thì sẽ mất gấp 3 lần như vậy.

(nguồn: http://quangduc.com)

No comments:

Post a Comment