Wednesday, August 26, 2015

tóan mệnh tiên sinh

http://www.lsb-thuquan.eu/index.php/images/toi-la-thay-tuong-so-tac-gia-dich-chi-134356327.html

 16.06.2015

Tập 1 Chương 3aBÍ MẬT ĐỘNG TRỜI PHÍA SAU BÁT TỰ, ĐUỔI XÁC, CƯỚI MANguồn: NXB Lao động

Kết cục của Tiên Nhân Thủ Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Sống trên đời, con người ai chẳng phải dấn bước, giống như việc tôi gia nhập Đường khẩu vậy, đúng hay sai, sau khi bước vào rồi mới biết. Tôi biết Tổ Gia luôn dốc lòng, dốc sức lo cho vận mệnh của Đường khẩu, định nói vài ba câu chia sẻ với nỗi lo trong lòng Tổ Gia thì đột nhiên có tiếng gõ cửa gấp gáp bên ngoài vọng vào. Một lát sau, quản gia dẫn một người chạy vào, người đó vừa bước tới cửa đã kêu lên: “Tổ Gia, có chuyện rồi! Có chuyện rồi!”
Tôi vừa nhìn thì nhận ra đó là Tặc Miêu29, thủ hạ của Nhị Bá đầu. Khi đó cậu bé mới hơn 10 tuổi, nó vừa là chân sai vặt, vừa là đứa canh cổng cho Nhị Bá đầu. Vì thằng bé di chuyển nhanh thoăn thoắt, giỏi leo cây, trèo tường, nên mọi người gọi nó là Tặc Miêu.
Tổ Gia tỏ thái độ khó chịu trước bộ dạng hốt hoảng của nó, ông sầm mặt lại: “Làm sao mà cuống quýt lên thế! Cứ từ từ mà nói!”
Tặc Miêu thở hổn hển nói: “Tổ Gia, mau đi xem, Nhị gia và Thất gia đánh nhau rồi!”
Tôi giật mình, nghĩ bụng: Làm gì có chuyện, Thất gia do chính Nhị gia tiến cử cơ mà, vừa mới ngồi chưa ấm chỗ, đã dám làm phản rồi sao?
Tổ Gia nhìn chòng chọc vào mặt Tặc Miêu: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Tặc Miêu run lẩy bẩy thưa: “Nhị gia đang uống rượu với Thất gia, đột nhiên Thất gia như thể bị điên, ông ấy hất tung chiếc bàn lên, nhe răng đòi cắn Nhị gia. May sao Nhị gia nhanh như chớp, vớ ngay lấy chiếc ghế băng, nện ông ấy ngã lăn ra đất, mấy gia đinh xông đến trói gô ông ấy vào gốc cây rồi!”
Tổ Gia đứng dậy: “Đi, đi xem thế nào.”
Chúng tôi vội đi theo Tổ Gia đến nhà Nhị Bá đầu. Trong sân đèn đuốc sáng trưng, các anh em khác cũng đến cả, đang ồn ào huyên náo ở trong.
Tôi thấy Tiên Nhân Thủ đang bị trói vào gốc cây du trong sân. Anh ta giãy giụa như lên cơn điên, cặp mắt vằn lên tia máu, con ngươi như sắp nổ tung, ánh mắt sắc lạnh lóe ra, trông có vẻ sợ hãi xen lẫn giận dữ đưa mắt nhìn đám đông. Tuy miệng bị nhét vải, nhưng tôi vẫn nghe được tiếng gầm gừ, anh ta đang cố sức nhai nắm giẻ ấy, nước dãi sùi ra hai bên mép, rớt thành từng bãi dưới đất.
Nhị Bá đầu tay vẫn lăm lăm chiếc gậy đứng trong sân, tôi lẳng lặng đi đến, hỏi: “Nhị gia, xảy ra chuyện gì vậy?”
Nhị Bá đầu tức tối nói: “Mẹ nó, giả điên giả dại, định giết ta?” Sau đó đi đến trước mặt Tiên Nhân Thủ, giơ chiếc gậy lên, quát to: “Nói, ai bảo mày làm?”
Lúc này, Tiên Nhân Thủ càng cáu kỉnh không chịu yên, miệng vẫn phát ra những tiếng lùng bùng. Anh ta ra sức giãy giụa, khiến cả cái cây cũng rung theo. Nhị Bá đầu liền đập cho ông ta một gậy: “Tao cho mày giả vờ này. Tao cho mày giả vờ này!”
Tiên Nhân Thủ càng điên cuồng, kêu gào ầm ĩ toan nhảy bổ về phía trước, nhưng sợi dây thừng trên người thít chặt anh ta lại đến rớm máu, Nhị Bá đầu lại giơ gậy lên định đánh tiếp.
“Dừng tay!”
Nhị Bá đầu vừa nghe thấy tiếng Tổ Gia, lập tức rụt tay lại.
Tổ Gia bước đến trước mặt Tiên Nhân Thủ, anh ta ngoẹo đầu nhìn Tổ Gia, ánh mắt ngơ ngẩn nhìn theo bước chân ông, đầu lúc ngoẹo sang trái, lúc lại vẹo sang phải.
Tổ Gia nhìn một lát, rồi nói với Nhị Bá đầu: “Ngươi đến đây.”
Hai người đi đến góc tường. Tổ Gia hỏi Nhị Bá đầu: “Thất Bá đầu mới bị chó cắn phải không?”
Nhị Bá đầu không hiểu ý Tổ Gia, hỏi: “Chó ư?”
Tổ Gia nói: “Nhìn là biết ngay bị mắc bệnh dại! Ngươi cầm gậy đánh làm gì chứ!”
Nhị Bá đầu lúc này mới sực tỉnh, vỗ đầu nói: “Ồ, thảo nào tên tiểu tử này không muốn sống nữa, ngay cả con cũng dám đánh… Nhưng nó không hề bị chó cắn, việc giết chó mổ lợn là việc bên chỗ Đại Bá đầu làm, chúng con đâu động đến được.”
Những lời Nhị Bá đầu nói đều là thật. Mỗi Bá đầu đều được phân công công việc riêng, Đường khẩu muốn dàn cục Trát phi thường phải dùng đến tiết lợn, gà, chó, bàng quang lợn... những thứ này đều là do Đại Bá đầu đảm nhiệm. Đương nhiên, mỗi khi Đường khẩu có mâu thuẫn, xung đột với bên ngoài mà cần phải giết người, hoặc khi cần phải xử kẻ tội đồ nào đó trong nội bộ, càng phải do ông ấy làm, không biết đôi tay ông ấy đã vấy máu của bao nhiêu loài, cả động vật lẫn con người rồi.
Tôi đã tận mắt chứng kiến toàn bộ cảnh ông ấy mổ lợn. Cảnh tượng đó ám ảnh tôi trong suốt khoảng thời gian dài sau đó, khiến tôi không dám ăn thịt lợn, cứ nghĩ đến lại thấy buồn nôn.
Đầu tiên, ông ta sai mấy tên tay chân ghì ngược con lợn xuống đất, người cầm tai, kẻ nắm đuôi khiến nó kêu eng éc. Sau đó lấy dây thừng trói lại, buộc hai chân trước với nhau, hai chân sau với nhau, con lợn vẫn tiếp tục rống lên. Lúc này, Đại Bá đầu sẽ cầm một cái gậy, đập mạnh vào đầu con lợn. Thông thường chỉ cần ba gậy, nó sẽ không còn kêu được nữa. Sau khi con lợn lịm đi, vài người nhấc nó lên cối, kề cái chậu vào bên dưới cổ con lợn, Đại Bá đầu với lấy con dao nhọn đã mài sắc, chọc một nhát vào cổ, đây gọi là chọc tiết lợn. Chỉ cần một nhát dao, cổ con lợn bị đâm thủng một lỗ rất to, tiết lợn vẫn còn nóng hổi chảy ào ào xuống cái chậu bên dưới. Một con lợn to thường được hơn nửa chậu tiết, cùng với tiết chảy ra, tiếng kêu của con lợn nhỏ dần, cuối cùng im bặt.
Sau khi chọc tiết xong, họ bắt đầu mổ bụng. Đại Bá đầu sẽ lật con lợn nằm chổng chân lên trời, ông ta rạch một đường trên bụng từ trên xuống dưới. Lúc này, một hơi nóng tanh tanh tỏa ra, xộc lên mũi khiến mọi người đều cảm thấy buồn nôn.
Mổ bụng xong, họ bắt đầu móc lục phủ ngũ tạng ra, đặc biệt là phải bảo quản tốt bàng quang, để sau này khi cần bày Trát phi sẽ phải dùng đến.
Lần đầu tiên trông thấy cảnh này, chân tôi như nhũn ra, mọi người xung quanh hồ hởi đứng xem, chẳng biết có phải bọn họ bị tê liệt cảm xúc hết rồi hay không nữa. Tam Bá đầu còn lấy luôn đề tài này làm một bài vè rất nuột: “Hà vị nhân sinh tứ đại hồng? Tể trư đao, sát trư bồn, đại cô nương đích khố sát, hỏa thiêu vân.” Ban đầu nghe, tôi chẳng có phản ứng gì, về sau nhờ có bọn tay chân giảng giải nên cuối cùng tôi cũng đã hiểu: “Tể trư đao” tức dao mổ lợn. “Sát trư bồn” nghĩa là chậu đựng tiết lợn thì không cần phải nói, cả hai đều dính đầy máu đỏ tươi. “Hỏa thiêu vân” nghĩa là có thể thiêu đỏ rực một nửa bầu trời, cũng là màu đỏ, duy chỉ có câu “Đại cô nương đích khố sát” nghĩa là chiếc quần chẽn của đại cô nương là tôi chưa hiểu, đến khi bọn tay chân nói về kỳ kinh nguyệt của phụ nữ tôi mới chợt hiểu ra. Đúng là bọn bịp bợm không đáng sợ, chỉ sợ bọn bịp bợm có văn hóa!
Tôi tò mò hỏi những tên chân tay khác xem có phải Đại Bá đầu sinh ra đã hung ác như vậy không thì được biết rằng ông ta chỉ như vậy sau cái chết của vợ. Tôi hỏi tại sao vợ ông ấy chết, bọn kia nói bị lợn cắn chết.
Thì ra, mấy năm trước, Đại Bá đầu đã lấy một nữ A Bảo trong Đường khẩu, người phụ nữ ấy cũng rất đanh đá, giỏi thuật Trát phi. Vì Đường khẩu thường phải dùng đến tiết lợn và bàng quang lợn, nên Tổ Gia mới sai người nuôi mười mấy con lợn trong một mảnh vườn ở một nơi hẻo lánh, khi cần đến sẽ dùng làm đạo cụ.
Một lần, vợ của Đại Bá đầu dẫn theo một tên tay chân đến chọn lợn, đột nhiên bà ta bị lên cơn động kinh, lao đầu vào trong chuồng lợn, toàn thân co giật. Cùng lúc đó mười mấy con lợn cùng xông đến, cùng ngoạm, cùng cắn xé bà ta. Tên tay chân vội vàng cầm gậy đánh, nhưng chẳng ăn thua. Đàn lợn đó như bị dại, chúng ngoạm chặt không chịu thả. Chẳng mấy chốc đã cắn nát người bà ta, tên kia sợ đến tè cả ra quần, chỉ biết chạy thẳng về báo tin, khi mọi người chạy đến nơi thì chỉ còn lại mấy khúc xương. Mặc dù lợn là loài động vật ăn tạp, nhưng việc lợn ăn thịt người thì chưa thấy bao giờ. Bọn đệ tử tay chân đều nghĩ rằng đó là báo ứng. Vì hai vợ chồng Đại Bá đầu thường cùng nhau dàn cục, hay phải giết lợn, trên người đầy sát khí, bọn lợn nhận biết được liền cắn xé bà ta.
Trong lúc tức giận, Đại Bá đầu đã giết chết hết mười mấy con lợn. Từ đó, ông ấy bắt đầu trở thành một kẻ hiếu sát, cứ cách mấy ngày mà không giết con gì trong người lại cảm thấy bứt rứt khó chịu. Có lẽ những người hay sát sinh có sát khí thật. Một lần, chúng tôi cùng nhau ra ngoài làm việc, đi qua đoạn đường núi, gặp phải một con rắn to, mọi người đuổi thế nào nó cũng không nhúc nhích. Khi Đại Bá đầu từ phía sau chạy lên, ông ấy còn chưa chạy đến nơi mà con rắn đã trườn đi mất.
Khi Đại Bá đầu giết chó, thường mọi người không dám đến xem, vì loài chó nhanh nhẹn hơn lợn. Đầu tiên phải dùng xích xích nó lại, sau đó Đại Bá đầu xách gậy đi đến. Lúc này con chó sẽ kêu như điên như dại, trông rất dữ dằn, có con còn cắn lại, nhưng cuối cùng vẫn bị Đại Bá đầu đánh cho ngã vật xuống. Thực ra giết chó vẫn còn một cách nữa, đó là có thể trói nó bằng dây chão rồi kéo, xiết chặt cho đến chết. Nhưng Đại Bá đầu thấy làm như vậy không khoái, ông ta thích mùi của máu, chỉ có đập vỡ sọ con vật mới đem lại khoái cảm cho ông ta.
Giết gà càng khỏi phải nói, ông ta hay lấy dao chặt đứt đầu gà. Con gà mất đầu rồi thân vẫn chạy được mấy chục mét, chạy đến đâu tiết phun ra đến đó, cuối cùng giãy giãy mấy cái rồi nằm im.
Ban ngày nhìn những cảnh tượng đẫm máu này, đêm xuống tôi thường gặp ác mộng. Trong cuốn kinh Nhân quả Tam thế có một câu: “Kim sinh đoản mệnh vi hà nhân, Tiền thế tể sát chúng sinh linh30.” Chúng sinh trong sáu cõi31 đều có linh hồn cảm ứng, con người khi đối điện với cái chết thường hay sợ hãi, loài động vật cũng vậy. Ánh mắt của chúng trước khi chết ấy, cứ ám ảnh trong tâm trí tôi, mỗi khi nhớ đến tôi lại vô cùng sợ hãi. Sau này cứ nhìn thấy một miếng thịt là tôi hình dung ngay đến thi thể chúng, không sao nuốt nổi thứ gì.
Khi nước Trung Quốc mới được thành lập, Đại Bá đầu bị xử tử hình, cho dù Chính phủ không phán ông ta tội tử hình thì ông ấy cũng sẽ bị ông trời xử tội chết. Năm 1950, tự nhiên ông ấy lại bị mắc một căn bệnh về da liễu rất kỳ lạ. Da dẻ nứt nẻ thành từng mảng, trông như vảy cá, rất ngứa, cứ động vào gãi là loét ra, rồi rỉ ra một thứ nước màu vàng, tanh nồng, lâu dần toàn thân bị lở loét. Tổ Gia đã mời những thầy lang giỏi nhất vùng đến mà vẫn không sao chữa khỏi được.
Thường ngày, Tổ Gia vẫn nhắc nhở Đại Bá đầu khi giết chó phải cẩn thận, đừng để bị cắn. Vì vậy, hôm nay trông thấy tình trạng của Tiên Nhân Thủ, ý nghĩ đầu tiên trong đầu Tổ Gia nghĩ ngay đến bệnh chó dại.
Tổ Gia lạnh lùng nói: “Có chuyện gì cũng phải bình tĩnh, đừng có động một cái là đòi đánh đấm, chém giết, huống hồ lại là anh em một nhà.”
Nhị Bá đầu cười cười: “Con cứ ngỡ nó đang giở thần giở quỷ.”
Tổ Gia nói: “Ta thấy ngươi quen thói giở thần giở quỷ rồi thì có, việc gì cũng nghĩ theo hướng đó được. Ngươi nghĩ kỹ lại xem, gần đây Tiên Nhân Thủ có gặp phải chuyện gì bất thường không?”
Nhị Bá đầu ngẫm nghĩ một lúc lâu: “Bất thường ư? Chẳng có chuyện gì cả. Ồ!...” Nhị Bá đầu chợt kêu lên một tiếng rất to, như thể đã nghĩ ra điều gì đó rồi nói: “Mới đây khi dàn cục ‘Dơi gõ cửa’, hắn ta đã bị dơi cắn.”
Ai cũng biết về vụ Dơi gõ cửa là tuyệt phẩm gần đây mà Tổ Gia đắc ý nhất. Đó là cuộc đấu đá của hai nhà có mối tư thù không đội trời chung. Chúng tôi đứng ở giữa dàn cục kép (song diện cục).
VỤ DÀN CỤC KÉP ĐẦU TIÊN TRONG LỊCH SỬ TƯỚNG SỐ
Nhà họ Trương và nhà họ Lý đều là những nhà giàu có ở Lâm Trấn, nghe nói hai nhà này có mối thù cha truyền con nối kéo dài suốt ba đời. Gần đây mâu thuẫn lại càng kịch liệt hơn. Nguyên nhân là do khi Trương Nhị Cẩu – ông chủ nhà họ Trương di dời mộ ông nội vào dịp Thanh Minh, đã phát hiện ra có một vật trong ngôi mộ nhà mình. Đó chính là một tảng đá áp đầu.
Đá áp đầu chính là tảng đá đặt ở tài đầu của chiếc quan tài. Tài đầu chính là vị trí nơi đầu người quá cố hướng về. Người xưa khi chôn cất rất chú trọng đến hướng đặt quan tài và xem xem phía trên nó liệu có thứ gì hay không. Nếu khi chôn cất không cẩn thận mà để kẻ khác chơi xấu đặt đá áp đầu ở vị trí tài đầu thì nhà này coi như xong đời, ba đời liên tiếp sẽ gặp hết vận đen này đến vận đen khác, cho đến tận ngày đá áp đầu được đào lên.
Muốn đặt đá áp đầu lên quan tài, cần phải có nhiều người cùng làm, vì khi chôn cất, người thân, họ hàng đều có mặt ở đó. Thông thường họ sẽ tiến hành làm lễ hiếu trước, sau đó hạ quan tài xuống huyệt, tồi tất cả người thân, họ hàng đều phải đi vòng quanh huyệt, vừa đi vừa cầm nắm đất vứt lên quan tài. Việc này gọi là lấp mộ, biểu thị rằng con cháu của người đã khuất đều là người hiếu thuận, đợi sau khi lấp mộ xong, đám cu li đứng xung quanh mới vung cuốc xẻng xúc đất lấp kín huyệt. Cho nên nếu muốn đặt đá áp đầu, tất phải mua chuộc hết bọn cu li này để chúng ném một hòn đá hoa cương lên trên đầu quan tài nhân lúc người ta không để ý, sau đó lấp kín ngay lại. Vậy là coi như xong.
Sau khi Trương Nhị Cẩu phát hiện ra hòn đá áp đầu này, hắn chửi um lên, cho rằng việc này chắc chắn do nhà họ Lý làm vì cha hắn từng hại nhà họ Lý. Ấy là vào năm Dân quốc thứ 22, khi nhà họ Lý sửa lại nhà, cha Nhị Cẩu đã chớp ngay cơ hội này mua chuộc một tên thợ xây, dùng thủ đoạn Lỗ Ban Môn hòng làm cho nhà họ Lý phải khuynh gia bại sản.
Nhà ở khi đó phần lớn là kiểu nhà tứ hợp viện, chủ nhà ở trong căn nhà to nhất, cao nhất. Nhà được đặt theo thế tọa Bắc hướng Nam tức mặt chính nhìn theo hướng Nam. Kiến trúc nhà ở của người dân khi đó khác với thời bây giờ, đều có dạng nhà mái gần như bằng, độ dốc mái không lớn, bốn xung quanh mái có xây một gờ bao quanh và hai máng thoát nước.
Lỗ Ban Môn có rất nhiều thủ pháp, trong đó có cách dùng một khúc gỗ tạc thành một chiếc xe ngựa nhỏ. Trên bụng con ngựa có đục một lỗ nhỏ. Khi xây nhà, nhân lúc chủ nhà không chú ý, chiếc xe ngựa nhỏ được đặt vào trong lòng máng nước trên mái. Làm như vậy mỗi khi trời mưa, nước sẽ chảy qua chiếc xe ngựa nhỏ. Do không khí đối lưu, xoáy nước trên bụng con ngựa sẽ phát ra tiếng kêu u u. Âm thanh này rất nhỏ, nếu không phải người trong nghề, sẽ không thể nghe thấy được. Cách làm này ngụ ý Tiền tài hao tiết tiết cùng tận, công danh lợi lộc theo nước trôi. Đây là một bố cục cực xấu trong phong thủy. Thông thường, nếu không có thù sâu oán nặng sẽ không cần dùng đến chiêu độc địa này.
Vậy hai nhà này có mối thâm thù gì đây? Chuyện thế này, cha của Trương Nhị Cẩu vốn là cử nhân thời Mãn Thanh, họ Trương, tên Hạc, tự là Trung Cẩn. Trước khi Trương Trung Cẩn thi đậu cử nhân trong kỳ thi hương, ông ta và công tử Lý Văn Tài nhà họ Lý là anh em thân thiết, chơi với nhau từ nhỏ, cùng học một trường, cùng thi đậu tú tài. Về sau, họ cùng phải lòng một cô nương, nhưng cả hai đều không muốn vượt qua ranh giới mỏng manh này. Anh em đã chơi với nhau từ tấm bé, một khi việc này vỡ ra thì chẳng thể làm anh em được nữa. Giữa những người đàn ông, cái gì cũng có thể chia sẻ được, ngoại trừ vợ.
Cô nương đó là đại tiểu thư nhà họ Triệu. Nàng thông hiểu cầm kỳ thi họa, thường ngày chưa bao giờ bước chân ra khỏi cửa. Ngày nọ, có một thầy đồ của thư viện Nhạc Lộc đến vùng này giảng kinh Phật. Khi khai đàn giảng pháp, cô nương nhà họ Triệu theo mẹ đi nghe, vừa hay Trương Trọng Cẩn và Lý Văn Tài cũng đến. Hai người này đều nhắm trúng tiểu thư họ Triệu.
Nhưng người xưa thích tỏ ra mình là kẻ nho nhã, cao thượng, đặc biệt là đám văn nhân nhiều chữ, từ lúc mở miệng ra nói cho đến khi khép miệng lại đều toàn những thứ nào nhân nghĩa, nào đạo đức. Trở về nhà sau buổi hôm đó, mỗi chàng đều trau chuốt ngôn từ, cho ra một bài thơ hết lời ngợi ca Triệu cô nương. Sau đó, cả hai đều bắt đầu đeo mặt nạ, giả thanh cao. Trương Trung Cẩn ít tuổi hơn nói: “Huynh đài tướng mạo tựa Phan An, trọng tình như Liễu Lang, nếu cô nương này được sánh đôi với huynh thì đúng là mối lương duyên trời ban, chuyện tình của hai người chắc chắn sẽ là một giai thoại tài tử giai nhân lan truyền khắp vùng.”
Lý Văn Tài bèn đáp lễ: “Đâu có, đâu có, hiền huynh học nhiều hiểu rộng, tài trí hơn người. Nếu có thể kết duyên với Triệu cô nương, phải nói là trai tài gái sắc đấy.” Sau đó hai bọn cúi rạp người chào nhau rất đỗi nhún nhường, nhưng kỳ thực trong lòng đều rủa thầm: “Sao mày không chết đi?”
Sau đó, cả hai nhà Trương, Lý đều nhờ người mai mối, hơn nữa còn mang cả Bát tự đi xem. Người xưa thường hay xem Bát tự trước khi kết thông gia với nhau, nếu Bát tự không hợp thì hai người có yêu nhau đến chết đi sống lại cũng không được lấy nhau. Vừa hay, Bát tự của Trương Trung Cẩn và Lý Văn Tài đều hợp với Bát tự của cô nương này, khiến nhà họ Triệu không biết chọn lựa thế nào.
Vì thế, Trương Trung Cẩn và Lý Văn Tài bắt đầu ngấm ngầm tranh giành nhau, ít qua lại với nhau hơn, có gặp nhau cũng chỉ nhếch mép xã giao cho phải phép. Đúng vào lúc quan trọng này, kỳ thi hương bắt đầu, cả hai cùng tham gia cuộc thi, kết quả Trương Trung Cẩn thi đậu cử nhân, Lý Văn Tài bị rớt. Hai người vốn đang ngang sức ngang tài, không phân cao thấp, giờ đây sự hơn thua đã rõ mười mươi. Cuối cùng, Trương Trung Cẩn lấy được Triệu tiểu thư như ý nguyện, Lý Văn Tài đành phải từ bỏ trong tiếc nuối.
Nhưng bức tường ngăn cách giữa hai người sừng sững mọc lên. Từ đó hai người lạnh nhạt hẳn với nhau, ngay cả chút sĩ diện cũng không còn nữa.
Lý Văn Tài thích xem tướng số, thường ngày rảnh rỗi không có việc gì làm là lại tìm vài thầy xem tướng số mà lải nhải hỏi này hỏi nọ. Sau khi xảy ra chuyện này, anh ta còn mời cả một vị đạo sĩ đến nhà, xem liệu có cách nào phá được mối lương duyên kia không. Ai ngờ người được mời lại là một tay đạo sĩ giả mạo, thân phận thực sự chính là một A Bảo của phái Giang Tướng.
Tay đạo sĩ đó nói: “Hây dà! Người ta đã đi lấy chồng rồi, còn phá cái gì nữa chứ?”
