Cái đêm kinh hoàng mẹ giết con để cứu cả làng đã trôi qua gần nửa thế kỷ,nhưng thời gian không thể xóa nhòa nỗi đau ấy. Người mẹ đau đớn hóa điên dại, 46 năm nay vẫn ngày ngày ôm chiếc khăn từng quấn con trai ngày xưa, đi từ làng trên đến xóm dưới hát ru.

Nhiều đêm mưa gió, bà đốt nhang, một mình vào rừng, miệng lẩm bẩm ” phải tìm được mộ con” . Nỗi ám ảnh chiến tranh đã đi theo bà Lê Thị

 Nghê (còn gọi Năm Nghê, 80 tuổi, ngụ thôn Linh Kiều, xã Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam) suốt cuộc đời.

Cầm chiếc khăn, bà hốt hoảng nhớ về cái chết của con
Cầm chiếc khăn, bà hốt hoảng nhớ về cái chết của con

Đứa trẻ chết đế cả làng được sống

Đi từ khu vực chợ Hiệp Hòa xuôi về phía thượng nguồn sông Thu Bồn, chỉ cần thăm hỏi tên Năm Nghê, người dân nào cũng sốt sắng tận tình dẫn đường, ông Trần Quang Tiên, trưởng thôn Linh Kiều Đối với trọng kính trọng: “Những đứa trẻ cũng biết bà. Từng tự tay chôn sống con, thương bà vô cùng. Vì ám ảnh đó mà mấy mươi năm qua, bà sống không ra sống, cứ điên dại nửa tỉnh nửa mê. Có đêm nhớ con, bà Nghê băng sông, mang nhang đi khắp rừng khấn vái tìm kiếm”.
Cuộc đời bà Nghê rẽ ngoặt sang hướng tối tăm, vào một đêm mưa gió đầu tháng 10/1969, Mỹ rải hàng chục tấn bom xuống tàn phá thôn nghèo. Trong chiến tranh, thôn có tên Trà Linh, thuộc xã Quế Tân, huyện Quế Tiên, tỉnh Quảng Nam (sau giải phóng mới đổi tên thành Linh Kiều, thuộc xã Hiệp Hòa, huyện Hiệp Đức như bây giờ). Vùng thượng nguồn sông Thu Bồn được coi như chiếc nôi cách mạng, nên nơi đây cũng là tâm điểm để giặc Mỹ thường đổ quân đến càn quét. Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, Mỹ tăng cường đánh phá vùng rừng núi và trung du các tỉnh miền Trung. Bộ đội và du kích xã Quế Tân anh dũng chiến đấu, bắn rơi một máy bay, bắn cháy hai tàu chiến, tiêu diệt hơn 50 lính Mỹ. Giặc điên cuồng trả thù, sáng một ngày đầu tháng 10/1969 cho máy bay rải thảm bom, điều tàu chiến ngược sông Thu Bồn, huy động lính thủy quân lục chiến hủy diệt vùng căn cứ cách mạng.
Bà Nghê dắt con gái Lê Thị Liên (4 tuổi) và con trai Lê Tân (3 tháng tuổi) đi cùng với 200 người dân thôn Linh Kiều, theo cán bộ và du kích vào ẩn náu trong hang Hòn Kẽm. Địa đạo thiên tạo này rất hiểm trớ, chỉ người dân trong vùng mới biết. Qua vài ngày càn quét chỉ gặp cảnh “vườn không nhà trống”, giặc đoán dân làng dã trốn, nên cho pháo bầy, đại liên, máy bay, tàu chiến… vãi đạn vào núi dọn đường để mở cuộc tìm kiếm tàn sát dân làng.