Lý Văn Tài nói: “Tôi không thể để cho chúng sống yên ổn được.”
Đạo sĩ kia nói: “Ta không muốn dính dáng việc này.”
Lý Văn Tài đập nén bạc xuống mặt bàn nói: “Chỉ cần có thể phá được việc kết thân này, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu.”
Tay đạo sĩ kia nói: “Ta biết nói thế nào đây. Dù có đập mười ngôi miếu, cũng không phá vỡ mối lương duyên này. Nhưng xem ra lần này ta có không muốn vào địa ngục cũng không được rồi.” Lời này rõ ràng là một sự đồng ý, xem ra ngân lượng còn có sức sát thương hơn cả địa ngục.
Tay đạo sĩ kia bảo Lý Văn Tài đưa cho hắn Bát tự ngày sinh của cô nương họ Triệu. Vì trước đây từng trao đổi Bát tự cho nhau, nên Lý Văn Tài có Bát tự của Triệu tiểu thư này. Sau khi trải Bát tự ra xem, thoạt nhìn, tay đạo sĩ đã cười: “Thiếu gia không phải lo, Bát tự này Quan tinh, Sát tinh32 hỗn tạp, người có Bát tự này rất dễ lăng nhăng dù đã có chồng. Chỉ cần bần đạo làm phép thuật, đảm bảo nàng ta sẽ chạy đến bên cậu. Chỉ cần cậu không ghét bỏ nàng ta là tàn phòng thì cậu sẽ có được thôi.”
Tàn phòng là một thuật ngữ trong bói toán đoán mệnh, chỉ đám con gái hư hỏng, không giữ trinh tiết. Bởi vậy, thời xưa nếu một người đàn ông lấy về một người vợ như vậy thì đó là nỗi nhục nhã lớn nhất trong đời. Trong xã hội phong kiến Tam tòng Tứ đức này, nam giới chỉ biết yêu cầu nữ giới giữ gìn trinh tiết, nhưng lại chưa bao giờ xét lại thói đàng điếm phóng đãng của bản thân.
Lý Văn Tài cười đểu giả: “Tàn phòng ta chỉ chơi chứ không rước.”
Tay đạo sĩ ngớ người ra một lúc, trong lòng thầm nghĩ: “Hắn còn là con người nữa không?”
Vì thế, tay đạo sĩ giở thuật Trát phi, bện lấy hai hình nộm bằng rơm, cho chúng mặc bộ quần áo được cắt bằng giấy đỏ, sau lưng lần lượt viết tên của Trương Trung Cẩn và Triệu Nguyệt Nga. Lại lấy thân cây cao lương dựng thành một mô hình lầu gác, đặt một hình nộm nhỏ ở trong căn lầu còn một hình nộm đứng ở ngoài, ở giữa lấy một cành cây hạnh nhân ngăn cách. Sau đó, tay đạo sĩ lại bện một hình nộm khác, viết tên Lý Văn Tài lên, để hình nộm này giẫm lên trên cành hạnh nhân, vẫy tay về phía hình nộm Triệu Nguyệt Nga đang đứng lên lầu.
Lý Văn Tài nhìn thấy thế, hắn mừng thầm nhưng vẫn hỏi: “Đạo trưởng, mấy thứ đồ chơi này liệu có hiệu nghiệm không vậy? Trông buồn cười thế!”
Tay đạo sĩ nghe vậy liền tỏ vẻ nghiêm túc nói: “Đây chỉ là một phần thôi. Quan trọng là ở câu thần chú, ta sẽ chỉ cho cậu. Cứ đến giờ Tý mỗi ngày, cậu phải đứng trước căn lầu gác đọc thầm. Trong vòng 49 ngày, ta đảm bảo đưa được Triệu Nguyệt Nga đến trước cửa nhà.”
Lý Văn Tài vội vàng cúi đầu, nghe rõ câu thần chú mà tay đạo sĩ kia đọc, hắn cố gắng ghi nhớ như in trong đầu.
Sau khi xong xuôi mọi thứ, tay đạo sĩ chuẩn bị rời đi. Lý Văn Tài nói: “Cảm ơn đạo trưởng! Nếu việc này mà thành, Lý Văn Tài ta nhất định sẽ hậu tạ.”
Tay đạo sĩ nghe thấy thế tức điên lên. Sau khi việc thành ư? Hắn ta quá gian xảo. Đến một đồng cũng chẳng chịu trả trước, rõ là muốn ăn không rồi còn gì. Hơn nữa, làm gì chuyện thành được kia chứ. Đó vốn chỉ là trò Trát phi do hắn bày ra. Tay đạo sĩ nén giận, cười nói: “Ta với thiếu gia đây là bạn vong niên, sao lại nói đến chuyện của thế tục này? Bần đạo chỉ mong sau khi thiếu gia có được Triệu cô nương thì hãy đối xử tốt với nàng ta.”
Lý Văn Tài cười nói: “Đạo trưởng thật có tấm lòng từ bi!”
Tay tạo sĩ chán nản bỏ đi. Nhưng đã là A Bảo đâu có thể dễ dàng bị xỏ mũi. Làm sao hắn có thể nuốt trôi được nỗi cay cú này? Vì thế, chưa đến hai ngày, hắn đã đi đến nhà họ Trương, sau đó khóc lóc kể lể về việc nhà họ Lý đã ép mình làm phép thế này thế kia, trong lòng tự thấy mình đã làm cái việc trái với lương tâm, khiến hắn day dứt ăn không ngon ngủ không yên, bởi vậy mới đến đây tạ lỗi xin được tha thứ.
Hai vợ chồng Trương Trung Cẩn nghe thấy thế đều ngẩn người ra, hỏi: “Có thật vậy không?”
Đạo sĩ nói: “Cậu đến căn phòng phía đông nhà hắn, căn lầu gác và hình nộm đều ở đó, nếu hắn cho cậu vào thì chứng tỏ ta nói láo, nếu hắn không cho cậu vào thì chứng tỏ đúng là có chuyện đó thật.”
Trương Trung Cẩn thấy có lý, nhưng mình và Lý Văn Tài đang căng như vậy, không thể bước vào cổng nhà hắn được. Tay đạo sĩ thấy Trương Trung Cẩn chần chừ do dự, liền nói: “Bần đạo có một kế.”
Trương Trung Cẩn hỏi: “Kế gì?”
Đạo sĩ nói: “Tương kế tựu kế.”
Ngày hôm sau, Trương Trung Cẩn bèn viết một bức thư, sai người mang đến cho Lý Văn Tài. Lý Văn Tài mở ra xem thì thấy đó là thư mời hắn đi uống rượu, trong thư đại khái nói rằng: “Tiểu đệ gần đây cảm thấy trong lòng bất an, vốn nghĩ lấy được cô nương họ Triệu sẽ được hưởng niềm vui thú gia đình. Tiếc rằng nàng ta hờ hững, chẳng để tâm đến cương thường luân lý, hay nghĩ đến những thứ mới lạ…”
Lý Văn Tài mừng rỡ, xem ra pháp thuật của vị đạo sĩ đã có tác dụng, hắn cũng muốn rõ thực hư liền đến nơi hẹn. Hai người tìm một quán rượu, gọi vài món. Sau vài chén rượu vào bụng, nước mắt Trương Trung Cẩn lăn ra: “Nhân huynh à! Tiểu đệ rất buồn. Nghĩ lại huynh đệ chúng ta ngày xưa, cùng ngâm thơ đối đáp, thổ lộ tâm tình, vui biết nhường nào. Chỉ vì một con tiện nhân, khiến chúng ta trở mặt thành người xa lạ. Liệu có đáng không?”
Lý Văn Tài mừng như mở cờ trong bụng, hắn cắn đầu lưỡi thật đau hòng nặn cho ra hai giọt nước mắt: “Hiền đệ ơi! Sao lại nói thế? Sau khi trải qua sóng gió, tình nghĩa huynh đệ vẫn còn, gặp nhau cười nói thì mọi oán thù cũng hết, tình huynh đệ chúng ta lại như xưa. Mặc dù tôi cũng đem lòng yêu mến Triệu cô nương, nhưng hiền đệ đã nhanh chân đến trước. Nói thật lòng, mới đầu trong lòng ta rất khó chịu, nhưng về sau nghĩ lại, chỉ cần hiền đệ hạnh phúc, ngu huynh ta lẽ nào không thấy vui?” Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Trương Trung Cẩn nghe xong, úp mặt xuống bàn, lấy tay che mặt mà khóc rống lên, kỳ thực hắn lén lút bôi rượu vào mắt, nếu không thì không thể khóc nổi.
Hai người đối ẩm với nhau cả buổi sáng, Trương Trung Cẩn say khướt nói: “Nhân huynh! Từ khi tiểu đệ thành thân đến nay, chưa từng đến nhà huynh chơi. Đệ nhớ đến những ngày hai huynh đệ ta ở cùng với nhau. Nhớ khi xưa, hai chúng ta cùng uống rượu mỗi buổi chiều tà, cùng thức đêm đọc Kinh Thi, buồn ngủ lại nằm vật ra giường, cùng đắp chung tấm chăn. Thật vui biết bao!”
Lý Văn Tài nói: “Hiền đệ! Đi nào! Tối nay đệ đến chỗ huynh. Chúng ta cùng đối ẩm dưới trăng như thuở trước, say thì ngủ.”
Thế là, hai người ngật ngưỡng đi về nhà họ Lý. Vừa bước vào nhà, tên gia đinh nhà họ Lý giật mình vì thấy hai người này uống say đến nỗi mặt đỏ phừng phừng. Nhưng hắn nào biết, đầu óc của hai người vẫn cực kỳ tỉnh táo. Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sau khi bước vào cửa lớn, Trương Trung Cẩn liêu xiêu loạng choạng lao thẳng về phía căn phòng ở phía đông: “Thưa bá mẫu! Trương Hạc đến thăm người đây.”
Lý Văn Tài một tay giữ anh ta lại nói: “Hiền đệ! Đệ nhầm rồi, nhầm rồi! Bá mẫu ở nhà trên.”
Trương Trung Cẩn giả bộ đã lơ mơ không nhận ra đường nữa, chỉ vào căn phòng ở phía đông nói: “Đây chẳng phải chính đường sao?” Nói rồi chúi đầu đi về hướng đó.
Lý Văn Tài vội chạy theo mấy bước kéo giật lại: “Hiền đệ! Đệ say rồi, đệ say rồi!”
Trương Trung Cẩn cười nói: “Đệ không say. Đệ phải tới vấn an bá mẫu. Nào, chúng ta cùng đi!” Nói đoạn, liền lôi Lý Văn Tài đi, suýt nữa thì đẩy bật cánh cửa ra.
Lý Văn Tài gườm mắt nhìn tên gia đinh như đang nói: “Khốn kiếp! Còn đứng đực mặt ra đấy à?” Tên gia đinh vội vàng chạy đến, cùng Lý Văn Tài khênh Trương Trung Cẩn lên nhà trên.
Lúc này cha mẹ Lý Văn Tài nghe thấy tiếng ồn ào, lật đật từ trong phòng bước ra, cười nói: “Trung Cẩn đến đấy à? Mau vào nhà đi, mau vào nhà đi!”
Trương Trung Cẩn ngửa cổ cười, cười đến nỗi khiến cho người trong nhà cảm thấy sởn tóc gáy. Sau đó, anh ta ôm lấy Lý Văn Tài, ghé sát tai Lý Văn Tài nói khẽ: “Đệ và Triệu cô nương sẽ chẳng được lâu dài đâu, nếu nhân huynh không ghét bỏ, tiểu đệ xin nhường huynh.” Cơ mặt Lý Văn Tài giật giật: “Hiền đệ! Đệ say quá rồi.”
Trương Trung Cẩn cười nói: “Không! Lần này về nhà đệ sẽ viết thư. Huynh hãy đợi đệ.” Nói xong liền đẩy Lý Văn Tài ra, lao thẳng ra khỏi cổng. Lý Văn Tài ngỡ ngàng đứng như trời trồng.
Trương Trung Cẩn về đến nhà, tay đạo sĩ kia vẫn đang ngồi đợi, hỏi Trương Trung Cẩn: “Thế nào?”
Trương Trung Cẩn khoát tay, lấy một nắm bạc trong ống tay ra: “Đạo trưởng! Xin người dùng phép thuật, không làm cho nhà nó gia bại nhân vong, ta thề không làm người.”
Triệu Nguyệt Nga từ trong nhà đi ra nói: “Không cần thiết làm vậy. Mình sống cuộc sống của mình, gia đình hòa thuận vạn sự yên vui. Đừng tin vào những chuyện này là được rồi!”
Trương Trung Cẩn nói: “Không được!”
Tay đạo sĩ nhìn nắm bạc trên bàn, thầm nghĩ lần này phải thương lượng giá cả trước, không để như trước kia, cứ lật đật làm cuối cùng đến một cắc bạc cũng chẳng được. Vì thế hắn ta bình tĩnh nói: “Trương thiếu gia muốn giết bần đạo ư? Người xuất gia từ bi độ lượng. Chính vì ta bị lương tâm cắn rứt, nên mới đem chuyện này nói lại với thiếu gia. Bây giờ thiếu gia lại bảo ta làm thế, lương tâm ta làm sao mà yên được?”
Trương Trung Cẩn nói: “Lấy ác trị ác, không phải là làm việc xấu. Lẽ nào đạo trưởng thấy kẻ ác làm điều ác mà bỏ mặc làm ngơ sao?”
Đạo sĩ ngần ngừ: “Việc này...?”
Trương Trung Cẩn lại đi vào nhà lấy mấy thỏi bạc ra, để tất trước mặt: “Trăm sự nhờ đạo trưởng.” Tay đạo sĩ kia nhìn thấy cả nắm bạc thật chứ chẳng phải nói suông. Vì thế hắn lại bắt đầu bày Trát phi, vẽ bùa niệm chú, bố cục phong thủy xong, trong lòng cảm thấy có chút day dứt, nhưng cuối cùng vẫn cầm bạc chuồn mất.
Ngày hôm sau, vào lúc chiều tà, tay đạo sĩ kia lại lặng lẽ đến nhà Lý Văn Tài. Kỳ thực Lý Văn Tài đang muốn tìm hắn ta, đạo sĩ nhanh miệng hỏi: “Có hiệu nghiệm không?” Lý Văn Tài cười nói: “Phép thuật của thầy thật cao thâm, mới có mấy ngày mà đã thấy có kết quả rồi. Thầy có phải tốn sức không?”
Hắn lim dim mắt: “Ôi! Tổn thọ rồi.”
Lý Văn Tài thấy thế, liền nhét mấy thỏi bạc vào tay đạo sĩ, tay đạo sĩ lại làm ra vẻ lương tâm cắn rứt, dằn vặt. Ra khỏi nhà họ Lý, hắn thấy đã lừa được kha khá của cả hai nhà, liền biến mất, bặt vô âm tín từ đó.
Nhưng Trương Trọng Cẩn và Lý Văn Tài đều tưởng đây là phép thuật thật sự, cứ nghĩ ông thầy kia không muốn dính dáng gì đến chuyện hồng trần nữa, nên đã ẩn cư.
Về sau sự thật cho thấy tình cảm giữa Trương Trung Cẩn và Triệu Nguyệt Nga vẫn rất tốt đẹp, Lý Văn Tài cũng không biết rốt cuộc có vấn đề gì, cố đợi vài năm mà vẫn chẳng thể lòng thòng gì được với Triệu Nguyệt Nga.
Một lần Trương Trung Cẩn uống rượu với đám bạn. Sau khi uống say, hắn đã lỡ lời, khơi lại chuyện cũ. Kết quả người nói vô tâm, người nghe lại hữu ý. Trên bàn rượu, vừa hay có một người qua lại rất thân thiết với Lý Văn Tài, hắn liền đem chuyện này đi kể. Lý Văn Tài mới bừng tỉnh: “Chẳng trách phép thuật mất linh.”
Từ đó hai người lại bắt đầu viết thư chửi rủa nhau! Mối thù hận giữa hai nhà càng sâu sắc, cả hai đều thề không làm người nếu không chọi chết người kia.
Về sau, bố của Trương Nhị Cẩu tham gia cách mạng. Khi Viên Thế Khải ra lệnh bắt những người tham gia cách mạng, nhà họ Lý đứng ra tố giác đầu tiên, khiến cha của Nhị Cẩu bị bắt, và xử tội chết, chờ ngày xử trảm. Nhị Cẩu phải khuynh gia bại sản mới tìm được một người chết thay, lén cứu cha thoát khỏi đại lao. Từ đó cha của Nhị Cẩu phải trốn đến tận Tân Cương, phải giấu tên đổi họ.
Mặc dù cha của Nhị Cẩu ở mãi Tân Cương xa xôi, nhưng vẫn nung nấu ý định báo thù, thường xuyên ngầm liên lạc với Nhị Cẩu, chỉ cần có cơ hội, nhất định sẽ báo thù. Đến năm Dân quốc thứ 22, nhà họ Lý sửa lại nhà, cha của Nhị Cẩu mời một cao thủ giỏi Lỗ Ban Môn, dàn cục Lưu thủy mộc mã33, mua chuộc tên thợ xây ngầm giở trò với nhà họ Lý.
Nhưng tên thợ xây này lại có tật giật mình. Khi hắn đặt chiếc xe ngựa nhỏ vào máng nước, tay chân luống cuống vụng thế nào để người ta phát hiện. Hắn bị người nhà họ Lý đánh đập, truy hỏi, ngã từ trên nóc nhà xuống đất gãy chân, sau đó bị dọa sẽ lôi đến cửa quan nên sợ quá khai tuốt tuột. Nhà họ Trương biết việc bị bại lộ, cũng chuẩn bị sẵn sàng liều chết một phen, chầu chực đối mặt với một trận huyết chiến sắp xảy ra. Nhưng cuối cùng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Nhà họ Lý im ắng một cách khác thường.
Cứ như vậy cho đến mấy năm sau, cha của Nhị Cẩu nhắm mắt xuôi tay ở tuổi 82. Ngày đưa ma, con của Lý Văn Tài là Lý Khởi Minh cũng chạy đến nhà họ Trương viếng. Việc này đúng là quá bất ngờ, Lý Khởi Minh nằm bò lên trước linh cữu của lão Trương mà khóc mà than: “Trương lão gia ơi! Bắt đầu từ lão gia với gia phụ, hai nhà chúng ta đã đấu đá nhau đến ba đời rồi. Mấy chục năm nay, hai nhà đã bày hết mưu sâu đến kế hiểm, khiến nhà tan cửa nát, liên lụy người thân, như thế đã quá khổ rồi. Người ta vẫn nói oan gia nên hóa giải không nên kết, nay lão gia cưỡi hạc về trời, xin vong hồn người trên trời có thiêng, hãy để cho hai nhà chấm dứt hận thù! Khởi Minh xin dập đầu trước lão gia. Mong lão gia trên trời có thiêng, phù hộ cho con cháu cùng chung sống hòa thuận. Mãi mãi không đấu đá với nhau nữa.” Dứt lời, hắn dập đầu côm cốp lạy tạ.
Những lời này khiến những người có mặt ở đó đều phải rớt nước mắt. Đấu đá bao năm nay cũng nên chấm dứt. Nhị Cẩu vô cùng cảm động, mời Lý Khởi Minh vào nhà, cả hai cùng ngậm ngùi xót xa.
Khi đưa ma, Lý Khởi Minh dẫn cả đám con cháu quỳ lết bên cạnh, giúp một tay. Về sau, khi Nhị Cẩu dời mộ cho cha, mới phát hiện ra hòn đá áp đầu, nhớ lại cảnh tượng lúc chôn cất cha, mới chợt nhận ra đó là lúc nhà họ Lý giở trò. Đúng là mèo già khóc chuột giả bộ từ bi. Đầu tiên dùng sự chân thành để mê hoặc lòng người, lại còn đưa cả nhà ra làm huyên náo cố ý làm che khuất tầm nhìn, nhân lúc người ta không đề phòng thả đá áp đầu xuống.
Nhị Cẩu muốn báo thù, nhờ một tên dắt mối, tìm đến Nhị Bá đầu, kể lại chuyện nhà hắn với nhà họ Lý đã đấu đá nhau ba đời nay. Nhị Bá đầu nghe vậy mừng lắm. Sự việc này từng được ghi chép lại trong Giang Tướng công án lục, hơn nữa còn từng đàm luận với Tổ Gia. Nhị Bá liền đầu đập bàn khen ngợi vị “đạo sĩ” cao tay kia đã dàn cục kép vô cùng cao siêu. Bắt được con gà béo Nhị Cẩu mê tín đến mức ngấm sâu vào tận xương tủy, thật quá dễ để cho Nhị Bá đầu tung chiêu! Nhị Bá đầu liền báo tin này cho Tổ Gia. Tổ Gia nghe xong liền nói: “Cũng phải dàn cục kép.”
Nhị Bá đầu đi theo Tổ Gia lâu như vậy nên rất hiểu Tổ Gia. Ông là người cầu toàn, đã dàn cục thì phải thật cao siêu, thật hoàn hảo mới hài lòng. Ông muốn những sự tích chói lọi về mình được viết trong sử sách của phái Giang Tướng.
THUỐC PHIỆN TRONG TỬ THI
Nhị Bá đầu là cao thủ thuật Trát phi, Tổ Gia rất yên tâm khi giao cho ông ta dàn cục vụ này. Hiếm khi Tổ Gia yên tâm vào một người nào đó, riêng Nhị Bá đầu vốn đã được rèn giũa, tôi luyện đến mức được Tổ Gia hoàn toàn tin cẩn. Đặc biệt là vụ “Đuổi xác” ông ta phối hợp dàn cục với Tổ Gia. Toàn bộ quá trình diễn ra sự việc có thể nói ngay cả đến Tổ Gia cũng phải một phen hú vía, thoát chết trong gang tấc. Cũng chính nhờ có lần đó, Tổ Gia mới hoàn toàn trị được Nhị Bá đầu.
Năm 1932, Hải quân Lục chiến Nhật Bản tấn công Thượng Hải, Thập cửu lộ quân34 kháng cự quyết liệt, cuộc chiến diễn ra vô cùng thảm khốc, người chết vô số.
Tổ Gia không ngờ việc này mang đến cơ hội kiếm tiền cho mình.
Sau khi Thập cửu lộ quân rút lui không lâu, một tên đặc thương đã tìm đến Tổ Gia. Đặc thương là tiếng lóng, chỉ tên buôn lậu thuốc phiện. Mặc dù sau khi Chính phủ lâm thời Nam Kinh được thành lập đã ban bố lệnh cấm hút thuốc phiện, nhưng nạn buôn bán thuốc phiện vẫn hoành hành ngang ngược. Vì buôn bán mặt hàng này thực sự hái ra tiền, thậm chí về sau, tiền của chính phủ Quốc dân bị mất giá, một viên quan cấp cao tên là Cự Giả đã tàng trữ thuốc phiện để đối phó lại với tình trạng lạm phát.
Tay đặc thương đó họ Giả, người ta gọi là Giả Tứ gia, hắn vốn có qua lại với bọn quân phiệt và băng nhóm xã hội đen, cũng là bạn cũ lâu năm của Tổ Gia.
Giả Tứ gia to nhỏ riêng với Tổ Gia rằng có một phi vụ lớn, hỏi xem ông ấy có muốn làm hay không.
Tổ Gia hỏi xem là phi vụ gì, Giả Tứ gia đáp: “Gọi hồn người chết.”
Tổ Gia sững người. Gọi hồn người chết là tập tục của một vài vùng ở Trung Nguyên, thông qua thuật chiêu hồn (gọi hồn), đưa tử thi của những người chết ở nơi đất khách quê người, đặc biệt là những người chết trên chiến trường trở về quê hương bản quán, để người đó không bị biến thành cô hồn dã quỷ, ở vùng phía tây Hồ Nam còn gọi việc này là đuổi xác, cõng xác.
Tổ Gia biết rất rõ trò mèo của việc gọi hồn này, tất cả đều là do lũ người đang sống sờ sờ dựng lên. Thông thường, đầu tiên, chúng tắm rửa sạch sẽ cho xác chết, lấy dao mổ bụng ra, móc hết lục phủ ngũ tạng bỏ đi, rồi ngâm nước thuốc, để xác chết khỏi bị thối rữa. Sau đó, một người cõng xác chết trên lưng, trùm lên xác chết và người mình một tấm áo liệm to rồi đội mũ cỏ, dán thêm một miếng bùa, giả làm xác chết. Một người khác đi đằng trước vừa lắc chuông nhiếp hồn, vừa tung tiền giấy, hai người kẻ xướng người họa, cõng xác chết đó đi thẳng về đến quê nhà mới thôi.
Nếu có quá nhiều xác chết thì chúng sẽ dùng dây thép xiên qua xương quai xanh xác chết, xâu thành chuỗi, sau đó buộc vào chiếc gậy, lục phủ ngũ tạng được bỏ đi hết, trong bụng rỗng tuếch. Như vậy sẽ không còn nặng lắm. Chỉ cần tìm hai người khỏe mạnh, mỗi người một đầu khiêng đi.
Đuổi xác là một công việc nặng nhọc, đã vậy lại phải là loại gan lỳ mới dám, người bình thường không làm được. Đặc biệt vào buổi tối, dưới ánh trăng thanh, cõng người chết trên lưng bước thấp bước cao, tấp tểnh đi trên con đường núi hun hút, tiếng gió núi ù ù, tiếng quạ kêu thê lương từng hồi, tiền vàng mã bay liệng khắp xung quanh. Dù biết rõ mười mươi sau lưng mình là một người chết, nhưng kẻ đi trước vẫn luôn cảm giác có một đôi mắt đang nhìn chằm chằm sau lưng mình.
Tổ Gia lên tiếng: “Việc này vừa mệt người lại chẳng béo bở gì, sao Tứ gia lại quan tâm đến nó vậy?”
Giả Tứ gia ghé sát tai Tổ Gia thì thầm vài câu bí mật. Tổ Gia nghe xong, sắc mặt từ từ giãn ra.
Giả Tứ gia nói tiếp: “Chỉ có cách này, quan chẳng hỏi dân chẳng màng, lũ chó mèo cũng cụp đuôi chạy mất. Bọn thủ hạ của ông giỏi trò Trát phi, có thể giả dạng thầy gọi hồn, đúng là trời giúp chúng ta.”
Tổ Gia thấy Giả Tứ gia đã có sẵn dự tính trong lòng liền hỏi: “Người phía quân đội có trông cậy được không?”
Giả Tứ gia nói: “Tôi đã từng gặp Diêu phó quan rồi, đều là chỗ thân tình qua lại đã lâu cả.”
Tổ Gia nghĩ ngợi một lát: “Được.”
Tổ Gia vạch sẵn kế hoạch rất tỉ mỉ và cẩn thận, rồi giao cho Nhị Bá đầu. Trước lúc chuẩn bị đi, Tổ Gia căn dặn: “Phải thật cẩn thận, tuyệt đối không được để xảy ra sơ xuất.”
Nhị Bá đầu vỗ ngực: “Sư phụ cứ yên tâm. Con chơi với người chán rồi, nay thử chuyển sang chơi với ma xem sao.”
Thì ra Giả Tứ gia muốn vận chuyển thuốc phiện xuống miền Nam. Ngặt vì ở thời điểm đó, mọi thứ đều bị kiểm soát quá nghiêm ngặt, lại chiến tranh loạn lạc, hắn không dám ngang nhiên chuyển hàng đi, sợ sẽ sinh biến, liền bàn bạc với một tay thư ký trưởng của Quốc dân Đảng, dùng cách gọi hồn người chết hòng giấu trên lừa dưới, trên danh nghĩa là đưa linh hồn của các chiến sĩ đã hy sinh oanh liệt trong cuộc kháng chiến ở Tùng Hộ trở về quê nhà. Nhưng thực tế là mượn những thi thể này để vận chuyển thuốc phiện. Vì tiền, người ta có thể táng tận lương tâm, con người thật đáng sợ còn hơn cả ma quỷ.
Sau khi nhận mệnh lệnh, Nhị Bá đầu dẫn theo năm tên tay chân xuất phát. Sau khi tìm được người tiếp tay, đầu tiên bọn chúng moi rỗng năm tử thi có đeo quân hàm ra, dùng giấy dầu bọc thuốc phiện lại, rồi bọc thêm một lớp da bò bên ngoài, rồi nhét vào bụng thi thể. Sau khi nhét đầy, chúng lấy chỉ khâu kín da bụng lại, thịt người phân thành từng lớp, phải khâu từng lớp từng lớp một, nếu không sẽ bị lộ ra ngoài.
Xong xuôi, chúng cõng xác chết bắt đầu lên đường, Nhị Bá đầu đi đằng trước đóng giả thầy gọi hồn, tay trái cầm chuông đồng, tay phải rải tiền vàng mã. Bọn chúng đi qua nơi nào, nơi ấy tất cả mọi người đều tránh xa.
Mới đi được một ngày đường, bọn chân tay đã bắt đầu kêu mệt. Lưng cõng một xác chết, đã vậy lại là xác chết nhét đầy thuốc phiện trong bụng, ngót nghét cũng phải bốn năm chục cân. Mùi xác chết để lâu cùng mùi nước thuốc và mùi mồ hôi rịn ra trên người sống hòa quyện vào nhau, dậy lên thứ mùi ghê tởm đến phát nôn phát mửa.
Nhị Bá đầu nóng lòng muốn lập công, quát tháo: “Đi nhanh lên, đi nhanh lên!”
Bọn tay chân sợ sệt nói: “Nhị gia! Nặng quá! Chúng con không thể đi nổi nữa.”
Nhị Bá đầu tức đến phì cả hơi mũi: “Một lũ ăn hại!”
Nhị Bá đầu luôn mồm quát tháo, chửi rủa, nhưng đám người đó càng đi càng chậm. Ông ta bắt đầu nghĩ cách: “Tao có một cách, có thể cho chúng mày được nhẹ gánh…”
Bọn tay chân ngơ ngác nhìn nhau rồi hỏi: “Nhị gia!… Cách gì vậy?”
Nhị Bá đầu mỉm cười, nói ra cách làm.
Nghe xong, chúng nhìn nhau: “Cách đó quả thật rất hay, nhưng ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, Tổ Gia truy hỏi…”
Nhị Bá đầu quát to: “Xảy ra chuyện gì, tao khắc gánh chịu.”

 16.06.2015


Tập 1 Chương 3bBÍ MẬT ĐỘNG TRỜI PHÍA SAU BÁT TỰ, ĐUỔI XÁC, CƯỚI MANguồn: NXB Lao động

Nội dung thu gọn
Thế là chúng cứ theo kế hoạch mà làm, hai ngày sau thảnh thơi đi tới đích. Sau khi Nhị Bá đầu giao thuốc phiện cho kẻ đón hàng xong, liền đến nhà trọ, Tổ Gia và Giả Tứ gia đã đợi ở đó từ lâu.
“Không có chuyện gì chứ?” Tổ Gia hỏi.
Nhị Bá đầu đáp: “Tất thảy đều thuận lợi.”
Tổ Gia đưa mắt nhìn Giả Tứ gia, ông ta cười rất hài lòng. Tổ Gia cũng cười phụ họa theo.
Ngày hôm sau, lúc nhận thân nhân, người nhà người chết và Diêu phó quan cũng đều có mặt. Nhị Bá đầu khoác chiếc áo choàng của bọn đạo sĩ, dẫn theo mấy tên chân tay, đứng vây quanh quan tài mấy vòng, vừa ném vàng mã vừa lầm rầm khấn. Cuối cùng, chúng nhét tiền đồng vào miệng của người chết. Nghe nói làm như vậy để xua đuổi bọn ma quỷ bắt nạt linh hồn người đã chết trên đường xuống suối vàng. Sau khi mọi việc được thu xếp xong, Nhị Bá đầu nói: “Đến nhận mặt người thân đi.”
Thân nhân những người đã khuất kìm nén nỗi đau thương mất mát, đi vòng quanh những chiếc quan tài, ngần ngận nước mắt nhìn mặt người thân của mình lần cuối, nhưng chẳng ai ngờ rằng, người thân của họ giờ chỉ còn mỗi cái đầu.
Sau khi đi quanh những chiếc quan tài nhìn mặt người thân lần cuối xong, chúng bắt đầu tiến hành việc chôn cất. Lúc này lại xảy ra chuyện bất ngờ.
Một người mẹ già không chịu đựng nổi nỗi đau đớn trong lòng, liền lao về phía chiếc quan tài, sờ khắp thân thể đứa con mình, nắm lấy người đứa con, suýt chút nữa thì kéo tụt cả bộ áo liệm xuống, Nhị Bá đầu vội vàng kéo bà ta lại nói: “Phu nhân! Xin đừng làm vậy!”
Nhưng đã quá muộn, “cái chân” của tử thi đó bị lộ ra, nó chỉ là cái một cái chạc cây. Bà kinh ngạc kêu lên: “Chân con tôi đâu?”
Tiếng kêu của bà khiến cho tất cả những người có mặt ở đó đều giật mình kinh hãi. Đây đều là những xác chết do chính tay Diêu phó quan xác nhận, họ chỉ bị trúng vài phát đạn, còn vẫn giữ được toàn thây. Diêu phó quan vội bước đến, định kiểm tra, nhưng Tổ Gia vội vàng kéo ông ta lại, trừng mắt nhìn. Qua ánh nhìn của Tổ Gia, Diêu phó quan nhận ra như thể ông ấy có điều gì muốn nói nên đứng sững lại.
Bầu không khí ở đó như đặc quánh. Lúc này, chỉ thấy Tổ Gia lớn giọng: “Chinh chiến nơi sa trường dưới mưa bom bão đạn, mấy vị quan quân này đã xả thân vì nước, người thì mất đi đôi chân, người thì bị vỡ bụng. Trước khi nhập quan, mấy đồ đệ của tôi đã chỉnh trang lại cho họ, vì không muốn người thân phải quá đau lòng.”
Diêu phó quan trợn trừng mắt nhìn Tổ Gia: “Hừm!” Nhưng cũng không dám làm gì, vì bản thân ông ta cũng có dính líu đến việc này.
Tổ Gia nói tiếp: “Nguyên tắc khi gọi hồn mọi người đều biết rồi đấy. Nếu các vị cứ khóc lóc thảm thiết, sẽ khiến người chết không thể yên nghỉ, linh hồn sẽ bay ra khỏi các khướu trên thi thể, biến thành cô hồn dã quỷ, làm vậy sẽ uổng phí nỗi đau mọi người đã phải chịu đựng.”
Người mẹ già kia nghe thấy những lời này mới dần bình tĩnh trở lại, không khóc nữa.
Nhị Bá đầu vội vàng bảo bọn chân tay: “Chôn đi!”
Sau khi nhập thổ quan tài, Nhị Bá đầu vẽ một vòng tròn trước phần mộ, đốt từng xấp từng xấp tiền vàng mã trong cái vòng đó, miệng khấn niệm: “Lúc chào đời hai bàn tay trắng, khi lìa trần trắng hai bàn tay, kiếp trước chẳng biết chuyện kiếp này, cha sinh mẹ dưỡng uổng công ngày tháng; nay đừng nên oán trách gì nữa. Xin hãy yên nghỉ dưới suối vàng. Phát… tang…”
Đám thợ kèn bắt đầu thổi lên những giai điệu ai oán, người thân ai nấy đều nghẹn ngào khóc. Diêu phó quan không kìm nén nổi cũng chảy nước mắt. Dù gì đây cũng đều là anh em đã cùng sát cánh với ông ta trên sa trường đẫm máu trong cuộc chiến chống Nhật. Con người, cho dù có bị lòng tham vật chất làm mờ hai con mắt, nhưng trong sâu thẳm vẫn còn đôi chút ít ỏi lương tri, nên cũng không kiềm chế được mà rớt nước mắt.
Sau khi mai táng xong, Tổ Gia, Diêu phó quan, còn có cả Giả Tứ gia cùng trở về quán trọ.
“Nhị Bá đầu!” Tổ Gia gọi Nhị Bá đầu vào, “Chuyện là sao?”
Nhị Bá đầu đưa mắt nhìn Diêu phó quan và Giả Tứ gia, rồi cúi đầu, một lúc lâu sau mới phát ra một tiếng: “Hừ.”
“Nói!” Tổ Gia quát, tiếng quát ầm vang cả căn phòng.
Nhị Bá đầu vội vàng khai hết đầu đuôi.
Việc gọi hồn người chết có quy tắc của nó, tử thi được gọi hồn, khi đưa về đến quê nhà, đầu tiên không cho người thân gặp, phải đợi khi thầy đuổi xác làm phép xong. Sau khi thi thể được chỉnh trang lại đâu vào đấy và cho vào quan tài xong thì người nhà mới được đến nhận người thân. Hơn nữa, người thân tuyệt đối không được có chuyện khóc lóc, càng không được phép chạm vào tử thi. Nếu không sẽ khiến oan hồn bị đánh động, thoát ra qua lỗ khướu, chỉ sau khi được chôn cất xong xuôi thì mới được khóc. Nhị Bá đầu đã nắm lấy quy tắc này, dám cả gan chặt lấy mỗi đầu của người chết, vứt hết thân thể người chết đi, sau đó làm mấy cái gùi đeo sau lưng, bỏ hết thuốc phiện vào trong gùi, để cái đầu phủ lên trên, rồi lại chùm áo liệm táng lên như cũ, bắt chước dáng đi cứng đơ của người chết mà đi tiếp. Như vậy sẽ làm giảm nhiều gánh nặng cho bọn chân tay, cả bọn sẽ đi nhanh hơn nhiều.
Khi đến nơi, Nhị Bá đầu sai bọn chân tay làm năm cái cọc bằng gỗ ngay trong đêm đó, rồi choàng những chiếc áo liệm mới tinh lên những chiếc cọc, nhét đầy bông vào, tạo thành hình người, chỗ tay áo và ống quần dùng cành cây chống thành khung y như tay chân người, cuối cùng chúng dùng loại dây thép cứng cắm phần đầu lên trên đỉnh chiếc cọc gỗ, chỗ nối ở cổ thì dùng vải quấn quanh liền với áo liệm, hoàn hảo không chê vào đâu được. Đúng là áo tiên không thấy vết chỉ khâu. Hơn nữa, người thân chỉ cần nhìn thấy mặt người chết là được, không ai được kiểm tra thân thể của người chết. Đây chính là nguyên tắc của tục đuổi xác.
Sau khi nghe hết câu chuyện, Tổ Gia lạnh lùng: “Ngươi tự xử hay để ta giúp?”
Nhị Bá đầu nhìn Tổ Gia, rồi lại nhìn khuôn mặt không chút biến sắc của Diêu phó quan và Giả Tứ gia, ông ta khẽ nói: “Để con tự làm!”
Vừa dứt lời, ông ta đặt ngón tay út trái của mình lên mép bàn, tay phải giơ dao lên. Phập! Không một chút do dự chặt đứt ngay ngón tay út của mình. Máu chảy ra rớt xuống nền nhà, Nhị Bá đầu đau đến nỗi mồ hôi vã ra trên trán, nhưng không hề kêu một tiếng nào.
Từ đó, Nhị Bá đầu chỉ còn chín ngón tay. Tổ Gia buộc phải làm vậy cũng bởi không còn cách nào khác. Một là để dễ ăn nói với Giả Tứ gia và Diêu phó quan. Hai là muốn cắt ngay lá gan của Nhị Bá đầu. Nếu không về sau khó mà khiến hắn ta phục tùng mệnh lệnh.
Bao nhiêu năm sau, khi nhắc lại việc này, Tổ Gia vẫn còn cảm thấy sợ hãi. Nếu chiêu trò lần đó của Nhị Bá đầu bị lật tẩy, chắc chắn sẽ khiến bọn Quốc dân Đảng nổi cơn thịnh nộ, lúc đó thì Tổ Gia, Diêu phó quan, Giả Tứ gia, còn cả Nhị Bá đầu và đám chân tay kia đều sẽ chết chắc.
ÂM HÔN (CƯỚI MA)
Cả ngày Nhị Bá đầu chỉ ngồi nghiên cứu thuật Trát phi, thỉnh thoảng lại đến bàn luận với Tổ Gia. Về điểm này, Tổ Gia rất thích ông ta. Có lần, khi mọi người cùng uống rượu với nhau, Tổ Gia còn khen ngợi Nhị Bá đầu trước mặt những người khác. Nhị Bá đầu luôn làm bạn với xác chết, tiền vàng mã, hương khói và chu sa, đến nỗi chúng tôi thường ngửi thấy mùi tử khí phát ra từ trên người ông ta, dường như không thể gột sạch được. Vì thế khi tới kỹ viện, các cô gái thường không thích đến gần ông ta.
Nhị Bá đầu chuyên chơi Trát phi, có một lần lại “trát” trúng mình. Nói đến việc này, đúng là vô cùng kỳ lạ…
Năm Dân Quốc thứ 25, con gái của một ông chủ cửa hàng bán vải qua đời vì tình. Cô đem lòng yêu một cậu thanh niên có tư tưởng tiến bộ vào hồi ấy. Đó là một chàng thanh niên trí thức hàng ngày thường phát truyền đơn và diễn thuyết trên phố. Ông chủ quầy vải sợ người này sẽ gây ra tai họa, lại nghèo rớt mồng tơi, cho nên kiên quyết không đồng ý cuộc hôn nhân này. Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Cô gái van nài cầu xin cha, nhưng ông bố nhất quyết không đồng ý. Cô gái bèn bàn với chàng trai, muốn chàng trai đích thân đến thưa chuyện với cha mình. Nếu vẫn không được thì hai người sẽ cùng quỳ xuống cầu xin, quỳ cho đến khi nào cha cô đồng ý mới thôi. Nhưng chàng trai tính cách quật cường, bướng bỉnh nói: “Hai đầu gối người đàn ông có dát vàng, chỉ lạy trời lạy đất, lạy cha lạy mẹ, chứ không quỳ trước người khác.”
Cô gái khóc sướt mướt nói: “Sau này, cha cũng sẽ là cha vợ anh mà.”
Chàng trai nói: “Bây giờ vẫn chưa phải, ông ấy khinh thường anh, coi khinh tình yêu trong sáng của chúng mình. Ông ấy thuộc giai cấp tư sản mại bản.”
Cô gái nói: “Vậy chúng mình cùng trốn đi. Đến một nơi thật xa, đến nơi chân trời góc biển, nơi không ai có thể tìm thấy chúng mình nữa.”
Chàng trai nói: “Sao phải đi? Đại trượng phu làm việc gì cũng quang minh chính đại. Việc không đàng hoàng như vậy, làm sao có thể làm được?”
Cô gái nói: “Các người muốn ép tôi phải chết sao?”
Chàng trai nói: “Nếu em chết, anh cũng sẽ chết theo ngay, sống không thể thành vợ thành chồng, thì sẽ chết để được ở bên nhau.”
Khi nói những lời này, chàng trai không ngờ rằng cô gái sẽ làm vậy thật. Tối hôm đó, cô gái để lại một bức thư tuyệt mệnh, rồi nửa đêm gieo mình xuống giếng tự vẫn. Khi thi thể được vớt lên thì toàn bộ khuôn mặt đã phù nước.
Ông chủ quầy vải đau đớn khóc ngất đi. Thương con gái, ông quyết định sẽ cử hành tang lễ thật lớn cho con. Mọi người xung quanh xì xào bàn tán: “Người chết trẻ thế này không nên làm tang lớn. Tốt nhất nên hợp âm hôn, làm như vậy cũng coi như tạ lỗi với đứa con gái đã chết.”
Thời đó, việc hợp âm hôn rất phổ biến. Nghĩa là nếu người còn trẻ chưa lấy vợ lấy chồng mà bị chết, họ sẽ rất cô đơn, không có người bầu bạn dưới cõi âm, sẽ trở thành cô hồn dã quỷ. Vì thế, cần phải tìm một người cũng bị chết trẻ, đem hợp táng hai người, như vậy người chết mới có thể yên nghỉ nơi suối vàng. Đương nhiên, cơ hội để hợp táng được không phải lúc nào cũng có. Có người phải đợi đến mấy năm sau mới có một người khác giới có tuổi tác tương đồng chết trẻ.
Nhị Bá đầu đánh hơi được tin này, biết rằng đây là cơ hội hái ra tiền, liền xin ý kiến của Tổ Gia. Sau khi đã phân tích kỹ càng, Tổ Gia đã cho phép Nhị Bá đầu cầm đầu vụ này.
Thế là người mối lái bắt đầu lân la tới chỗ ông chủ quầy vải, xui rằng có một vị đạo trưởng có thể gọi hồn. Cô con gái bị chết oan nên hồn còn lang thang vất vưởng ở cõi trần, cần phải làm phép gọi hồn, để linh hồn được yên nghỉ, làm lễ hợp âm hôn mới được viên mãn.
Ông chủ quầy vải luôn cắn rứt, áy náy trong lòng, nên đã làm theo ngay. Đây thực chất chỉ là một chiêu, chứ nếu trực tiếp đến gõ cửa xin làm lễ hợp âm hôn, tất người ta sẽ sinh nghi ngay. Nhị Bá đầu xuất hiện với thân phận là một vị đạo trưởng sẽ khiến người ta tin tưởng.
Nhị Bá đầu nói với ông chủ quầy vải: “Trước khi ta xuất gia, gia cảnh cũng khá giả, nhà còn có một tiểu đệ, về sau bị bệnh mà chết khi mới 18 tuổi, tiểu đệ phải chịu cảnh cô độc dưới mộ phần đã mấy năm nay, nếu lão không chê, có thể làm lễ hợp âm hôn.”
Ông chủ quầy vải trông thấy tia hy vọng, liền hỏi Nhị Bá đầu: “Nhà đạo trưởng còn có những ai nữa? Ý phụ mẫu thế nào?”
Nhị Bá đầu nói: “Phụ mẫu đều lần lượt qua đời vì nỗi u uất trong lòng. Nay nhà chỉ còn một mình ta, nên ta mới rũ bỏ bụi trần, quyên góp toàn bộ gia sản xuất gia, một lòng thụ đạo.”
Ông chủ quầy thấy cũng môn đăng hộ đối, bèn nói: “Có cơ duyên với đạo trưởng, đúng là đã cứu vớt lão đây.”
Sự thật, Nhị Bá đầu chẳng lấy đâu ra tiểu đệ nào cả. Ông ta sai đám chân tay đến vùng núi hoang vắng tìm lấy một ngôi mộ vô chủ đã lâu không có người thăm nom, cúng bái, rồi đào người ta lên đem về. Cũng không biết đó là mộ phần của nam hay nữ, già hay trẻ, chúng đổi một chiếc quan tài khác, rồi khênh đến nhà của ông chủ quầy vải. Đúng là phường lừa đảo, đem cả thây ma xác quỷ ra làm trò bịp bợm.
Thường thì các đạo sĩ đều không dám nhận làm đạo tràng cho người chết bất đắc kỳ tử thế này. Đặc biệt là làm đạo tràng cho một cô gái đã chết vào giữa đêm hôm khuya khoắt. Nghe nói họ thường biến thành ác quỷ, nhưng đám A Bảo thì có sợ gì chứ.
Vào cái đêm làm lễ hợp âm hôn, Nhị Bá đầu đem theo mười mấy tên tay chân đến cúng bái hành lễ. Trong sân đặt một chiếc quan tài lớn màu đỏ, bên trong đặt tất cả những thứ gọi là di cốt của “em trai” ông ta. Thi thể cô gái được choàng áo liệm đặt nằm trên một tấm gỗ, đợi sau khi làm lễ xong sẽ được liệm táng cùng nhau.
Nhị Bá đầu đốt hương, cầm lá bùa đã được làm sẵn dán lên người cô gái. Sau đó lúc lắc người đi đi lại lại, tóc tai bù xù cả lên, miệng lầm rầm niệm chú.
Đúng lúc ánh trăng trên bầu trời chiếu thẳng xuống, đột nhiên một bóng đen nhảy vù một cái từ dưới sân lên cây. Mọi người đều giật mình, thoạt trông thì thấy đó là một con mèo hoang không biết từ đâu chạy tới, trèo lên tận ngọn, nằm bò trên một cành cây, đôi mắt xanh lè nhìn xuống dưới.
Nhị Bá đầu vẫn tiếp tục làm lễ. Lúc này, con chó mà cô gái nuôi khi còn sống, nhảy ra khỏi chuồng, lặng lẽ đi tới dưới gầm giường đặt xác cô gái, nó đứng lại rồi nằm xuống.
Nhị Bá đầu từng bàn luận với Tổ Gia về cuốn Trát phi mật bản, trong đó có một câu: “Vân già nguyệt, miêu cẩu thi tâm đồng nhất tuyến, thi tất trá.” Nghĩa là, khi các A Bảo làm lễ cúng, cần phải hết sức chú ý tình huống này. Đó là khi mây che kín mặt trăng, nếu lúc này mà tim của mèo, chó và người chết nằm cùng trên một đường thẳng, thì sẽ xảy ra hiện tượng xác chết vùng dậy. Xác chết vùng dậy tức là thi thể đột nhiên sống lại, nhảy dựng lên, đuổi theo và nhe răng cắn xé như một ác quỷ. Điều này vô cùng đáng sợ.
Việc làm phép vẫn đang được tiến hành, một tên tay chân đi vòng quanh thi thể bỗng phát hiện ra con chó dưới gầm giường, một dự cảm không lành xâm chiếm khắp người. Hắn nhìn lên con mèo trên ngọn cây, đôi mắt xanh lè, u ám dõi theo mọi việc đang diễn ra bên dưới, ba trái tim dường như đang nằm trên đúng một đường thẳng. Anh ta vừa vỗ vào vai Nhị Bá đầu thì thấy một đám mây đen bay đến, ánh trăng lập tức bị chìm khuất sau tầng mây.
Nhị Bá đầu còn chưa kịp phản ứng gì, xác cô gái đã bật dậy, đôi mắt mở trừng trừng, miệng há ra, nhảy bổ về phía Nhị Bá đầu. Nhị Bá đầu còn đang ngơ ngác bỗng giật mình, sợ đến nỗi quẳng cả thanh kiếm gỗ đào mà chạy. Xác chết kia như thể nhận ra được kẻ xấu cứ kêu lên “A a…”, hai tay duỗi thẳng ngang ngực đuổi theo Nhị Bá đầu.