Cả tuần liền chạy giặc, không chết vì bom đạn, nhưng cái đói hoành hành dân làng, trong đó có mẹ con bà Nghê. “Nhiều lần chạy giặc trước, lính Mỹ thường đổ bộ 3 ngày sẽ rút đi, nên chúng tôi đem lương thực đủ ăn 3 ngày. Lần này cẩn thận hơn, bà con đem theo tới 5 ngày lương thục, nhưng không ngờ Mỹ ở lại lâu quá. Bà Năm Nghê mới sinh con được 3 tháng, chồng vừa chết mây ngày trước vì trúng bom B52 nên nhà chẳng có khoai bắp gì. Thời gian đầu bà Nghê còn được giúp đỡ, về sau ai cũng hết lương thực, ai cũng đói khát, nhất là bọn trẻ”, ông Trần Ngọc Tân (70 tuổi, hàng xóm, nhân chứng sự việc năm xưa) rưng rưng nhớ lại.
Tối ngày 6/10, chị Lê Thị Tiền (Sáu Tiền, một thôn nữ trong làng) thấy trời mưa, nghĩ địch không phục kích, liền bò ra khỏi hang để về rẫy kiếm khoai lang. Tuy nhiên, đi được chừng 30 phút, chị lọt vào ổ phục kích của giặc Mỹ, bị bắn chết. Chưa lần ra nơi trú ẩn của dân làng, giặc càng điên cuồng khoanh vùng, sục sạo từng mét đất, bới từng ngọn cỏ, bắn phá ác liệt hơn. Lúc này, ngoài chịu đựng cơn đói, hàng trăm người dân trú ẩn còn phải tuyệt đối im lặng để tránh bị giặc phát hiện, giết chết. Riêng đứa bé 3 tháng tuổi thì khác. Đứa trẻ còn quá nhỏ, mẹ đói quay quắt nài con cũng đói sữa. Ngày đêm đứa trẻ cứ khóc thét, dỗ kiểu gì cũng không chịu nín.
Đêm 8/10/1969, trời vẫn mưa, tiếng súng đì đùng ngày một gần, tiếng trẻ càng ngằn ngặt khóc vọng ra phía ngoài hang. Hàng trăm gương mặt hốc hác toát lên nỗi lo sợ, bàng hoàng hướng mắt về phía mẹ con bà Năm Nghê. Thiếu phụ ôm chặt núm ruột đang ngằn ngặt khóc vào lòng, rồi đi đến một quyết định bất ngờ: “Mẹ không muốn giết con, nhưng để dân làng được sống, con phải chết..”. Thiếu phụ vội cởi chiếc áo quấn con lại, ôm con bò lên khỏi miệng hang. Mặc cho mưa rơi hòa lẫn nước mắt, bà dùng hai tay móc đất ướt lạnh chôn sống đứa con. Dưới ánh chớp của đạn pháo sáng, thấy lớp đất đang rục rịch, biết con quẫy đạp, người mẹ vẫn gạt nước mắt xóa dấu mặt đất. Vừa kịp tiếng lao xao của giặc tới gần, bà lao vào hang, cắn bật máu môi để không bật ra tiếng khóc.