Mấy tên chân tay vội vàng cầm gậy đuổi theo phía sau, đánh thật mạnh vào sau lưng xác cô gái, bị đánh liên tiếp mấy gậy, xác cô gái phát ra một tiếng “khự”. Thân người duỗi thẳng rồi đổ sang một bên, khí dương tiêu tan hết thì chết hẳn, nhưng chết không nhắm mắt, ánh mắt vẫn trân trân nhìn Nhị Bá đầu.
Sau khi Tổ Gia biết việc này, liền bảo Nhị Bá đầu: “Đừng làm vụ này nữa! Ông trời nổi giận rồi! Chúng ta chỉ đấu được với con người, chứ không đấu lại ma quỷ!”
Y học thời đó vẫn chưa phát triển như bây giờ. Người ta đều không biết rằng có trường hợp con người chỉ là chết lâm sàng, đến một lúc nào đó có thể tỉnh lại. Vì vậy nên Tổ Gia nghĩ rằng đó là do ông trời nổi giận.
Sau khi xảy ra chuyện, bọn chân tay khiêng quan tài chứa thi thể vô chủ kia về, ông chủ quầy vải cũng không yêu cầu hợp táng nữa, chỉ chôn cất một mình cô gái.
Tổ Gia ra lệnh cho bọn chân tay khiêng cả chiếc quan tài đó ra sau núi, đào một cái hố khác rồi chôn xuống, đốt rất nhiều tiền vàng mã, còn mang cả thủ lợn, rượu… đặt tế lễ trước mộ. Khi Tổ Gia cùng các anh em vái vái lạy lạy, gió lạnh nổi lên từng cơn, vàng mã và tàn tro bị cuốn tung lên từng hồi…
DƠI HÚT MÁU
Một lần dàn cục khác, Nhị Bá đầu vẫn là người được Tổ Gia lựa chọn.
Nhưng Nhị Bá đầu không đích thân dàn cục vụ này, ông đã nhường vụ làm ăn này cho Tiên Nhân Thủ, vì Tiên Nhân Thủ vừa mới được cất nhắc làm Thất Bá đầu, quan mới nhậm chức thường hăng hái. Ông ta muốn qua vụ này sẽ giúp cho Tiên Nhân Thủ có được chỗ đứng trong Đường khẩu.
Tiên Nhân Thủ đương nhiên hiểu rõ ý tốt này của Nhị Bá đầu. Anh ta và Nhị Bá đầu đã cùng nhau phân tích rất kỹ vụ này. Trương Nhị Cẩu muốn báo thù, muốn cả nhà họ Lý phải chết, nhưng nhà họ Trương đã lụn bại, lấy đâu ra nhiều tiền của. Tổ Gia đã nói: “Nếu có thể dàn cục kép, vừa hốt hết tiền của nhà Nhị Cẩu, lại gặt hái được bạc của nhà họ Lý đó mới là thủ đoạn dàn cục cao siêu, giống như vị đạo sĩ tiền bối đã thực hiện năm xưa.”
Sự việc về sau đã chứng minh Tiên Nhân Thủ là một kẻ hội đủ ba “đức tính”: hung ác, gian trá, độc địa. Lần dàn cục này, hắn đã khởi động thủ đoạn xuất sát (giết). Đúng hơn là tuyệt sát, nghĩa là giết sạch.
Sau khi nhận lệnh, Tiên Nhân Thủ bắt đầu dàn cục. Đầu tiên hắn dựng chuyện Quỷ gõ cửa, nhằm gây bầu không khí sợ hãi, chết chóc, để hù dọa người nhà họ Lý. Thủ đoạn dàn cục này rất thâm độc, đều là những tuyệt kỹ Trát phi do đích thân Nhị Bá đầu truyền thụ. Đạo cụ cần dùng đến lần này chính là loài lươn.
Máu lươn có vị tanh nồng thu hút lũ dơi ở cách xa cả mấy dặm. Ban đêm, nếu bôi máu lươn lên cánh cổng của nhà nào thì lũ dơi ở quanh đó sẽ ngửi thấy và bay đến ngay lập tức, chúng cứ vỗ cánh phành phạch chạm vào cổng, người trong nhà sẽ tưởng có người gõ cửa, liền khoác áo, xách đèn ra mở cửa. Ánh đèn sẽ khiến lũ dơi vốn thích bóng đêm và sợ nhất là ánh sáng bay vụt đi hết. Người trong nhà mở cửa không thấy có gì sẽ nghĩ mình nghe lầm, liền quay vào nhà, vừa định ngủ tiếp thì lại nghe thấy tiếng gõ cửa như vậy, lại dậy, lại ra mở cổng xem và vẫn chẳng thấy gì. Cứ lặp đi lặp lại như vậy vài lần sẽ khiến tinh thần những người sống trong nhà hoang mang, sợ hãi. Đợi khi trời sáng đi ra xem thì sẽ chẳng thấy gì nữa, bởi khi trời tờ mờ sáng lũ dơi đã bay đi hết. Thứ duy nhất mà họ có thể nhìn thấy được chính là vết tay lớn dính đầy máu trên cổng, giống như một bàn tay ma quỷ đến gõ cửa nhà mình vậy. Thực ra tất cả đều là do người dàn cục đã cố ý vẽ lên cửa hình bàn tay và bôi máu lươn lên.
Để chắc chắn không xảy ra sơ xuất nào, đích thân Tiên Nhân Thủ xách máu lươn và dẫn theo hai tên tay chân đi làm. Chúng lần sờ trong đêm tối cuối cùng cũng đến được trước cổng nhà họ Lý. Khi chiếc xô nhỏ đựng máu lươn vừa được mở ra, một mùi tanh đã xộc lên mũi, Tiên Nhân Thủ tự tay cầm chiếc bàn chải bằng lông nhúng vào máu lươn rồi bôi lên cửa. Thời gian chưa đến nửa nén nhang chúng đã bôi xong. Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Trên đường về nhà, bọn chúng cảm thấy vô cùng phấn khích, nhưng vừa đi được nửa đường thì cảm giác như có một vệt đen đang bám theo, lượn vòng quanh trên đầu. Vừa định ngẩng đầu lên nhìn thì những bóng đen ấy bổ nhào xuống, chúng chợt nhận ra: Dơi hút máu người. Cả lũ chân tay khua khoắng, vội vàng co cẳng chạy một mạch, rồi chui tọt vào một lò rèn mới thoát nạn.
Kỳ thực, răng của loài dơi rất nhỏ, có cắn được vào da thịt cũng chỉ là vết cắn rất bé, chẳng thể hút cạn được máu trên người như trong truyền thuyết. Chúng hút máu rất chậm chạp, chỉ có những người ta đang ngủ say hoặc bị say rượu, xui xẻo lắm mới bị hút mất một ít máu. Hơn nữa khi thấy đau, người sẽ tỉnh lại ngay, lúc đó lũ dơi cũng chẳng thể tiếp tục hút máu được nữa. Sở dĩ bọn Tiên Nhân Thủ ôm đầu, co cẳng lủi nhanh còn vì thấy lũ dơi này quá hôi hám, lại giống như lũ âm hồn nên muốn tránh xa.
Sau khi về Đường khẩu, Tiên Nhân Thủ phát hiện trên trán bị sứt một miếng da, anh ta cố nhớ lại mà không hiểu tại sao lũ dơi lại bu vào mình, trước lúc dàn cục rõ ràng anh ta đã rất cẩn thận rồi, sau khi dàn cục xong cũng vứt hết đạo cụ. Sao có thể bị lũ dơi bám theo được?
Sau đó, hai tên đi theo nhắc: “Có khi lúc bôi máu lươn lên cổng, do căng thẳng đến nỗi toát cả mồ hôi, sau lại thuận tay quệt mồ hôi trên trán, chắc lúc đó sơ ý để dính máu lươn lên trán rồi cũng nên. Cộng thêm mùi máu lươn tanh nồng ám lên quần áo nên mới dụ lũ dơi bám theo.”
Tiên Nhân Thủ cười: “Không sao! Chỉ là vết xước ngoài da, không đáng kể gì.”
Vụ dàn cục có sự “nhúng tay” của lũ dơi lần này phát huy tác dụng, khiến người nhà họ Lý rất sợ hãi, vốn tư tưởng mê tín đã ăn sâu trong máu nên sau khi bị hù dọa, nhà họ Lý bắt đầu “tìm thầy bốc thuốc” khắp nơi. Lúc này, người phụ trách bắn tin dẫn mối chính là Lục Bá đầu Phong Tử Thủ. Anh ta nói với nhà họ Lý rằng ở Lâm Trấn có một cao nhân, đạo pháp cao thâm, chuyên hóa giải những thứ tà môn này, có thể mời ông ta đến xem cho. Thế là Tiên Nhân Thủ xuất đầu lộ diện.
Lý Khởi Minh kể lại cho Tiên Nhân Thủ nghe toàn bộ sự việc, còn in lại vết tay quỷ đầy máu trên cánh cửa đưa cho Tiên Nhân Thủ xem. Tiên Nhân Thủ phải cố nhịn cười, giả vờ lắc lắc chuông đồng, đi quanh sân nhà họ Lý, sau đó trịnh trọng nói: “Nhà này có ma đấy.”
Lý Khởi Minh nghe thấy thế sợ rúm người: “Xin hỏi đại sư, nó từ đâu đến?”
Tiên Nhân Thủ nói, cái này phải để ta xem chân nhang, Lý Khởi Minh vội vàng tìm chiếc lư hương, Tiên Nhân Thủ châm một bó nhang, rồi cắm vào chiếc lư hương. Sau một tuần nhang, bó nhang cháy hết tạo thành hình một cái miệng tròn, ở giữa thấp, xung quanh cao, Tiên Nhân Thủ trầm ngâm một lúc rồi nói: “Lý tiên sinh, ta xin hỏi một câu khí không phải. Tiên sinh đã từng làm một việc thất đức nào chưa?”
Lý Khởi Minh rùng mình: “Sao đại sư lại nói thế?”
Tiên Nhân Thủ nhìn hắn nói: “Bó nhang này cháy ở giữa thì thấp, xung quanh cao, trông giống như chụp lên lư hương vậy. Điều này chứng tỏ chắc chắn tiên sinh đã gây ra tội ác tày trời. Đó là đè nén hương hỏa nhà ai đó, hoặc đè lên mộ nhà ai đó…” Nói xong, mắt nhìn chòng chọc vào Lý Khởi Minh.
Mồ hôi vã ra trên trán Lý Khởi Minh, hắn líu lưỡi: “Đại sư… quả là lợi hại… Tôi… tôi đành nói thật hết với ngài…”
Giống như Trương Nhị Cẩu, Lý Khởi Minh cũng kể hết từ đầu đến cuối chuyện hai nhà Trương – Lý ngầm đấu đá nhau mấy đời nay. Tiên Nhân Thủ nghe mà lòng thấy hả hê khoái chí, hắn thầm nghĩ: “Đúng là hai thằng ngu!”
Cuối cùng, Lý Khởi Minh hỏi xem Tiên Nhân Thủ có cách nào để hóa giải không.
Tiên Nhân Thủ vuốt bộ râu giả nói: “Dùng tiền chuộc mạng! Tiên sinh đã dùng đá áp đầu đè lên mộ tổ nhà người ta bao nhiêu năm, đến nỗi người chết không thể siêu thoát, biến thành cô hồn dã quỷ, còn người sống liên tục gặp vận xui xẻo, tai họa triền miên. Đúng là tội tày trời! Vừa rồi chẳng phải tiên sinh đã nói gần đây nhà người ta đào mộ lên phát hiện ra hòn đá áp đầu, một khi đá áp đầu bị lấy đi, cô hồn của Trương Trung Cẩn chui được ra ngoài, tất sẽ đến đòi mạng.”
Lý Khởi Minh nghe thấy thế sợ xanh mặt: “Xin đại sư cứu giúp!”
Tiên Nhân Thủ nói: “Dùng tiền đổi mạng, một phần số tiền này sẽ dùng để đưa cho nhà họ Trương sửa mộ tổ, một phần để xây từ đường. Còn một phần, ta dùng để làm lễ giải hạn cho tiên sinh. Ông xây từ đường, ta đuổi ma quỷ, cùng phối hợp mời cô hồn đang vất vưởng trên cõi trần của Trương Trung Cẩn quay về.”
Lý Khởi Minh ngơ ngác hỏi: “Xây từ đường cho lão ta ư? Tội ác mà lão gây ra cũng không ít. Ai sẽ trừng phạt lão ta đây?”
Tiên Nhân Thủ bỗng im bặt, nhìn chằm chằm vào sau lưng Lý Khởi Minh, đưa tay lên miệng “suỵt”, tỏ ý ra hiệu bảo Lý Khởi Minh im mồm lại.
Lý Khởi Minh sững người: “Chuyện gì thế?”
Tiên Nhân Thủ nhìn thẳng mặt hắn nói: “Ông ta đang đứng sau tiên sinh.”
Lý Khởi Minh nghe thấy sợ hãi thiếu chút nữa thì nhảy dựng lên, vội vàng quay người lại: “Ở đâu? Đại sư đừng có dọa tôi.”
Tiên Nhân Thủ nói tiếp: “Tiên sinh không thể nhìn thấy ông ta, chỉ tôi mới nhìn thấy được. Đừng có nói xấu ông ta nữa! Đôi mắt của ông ta vằn lên khi nhìn tiên sinh đấy.”
Đột nhiên, Tiên Nhân Thủ rút ra một chiếc túi vải màu vàng ở thắt lưng, kêu lớn: “Yêu nghiệt! Thái thượng lão quân mau mau nghe lệnh. Con ma to gan kia ban ngày ban mặt dám lên đây hại người, ta đây sẽ cho ngươi biết thế nào là lễ độ.”
Sau đó liền phi thân nhảy lên trên bàn, một tay giơ lên mở cái túi vải ra, lập tức bên trong có ánh lửa phát ra, sau đó hắn ta túm chắc lấy miệng túi, dùng sợi dây màu đỏ buộc lại, rồi nhảy từ trên bàn xuống, nói: “Không phải sợ, tạm thời ta đã nhốt được lão ta trong này rồi.”
Lời nói còn chưa dứt thì bỗng nhiên chiếc túi vải lùng nhùng động đậy, Tiên Nhân Thủ ra sức giữ chắc cái túi vải nhưng không được. Dường như có thứ gì đó bên trong vừa phóng vụt ra khỏi cái túi, Tiên Nhân Thủ hô to: “Chạy mất rồi, chạy mất rồi!”
Lý Khởi Minh được một phen hú vía trước cảnh tượng đang diễn ra trước mặt, không biết là thật hay giả. Nhưng sự việc lại thường như vậy, thật quá lại hóa thành giả. Thực ra, bó nhang đó đã được sắp đặt sẵn từ trước. Những que nhang ở giữa được làm từ loại trầm hương thượng hạng cháy rất nhanh và ổn định, còn những que xung quanh thì được trộn lẫn với đất, đương nhiên chúng sẽ cháy chậm hơn, cho nên tạo thành miệng tròn. Còn chiếc túi vải hàng yêu kia bên trong đã được bôi sẵn một lớp thuốc phát sáng do Tứ Bá đầu chế ra. Khi mở miệng túi, không khí ùa vào sẽ lập tức phát sáng, còn cái màn có “nhân vật” trong chiếc túi vải mà Tiên Nhân Thủ đang cầm trong tay cứ giãy giụa rồi thoát ra ngoài kia thực chất chỉ là một mánh khóe. Những người làm ảo thuật đều biết trò này. Thủ thuật thường dùng nhất là lấy một chiếc khăn tay bện lại giống như hình con chuột rồi để trong lòng bàn tay, ngón tay cái làm động tác cử động lên xuống, bốn ngón còn lại chuyển động liên tục, người chồm lên nhảy xuống, trông rất sống động. Nếu không vì Tiên Nhân Thủ chơi trò này rất điêu luyện, thì người ta đã không gọi hắn ta là Tiên Nhân Thủ.
Lý Khởi Minh lại bắt chước thói gian giảo của cha là Lý Văn Tài năm xưa, chưa thấy có kết quả thì không trả tiền, không thấy gà sẽ không thả diều hâu. Lúc này con ngươi của hắn cứ đảo đi đảo lại trông rất giảo hoạt, quỷ quyệt, xem chừng hắn vẫn còn có chút nghi ngờ những việc vừa diễn ra trước mắt. Đối với tình huống này, Tiên Nhân Thủ và Nhị Bá đầu đã chuẩn bị sẵn đối sách. Hắn ta lập tức khởi động bước thứ hai. Lần này, hắn sẽ cho tên Lý Khởi Minh biết thế nào là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.
Tiên Nhân Thủ nói: “Lý tiên sinh cứ cân nhắc, số tiền phải bỏ ra để giải hạn lần này cũng không phải nhỏ. Nhưng chuyện can hệ đến tính mệnh, cẩn thận không thừa, bỉ nhân phải nhắc nhở tiên sinh rằng những ngày gần đây phải hết sức chú ý đến sự an toàn của người thân, cẩn thận kẻo bị ma quỷ tới đòi mạng. Ta đưa trước cho mấy lá bùa, tiên sinh và người nhà cứ đeo lên người, tạm thời có thể tránh được họa, nhưng đây không phải là kế sách lâu dài!” Nói xong, hắn đưa cho Lý Khởi Minh năm lá bùa.
Lý Khởi Minh cảm ơn rối rít nhưng vẫn không chịu thò ra một đồng. Tiên Nhân Thủ không hề tỏ ra nôn nóng, trong lòng đã có tính toán trước và trò hay sắp diễn ra.
Vì đã được tên chân trong dẫn mối cung cấp hết thông tin từ trước, Tiên Nhân Thủ biết rõ nhà họ Lý có bao nhiêu người, nên hắn đã không làm đủ số bùa để phát hết cho cả nhà, như vậy chắc chắn bọn người hầu sẽ chẳng đến lượt. Lúc này nếu đột nhiên xảy ra chuyện với một tên người hầu nào đó thì rõ ràng chuyện này đúng là có thật rồi.
THIẾT CHÚ SÁT NHÂN
Tiên Nhân Thủ bắt đầu xuất sát. Theo thông lệ, khi Đường khẩu cần trừ khử người nào đó thì đều do Đại Bá đầu đảm nhiệm. Nhưng Tiên Nhân Thủ nóng lòng muốn lập công, muốn thể hiện bản thân mình nên hắn xin Tổ Gia cho phép tự mình ra tay.
Đầu tiên, Tiên Nhân Thủ phân tích rõ sự việc này cho Tổ Gia nghe. Lần xuất sát này khác với những lần trước. Đó là phải giết một cách bí hiểm, ly kỳ và hoàn hảo, phải làm sao để người ta tin rằng thực sự có ác quỷ về đòi mạng, phải dựng lên một kỳ án nghìn đời vẫn không thể phá được. Hắn đã làm thế nào? Bắn chết người chắc chắn là không được rồi, vì sẽ để lại vết đạn. Dùng dao đâm ư? Sẽ để lại vết dao. Dùng dây thừng siết cổ cho đến chết sẽ để lại vết lằn. Nếu hạ độc thì chỉ cần dùng kim châm bạc sẽ điều tra ra ngay. Mà người này phải chết một cách “thanh thản”, không có bất kỳ một vết thương hay dấu vết bị hạ độc nào kia.
Tổ Gia hỏi: “Làm thế nào?”
Tiên Nhân Thủ đáp: “Thiết chú.”
Phương pháp này không nhắc đến thì thôi, chứ nhắc đến ngay cả Tổ Gia cũng phải rùng mình. Thiết chú chính là dùng một dùi sắt dài chừng 30 cm, to chừng ngón tay út, một đầu được mài nhọn hoắt, rồi nung đỏ cả que sắt đó lên, dùng kìm kẹp que sắt đã được nung đỏ, đâm vào trong người qua hậu môn, que sắt sẽ đâm thẳng vào trong bụng qua trực tràng, xiên thủng vùng bụng dưới, tiếp đến đâm xuyên qua chín khúc ruột, rồi đâm tới dạ dày, cho đến khi toàn bộ que sắt được xiên vào nằm gọn trong người qua hậu môn.
Phương pháp giết người này xuất hiện lần đầu vào thời nhà Tống. Thời đó, Bao Công đã phá được vụ án này. Thủ pháp này quả thực vô cùng kín đáo, có thể phủi tay sạch sẽ. Thử nghĩ xem, nếu cứ dùng que sắt nguội mà đâm vào, chắc chắn sẽ bị chảy máu, cả phân và nước tiểu đều sẽ lòi ra, hơn nữa sẽ rất khó đâm vào trong. Còn que sắt đã được nung đỏ nóng đến hơn 700 độ C thì lại khác. Sau khi được đâm vào người, đi đến đâu nó sẽ đốt cháy đường đi đến đó, máu sẽ không thể chảy ra được.
Thời xưa người ta chưa biết tới kỹ thuật mổ khám nghiệm tử thi như ngày nay, nên quan lại thời đó dù có giỏi đến đâu cũng khó mà phát giác ra điều bí ẩn trong đó. Vào thời Tống, một gian phụ đã dùng chiêu cực hiểm này để mưu sát chồng, nhưng trong lúc thực hiện, vì quá căng thẳng, lo lắng nên đã không đâm que sắt vào sâu hẳn trong người, khiến hậu môn không co khít lại được. Chỉ sau vài ngày, Bao Thanh Thiên đại nhân đã tìm ra manh mối. Hơn nữa, nay đang lúc thời cuộc rối ren loạn lạc, ai buồn hao tổn tâm sức đi truy xét cái chết của một tên người hầu.
Đương nhiên, muốn dùng thủ pháp Thiết chú mà giết người thì cần phải đánh thuốc mê người đó, hoặc người đó phải bị say khướt đến nỗi không biết trời đất gì nữa, nếu không cứ thế mà đâm que sắt vào hậu môn anh ta, đau quá anh ta sẽ cắn đứt lưỡi mà chết.
Việc này suy cho cùng không phải do một mình Tiên Nhân Thủ làm. Tổ Gia sợ hắn tay chân lóng ngóng, đã phái cả mấy cao thủ giỏi võ công của Đường khẩu đi cùng, nửa đêm lẻn vào nhà họ Lý, sau khi thổi mê hồn hương, lấy chăn quấn một tên người hầu lại rồi khiêng đi. Nhân lúc anh ta còn đang hôn mê, hai tên tay chân sẽ cạy lỗ hậu môn ra, còn Tiên Nhân Thủ sẽ tự mình đâm que sắt đã được nung đỏ vào trong, sau đó lại đem cái xác chết này về nhà họ Lý. Kết cục, một người vô tội đã chết một cách âm thầm lặng lẽ.
Ngày hôm sau, mặt trời đã lên cao, sau khi cả nhà họ Lý thức giấc mới tá hỏa lên. Vừa tìm người, vừa đi báo quan, bên Cục Quân thống cử vài tên lính đến, chúng loay hoay nửa ngày trời cũng chẳng phát hiện được gì, cuối cùng đưa ra kết luận người này chết vì “bệnh đau tim”. Nhưng Lý Khởi Minh lại không nghĩ như vậy, sắc mặt của tên người hầu nhợt nhạt, toàn thân không bị thương tổn gì. Hắn bất giác nghĩ đến chuyện oan hồn đòi mạng mà Tiên Nhân Thủ đã nói, nên lập tức sai người đi mời Tiên Nhân Thủ đến. Vậy là mọi thứ đều diễn ra theo đúng kế hoạch, Lý Khởi Minh phải dốc sạch tiền của vừa để làm lễ giải hạn, vừa để xây từ đường cho nhà họ Trương.
Lần này, Trương Nhị Cẩu trong lòng hả hê vui sướng lắm, nhưng hắn đâu ngờ được rằng đây là niềm vui sướng cuối cùng trong cuộc đời hắn. Tiên Nhân Thủ cũng sẽ hạ độc thủ hắn. Tại sao lại phải làm như vậy? Bởi dàn cục kép kiểu này rất dễ bị lộ cục, tức một khi hai nhà làm hòa với nhau, hoặc giả Nhị Cẩu say rượu như cha hắn năm xưa, để lộ ra mọi chuyện thì coi như xôi hỏng bỏng không, vậy nên, Tiên Nhân Thủ cũng phải bịt miệng cả hắn ta nữa. Vốn định tạo ra một vụ hỏa hoạn để thiêu chết cả nhà là xong, nhưng Tổ Gia không đồng ý, cuối cùng Nhị Bá đầu nói: “Không cần giết người, cho nó bị câm thôi. Câm rồi sẽ không hé răng được nữa.”
Tiên Nhân Thủ nói: “Không nói được, nhưng hắn có thể viết.”
Nhị Bá đầu nói: “Vậy thì làm cho hắn bị ngớ ngẩn vậy.”
Tổ Gia suy tính một hồi, nói: “Tha cho bọn trẻ con. Đừng làm hại chúng!”
Khi từ đường nhà Nhị Cẩu được hoàn thành, cả nhà ai nấy đều vui mừng mở tiệc thiết đãi Tiên Nhân Thủ. Tiên Nhân Thủ mang theo “tiêu dao tán” được Tứ Bá đầu bí mật điều chế từ nhựa cây trúc đào và chất độc của loài cá nóc đến bữa tiệc. Đây là loại kịch độc gây tổn thương não, sau khi ăn phải, độc tính đi qua miệng và đường tiêu hóa, đầu tiên sẽ khiến người ta ngất lịm. Trong một ngày người sẽ lờ đờ lả đi mấy lần, người bình thường sẽ cho rằng đó là do bị kiệt sức mới vậy. Chẳng đến nửa tháng, độc tính phát tác, đại não và tiểu não cùng bị teo đi, khiến người đó trở nên ngớ ngẩn.
Thấy người nhà Nhị Cẩu bị ngớ ngẩn, nhà họ Lý hỏi Tiên Nhân Thủ rằng đó có phải là báo ứng không? Tiên Nhân Thủ nói: “Đương nhiên rồi, tiên sinh mang tiền của ra để đổi lại tính mạng, còn bọn họ đã không làm vậy. Họ gây chuyện thị phi cho nhà tiên sinh, kẻ nào gây ra tội nghiệp thì kẻ đó sẽ phải tự gánh chịu sự trừng phạt của ông trời.” Lúc này, người nhà họ Lý đều thở phào nhẹ nhõm, vì trước đó phải bỏ biết bao nhiêu tiền của ra xây từ đường cho kẻ thù, trong lòng oán hận. Nay thấy nhà họ Trương gia cảnh lụn bại, người thì ngơ ngơ ngẩn ngẩn, mối hận thù trong lòng này mới tiêu tan.
Tiên Nhân Thủ đã nhờ vào Trát phi mà dẹp bỏ ân oán của hai nhà, kiếm được bộn tiền về cho Đường khẩu. Cuộc đấu đá ngầm và cuộc đọ độc kế của hai nhà kéo dài suốt ba đời cuối cùng đã chấm dứt bởi tay A Bảo. Tiên Nhân Thủ vốn nhờ vào vụ này mà ngồi vững chắc ở vị trí Thất Bá đầu, nhưng người tính không bằng trời tính. Quả đúng như lời hắn ta nói “trời phạt”. Hắn ta lên cơn điên, mấy hôm sau thì chết. Mặc dù Tổ Gia đoán là hắn bị bệnh dại, nhưng lại không tìm được căn nguyên của căn bệnh này.
Cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, tôi có đọc được trong cuốn sách Sinh học của con, mới biết rằng loài dơi cũng mang trong người virus gây bệnh dại, nhưng xác suất rất thấp, chỉ 0,5%. Vậy mà xác suất nhỏ nhoi này đã rơi vào đúng Tiên Nhân Thủ, đã là ý trời thì khó có thể tránh được.
Lần dàn cục này vô cùng hoàn mỹ, nhưng hậu quả cũng thật bi đát. Sau khi xong việc, Tổ Gia cũng không tổ chức ăn mừng như mọi lần, ông nhốt mình trong phòng rất lâu. Không ai biết ông đang nghĩ gì. Ông đang sám hối ư? Hay đang nghĩ phải làm thế nào để truyền lại cho anh em trong Đường khẩu đạo nghĩa lớn lao của tôn chỉ “Thay trời hành đạo” của mình? Bao nhiêu năm nay, ông chưa từng giết người vô tội, nhưng lần này ông đã phá lệ. Do thiếu tiền ư? Mặc dù hai năm nay công việc làm ăn của Đường khẩu không thực sự tốt, nhưng Tổ Gia cai quản Mộc Tử Liên hơn 20 năm, dày công vạch kế hoạch, tìm cơ hội xuất chiêu, tính cả lớn nhỏ cũng đến cả nghìn vụ dàn cục. Tứ đại Đường khẩu Đông Tây Nam Bắc chắc cũng có tích lũy riêng, chỉ cần bớt ăn bớt tiêu, dăm ba năm nữa cũng chẳng thành vấn đề.
Những việc sau đó càng khiến các Bá đầu không sao hiểu được, thậm chí bọn chân tay còn tỏ ra oán trách ông. Đó chính là lần tổ chức Đại đường hội vừa rồi, Tổ Gia đã mang rất nhiều vàng bạc của Đường khẩu tặng không, biếu không cho các Đường khẩu khác. Các vị Bá đầu không hiểu vì sao Tổ Gia lại đem bao nhiêu tiền của xương máu của anh em đi cứu tế, khiến các anh em khó khăn thiếu thốn. Chỉ phát cho họ ít bạc gọi là có không được hay sao?
Tổ Gia nói: “Trước đây, khi gia nhập Đường khẩu, các ngươi đều đã phát lời thề. Tại sao đến lúc quan trọng lại quên sạch? Mặc dù không cùng chung một Đường khẩu, nhưng mọi người đều thuộc Hồng Môn, đều là truyền nhân của phái Giang Tướng, đều là anh em một nhà.”
Những lời này khiến mọi người im lặng. Tổ Gia nói không sai, khi uống rượu tiết gà, mọi người đều hừng hực khí thế hô to: “Từ nay nguyện kết làm anh em trong thiên hạ, bốn biển đều mang họ Hồng, cắt máu ăn thề, các anh em cùng chung sức chung lòng.” Những ngày tháng xưa hào hùng, mọi người cùng tụ hội chung một lời thề, cùng dìu dắt, giúp đỡ lẫn nhau.
Những lời này của Tổ Gia mặc dù đều là sự thật, nhưng tác phong làm bất cứ việc gì cũng luôn để lại đường lui cho mình khiến người ta cảm thấy có điều gì đó bất thường ở ông. Móc sạch hầu bao của Đường khẩu đi cứu tế cho các Đường khẩu khác, ông không sợ anh em, thuộc hạ của mình phải thất vọng hay sao?
Kẻ tầm thường rốt cuộc vẫn chỉ là kẻ tầm thường, không có tầm nhìn xa trông rộng được như Tổ Gia. Những việc sau này đã chứng minh Tổ Gia muốn chơi một ván cờ lớn, ông muốn trở thành Đại Sư bá vang danh thiên hạ, hơn nữa còn là một Đại Sư bá duy nhất. Đây mới là chân tướng của vấn đề.
Mấy chục năm nay, Tổ Gia đã sớm nhìn ra căn bệnh trầm kha của phái Giang Tướng: Tứ đại Đường khẩu mạnh ai nấy làm. Mặc dù mỗi năm đều có họp Đại đường hội một lần, trong cuộc họp cũng đạt được một vài thỏa hiệp, nhưng toàn bộ phái Giang Tướng không có nổi một người lãnh đạo thống nhất và khả năng chấp hành mạnh mẽ. Đó chính là nguyên nhân khiến nó không thể làm nên được việc lớn.Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Giờ đang là thời điểm phong ba bão táp, lòng người dao động, là lúc Tổ Gia cần phải mua chuộc, thu phục nhân tâm, ông muốn thâu tóm toàn bộ phái Giang Tướng về tay mình. Tất nhiên không thể để mất bất kỳ một A Bảo nào. Đạp lên đống bạc trắng lóa và đi trên vũng máu tươi của những oan hồn. Tổ Gia muốn bước lên đỉnh cao nhất của phái Giang Tướng.



Tập 1 Chương 4aDÀN CỤC MỸ NHÂN, BÁO THÙ CHO VƯƠNG Á TIỀU - CAO THỦ ÁM SÁT ĐỆ NHẤT TRUNG QUỐCNguồn: NXB Lao động

Nội dung thu gọn
Bát tự luận đoán họa phúc

Sau khi Tiên Nhân Thủ chết, Tam Bá đầu cho rằng cơ hội đã đến, liền ra sức tiến cử với Tổ Gia học trò tâm phúc của mình là Vương Gia Hiền, vào ngồi ở vị trí Thất Bá đầu. Sau vài lần bàn bạc, mặc dù Nhị Bá đầu có chút bất mãn, nhưng Tổ Gia vẫn gật đầu đồng ý. Cuối cùng, Vương Gia Hiền được ngồi vào chiếc ghế thứ bảy.
Vương Gia Hiền đi theo Tổ Gia năm 1946. Anh ta có dáng người cao gầy, ưa sạch sẽ, mỗi lần đi ra ngoài đều mặc áo dài nai nịt gọn gàng, tóc bôi dầu thơm chải ngược ra sau, trông rất hào hoa, nho nhã. Vương Gia Hiền bảo rằng tên của anh ta là do cha đặt cho, có nghĩa là gia đạo hiền lương. Tôi nghĩ khi cha anh ta đặt cho cái tên này, chắc chắn không thể ngờ được rằng sau này con trai mình lại toàn làm ra những việc lừa đảo, hãm hại người khác.
Thân phận khi xuất hiện ở bên ngoài của anh ta là một giáo viên dạy tiểu học gương mẫu trong trường quốc lập của Chính phủ Dân Quốc thuộc phe Quốc dân Đảng. Anh ta đọc sách nhiều, có tài ăn nói hạng nhất, tư tưởng tân tiến, có nhiều bài viết hay, rất được phụ nữ thời kỳ Dân quốc yêu mến, hơn nữa lại còn là quân sư giỏi của Tổ Gia. Trước mỗi lần dàn cục, Tổ Gia đều hỏi ý kiến anh ta. Ai có thể ngờ được rằng, đường đường một thầy giáo tiểu học đạo mạo lại có thể là một tay lừa đảo có hạng đây?
Lần đầu tiên anh ta giúp Tổ Gia dàn cục là nhằm vào vợ của một viên sĩ quan Quốc dân Đảng. Năm đó, Quốc dân Đảng gặp phải tình hình tiền tuyến nguy cấp, viên sĩ quan kia đã gửi một bức thư về nhà cho vợ. Trong thư tràn ngập lời lẽ thống thiết coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, hồi tưởng chuyện xưa phu thê ân ái. Từ đầu đến cuối thư bao trùm thâm ý sinh ly tử biệt khiến bà vợ ngày nào cũng khóc lóc, lo lắng, không thiết gì đến chuyện ăn uống.
Tâm trạng của bà ảnh hưởng trực tiếp đến đứa con, vừa hay cậu bé này là học sinh trường Vương Gia Hiền dạy. Thời đó ở bậc tiểu học, môn ngữ văn được đặc biệt coi trọng trong hệ thống giáo dục nhân văn. Bài văn đầu tiên gồm năm câu: “Mèo chuyên rình bắt chuột, chó ngoan ngoãn trông nhà, mỗi con có việc riêng, kẻ không nghề không ngỗng, thật chẳng bằng chó mèo.” Đại ý là trên thế giới này, mỗi một sinh linh được sinh ra đều có chức trách và nhiệm vụ riêng. Nếu một người bỏ bê công việc, không chuyên tâm vào chức trách của mình thì ngay cả đến loài vật cũng không bằng. Tôi không biết mỗi lần Vương Gia Hiền giảng đoạn văn này cho lũ trẻ nghe, trong lòng anh ta sẽ nghĩ thế nào.
Cậu con trai của vị phu nhân sĩ quan kia ngồi trên lớp mà tâm hồn cứ để mãi đâu, không tập trung nghe giảng. Cả lớp có 17 người, chỉ có mình cậu không thuộc năm câu này. Vương Gia Hiền hỏi xem có chuyện gì, nhưng cậu bé cúi đầu không nói. Sau đó Vương Gia Hiền gặng hỏi mấy lần, cậu bé mới trả lời vì mẹ nó suốt ngày buồn phiền chuyện của cha nên trong lòng không vui.
Vương Gia Hiền chộp ngay lấy thông tin này. Ngay đêm hôm đó, hắn bàn với Tổ Gia xem có thể làm vụ này không. Tổ Gia nói: “Không những có thể làm mà còn phải làm lớn nữa là đằng khác. Việc liên quan đến sự sống chết, chắc chắn giá rất cao.”
Vương Gia Hiền lấy lý do đứa bé kia học hành sa sút, trên lớp thường không chú ý nghe giảng để đến tìm bà phu nhân kia. Người có dáng vẻ khôi ngô, sáng sủa, làm việc gì cũng sẽ thuận lợi, Vương Gia Hiền chính là loại người này. Dáng vẻ nho nhã, phong thái trí thức, ăn nói nhã nhặn lịch sự. Cho nên, ngay từ lần đầu gặp mặt bà phu nhân kia đã trút hết nỗi lòng mình với Vương Gia Hiền.
Vương Gia Hiền nói: “Tướng quân tráng sĩ, chinh chiến mười năm, thân kinh trăm trận, tất ngày khải hoàn. Chồng phu nhân đang chinh chiến nơi sa trường, khiến đám văn nhân hèn mọn như chúng tôi đây thật hổ thẹn.”
Bà phu nhân thở dài nói: “Tiên sinh khiêm tốn rồi. Từ xưa tới nay quan văn chết bởi lời can gián, quan võ chết bởi chiến trận sa trường. Văn chương cũng chính là một thứ vũ khí sắc nhọn giành lấy giang sơn. Tiên sinh dạy học trồng người, cũng là mang lợi ích cho đời sau.”
Vương Gia Hiền không ngờ vị phu nhân này có trình độ cao như vậy. Bình thường chỉ mỗi mình thao thao bất tuyệt, không ngờ hôm nay lại gặp được vị phu nhân khéo ăn khéo nói như vậy.
Vương Gia Hiền cũng thở dài nói: “Chỉ hy vọng phu nhân có thể bình tâm trở lại, chờ tin tốt lành của chồng. Nếu không, tâm trạng của bà sẽ ảnh hưởng nhiều tới cậu nhà. Ngày nào ngồi trên lớp cậu nhà cũng không tập trung chú ý nghe giảng, để lâu, sợ sẽ ảnh hưởng đến việc học hành.”
Vị phu nhân kia gật đầu nói: “Nói thì nói vậy, nhưng ai có thể làm được đây. Chồng tôi sống chết còn chưa biết thế nào, bảo tôi làm sao có thể bình tâm được.”
Vương Gia Hiền nhận thấy cơ hội đã đến, bèn làm vẻ nghiêm túc nói: “Phu nhân có tin vào số mệnh không?”
Vị phu nhân ngây người: “Số mệnh ư? Bây giờ tôi cũng chỉ biết trông chờ vào mệnh trời thôi.”
Vương Gia Hiền bắt đầu xuất chiêu: “Thưa phu nhân, tôi có quen một vị tiền bối tinh thông Kỳ môn Bát quái, bấm độn quẻ rất giỏi, nghe nói đã xem cho rất nhiều quan to trong Chính phủ, có thể đoán biết được chuyện sinh tử, phú quý, chính xác lắm. Hay bà mời ông ấy xem cho…”
Vương Gia Hiền chưa nói hết câu, bà phu nhân vội vàng hỏi: “Có thật không? Liệu có thể mời được ông ấy không?” Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Vương Gia Hiền thấy bà ta đã cắn câu. Rõ ràng hắn chẳng đi câu, mà cá lại tự tìm đến móc vào lưỡi.
Vương Gia Hiền nói: “Phu nhân đừng sốt ruột, lão tiên sinh đó là chỗ giao tình với tôi đã lâu, tôi có thể hẹn gặp được. Ông ấy rất bận, nhưng tôi sẽ cố gắng sắp xếp giúp bà.”
Vị phu nhân này mừng như chết đuối với được cọc, vội vàng nói: “Cảm phiền tiên sinh nhanh chóng hẹn giúp tôi, càng nhanh càng tốt, tốn bao nhiêu tiền cũng được.”
Đây mới chính là lời mà A Bảo thích nghe nhất, Vương Gia Hiền nói: “Nhất định rồi, nhất định rồi! Tối nay tôi đến nhà ông ấy xem thế nào. Xin phu nhân cứ yên tâm!”
Vị phu nhân xúc động nói: “Cám ơn tiên sinh! Cám ơn tiên sinh!”
Khi người ta đang trong hoàn cảnh quá đau buồn hoặc vui mừng quá độ, đều sẽ trở nên ngốc nghếch. Huống hồ lại là người phụ nữ thân đơn gối chiếc, chồng chinh chiến nơi xa, sống chết là điều khó nói. Vương Gia Hiền nhanh chóng quay về báo cáo lại với Tổ Gia. Tổ Gia nói: “Bà ta có bao nhiêu gia sản?”
Vương Gia Hiền nói: “Điều này khó có thể biết chính xác được. Nhà mang kiến trúc phương Tây, theo phong cách bài trí đồ đạc trong nhà, đoán chừng đây là nhà của sĩ quan chỉ huy cấp trung đoàn trở lên.”
Tổ Gia nghĩ một lúc rồi nói: “Cứ để bà ta chờ vài hôm đã.”
Ngày hôm sau, Vương Gia Hiền lại đến nhà vị phu nhân kia, hắn nói: “Tối qua tôi đi tìm lão tiên sinh rồi. Gần đây ông ấy rất bận, đáng nhẽ ra phải đi công tác. Nhưng sau khi nghe tôi kể về việc của phu nhân, ông ấy tạm thời hoãn lại, khoảng hai ba hôm nữa có thể gặp được.”
Bà phu nhân nói: “Cám ơn tiên sinh! Cám ơn tiên sinh! Xin càng sớm càng tốt cho!”
Ba ngày sau, ba người gặp nhau tại một tiệm trà.
Tổ Gia cốt cách phi phàm, Vương Gia Hiền phong lưu hào sảng. Vị phu nhân này có nằm mơ cũng không thể nào ngờ được rằng hai bậc quân tử khiêm nhường trước mặt mình đây lại chính là phường lừa đảo chuyên nghiệp. Ngồi trước hai người đàn ông đạo mạo, vị phu nhân có chút ngại ngùng, thu hết can đảm bà mở lời với giọng run rẩy: “Xin làm phiền tiên sinh ạ!”
Tổ Gia nói: “Người học Kinh dịch, tấm lòng từ bi đại lượng, phu nhân không cần quá khách sáo như vậy. Việc của phu nhân, Vương tiên sinh đây đã nói cho ta nghe cả rồi.”
Vị phu nhân nói: “Vậy cảm phiền tiên sinh xem giúp chồng tôi lành dữ thế nào?”
Tổ Gia nói: “Tướng mặt35 phu nhân, cung Phu thê sắc trạch ảm đạm, cung Quan lộc và cung Mệnh thấp lõm. Thứ lỗi cho ta nói thẳng, chồng bà đang ở vào hoàn cảnh rất nguy ngập.”
Vị phu nhân kia nghe thấy vậy vẻ mặt đờ đẫn hoảng hốt rồi cuống quýt hỏi: “Vậy… vậy có nguy hiểm đến tính mạng không?”
Tổ Gia chậm rãi nói: “Xin phu nhân hãy bình tâm, hãy cho ta biết Bát tự ngày sinh của chồng bà.”
Sau khi nghe bà ta trả lời, Tổ Gia ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Tôi đoán trên trán của chồng phu nhân có một nốt ruồi to, không biết có đúng không?”
“Đúng quá, thưa thầy!” Bà ta cuống quýt trả lời. “Nó nằm lệch về phía bên trái trên trán.”
Tổ Gia lại nói: “Ông ấy mắt to, cằm nhọn.”
“Tiên sinh nói quả rất đúng!” Vị phu nhân trả lời.
Vương Gia Hiền giả bộ kính nể cũng vội vàng nói: “Lão tiên sinh đúng là đạo pháp cao minh. Vãn sinh xin bái phục, bái phục!”
Tổ Gia vẫn nghiêm sắc mặt không hề biểu lộ một chút tình cảm, bấm bấm đốt ngón tay: “Phu nhân cho ta hay Bát tự của phu nhân.”
Vị phu nhân vội vàng nói Bát tự của mình.
Tổ Gia lại bấm đốt ngón tay, trầm ngâm một lúc rồi nói: “À! Được cứu rồi, được cứu rồi.”
Vừa nghe thấy câu “Được cứu rồi”, vị phu phân liền đứng phắt dậy, ánh mắt tràn đầy niềm hy vọng, bà nói: “Tiên sinh vừa nói chồng tôi sẽ được cứu ư?”
Tổ Gia nói: “Bát tự của phu nhân vừa hay có thể hỗ trợ cho phu quân. May mà ông ấy lấy được bà, nếu không thì lần này khó tránh được tai họa.”
Đây gọi là Đả trước Long sau.
Vị phu nhân hỏi lại: “Ý tiên sinh là tôi có mệnh vượng phu sao?”
Tổ Gia nói: “Đúng vậy.”
“Vậy làm thế nào mới có thể hóa giải được tai họa này?” Vị phu nhân hỏi dồn.
Tổ Gia trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi nói: “Còn phải xem phu nhân có bằng lòng hay không.”
Bà ta ngẩn người không hiểu: “Sao tiên sinh lại nói vậy, đương nhiên tôi bằng lòng rồi. Dù đánh đổi cả mạng sống, tôi cũng bằng lòng.”Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Tổ Gia nói: “Phu nhân quả là một người vợ hiền thục. Ông ấy lấy được bà, thật đúng là phúc phận của ông ấy! Hôm trước ta cũng gặp một trường hợp giống với trường hợp của phu nhân, nhưng người phụ nữ đó vừa nghe thấy việc giải hạn phải dùng đến tiền thì nghi ngờ do dự không quyết. Hây da! Ta không biết phải nói thế nào cho phải, rốt cuộc là tiền quan trọng hay phu quân quan trọng đây. Than ôi!”
Vị phu nhân nói: “Tiên sinh yên tâm. Chỉ cần cứu được chồng tôi, phải bỏ ra bao nhiêu tiền cho tiên sinh tôi cũng bằng lòng. Tôi nào sợ khuynh gia bại sản.”
Nghe bà ta nói vậy, Tổ Gia sa sầm mặt nói: “Phu nhân nói thế là ý làm sao? Sao lại cho tôi tiền? Kẻ hèn này tuy rằng cả đời thanh bần nhưng vẫn hiểu thế nào là hai chữ nhân nghĩa.”
Vị phu nhân vội nói: “Tiên sinh… vừa rồi chẳng phải nói muốn giải hạn thì cần đến tiền sao?”
Tổ Gia tức giận nói: “Phu nhân coi khinh ta quá! Ta nói dùng tiền giải hạn, ý bảo phu nhân bỏ tiền ra lo cho chồng chứ không phải cho ta tiền. Trong mệnh cục phu nhân, Quan tinh bị Tài tinh khắc chế triệt để, chỉ có bỏ tiền ra mới có thể giải cứu được Quan tinh, như thế phu quân bà mới trở về được, cho nên ta bảo bỏ tiền ra là ý như vậy. Nhưng không thể vung tiền tùy tiện được, mà phải dùng để công đức, như vậy vừa đạt được mục đích tiêu tiền, vừa giúp chồng tích đức hành thiện, đúng là nhất cử lưỡng tiện.”
Bà phu nhân liền hỏi dồn: “Làm thế nào mới có thể tích công đức đây?”
Tổ Gia trả lời: “Phu nhân nhìn xem, cây cầu nối liền với Nam Trấn đã bị xuống cấp, hư hỏng nhiều năm. Mỗi ngày người dân đi đi về về bên đó, có lúc còn có lái buôn đánh xe ngựa chạy qua cầu, rất nguy hiểm, nên sớm trùng tu, phu nhân quyên góp một khoản để sửa chữa cây cầu chính là đã giúp chồng giải hạn, hơn nữa lại tạo phúc đức cho người dân. Người xưa có câu, xây cầu sửa đường, công đức vô lượng. Như vậy thật tốt biết bao!”
Không chờ vị phu nhân kia lên tiếng, Vương Gia Hiền đứng dậy trước, cúi gập người trước Tổ Gia, khóe mắt đỏ hoe, làm ra vẻ như mới được thụ giáo đạo lý cao siêu gì đó, hắn nói: “Tiên sinh quả thật là người có tấm lòng từ bi, vãn sinh cảm kích vô cùng!”
Vị phu nhân nói: “Tiên sinh quả thật là người có tấm lòng từ bi! Vậy xin hỏi tiên sinh cần khoảng bao nhiêu tiền?”
Tổ Gia nói: “Việc này quả thực ta cũng không biết, phu nhân thử hỏi lính bảo an địa phương xem sao. Quyên góp tiền cho họ, họ sẽ tự cho người sửa chữa lại cây cầu.”
Vị phu nhân vui mừng nói: “Như vậy sẽ giải được hạn cho chồng tôi đúng không?”
Tổ Gia quả quyết nói: “Chắc chắn giải được! Phải thành tâm, không được làm qua quýt cho xong chuyện.”
Vị phu nhân gật đầu nói: “Nhất định, nhất định rồi! Tiên sinh, tôi đã quấy quả làm mất nhiều thời gian của ngài, tôi… tôi phải trả cho tiên sinh bao nhiêu tiền?”
Tổ Gia lắc đầu: “Phu nhân đang lúc khó khăn, ta chẳng qua chỉ dựa vào chút khả năng giúp phu nhân bớt đi phiền não, vậy mà lại đi lấy tiền khác nào để phu nhân chê cười?”
Vị phu nhân càng cảm thấy bối rối nói: “Vậy tôi phải làm thế nào để tạ ơn tiên sinh đây, ngài đã phải lao tâm khổ tứ vì việc của tôi, tôi…”
Tổ Gia nghe xong phe phẩy tay áo, rồi chỉ tách trà trên bàn nói: “Được hóng gió lành, nhấp chén trà lạt là đã đủ rồi, đủ rồi!” Nói xong liền uống một hơi cạn sạch rồi phẩy tay áo bỏ đi.