Ám ảnh cả đời

Nỗi đau buồn như vón cục trong hang núi chật chội. Ba ngày sau đó, không còn nghe tiếng pháo rền nữa. Một buổi sáng sớm, ông Tân bò ra bên ngoài xem tình hình, khi biết chắc giặc Mỹ đã rút quân, vội vào báo với bà con dắt díu nhau quay lại làng cũ. Xã Hiệp Hòa về sau còn trải qua thêm 3 cuộc càn quét khốc liệt tương tự, đến khi bộ đội chính quy về bảo vệ dân làng, Mỹ mới không dám tấn công trở lại
Cuộc đời bà Năm Nghê tan nát vì giặc Mỹ. Gia đình có 8 anh em, 7 người đều chết do trúng đạn B52. Sau đêm buộc phải chôn sống con, người mẹ thường xuyên u uất, sinh bệnh tật, sức khỏe yếu dần. Thời gian đầu, một phần gắng gượng vượt chiến tranh loạn lạc, phần còn con gái nhỏ dại, bà nén lại đau khổ, gắng gượng làm lụng nuôi con. Không còn ai thân thích, trong căn nhà tạm bợ, cuộc sống của mẹ con bà Nghê luôn dưới mức nghèo khố. Năm 25 tuổi, con gái bà kết hôn với một người làng bên, cùng cảnh đói rách, sinh liền 5 đứa con, vợ chồng con cái đưa nhau lên tận các bãi vàng Phước Sơn đào đãi, làm thuê kiếm sống. Không thể giúp được gì cho con gái, con gái cũng không thể giúp gì được mẹ, từ đó bà Nghê sống lủi thui một mình trong căn nhà tạm bợ.
Mỗi lần nhớ con, bà Năm Nghê đốt nhang đi trong rừng khấn nguyện
Mỗi lần nhớ con, bà Năm Nghê đốt nhang đi trong rừng khấn nguyện
Nỗi ám ảnh cái đêm kinh hoàng giết con ngày càng bùng phát, khiến bà có dấu hiệu điên tỉnh lẫn lộn. Trước tình cảnh trên, vợ chồng chị Liên ra sức khuyên bà về sống cùng, cắt cử nhau người đi làm, người ở nhà trông mẹ. Thời gian sau, các cháu lớn dần, phụ giúp thêm việc canh giữ, nhưng vẫn không cản được bước chân của bà lão. Bà lão ngày ngày luôn miệng lẩm bẩm “phân trần” với con cháu và xóm làng: “Thằng Tân được mẹ mang lên miệng hầm chôn, nhưng 3 ngày sau thì mất dấu mộ rồi”. Bà hóa điên, ngày ngày ôm chiếc khăn từng quấn con trai ngày xưa, đi khắp làng trên xóm dưới hát ru. Đêm mưa gió, bà lại đốt nhang, một mình vào rừng miệng thì thào “phải tìm được mộ con”. Cứ sau mỗi lần lang thang như vậy, bà lại đau một trận thừa sống thiếu chết, hết tai biến, đến gãy tay chân, nhiều khi nằm viện cả tháng trời. Để an lòng mẹ, mới đây gia đình được các đoàn thể giúp đỡ góp 3 triệu đồng xây ngôi mộ gió trước cửa hang núi Hòn Kẽm.
Rất nhiều lần con gái làm đơn xin trợ cấp cho mẹ, nhưng ngành lao động thương binh và xã hội các cấp đều trả lời “không biết xếp bà Nghê vào diện chính sách gì”. Do đó, tới năm nay, khi bước qua tuổi 80, bà Nghê mới chính thức có được 180.000 tiền trợ cấp người già.
Đôi khi tỉnh táo, bà thẫn thờ rớt nước mắt: “Vì phải giết con, lại không tìm thấy xác nên tôi mới bị “trời hành”, muốn chết cũng không xong. Đói khổ, rách nát, ăn bốc ăn hốt dưới đất thế nào tôi cũng chịu, chỉ là đừng ai cản tôi đi tìm thằng Tân”.

Giữa danh giới cái Sống và cái Chết, 
Giữa danh giới cái Đói và cái No
Giữa danh giới cái Nghèo và Giàu

Con người ta thường nhận cái lợi về bản thân. Mấy ai nhận lấy cái thiệt về mình mà nhường cái lợi cho người khác?

Cảm ơn Mẹ để lại bài học cho con cháu, những người được thừa hưởng ĐỨC HY SINH này cần phải luôn ghi nhớ.

Mẹ an tâm, mẹ đang phải trả giá cho những đánh đổi, nhưng nhất định những hy sinh của Mẹ sẽ không phai mờ.


Còn người con của mẹ: Nguyện cho anh được Siêu Sinh về nơi Tây Phương Cực Lạc, bởi sự vui vẻ chấp nhận của anh đã cứu biết bao sinh mạng của con người trước sự tham lam tàn ác của những con người tham lam cướp bóc.

Em chưa hiểu được bản chất sự thật bên trong, nhưng em nghĩ tiếng khóc mà không nói thành lời của anh giống như việc anh muốn nói với mẹ anh rằng: hãy để anh hy sinh vì mọi người vậy. Một phần vì không thể chống cự đòi hỏi của cơ thể, nhưng em tin đó là 1 phần Đức hy sinh của anh. Anh hãy về nói với mẹ anh và chỉ cho mẹ anh nơi phần còn lại của anh ở đâu để mẹ anh an tâm. Vì mẹ anh xứng đáng được hưởng sự bình an. Bà đã sinh ra anh, yêu thương anh cả cuộc đời.

Nam Mô A Di Đà Phật