Nhìn theo bóng Tổ Gia mãi đằng xa, vị phu nhân thở dài một tiếng: “Thói đời bạc bẽo, lòng người chẳng được như xưa, nào hay hôm nay gặp được vị lão tiên sinh đây mới biết tình người vẫn nồng ấm.” Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Vương Gia Hiền hùa theo: “Từ trước tới nay, lão tiên sinh vẫn luôn xem thường đồng tiền, người như vậy trên đời này đâu còn được mấy người.”
Sau đó, vị phu nhân này đã bỏ ra một khoản tiền lớn để tu sửa lại cây cầu, tên lính bảo an đứng ra nhận tiền đó thực chất đã bị Tổ Gia mua chuộc từ trước. Số tiền dùng để tu sửa cầu chỉ là một phần nhỏ, phần còn lại được chia đều cho Tổ Gia và tên lính kia. Còn việc Tổ Gia bói ra được tướng mạo của chồng bà ta, đều nhờ những thông tin do Vương Tổ Hiền thu thập từ trước khi dàn cục, anh ta đã lén quan sát những bức ảnh treo trên tường. Phu nhân đó một lòng lo lắng đến việc an nguy của chồng, nên đâu có biết trò mèo đó.
Tôi rất khâm phục những thủ đoạn, mánh khóe của Tổ Gia, ông đã vận dụng cả Thiên và Long, biến mình trở thành một bậc đại đức trong mắt thiên hạ. Về sau, tôi từng hỏi Tổ Gia: “Ngộ nhỡ chồng bà ta không trở về thì sao?”
Tổ Gia mắng tôi đầu óc bã đậu, ông nói: “Vấn đề không phải là sợ chồng bà ta không về, mà sợ chồng bà ta quay về ấy, chẳng may lão ta về được mới gay. Còn không chẳng có gì phải sợ, một quả phụ không chồng thì có thể làm gì được cậu? Đầu óc bã đậu, không chịu động não!”
Lúc đó tôi mới ngộ ra, vội hỏi: “Nếu chồng bà ta quay về, đến tìm chúng ta gây chuyện, thì phải làm thế nào?”
Tổ Gia nói: “Cứ đi ắt sẽ có đường, việc gì chẳng có cách giải quyết chứ. Làm A Bảo mà cứ sợ bóng sợ gió, chẳng bằng về nhà chăn lợn cho rồi.”
Về sau, Vương Gia Hiền ba lần bảy lượt chạy đến nhà vị phu nhân đó, Tổ Gia thấy có điều gì đó không ổn, nên trong một lần họp Đường khẩu, ông nói: “Tiền đã ôm được về rồi, đừng có đòi ôm thêm thứ khác, tham lam tất sẽ gây ra họa đấy.”
Lời của Tổ Gia dọa cho Vương Gia Hiền sợ toát mồ hôi hột, hắn nói: “Con hiểu, con hiểu rồi.”
Sau này, có lần tôi và Vương Gia Hiền cùng ngồi uống rượu, tán chuyện với nhau. Vương Gia Hiền nói anh ta đã rung động trước vị phu nhân đó. Đang lúc bà ta chới với không có chỗ dựa, nhờ vào khả năng am hiểu tâm lý phụ nữ, cộng thêm tướng mạo và thủ đoạn, không đầy một tháng sau, chắc chắn có thể có được bà ta trong tay. Thực ra, anh ta cũng chẳng muốn tính chuyện lâu dài, chỉ muốn được ngủ với bà ta một đêm, rồi rút êm.
Anh ta nói đó là một phụ nữ trí thức, đàng hoàng đứng đắn, am hiểu thơ ca, chính là mẫu người anh ta thích. Tôi hỏi: “Anh thường xuyên qua lại chốn lầu xanh, vậy mà vẫn có nhã hứng và khẩu vị tao nhã đến thế sao?” Anh ta trả lời rằng: “Các cô gái lầu xanh dù có xinh đẹp nhường nào cũng chỉ là cái bị thịt, qua tay đủ hạng đàn ông. Sao có thể so sánh với người phụ nữ con nhà gia giáo được?”
Cuối cùng Vương Gia Hiền cũng uống đến độ say khướt, luôn miệng lảm nhảm: “Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ, tương tư bất tương kiến, đồng ẩm Tương giang thủy36…” Rồi sau đó mê man ngủ thiếp đi.
Tôi biết, Vương Gia Hiền là người có tâm theo đuổi mục tiêu rất lớn, có tài nhưng chưa gặp thời, cuối cùng bất đắc chí phải đem tài năng thi triển trong hàng ngũ A Bảo, hẳn anh ta rất đau lòng. Kỳ thực, A Bảo nào cũng vậy, chỉ biết sống tạm sống bợ, mượn rượu giải sầu, chơi bời trăng hoa cho qua ngày. Sau những cuộc vui, họ cũng cảm thấy thương thay cho mình, thấy rõ một tương lai không lối thoát. Ai chẳng muốn sống một cuộc sống đàng hoàng, lấy vợ sinh con, sống yên ổn cho đến tuổi già, con trai con gái đề huề, được vậy sẽ hạnh phúc biết bao. Nhưng các A Bảo làm gì có được thứ hạnh phúc xa xỉ đó, họ sống say sưa trong mộng mị bởi lòng tham muốn vật chất, nó đã đục khoét thân thể, đục khoét tâm hồn, vẻ hào nhoáng bề ngoài mãi mãi không thể che giấu được đôi tay đã nhúng chàm và sự tự ti trong lòng. Đêm đến, A Bảo cũng thường hay nghĩ, nhớ đến bản thân mình khi còn trong sạch, tự chất vấn mình rằng nếu ta không đi theo con đường này thì có lẽ đã trở thành một con người khác…
Hôm nay, Vương Gia Hiền phong độ ngời ngời, kinh luân một bụng cuối cùng cũng đã ngoi lên đến vị trí Bá đầu. Kể từ đó, mọi người đều gọi anh ta là Thất gia.
ĐỆ NHẤT ÁM SÁT TRUNG QUỐC
Từ tháng 9 năm 1948, cuộc chiến tranh giải phóng bước vào giai đoạn quyết chiến mang tầm vóc chiến lược, đến đầu năm 1949, chiến dịch Bình Tân kết thúc, quân chủ lực Quốc dân Đảng cơ bản bị tiêu tan, hầu hết các vùng từ sông Trường Giang đổ về phía Bắc đều đã được giải phóng. Chưởng môn Tuyết Manh Thảo là Tiền Diệu Lâm bị dồn vào thế chân tường, cuối cùng đành phải từ bỏ địa vị Đại Sư bá, đến cậy nhờ Tổ Gia.
Nhưng, một núi không thể có hai hổ, giống như Tống Giang và Tiều Cái ở Lương Sơn Bạc, cuối cùng cũng phải có một người cầm đầu. Mặc dù Tiền Diệu Lâm cam tâm tình nguyện cúi đầu xưng thần, nguyện làm một Bá đầu dưới tay Tổ Gia, nhưng bảy vị Bá đầu dưới tay Tổ Gia đâu thể để lão ta làm vậy. So về tuổi tác, Tiền Diệu Lâm còn lớn tuổi hơn cả Tổ Gia. Lão ta nham hiểm gian xảo, từng có tà tâm bất chính với Giang Phi Yến – Trưởng môn nhân Nam phái. Nếu không nhờ có Tổ Gia ra mặt điều đình, e rằng đã xảy ra một trận huyết chiến giữa hai Đường khẩu.
Nghe Nhị Bá đầu nói, Giang Phi Yến lớn hơn Tổ Gia một tuổi, Tổ Gia tôn trọng bà ấy nên gọi là Yến tỷ. Khi Kiều Ngũ Muội chết, bọn Hắc bang trong vùng đến phá rối, Tổ Gia dẫn theo các anh em đích thân đến dàn xếp. Sau khi Tiền Diệu Lâm nương nhờ Tổ Gia, Giang Phi Yến đã gửi riêng cho ông một bức thư, nhắc nhở Tổ Gia phải cẩn thận đề phòng con người này.
Vì thế, mọi người luôn cảnh giác trước sự xuất hiện của Tiền Diệu Lâm. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Tổ Gia.
Không khí trong Đường khẩu có phần gượng gạo, nhìn bề ngoài có vẻ như vẫn giữ được hòa khí, nhưng thực tế nguy cơ trùng trùng. Đặc biệt sau khi Vương Gia Hiền lên làm Thất Bá đầu, Nhị Bá đầu luôn cảm thấy khó chịu. Mối quan hệ với Tam Bá đầu ngày càng căng thẳng hơn, cộng thêm việc đột nhiên trong Đường khẩu xuất hiện thêm lão Tiền Diệu Lâm này nữa. Mặc dù hắn nói muốn làm một Bá đầu dưới tay Tổ Gia, nhưng Tổ Gia không thể làm vậy. Tiền gia vẫn là Tiền gia, Đại Sư bá vẫn là Đại Sư bá. Đợi qua thời gian này, khi điều kiện cho phép, Tổ Gia sẽ lại giúp ông ta lập một Đường khẩu khác. Như vậy, Đường khẩu vô duyên vô cớ lại có thêm một Đại Sư bá, mỗi khi họp Đường khẩu, Tiền Diệu Lâm luôn ngồi bên cạnh Tổ Gia, thỉnh thoảng Tổ Gia còn nghe theo ý kiến của lão ta, khiến các Bá đầu đều cảm thấy chướng mắt.
Khoảng thời gian đó, mỗi lần họp Đường hội, Tổ Gia thường bảo tôi ở lại pha trà cho ông. Không một ai bận tâm đến chuyện này, họ đều biết tôi vừa đần vừa ngốc, nên chẳng ai đề phòng.
Tổ Gia rất am hiểu trà đạo, mỗi lần thưởng trà, chỉ cần một khác biệt nhỏ là ông nhận ra ngay. Có lần, khi pha trà tôi hơi phân tâm một chút, sau khi nhấp một ngụm, ông nói: “Đại Đầu, lần này con để tâm đi đâu vậy?”
Tôi cảm thấy Tổ Gia là người vô cùng tinh tế, chỉ cần nhấp một ngụm trà ông cũng có thể nhận ra được tâm của người pha trà lúc đó đang tĩnh hay phân tâm. Khoảng thời gian đó, lần nào chúng tôi cũng uống trà đến tận khuya, ông không ngủ được, nên thường hay uống trà, tôi thấy rõ một điều rằng ông đang trăn trở vấn đề gì đó.
Có lần, Tổ Gia và tôi đàm luận đôi chút về việc của Đường khẩu. Thực ra tôi có nói cái gì cũng không ảnh hưởng đến ai cả, mọi người đều biết tôi ngốc nghếch, chẳng biết giở trò ma mãnh. Nếu đổi lại là người khác, ngày nào cũng trò chuyện với Tổ Gia đến tận khuya, chắc chắn khó tránh khỏi bị mọi người sinh nghi, ít nhất cũng sẽ sinh lòng đố kỵ. Bởi vậy, ngốc cũng có cái hay của ngốc, một tên ngốc không đòi hỏi tham vọng, chẳng phải bận lòng bất cứ điều gì. Ngốc, đôi khi cũng là một bức bình phong bảo vệ cho bản thân mình.
Một tối, Tổ Gia hỏi tôi: “Con thấy tình hình Đường khẩu hiện nay thế nào?”
Tôi không hiểu ý Tổ Gia, ấp úng không dám nói.
Tổ Gia nói: “Đại Đầu, cứ nói đi! Chuyện hai chúng ta nói, chỉ có ta và con biết.”
Được Tổ Gia mở lời, tôi thu hết can đảm nói: “Tổ Gia, có vài chuyện con không hiểu, không biết tại sao sư phụ lại làm như vậy?”
Tổ Gia mỉm cười, nói: “Nói tiếp đi.”
Tôi quay sang nhìn ông, run run nói: “Ví dụ như sư phụ không nên cho Tiền gia ở lại, càng chẳng cần để cho ông ta ngồi ngang hàng khi họp Đường hội. Mặc dù đều là anh em, nhưng dù sao cũng không phải người trong cùng một Đường khẩu, để ông ta biết hết những việc lớn nhỏ của Đường khẩu thì không hay cho lắm. Ngoài ra, sư phụ cũng không nên để cho Vương Gia Hiền lên làm Thất gia nhanh như vậy. Vì Tiên Nhân Thủ vừa mới chết, Nhị gia vẫn còn rất đau lòng, làm như vậy sẽ gây nên mối bất hòa trong nội bộ Đường khẩu…”
Nói xong, tôi không dám ngẩng đầu lên, sợ nói gì đó mạo phạm sẽ khiến Tổ Gia tức giận.
Tổ Gia cười ha hả, nói: “Đại Đầu, nếu như con là ta, con mong các anh em trong Đường khẩu đoàn kết một lòng, hay mong họ có bức tường ngăn cách?”
Tôi đáp: “Đương nhiên là đoàn kết một lòng rồi. Mọi người cùng chung sức chung lòng, như vậy mới làm tốt mọi việc được.”
Tổ Gia lắc lắc đầu, cười gượng, nói: “Đúng vậy! Chung sức chung lòng, đúng là làm được việc, nhưng cũng dễ làm hỏng việc.”
Lúc đó, tôi không hiểu được câu Tổ Gia nói có ý gì, mãi sau này xảy ra việc bốn Bá đầu liên thủ hưởng hương tôi mới ngộ ra được chân lý trong đó. May mà chỉ có bốn vị Bá đầu tạo phản. Nếu như cả bảy vị Bá đầu cùng tạo phản thì Tổ Gia coi như xong đời. Lúc đó, tôi chợt nhớ đến cuốn Thiên Gia Đấu của Tiểu Nhân Thư mà tôi từng đọc khi còn nhỏ, trong đó có câu: “Tự cổ thần tử bất đấu, Hoàng đế yên năng tọa an ổn37?” Tổ Gia quả rất sáng suốt!
Tổ Gia không trả lời tôi về vấn đề liên quan đến Tiền Diệu Lâm, xem ra khi đó vẫn chưa phải lúc.
Trong thời gian đó, Lục Bá đầu Phong Tử Thủ cũng rất ít khi đi ra ngoài, luôn ở bên cạnh Tổ Gia như hình với bóng. Người trong Đường khẩu đều biết công việc chủ yếu của Phong Tử thủ là phụ trách khâu liên lạc với người dẫn mối và giới Hắc đạo. Nếu anh ta không đi ra ngoài, cứ rình phục ở Đường khẩu, điều này chứng tỏ trong nội bộ Đường khẩu đang có vấn đề rồi.
Phong Tử Thủ vốn là người trong Phủ Đầu bang của Vương Á Tiều. Từ nhỏ, anh ta đã nghe quen tai, nhìn quen mắt bao nhiêu chuyện trong giang hồ, nên rất can đảm, nghĩa hiệp, luôn giúp đỡ người khác, khí tiết chính trực, nghiêm nghị. Phải khó khăn lắm Tổ Gia mới thu nạp được anh ta về dưới trướng của mình. Việc này cần phải kể bắt đầu từ ông cụ Trương Đan Thành.
Khi Trương Đan Thành chết, Vương Á Tiều đến chia buồn, đem theo một món tiền phúng viếng khá lớn. Người tinh ý thoạt nhìn biết ngay Cửu gia đến để chống lưng cho Tổ Gia. Trước khi Trương Đan Thành chết, ông ta đã dốc hết tâm sức dạy bảo Tổ Gia, hơn nữa còn căn dặn cả Chu Chấn Long, Đồ Nhất Minh phải hết lòng phò tá. Nhưng giang hồ hiểm ác, khi đó Tổ Gia cũng chỉ là một chàng trai hơn 20 tuổi, muốn chèo lái một Đường khẩu, không những phải trấn giữ được nội bộ, mà đối với bên ngoài càng cần phải giữ được mối quan hệ bền vững với cả hai giới Hắc-Bạch. Bởi vậy, Trương Đan Thành mấy lần viết thư cho Vương Á Tiều, nhờ ông ta dìu dắt Tổ Gia.
Ở Trung Quốc, muốn biết một kẻ có máu mặt hay không chỉ cần nhìn vào mối quan hệ của người đó, muốn biết người chống lưng lớn cỡ nào thì cứ việc trông vào đám cưới hay đám ma xem có những nhân vật như thế nào xuất hiện. Vương Á Tiều không những đích thân đến, mà còn mang theo cả đống tiền. Người trong giới chỉ thoạt nhìn là hiểu ngay đôi ba phần.
Đương nhiên Tổ Gia hiểu rõ việc này. Sau khi Trương Đan Thành chết, năm nào Tổ Gia cũng đến thăm Vương Á Tiều. Ông từng nói với các anh em trong Đường khẩu không biết bao nhiêu lần rằng: “Cửu gia (chỉ Vương Á Tiều) đúng là một vị anh hùng. Cứ trong mười người có được một, hai người như Cửu gia thì đất nước Trung Quốc không thể bị diệt vong.”
Năm 1935, Tổ Gia đến thăm Vương Á Tiều, cũng là lần đầu tiên gặp mặt Phong Tử Thủ. Khi đó, Phong Tử Thủ mới 14 tuổi. Lúc đó anh ta vẫn chưa được gọi là Phong Tử Thủ, Vương Á Tiều gọi anh ta là Tiểu Lục Tử. Tổ Gia thấy cậu nhóc này tuy nhỏ tuổi, nhưng ánh mắt lạnh lùng nghiêm nghị, dáng điệu cử chỉ toát lên vẻ điềm tĩnh và cương nghị, thoạt trông đã biết ngay là con nhà võ.
Mấy năm nay, Tổ Gia luôn mang một nỗi bận tâm lớn trong lòng. Đó chính là việc cứ mỗi lần người của Đường khẩu và bọn người “trong giới” xảy ra va chạm, ông luôn phải đích thân đến nhờ cậy Vương Á Tiều giúp đỡ, vô cùng phiền phức, nên bản thân ông cảm thấy rất ái ngại. Ông muốn cuỗm lấy một người từ chỗ Vương Á Tiều về với mình, như vậy mối quan hệ giữa hai Đường khẩu sẽ càng thêm gắn bó hơn. Một khi cần dàn xếp việc gì, Tổ Gia không cần đích thân ra mặt nữa, chỉ cần phái người này đi là được. Vì đây là việc của chung của cả Đường khẩu, thân đã là người của Đường khẩu thì không thể đùn đẩy trách nhiệm sang cho người khác được.
Nhưng vấn đề ở chỗ, nếu trực tiếp đòi cuỗm mất kẻ tâm phúc của Vương Á Tiều, chưa cần nói Vương Á Tiều có đồng ý hay không, mà bản thân Tổ Gia cũng chẳng dám mở miệng. Mặt khác kẻ tâm phúc đã thề chết đi theo Vương Á Tiều kia cũng sẽ không chịu đi theo Tổ Gia, hoặc có thể hắn còn chẳng coi Tổ Gia ra gì. Cho nên, Tổ Gia muốn tìm một người thích hợp giúp mình trong chuyện này. Còn về tiêu chuẩn tìm người, cũng không cần phải tìm người có máu mặt và từng trải, nhưng phải thuộc diện có nền móng chắc, tức chỉ cần nhắc đến bậc cha chú của anh ta là đã có thể khiến cho người trong giang hồ nể sợ vài phần, như vậy là đã đạt được mục đích ban đầu. Người này được trưởng thành trong mạng lưới quan hệ của bậc cha chú, bất cứ lúc nào cũng tận dụng được những mối quan hệ đó. Sau này lớp người đi trước rửa tay chậu vàng, lui về ở ẩn, anh ta có thể kế tục, dốc hết tài năng, đắc dụng cho mình.
Hôm đó, Tổ Gia vừa gặp đã nhắm ngay Tiểu Lục Tử, ông ướm lời hỏi Vương Á Tiều: “Cửu gia, cậu này là…”
Vương Á Tiều cười nói: “Đây là cháu ruột một người huynh đệ của ta, nó tuy còn nhỏ nhưng khá đấy. Luyện võ từ khi còn để chỏm, tinh thông Tông Hạc quyền, Bát Quái, Hồng Quyền và cũng rất giỏi Khinh Công.”
Tổ Gia ngẫm nghĩ một lát, rồi không kìm nén được liền chắp tay nói với Vương Á Tiều: “Cửu gia, tiểu đệ có một việc muốn thỉnh cầu, không biết có nên nói ra không?”
Vương Á Tiều cười: “Hiền đệ muốn nói đến Tiểu Lục Tử?”
Tổ Gia không khỏi ngỡ ngàng, nhưng cũng nói thẳng vào vấn đề không dám giấu giếm: “Người quân tử không nên hớt tay trên người khác, nhưng Đường khẩu gần đây nhân tài như lá mùa thu, tiểu đệ đúng là đang khao khát cầu người hiền tài. Đệ thấy vị tiểu huynh đệ này đúng là một nhân tài có một không hai, lại là thế hệ sau trong Đường khẩu của Cửu gia, tất được Cửu gia dạy bảo đến nơi đến chốn, trọng tình trọng nghĩa, tiểu đệ có muốn cũng chẳng được.”
Vương Á Tiều cười ha hả nói: “Giữa huynh đệ chúng ta, đệ không cần phải dùng cách Long với ta, cứ nói thẳng là muốn có nó là được.”
Với Vương Á Tiều, quả thật Tổ Gia vẫn còn hơi non nớt, lại bị nói trúng tâm nguyện như vậy, mặt ông đỏ bừng. Nhưng được lời như cởi tấm lòng, ông đi thẳng vào mục đích: “Dám xin Cửu gia đồng ý!”
Vương Á Tiều nói: “Ta thì không có ý kiến gì, vấn đề là bản thân nó kia, thằng bé này khá cứng đầu đấy.” Nói đoạn, liền vẫy Tiểu Lục Tử lại hỏi: “Tiểu Lục Tử à! Vị Đại Sư bá đây muốn thu nạp ngươi, ngươi có muốn đi theo ông ấy không?”
Tổ Gia khi đó mới hơn 30 tuổi, Tiểu Lục Tử liếc nhìn Tổ Gia một cái nói: “Ông có bản lĩnh gì?”
Tổ Gia cười cười, vặn lại: “Vậy ngươi có bản lĩnh gì?”
Tiểu Lục Tử nhếch mép, nói: “Tôi có thể tránh được đường đạn”. Cậu ta nói là có thể tránh được đạn, thực ra không phải là cậu ta có thể chạy nhanh hơn cả viên đạn. Ý cậu ta chỉ là cậu ta nhanh nhẹn, nhạy bén, có thể đoán được chính xác đường đạn mà người ta sẽ bắn nên trước khi đối phương bóp cò, cậu ta đã vận sức dưới chân, chạy thoát trước một bước. Có một lần, cậu ta theo thúc thúc đi hành thích, kết quả là bị đối phương bắn lại, thằng nhóc này cứ nhảy lên nhảy xuống thoăn thoắt như con thoi, không viên đạn nào bắn trúng được nó.
Tổ Gia nhìn quanh, thấy trên bàn có một đĩa dương mai liền cầm lấy vài quả, mỉm cười nói: “Như thế này đi, nếu cậu có thể né được mấy quả dương mai này thì ta sẽ không thu nhận cậu nữa. Nếu cậu không né được thì hãy ngoan ngoãn đi theo ta.”
Tiểu Lục Tử vừa nghe thấy thế đã tức đỏ mắt, thầm nghĩ đúng là khoác lác, liền xắn ống quần, vén tay áo lên, hùng hổ nói: “Nào chúng ta bắt đầu đi!”
Vương Á Tiều ngồi bên cạnh cứ lim dim mắt cười.
Tổ Gia nói: “Chờ chút đã.”
Tiểu Lục Tử sững lại: “Sao, ông sợ rồi à?” Tổ Gia đếm mấy quả dương mai trong tay, nói: “Tất cả có năm quả, ta ra thêm một điều kiện, nếu trong số năm quả này mà có một quả không trúng thì coi như ta thua!”
Tiểu Lục Tử nghe thấy tức đến nỗi hơi phì cả ra qua lỗ mũi: “Đừng lải nhải nữa! Nào! Chơi!”
Tổ Gia vừa dùng chiêu khích tướng cho cậu ta mất bình tĩnh, sẽ khiến chân tay loạng quạng, cậu ta càng nóng vội, Tổ Gia càng điềm tĩnh, bình thản. Tổ Gia nắm chắc mấy quả dương mai, lắc lắc trước ngực, tay vận lực, đột nhiên cánh tay vung lên một cái, ông hét lớn một tiếng: “Đỡ này!”
Tiểu Lục Tử cứ nhìn chằm chằm xem Tổ Gia ra chiêu gì, vừa thấy cánh tay ông vung lên, cậu ta liền cúi giật đầu xuống, rồi lập tức xoay người một vòng, tránh sang một bên, rồi lập tức đứng thẳng người trở lại thì phát hiện ra chẳng có cái gì đánh trúng người mình. Vừa định sung sướng hét lên thì Tổ Gia vẩy tay một cái, một quả dương mai bay vù ra, trúng ngay trán. Lực đủ mạnh khiến quả dương mai đỏ choét kia nát bét dính trên trán Tiểu Lục Tử. Thì ra vừa rồi Tổ Gia chỉ phát hư chiêu chứ không hề ném quả nào cả, đợi sau khi Tiểu Lục Tử xoay người né tránh rồi đứng yên, ông mới ném thật.
Tiểu Lục Tử gào lên: “Ông chơi xấu! Vừa rồi ông không…”
Chưa nói dứt lời, Tổ Gia lại hất tay một cái: “Lại trúng rồi!” Lần này còn nhanh hơn, mạnh hơn nữa. Vù một cái, một quả trúng ngay họng Tiểu Lục Tử. Cổ họng như có vật gì chẹn ngang khiến Tiểu Lục Tử phát ra một tiếng “ự”, đến nói cũng không nói được.
Tổ Gia lại vẩy tay lần nữa, lần này cả ba quả dương mai cùng bay ra một lúc, Mặc dù Tiểu Lục Tử ra sức né tránh, nhưng một quả vẫn trúng ngay giữa ngực, còn hai quả kia trúng vào bụng.
Vương Á Tiều cười ha hả, nói với Tổ Gia: “Không ngờ lão đệ còn có bản lĩnh này, nếu ta không lầm thì đây chính là tuyệt kỹ của Đồ Nhất Minh!”
Tổ Gia chắp tay: “Đã khiến Cửu gia chê cười rồi. Đây chính là tuyệt kỹ do lão tiền bối Nhất Minh truyền thụ.”
Lúc này, Tiểu Lục Tử đứng bên cạnh hậm hực, tay xoa xoa cổ họng, trông có vẻ vẫn còn chưa hạ hỏa.
Vương Á Tiều mỉm cười nói với Tiểu Lục Tử: “Còn nhìn cái gì, ngươi thua rồi. Mấy quả dương mai vừa rồi, quả nào cũng bắn trúng vào chỗ hiểm, nếu ông ấy dùng phi đao hoặc đinh sắt thì nhà ngươi xong đời rồi.”
Tiểu Lục Tử nhếch miệng nói: “Ông ta chơi xấu.”
Vương Á Tiều nói: “Giang hồ giết nhau, chưa bao giờ xuất chiêu theo một quy tắc, luật lệ nào cả, Thắng làm vua thua làm giặc, thua thì phải nhận thua. Đến Đường khẩu của Tổ Gia, ngươi phải ngoan ngoãn nghe lời ông ấy, giữ cho tròn bốn chữ nhân, nghĩa, lễ, tín, không được thiếu sót một chữ. Nếu không, ta sẽ không tha cho ngươi”. Câu này là nói Tiểu Lục Tử, nhưng cũng là dành cho Tổ Gia. Vương Á Tiều tuy lên núi làm cướp, nhưng một đời chính trực lẫm liệt. Bây giờ ông ta giúp đỡ Tổ Gia đấy, nhưng một khi Tổ Gia dám đi chệch đường, chắc chắn ông ta sẽ là người đầu tiên tiêu diệt Tổ Gia.
Tổ Gia nghe thấy thế vội đứng lên hành lễ: “Tạ ơn Cửu gia!”
Tiểu Lục Tử nói: “Tôi sẽ theo ông, nhưng với một điều kiện.”
Vương Á Tiều sầm mặt nói: “Quân tử nhất ngôn, đừng có quanh co, lấp liếm.”
Tổ Gia vội lên tiếng: “Không sao cả, không sao. Cậu cứ nói xem điều kiện gì nào?”
Tiểu Lục Tử nói: “Ông phải dậy tôi trò ném này.”
Tổ Gia và Vương Á Tiều nhìn nhau cười ha hả. Thế là Tiểu Lục Tử đi theo Tổ Gia như vậy đó. Về sau, ở Đường khẩu, anh ta được Tổ Gia chuyên tâm dạy bảo. Cuối cùng anh ta cũng có thể một mình đảm đương một trọng trách. Nhờ giỏi quyền thuật, lại giỏi khinh công, Tiểu Lục Tử chuyên đảm nhiệm việc qua lại với giới Hắc đạo và thường được điều đi nghiên cứu địa hình trước khi dàn cục. Anh ta như một con ngựa không biết mệt mỏi, cho nên Tổ Gia gọi anh ta bằng cái tên rất hay là Phong Tử Thủ.
Phong Tử Thủ đến Đường khẩu được hai năm thì Vương Á Tiều bị ám sát. Phong Tử Thủ đau buồn khóc suốt cả đêm, muốn lập tức ám sát lại kẻ đó để báo thù, nhưng bị Tổ Gia cương quyết ngăn cản! Tổ Gia nói: “Ngươi đấu được với người của Cục Quân thống ư? Cửu gia là vua ám sát bậc nhất ở Trung Quốc, cuối cùng vẫn chết trong tay chúng, ngươi muốn đâm đầu vào chỗ chết sao? Cửu gia đã giao ngươi cho ta, với tư cách là Đại Sư bá, ta không cho phép ngươi đi.”
Tuy ngoài miệng nói cứng như vậy, nhưng trong lòng Tổ Gia rất buồn. Với ông, người mà ông khâm phục nhất trong cuộc đời chính là Cửu gia Vương Á Tiều, hơn nữa, Cửu gia còn nhiều lần đưa tay cứu vớt, trợ giúp khi Tổ Gia gặp nguy. Tổ Gia cũng muốn báo thù, nhưng đối thủ lần này lại là Quân thống nên ông không dám hành động khinh xuất, lỗ mãng.
Đúng lúc này, xuất hiện một vị Đại Sư bá khác ở vùng đất Giang Hoài, hai vị Đại Sư bá này đã cùng bắt tay dàn cục. Đó là lần dàn cục mỹ nhân nhuốm màu sinh ly tử biệt.
TÊN ĐẶC VỤ QUÂN THỐNG MÊ TÍN
Vị Đại Sư bá nọ đến tìm Tổ Gia tên thật là Trương Ân Thụy, đồng thời cũng là một nhân sĩ yêu nước. Ngay từ khi còn trẻ ông ta đã ra nhập “Đội tự vệ vũ trang công nhân”. Sau “Chính biến 12 tháng 4”38, ông ta thề sẽ noi gương vua ám sát hàng đầu Thượng Hải Vương Á Tiều, quyết không đội trời chung với bọn Quốc dân Đảng. Đội quân của ông ta không lớn, chuyên thòng cổ bọn người ác, người xấu, phần lớn số tiền kiếm được đều giao hết lại cho Vương Á Tiều dùng làm kinh phí hoạt động cho các sát thủ. Trước đây, khi Tổ Gia đến thăm Vương Á Tiều, Trương Ân Thụy thường lấy thân phận là người đồng đạo nhiều lần cùng ra tiếp đón, mối quan hệ giữa ông ta với Tổ Gia luôn tốt đẹp. Sau khi Vương Á Tiều chết, ông ta “gác kiếm” một thời gian, đợi tình hình lắng xuống, rồi vội vàng tìm đến Tổ Gia bàn chuyện.
Vương Á Tiều là một nhân sĩ yêu nước nổi tiếng thời kỳ cận đại. Ông từng lên kế hoạch ám sát các yếu nhân gây chấn động trong ngoài Trung Quốc như: hành thích Tưởng, giết Tống, hạ Uông. Sau vụ đánh bom giết chết viên Đại tướng Lục quân Yoshinori Shirakawa của Nhật Bản thì tiếng tăm càng lừng lẫy hơn. Mỗi lần nhắc đến ông, Tưởng Giới Thạch lại nghiến hàm răng giả kèn kẹt. Một nhân vật lợi hại như vậy cuối cùng lại bị chết bởi tay một người phụ nữ tên là Uyển Quân. Một tay Đới Lạp đã sắp đặt mỹ nhân kế, khiến vua sát thủ một đời kiêu hùng phải xuống thẳng suối vàng.
Tổ Gia biết rõ bản thân Đới Lạp là một kẻ rất mê tín, thường tìm thầy tướng số, nhằm tìm cách bổ khuyết cho tình trạng thiếu Thủy trong mệnh cục của mình. Hắn đã chọn dùng đến mấy chục cái tên mang Ngũ hành Thủy như: Uông Đào, Đồ Thanh Ba, Thẩm Bái Lâm, Hồng Diểu. Hắn phát cuồng lên vì tướng số, nên còn lấy cả những cuốn sách xem tướng, đoán mệnh như Băng giám của Tăng Quốc Phiên, Ma Y tướng pháp của Ma Y đạo nhân để biên soạn thành tài liệu, biến nó thành bài học bắt buộc đối với bọn đặc vụ. Do ảnh hưởng của Đới Lạp, bọn đặc vụ cấp dưới cũng cực kỳ mê tín, dù có việc gì hay không cũng đều đi bái kiến cao nhân, thảo luận về tướng số.
Trương Ân Thụy cũng biết rõ huyền cơ ẩn trong đó, nên nói vụ này rất dễ mà cũng cực kỳ khó dàn cục. Nói dễ là vì bọn đặc vụ của Cục Quân thống đều rất mê tín, dễ dàng tìm được kẽ hở mà đánh thọc vào. Cái khó ở đây là bọn chúng cũng ít nhiều có sự am hiểu về tướng số do ảnh hưởng từ Đới Lạp, trong khi đó phái Giang Tướng lại không phải là thầy tướng số chân chính, mà chỉ là vin vào chiêu bài tướng số để đi lừa người. Cho nên trong quá trình dàn cục, một khi có sai sót về mặt lý luận tướng số sẽ rất dễ khiến cho bọn chúng nghi ngờ. Vấn đề mấu chốt nhất đó là phải dàn cục ở mức độ nào, tức có cần phải dìm chết đối phương hay không. Nhưng muốn dìm chết Đới Lạp e rằng là chuyện quá hoang đường nếu không muốn nói là không thể thực hiện được. Còn hạ sát vài tên đặc vụ quèn thì chỉ tổ gây chuyện lôi thôi, để bọn người Cục Quân thống quay lại vồ mình, lúc đó tai họa tất sẽ rơi xuống đầu phái Giang Tướng.
Sau khi suy xét cẩn thận mọi tình huống, Trương Ân Thụy nói: “Ôm lấy tiền thôi vậy. Có được tiền rồi sẽ mua súng, mua pháo. Ta phải tập hợp đội ngũ, như vậy mới đọ được với lũ này.”
Tổ Gia gật đầu tán thành. Hai người bàn bạc thống nhất đi đến quyết định, vụ này phải dàn từ kỹ viện.
Trước đây, Tổ Gia cũng từng dàn cục dùng mỹ nhân kế, có vụ cài một vài nữ A Bảo vào làm kỹ nữ để câu bọn quan chức cấp cao hay những thương nhân giàu có. Có vụ còn kết hợp phái những tên A Bảo đóng giả làm những nhân vật có tiền có quyền, đến kỹ viện chòng ghẹo những kỹ nữ ruột mà bọn người kia thường qua lại. Cả hai thủ đoạn này đều có chung một mục đích là moi thông tin, chọn thời cơ xuất Thiên.
Vào thời đó, các kỹ viện là đầu mối thông tin của cả xã hội, bao nhiêu tin tức cơ mật đều được truyền đi từ miệng của đám kỹ nữ. Bất kể là đàn ông hay đàn bà, một khi đã lên giường, lửa tình trỗi dậy, đều tự nguyện dốc hết những lời gan ruột ra. Những chuyện bình thường không dám hé răng nửa lời, nhưng một khi đã lên giường rồi thì chẳng có điều gì mà không dám thổ lộ hết.
Chẳng phải đợi lâu, nữ A Bảo mà Trương Ân Thụy cài cắm trong kỹ viện đã bắn tin rằng gần đây có một vài tên quân quan lại thường hay “hạ cố” đến kỹ viện. Lần nào cũng gọi rất nhiều kỹ nữ đến hầu hạ, lại vung tay hào phóng. Hơn nữa chúng còn hay trêu ghẹo các cô gái bằng cách xem tướng tay, tướng mặt, thậm chí còn nói: “Ta chỉ cần nhìn tướng tay là biết cái đó của cô nương bị rách năm nào.”
Tổ Gia đoán chúng rất có thể là bọn đặc vụ của Cục Quân thống, chỉ có người của Cục Quân thống mới quan tâm, hứng thú với đoán mệnh xem tướng. Mà việc chi tiêu của Cục Quân thống lại được các băng nhóm xã hội đen ở Thượng Hải rót tiền, nên bọn chúng tha hồ vung tay quá trán. Đây đúng là một cơ hội tốt để bắt chúng phải “quyên tiền”.
Vì có liên quan đến Vương Á Tiều, Trương Ân Thụy sợ mình có đã có tên trong danh sách đen của Cục Quân thống, nên ông ta không dám tự mình ra tay. Do đó vụ này phải để Tổ Gia đích thân ra mặt.
Theo kế hoạch của Trương Ân Thụy, đầu tiên cho một nữ A Bảo tên là Hoa Nguyệt Dung đến Phụng Minh lầu giả làm kỹ nữ. Nói đến đây, Trương Ân Thụy không khỏi đau lòng. Cô nương có tên Hoa Nguyệt Dung này mới 20 tuổi, nàng chính là quân át chủ bài của Trương Ân Thụy, dung mạo xinh đẹp như hoa. Từ nhỏ gia cảnh bần hàn, gia đình phải bán nàng cho một gánh hát. Khi Trương Ân Thụy đi xem hát kịch, ông ta đã nhắm trúng nàng, chuộc ra, rồi nhanh chóng huấn luyện nàng trở thành nữ A Bảo. Từ đó, Hoa Nguyệt Dung trở thành trợ thủ đắc lực của Trương Ân Thụy. Vốn dĩ Trương Ân Thụy định lấy Hoa Nguyệt Dung, nhưng vì nghĩ đến thân phận Đại Sư bá của mình và sợ mất thể diện với các huynh đệ nên chưa chính thức cưới nàng. Thực ra, mấy huynh đệ dưới trướng của ông đều biết rõ, những khi chỉ có ông và Hoa Nguyệt Dung thì các huynh đệ đều tự lui xuống hết.
Có lần Hoa Nguyệt Dung hỏi Trương Ân Thụy: “Khi nào người sẽ cưới muội? Chúng ta hãy rời khỏi chốn toàn chuyện thi phi này, để sống một cuộc sống yên bình.”
Mỗi lần như vậy, Trương Ân Thụy chỉ biết ôm nàng vào lòng, dịu dàng nói: “Chắc chắn rồi, ngày đó sẽ chẳng còn xa nữa.”
Trương Ân Thụy đã phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều khi quyết định để Hoa Nguyệt Dung ra sân bởi dù gì nàng cũng là người phụ nữ ông yêu thương. Không phải trong Đường khẩu không có nữ A Bảo nào khác, nhưng vì họ đều không có đủ tố chất, kể cả những người đã được cài cắm trong thanh lâu. Có người thân thể nõn nà nhưng đầu óc không nhanh nhạy, có người biết nắm bắt thời cơ hành động nhưng lại xấu xí đến trâu cũng phải hỉ mũi. Chỉ có Hoa Nguyệt Dung tài mạo xinh đẹp, lại xuất thân từ gánh hát, học qua diễn kịch, thuộc nhiều ca từ phong hoa tuyết nguyệt, còn biết hát Côn Khúc39, giỏi nắm bắt ý tứ người khác qua sắc mặt và lời nói, thoạt nhìn là đoán biết được tình hình. Muốn đối phó được với bọn đặc vụ Quân thống, chỉ còn cách đưa nàng lên sân khấu.
Giống như những người dưới trướng của Tổ Gia, luận về độ tàn độc, Đại Bá đầu đứng đầu hàng, giết người không chớp mắt; luận về Trát phi, Nhị Bá đầu độc chiếm “trạng nguyên”, việc chui vào quan tài đánh một giấc với người chết chẳng phải là việc gì ghê gớm với ông ta. Nói về tài năng và học vấn, không ai lại được Tam Bá đầu, anh ta am hiểu thiên văn địa lý, âm dương, bát quái, không có thứ gì là không biết. Còn cả Tứ Bá đầu, Ngũ Bá đầu, Lục Bá đầu, ai cũng có tuyệt kỹ riêng, nhưng xét về tố chất tổng hợp, thì không có ai bì được với Tổ Gia. Cho nên, lần dàn cục này Tổ Gia phải đích thân ra tay.
Sau khi Hoa Nguyệt Dung vào Phụng Minh lầu thì tối hôm sau có mấy tên đặc vụ đến. Mụ tú bà dẫn các cô gái đứng thành một hàng. Bọn đặc vụ chọn vài người nhưng không hài lòng lắm, sau đó chúng hỏi: “Còn ai khác không?”
Mụ tú bà đeo một nụ cười gian ngoa trên mặt nói: “Trưởng quan, chỗ tôi vừa hay có một cô nương mới đến. Nàng vốn là tiểu thư khuê các, nhưng do gia cảnh sa sút, mới lưu lạc đến chốn thanh lâu này…”
Mụ tú bà còn chưa dứt lời, mấy tên đặc vụ đã nhao nhao lên: “Còn không mau gọi ra đây!”
Mụ tú bà lại cười: “Các vị trưởng quan vội gì chứ, cô nương này đã có lời nhắn nhủ. Trước cửa phòng nàng cho dán một vế đối, ai có thể đối được, nàng ấy mới chịu tiếp, bằng không…”
Một tên đặc vụ bực mình: “Mẹ nó chứ! Một con kỹ nữ lại còn bày trò lắm chuyện. Để ông mày lôi cổ nó ra đây.” Nói xong hắn xách súng định đi lên lầu.
Lúc này, một tên đặc vụ chừng 40 tuổi lên tiếng: “Đứng lại! Không có tố chất gì cả! Năm xưa tướng quân Sái Ngạc và Tiểu Phụng Tiên từng ngâm thơ đối đáp tại chốn thanh lâu, đã trở thành một giai thoại. Đừng có động một cái là giở thói cục cằn thô lỗ. Ngươi có hiểu tố chất là gì không hả? Tú bà, đưa ta đi xem, để ta đối lại nàng ấy.”
Tên này chính là đối tượng mà Tổ Gia nhắm đến hạ thủ sau này, hắn tên là Từ Hoài Cận, Phó Sở trưởng Sở tình báo Quân thống.



Tập 1 Chương 4bDÀN CỤC MỸ NHÂN, BÁO THÙ CHO VƯƠNG Á TIỀU - CAO THỦ ÁM SÁT ĐỆ NHẤT TRUNG QUỐCNguồn: NXB Lao động

TRANG 237.Nội dung thu gọn

Mụ tú bà dẫn Từ Hoài Cận lên tầng hai, đến trước cửa phòng Hoa Nguyệt Dung, hai bên cửa quả đúng có một đôi liễn. Vế trên là: “Âm âm dương dương âm dương bất định phong nguyệt sự.” Còn vế sau chỉ là một tờ giấy trắng, chưa ai đối được.
Từ Hoài Cận trầm tư suy nghĩ một lúc, rồi nói với mụ tú bà: “Mau mang bút mực lại đây.”
Mụ tú bà vội vàng đi lấy bút mực, Từ Hoài Cận xắn tay áo lên, nắn nót viết vế đối lên tờ giấy trắng theo thể chữ Liễu40: “Thiện thiện ác ác thiện ác hữu báo giang hồ nhân.”
Mụ tú bà liếc nhìn, vội vàng gọi to vào trong phòng: “Hoa cô nương, một vị trưởng quan đã đối được vế đối rồi”.
Ngay sau đó, cánh cửa được mở ra, Hoa Nguyệt Dung khăn tay che mặt, yểu điệu thướt tha bước ra. Từ Hoài Cận vừa nhìn thấy nàng, tim đã đập rộn lên. Cô nương này quả xinh đẹp vô cùng, da dẻ nõn nà, duyên dáng yêu kiều, ánh nhìn tình tứ, điệu bộ ra chiều ngó nghiêng, bất cứ người đàn ông nào nhìn thấy nàng đều phải rung động
trong lòng.
Hoa Nguyệt Dung nhìn vế đối, rồi kẽ gật đầu, mỉm cười nói: “Mời trưởng quan.”
Từ Hoài Cận cũng nở nụ cười, làm điệu bộ nhún nhường: “Mời cô nương.”
Hoa Nguyệt Dung bước vào, Từ Hoài Cận ném cho mụ tú bà một xấp tiền, nói: “Mau đem rượu và đồ ăn lên đây.” Sau đó xua xua tay bảo mấy tên thủ hạ lui xuống, còn mình thì bước vào trong phòng.
Một lúc sau, người hầu bê lên một chiếc bàn xoay, trên bàn bày một bình rượu Nữ nhi hồng, bốn đĩa thức ăn. Hoa Nguyệt Dung rót một chén rượu cung kính tay nâng ngang mày, Từ Hoài Cận đón lấy chén rượu, rồi nói: “Cảm phiền cô nương. Ta mạo muội xin hỏi cô nương tên gì?”
Hoa Nguyệt Dung trả lời: “Tiểu nữ họ Hoa, tên là Nguyệt Dung.”
Từ Hoài Cận cười nói: “Dung mạo chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn. Quả đúng là người sao tên vậy.”
Hoa Nguyệt Dung hai má ửng hồng e thẹn: “Trưởng quan chê cười rồi. Thủa nhỏ, mọi người trong gia đình thường gọi tiểu nữ là Nguyệt nhi. Dám hỏi quý tính đại danh của trưởng quan là gì?”
Từ Hoài Cận thoáng chút ngạc nhiên, nói: “Ta họ Từ, nàng cứ gọi ta là Từ Sở trưởng. Nguyệt nhi cô nương, khí chất phi phàm thoát tục, duyên cớ gì lại lưu lạc đến chốn…” Chợt nhận ra mình đã lỡ lời, Từ Hoài Cận cố nuốt lại nửa câu sau.
Hoa Nguyệt Dung mỉm cười khẽ nói: “Từ Sở trưởng đâu cần phải quá khách sáo như vậy. Tiểu nữ vốn là người Lâm An, vì gia đình bỗng nhiên gặp cơn biến cố, không còn cách nào khác mới phải đi đến hạ sách này… Giấy rách còn phải giữ lấy lề, tiểu nữ vẫn biết đói cho sạch rách cho thơm, nếu không vì mẫu thân lâm bệnh nặng, không có tiền chữa trị…” Nói đến đây hai hàng nước mắt nóng hổi lăn xuống.
Từ Hoài Cận vội rút khăn tay lau khô nước mắt cho Nguyệt Dung. Hoa Nguyệt Dung nhân đó liền ngả vào lòng hắn.
Từ Hoài Cận nhẹ nhàng nói: “Đừng lo lắng! Hãy kể ta nghe nào!”
Hoa Nguyệt Dung tựa vào ngực Từ Hoài Cận, nói: “Nhà tiểu nữ vốn cũng thuộc hàng khá giả ở Lâm An. Cha là thương nhân bán trà, về sau bị kẻ thù hãm hại, gia cảnh bắt đầu sa sút. Hai anh trai đi lính và đều chết trên chiến trường. Đầu năm nay mẫu thân bị cảm phong hàn, bệnh tình càng ngày càng nặng, rồi chuyển thành lao phổi, ngày nào cũng ho ra máu. Thấy mẫu thân bị bệnh tật hành hạ như vậy, tim tiểu nữ quặn thắt. Chỉ cần kiếm được tiền trị bệnh, để mẫu thân được ăn một bữa thật ngon. Dù khổ cực thế nào, tiểu nữ cũng cam lòng.” Nói xong, nước mắt lại trào ra.
Từ Hoài Cận ôm riết lấy Hoa Nguyệt Dung trong lòng, nói: “Nàng đừng sợ, đừng sợ. Ta và nàng tình cờ gặp gỡ, âu cũng là duyên phận. Ta sẽ giúp nàng.”
Hoa Nguyệt Dung đứng dậy, lại rót cho Từ Hoài Cận một chén rượu đầy, mình cũng một chén đầy, rồi nâng chén rượu nói: “Rượu gặp tri kỷ ngàn chén ít, lời không ăn ý nửa câu thừa. Tiểu nữ không phải hạng hư hỏng. Dù thân đã vào tới chốn thanh lâu, nhưng cũng không phải là người phóng túng, tùy tiện nên mới viết vế đối trước cửa, chí ít phải là người đọc sách, hiểu lễ nghĩa, tiểu nữ mới tiếp. Trước đó có mấy kẻ phàm phu đến đối đáp lung tung, chỉ đến khi gặp được người như trưởng quan ngài đây tới, tiểu nữ mới được thỏa lòng mong đợi. Sở trưởng Từ văn võ song toàn, tiểu nữ vô cùng ngưỡng mộ, xin kính ngài một chén.”
Từ Hoài Cận mỉm cười, kéo Hoa Nguyệt Dung vào lòng, vui vẻ uống cạn chén rượu. Sau đó, Hoa Nguyệt Dung lại rót đầy mấy chén nữa, hai người đều uống cạn.
Sau vài tuần rượu, hai người tựa vào nhau trong yên lặng. Ánh trăng buông lơi trên cành liễu, một làn gió nhẹ ùa vào qua cửa sổ, mang theo hương ngọc lan dịu ngọt thơm ngát, cuốn đi mọi âm mưu và tội ác nơi trần tục, tình ấy cảnh này lung linh tựa như trong một bức họa, lắng đọng men say tình ái vừa ấm áp lại nồng nàn.
Tiếng mõ điểm canh ba len lỏi trong không gian tĩnh mịch, lúc này Từ Hoài Cận bắt đầu nhẹ nhàng cởi bỏ chiếc áo trên người Hoa Nguyệt Dung. Hoa Nguyệt Dung e lệ che chiếc yếm thắm, nói: “Sở trưởng Từ, có thể thong thả chờ tiểu nữ đôi hôm không?”
Từ Hoài Cận không hiểu, hỏi: “Tại sao?”
Hoa Nguyệt Dung tỏ vẻ rầu rĩ nói: “Từ nhỏ tiểu nữ thân thể yếu ớt nhiều bệnh, mẫu thân từng mời một thầy tướng số đến xem Bát tự cho tiểu nữ, nói rằng phải qua tuổi 20 mới được… mới được… nói đến chuyện phòng the. Nếu không sẽ không sống được quá 22 tuổi, còn hai ngày nữa mới đến sinh nhật tiểu nữ, vì thế, xin Sở trưởng ngài…”
Từ Hoài Cận sững sờ: “Ồ thì ra là vậy. Nói như thế, Nguyệt nhi nàng vẫn giữ được thân trong trắng ư?”
Hoa Nguyệt Dung e thẹn, hai má ửng hồng khẽ gật gật đầu.
Từ Hoài Cận cười dịu dàng: “Khà khà, cổ nhân có câu ‘động nhược thoát thố, tĩnh như xử tử’41, chẳng trách Nguyệt nhi cô nương từng cử chỉ hành động đều toát ra vẻ thanh tao đài các, hàm súc thoát tục. Ta không vội, không vội.”
Hoa Nguyệt Dung vội vàng nghiêng mình chắp tay hành lễ biểu thị ngưỡng mộ người quân tử, nói: “Cảm ơn Sở trưởng, tiểu nữ từ nay sẽ không còn phải lo lắng không có người tri kỷ sánh bước trên con đường dài phía trước nữa. Tiểu nữ mệnh khổ, như cánh bèo trôi lênh đênh giữa biển người không biết phiêu bạt về đâu, nào ngờ nay lại gặp được bậc quân tử có tình có nghĩa như Sở trưởng ngài ở nơi gió trăng này.”
Từ Hoài Cận vui vẻ cười, đột nhiên như thể nhớ ra điều gì chợt hỏi: “Vừa rồi nàng nói tới một thầy tướng số…”
Hoa Nguyệt Dung đáp: “Vâng, ông ấy rất lợi hại, có mối giao tình đã lâu với gia phụ, ông ta từng đoán tới tuổi trung niên cha tiểu nữ sẽ gặp phải chuyện ưu phiền liên quan tới tính mệnh, nhưng cha tiểu nữ lại không bận tâm đến chuyện này. Tính ông vốn cứng rắn, ngang ngạnh, thường nói sống chết có số, phú quý tại trời. Vào năm xảy ra chuyện, thầy tướng số kia còn đến tận nhà bảo cách giải hạn, nhưng cha tiểu nữ phần vì bận làm ăn, phần vì không nghe theo. Kết quả vào mùa đông năm đó, cha bị kẻ xấu hãm hại, từ đó gia cảnh sa sút. Còn nữa, ông thầy tướng số ấy còn đoán ra hạn của hai anh của tiểu nữ nữa... Những việc này về sau đều ứng nghiệm, cho nên tiểu nữ mới phải ghi nhớ thời gian động phòng. Tiểu nữ chẳng phải tiếc mạng sống của mình, chỉ vì còn có mẫu thân đang bệnh nặng, không thể bỏ mặc. Cho dù thế nào, tiểu nữ cũng phải chăm sóc mẫu thân cho tới lúc cưỡi hạc quy tiên… Nhưng gần đây bệnh tình của mẫu thân càng ngày càng nặng thêm, tiểu nữ không bận tâm đến những việc này nữa, lòng nghĩ chết thì chết, nhưng trước khi chết có thể đem thức ăn ngon dâng cho mẹ, có chết cũng cam lòng…”
Không đợi Hoa Nguyệt Dung nói hết câu, Từ Hoài Cận liền ngắt lời nàng: “Đừng nói những lời ngốc nghếch đó, mọi việc đều có cách giải quyết…” Trầm ngâm một lát rồi quay sang hỏi: “Nàng nói vị cao nhân tướng số đó tên gì, là người ở đâu?”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Người ta gọi ông ấy là Thiết Bản tiên sinh, nghe nói ông ấy là truyền nhân của Thiết Bốc Tử Đạo Nhân gì đó…”
Từ Hoài Cận cướp lời: “Chính là Thiết Bản tiên sinh mà báo chí đã nói phải không?” Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Hoa Nguyệt Dung cười nói: “Tiểu nữ nào phải là quan hay nhân sĩ gì, làm sao biết đọc báo, nên không biết người Sở trưởng nói là ai.”
Từ Hoài Cận nói: “Chắc chắn là đúng, chắc chắn đúng. Nàng có thể tìm gặp được ông ấy không?”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Ông ấy vân du bốn biển, hành tung không biết thế nào, việc này khó nói trước được. Nhưng hàng năm cứ vào ngày giỗ của phụ thân tiểu nữ, ông ấy đều viếng thăm.”
Từ Hoài Cận nói: “Ngày giỗ của lệnh tôn là khi nào?”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Mùng 7 tháng này.”
Từ Hoài Cận gật gật đầu như thể đang tự nói một mình: “Trời giúp ta rồi.”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Trưởng quan nói gì vậy?”
Từ Hoài Cận nói: “Không có gì, không có gì, lần sau dẫn ta đi thăm mẫu thân nàng nhé.”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Không dám làm phiền Sở trưởng…”
Từ Hoài Cận nói: “Cần chứ, cần chứ. Nhất định phải đến thăm một lần.” Đột nhiên ông ta lại hỏi: “Hiện giờ hai mẹ con nàng ở đâu?”
Hoa Nguyệt Dung trả lời: “Ở số nhà 28 ngõ Đại Chùy Tử, mẹ con tiểu nữ mới chuyển đến hồi đầu tháng.”
Từ Hoài Cận nói: “Được, lần sau nàng dẫn ta đến.”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Tạ ơn Sở trưởng quan tâm. Đêm nay không thể hầu hạ Sở trưởng, tiểu nữ sẽ hát hầu Sở trưởng một bài Côn Khúc nhé!” Nói xong lại rót cho Từ Hoài Cận một chén rượu.
Từ Hoài Cận cười nói: “Được.”
Hoa Nguyệt Dung cầm lấy cây đàn ba dây, hát một đoạn trong bài Điểm giáng thần42. Lời hát bằng trắc trầm bổng, ngân nga thánh thót khiến Từ Hoài Cận vỗ tay tán thưởng mãi, hát đến đoạn tình yêu đôi lứa, Từ Hoài Cận không thể làm chủ được mình, lại gần Hoa Nguyệt Dung, ôm chặt nàng vào lòng.
Lúc này, có một tên đặc vụ cấp dưới gõ cửa, có vẻ như hắn lên để nhắc Từ Hoài Cận đã đến giờ phải về. Từ Hoài Cận đi đến trước mặt tên đặc vụ kia, nói nhỏ vài câu, sau đó tên đặc vụ kia cúi đầu chào rồi lui xuống.
Hoa Nguyệt Dung nói: “Nếu Sở trưởng có việc thì cứ đi lo giải quyết đi, tiểu nữ gặp được Sở trưởng… trong lòng… đã xác định là người của Sở trưởng. Sở trưởng cứ đi lo việc công, Nguyệt nhi ở đây đợi ngài. Sở trưởng một ngày không đến, Nguyệt nhi chờ một ngày. Sở trưởng một năm không đến, Nguyệt nhi chờ một năm. Sở trưởng kiếp này không đến, Nguyệt nhi sẽ đợi đến kiếp sau.”
Từ Hoài Cận ngây người nhìn Hoa Nguyệt Dung. Nàng cũng nhìn ông ta bằng ánh nhìn si mê đắm đuối. Từ Hoài Cận nhẹ nhàng ôm Hoa Nguyệt Dung và lòng, định nói điều gì đó nhưng lại thôi.
Tiếng gà gáy vang lên, phương Đông đã ửng hồng, mặt trời đã sắp hiện ra, Từ Hoài Cận chỉnh lại quần áo, nói với Hoa Nguyệt Dung: “Nguyệt nhi cô nương, hai ngày sau Từ mỗ sẽ tới gặp nàng.”
NỮ A BẢO PHẢI LÒNG ĐẶC VỤ QUÂN THỐNG
Sau khi Từ Hoài Cận đi khỏi, Hoa Nguyệt Dung sắp xếp lại dòng tâm tư, rồi gọi một cô nương dưới lầu lên, nói nhỏ vài câu, sau đó tự mình thay y phục khác, vội chạy về ngõ Đại Chùy Tử. Chừng nửa canh giờ sau đến được trước cửa căn nhà số 28, khẽ gõ cửa, gọi: “Mẹ ơi?”
Không lâu sau, một vị lão phu nhân đi ra, trên trán quấn một chiếc vải trắng, trông điệu bộ giống hệt như đang bị bệnh nặng, tươi cười nói: “Con gái về rồi ư?” Sau đó, bắt đầu ho lấy ho để.
Không đợi Hoa Nguyệt Dung mở lời, vị lão phu nhân đưa mắt ra hiệu cho nàng, mắt đảo khắp bên ngoài một lượt, nói to: “Con gái à, vừa rồi có hai người tốt đến nhà chúng ta. Họ nói là bạn của con, hỏi thăm bệnh tình của mẹ, còn để lại một ít tiền nữa, thật đúng là người tốt.”
Hoa Nguyệt Dung trong lòng vô cùng hồi hộp, vừa dìu lão phu nhân vào nhà, vừa hỏi: “Mẹ, người ta tốt thế nào? Tên họ là gì?”
Lão phu nhân nói: “Mẹ có hỏi, nhưng họ không để lại tên họ, chỉ nói là bạn của con, bảo rằng sau này còn tới thăm ta nữa.”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Mẹ à, lần sau họ đến, mẹ nhớ hỏi lại tên họ người ta nhé. Con cũng muốn biết là ai.”
Vị lão phu nhân, nói: “Phải rồi, phải rồi, hai mẹ con ta gặp được quý nhân rồi, phụ thân con mất sớm, hai anh trai thì cũng đã đi…”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Mẹ, mẹ nhắc đến những chuyện này làm gì, có con gái ở đây với mẹ, rồi mọi việc sẽ ổn thôi.”
Hai người bước vào nhà, đóng cửa lại, vị lão phu nhân gỡ ngay tấm vải trắng buộc trên đầu xuống. Hoa Nguyệt Dung phá lên cười trước bí mật của lão phu nhân. Lão phu nhân kia liền giơ tay che lên miệng ra dấu “suỵt” một tiếng, tỏ ý bảo Hoa Nguyệt Dung phải biết dè chừng.
Hai mẹ con họ lại chuyện trò đôi ba câu trong nhà, rồi Hoa Nguyệt Dung bắt đầu ra sân nhặt củi khô nấu cơm, khói bếp bay lên qua ống khói, lượn lờ trên mái nhà rồi tản ra giữa tầng không.
Kỳ thực, vào lúc này, một tên đặc vụ là quân của Từ Hoài Cận vẫn đứng nấp sau nhà theo dõi, nghe trộm. Tối hôm qua, khi Hoa Nguyệt Dung kể về thân thế của mình cho Từ Hoài Cận nghe, hắn muốn biết rõ về Hoa Nguyệt Dung hơn. Khi trời gần sáng, tên đặc vụ kia đi lên lầu, Từ Hoài Cận nói nhỏ vài câu với hắn, chính là bảo hắn ngay lập tức chạy đến số nhà 28 ngõ Đại Chùy Tử để xem rốt cuộc có đúng như lời Hoa Nguyệt Dung đã nói hay không.
Tổ Gia và Trương Ân Thụy là hai người quá sành sỏi, nên khi dàn cục họ đã sớm nghĩ đến điều này. Họ đã sắp xếp cho một nữ A Bảo lớn tuổi hóa trang thành một bà lão bị bệnh nặng đang nằm trên chiếc giường trong sân ngôi nhà số 28, sẵn sàng nghênh đón bọn đặc vụ bất cứ lúc nào.
Quả nhiên, trời vừa hửng sáng, bà A Bảo già kia đã nghe thấy tiếng gõ cửa. Bà khoác áo giả bộ như đang bệnh ra mở cửa, vừa thấy hai người lạ mặt, trong lòng đã có sự chuẩn bị sẵn, vừa mời bọn họ vào nhà, vừa than thở gia cảnh của mình hệt như những gì Hoa Nguyệt Dung nói. Đã vậy trong lúc trả lời, thỉnh thoảng bà còn dùng khăn tay che miệng ho khù khụ như thể muốn nôn cả phổi ra ngoài. Ho một trận kịch liệt xong, mở chiếc khăn tay ra, một bọng máu để sẵn trong khăn tay từ trước bị vỡ ra, trong căn phòng tối tăm, bọn đặc vụ tưởng là bà ta nôn ra máu thật.
Mấy tên đặc vụ kia nói chuyện với bà lão một lúc, không phát hiện ra khẽ hở nào, liền để lại ít tiền theo như lời dặn dò của Từ Hoài Cận, sau đó lẩn ra sau nhà, nằm im nghe ngóng. Mấy tên đặc vụ này quả đúng là xảo quyệt, bọn chúng muốn xem xem tình huống sẽ thế nào khi Hoa Nguyệt Dung trở về. Kết quả Hoa Nguyệt Dung và bà lão đã diễn tuồng, giả làm hai mẹ con y như thật, cho nên hai tên đặc vụ mới yên tâm quay về báo cáo.
Sở dĩ Hoa Nguyệt Dung cảm thấy kinh ngạc khi vừa về đến cổng là vì nàng ta không ngờ bọn đặc vụ của Từ Hoài Cận lại có thể đến nhanh chân như vậy. Thậm chí nàng còn không phát hiện ra Từ Hoài Cận đã sai bọn đặc vụ đi lúc nào. Đối với một A Bảo mà nói, đây là một sai lầm chí mạng, các A Bảo không được phép bỏ lỡ bất kỳ một ánh nhìn, một động thái nào của đối thủ. Trong lòng Hoa Nguyệt Dung chợt cảm thấy mơ mơ màng màng, nàng buột miệng: “Mình sao lại...?”
Bà lão hỏi: “Cái gì làm sao kia?”
Hoa Nguyệt Dung sững người: “À, không có gì.”
Đêm hôm đó, Hoa Nguyệt Dung lại quay trở về Phụng Minh lầu. Tình hình bên này, Hoa Nguyệt Dung đã bảo tay chân báo lại cho Trương Ân Thụy và Tổ Gia. Nàng cứ theo kế hoạch mà diễn, phải nói thế nào, làm thế nào, xuất chiêu thế nào, thu lưới thế nào, tất cả mọi công đoạn đoạn đều hiển hiện trong đầu. Cũng không có vị khách làng chơi nào dám chạy lên lầu tìm nàng, vì trước khi rời đi, Từ Hoài Cận đã ném cho mụ tú bà một mớ tiền khá lớn, và nói với bà ta rằng: “Ta đã bao Hoa cô nương.”
Đêm khuya, Hoa Nguyệt Dung cũng thấy mệt, uống mấy hớp trà, rồi thay y phục nằm xuống giường, muốn ngủ mà không sao chợp mắt được, đành nằm thẫn thờ im lặng. Hình bóng Từ Hoài Cận cứ quay cuồng trước mắt nàng. Quả thực, Từ Hoài Cận trông rất anh tuấn, là học sinh xuất sắc của trường quân sự Hoàng Phố, dáng người cao lớn, rắn rỏi, cử chỉ nho nhã. Hoa Nguyệt Dung miên man nghĩ về ông ta, bất chợt nàng ta nhoẻn miệng cười, nhưng đột nhiên nụ cười trên môi tắt ngấm, nàng nhăn mặt lại. Nàng ta biết rõ, mình chỉ là một A Bảo, là một kẻ lừa gạt chính cống. Từ Hoài Cận đang là con gà béo, là đối thủ của nàng ta. Tất cả những gì đang diễn ra chỉ là trò lừa đảo, khi khúc hát cạn lời thì người nghe cũng sẽ phải đứng dậy ra về.
Tối hôm sau, ăn tối xong, nàng ngồi trong khuê phòng, vừa trang điểm xong thì nghe thấy tiếng mụ tú bà: “Ôi, trưởng quan đến rồi, Hoa cô nương đang đợi ngài ở trên lầu! Mau vào đi, mau vào đi!”
Ngay sau đó là những tiếng kêu lộp cộp của chiếc ủng quân sự vọng lại từ bậc cầu thang dẫn lên lầu, Hoa Nguyệt Dung vội ra mở cửa, Từ Hoài Cận sải bước dài đi tới. Hai người họ nhìn nhau như thể đã ba thu mới gặp lại, Từ Hoài Cận mỉm cười nói: “Nguyệt nhi cô nương.”
Hoa Nguyệt Dung cũng lên tiếng: “Sở trưởng!” bằng giọng chứa chan cảm xúc.
Hoa Nguyệt Dung mời Từ Hoài Cận bước vào phòng, bỗng nhiên Từ Hoài Cận giơ tay lên nói: “Đợi đã, Nguyệt nhi cô nương.” Nói xong, ông ta quay người lại, cởi găng tay ra, chìa tay nói với tên đặc vụ đang đứng sau lưng: “Đưa đây.”
Tên đặc vụ đưa lên một bó hoa tươi đẹp, Từ Hoài Cận hai tay cầm bó hoa đưa lên trước mặt Hoa Nguyệt Dung, nhìn nàng bằng ánh mắt vô cùng âu yếm: “Nguyệt nhi cô nương sinh nhật vui vẻ, mãi mãi xinh đẹp như hoa.”
Hoa Nguyệt Dung sững sờ trước cảnh tượng này. Sau Cách mạng Tân Hợi, mặc dù Tây học đã dần thâm nhập vào đời sống của người dân Trung Quốc, nhưng cử chỉ lãng mạn rất Tây này, ngoài hai tài tử lớn là Chí Ma và Bi Hồng từng thể hiện ra, rất hiếm có một vị đặc vụ Quân thống nào từng làm được như vậy. Hoa Nguyệt Dung từ nhỏ cuộc sống nghèo khổ, phải vào làm việc trong gánh hát, chưa từng trải qua cảnh tượng lãng mạn thế này bao giờ. p.251
Ánh mắt Hoa Nguyệt Dung long lanh hạnh phúc, không nói lên lời. Nàng rụt rè nhận bó hoa tươi thắm, khuôn mặt ửng hồng, miệng khẽ nói: “Cám ơn Sở trưởng!”
Từ Hoài Cận quay lại nói với tên đặc vụ và mụ tú bà: “Lui hết cả đi, không có lệnh của ta, không ai được quấy rầy!”
Sau khi vào phòng, Hoa Nguyệt Dung sà vào lòng Từ Hoài Cận, hai người ghì chặt lấy nhau. Từ Hoài Cận lại lấy từ trong túi áo ra một chiếc hộp nhỏ, bên trong đựng một chiếc vòng ngọc có chạm hoa văn rồng phượng. Ông ta nói: “Đây là chiếc vòng mà mẫu thân đã đưa cho ta trước khi đến học tại trường quân sự Hoàng Phố. Bà nói với ta rằng phải đem tặng cho con dâu tương lai của bà. Bây giờ ta đã tìm được rồi.”
Hoa Nguyệt Dung nhìn Từ Hoài Cận bằng ánh nhìn tha thiết: “Sở trưởng.”
Từ Hoài Cận nhẹ nhàng ôm lấy Hoa Nguyệt Dung vào lòng, nói: “Ta đã phái người đến thăm mẹ nàng rồi. Sau này ta sẽ cùng nàng chăm sóc bà. Từ nay nàng không cần phải lo lắng về cuộc sống nữa.”
Hoa Nguyệt Dung úp mặt vào vai Từ Hoài Cận mà khóc. Vào lúc này đây, hơn bao giờ hết, nàng ước mình là một kỹ nữ thật sự.
Theo sắp xếp của Đại Sư bá Trương Ân Thụy, chưa đến lúc vạn bất đắc dĩ, không cần phải dâng hiến thân mình, nàng vốn có thể theo đúng kế hoạch đã vạch ra, lấy cớ chưa hết đoạn tang cha ba năm, để trốn tránh được mọi việc xảy ra trong tối nay. Nhưng nàng ta đã thay đổi kế hoạch, chủ động trút bỏ xiêm y…
Sau này, khi Hoa Nguyệt Dung chết, Trương Ân Thụy phái người thu dọn lại những di vật của nàng, đã phát hiện ra một tờ giấy dưới gối. Đó là bức thư do chính tay Hoa Nguyệt Dung viết, cũng có thể xem là lời thổ lộ tự đáy lòng của nàng:
Vĩnh biệt tướng quân:
Phận thiếp thấp hèn, vốn nghĩ sống cho hết kiếp này, nào ngờ ông trời thương xót cho thiếp được gặp tướng quân. Tướng quân anh tuấn, oai hùng, đối với thiếp tình sâu nghĩa nặng. Thiếp gặp được tướng quân, sao lại không vui mừng? Thiếp phiêu bạt 20 năm trời, chịu bao cực khổ, không cha không mẹ, không nơi nương tựa, từ khi gặp được tướng quân, mới cảm nhận được thế nào là tình nhi nữ.
Thiếp vốn là phường lừa đảo, đã lún sâu vào bao tội ác, ngay từ lúc gặp tướng quân, đã lừa gạt tướng quân, khiến tướng quân rơi vào bẫy, còn thiếp sống trong mộng ảo. Ân tình của tướng quân với thiếp sâu nặng ngần nào thì trái tim thiếp đau đớn ngần ấy, tướng quân càng lún sâu, tim thiếp càng vỡ vụn. Nay, tướng quân vẫn còn ở trong bẫy lừa, thiếp đã tỉnh cơn mộng, nhưng chỉ mong mình mãi chìm đắm trong giấc mộng.
Thiếp không oán trời, không than thân trách phận, đời này được tướng quân đem lòng thương yêu là thiếp đã mãn nguyện rồi. Xưa nay, có giấc mộng uyên ương nào mà không nhuốm màu ly biệt, kẻ đa tình nào chẳng đau đớn trước cảnh biệt ly. Thiếp sắp phải đi rồi, Tướng quân ở nơi trần thế, thiếp về mãi tận dưới cõi âm, từ nay số trời đã định, âm dương cách biệt đôi đường. Đời người thoảng qua như cơn gió, thịt da chỉ như nắm bùn đen. Lúc trước, biết bao chuyện thiếp không thể làm theo ý mình, chết rồi hồn sẽ lạc về đâu? Thiếp một lòng yêu thương tướng quân, mãi mãi không quên ân tình của tướng quân.
Vạn lời thiếp nói ra chưa hết, ngàn ý thiếp gửi lại chưa tròn, tướng quân xin hãy bảo trọng. Kiếp này thiếp chẳng thể cùng tướng quân đi hết con đường, xin tướng quân bảo trọng, vĩnh biệt tướng quân.
Thiếp Nguyệt Dung
Giờ Sửu, ngày Bính Thìn
Nàng gọi ông ta là tướng quân, trong ý tứ lời nói rõ ràng rất đỗi chân tình. Thực đúng là Rèm che ánh nến chập chờn, mây mưa một tối hận thù tiêu tan. Mối tình Quân thống, A Bảo, thật thật giả giả đã không còn ranh giới cách ngăn.
Nàng cũng tự biết, bức thư này sẽ mãi mãi không bao giờ có thể gửi đi được, nàng đã chết từ lâu lắm rồi, chết trong cuộc tình của chính mình.
THẦY TƯỚNG SỐ DÀN CỤC MỸ NHÂN
Theo như kế hoạch, Hoa Nguyệt Dung sẽ phải giới thiệu Từ Hoài Cận với Tổ Gia vào “ngày giỗ cha” mình. Sau mấy ngày gần gũi, Từ Hoài Cận và Hoa Nguyệt Dung đã nói với nhau đủ thứ chuyện. Hoa Nguyệt Dung đã khéo léo “qua mặt” Từ Hoài Cận về việc mình vẫn còn là cô gái trinh nguyên.
Trước khi giới thiệu, Hoa Nguyệt Dung lại một lần nữa căn dặn Từ Hoài Cận: “Tuyệt đối không được nói mình là quan quân, vì mẹ con thiếp chỉ là những người dân thấp cổ bé họng, không thể có cơ hội tiếp xúc với quan chức trong Cục Quân thống. Nếu để vị tiên sinh kia biết tiểu nữ là gái lầu xanh, chuyện đến tai mẫu thân, chắc chắn sẽ khiến mẫu thân đau lòng chết mất. Tiểu nữ vẫn giấu mẫu thân là đang làm công cho một tiệm cơm, vì phải rửa bát đũa nên phải làm việc cả ban đêm.”
Từ Hoài Cận gật gật đầu, nói: “Ta sẽ nói mình là một thương nhân, là một người bạn của cha nàng trước đây vậy.”
Đây kỳ thực chỉ là một chiêu trò giương Đông kích Tây mà thôi. Để cho Từ Hoài Cận giấu đi thân phận của mình, rồi lại để Tổ Gia vạch trần thân phận của hắn ta, như vậy mới chứng tỏ Tổ Gia đạo hạnh cao thâm đến mức nào. Trông thì có vẻ Hoa Nguyệt Dung đưa ra kế sách này là để che đậy cho thân phận của mình, nhưng kỳ thực lại là chiêu nhằm giảm bớt sự đề phòng, cảnh giác của Từ Hoài Cận.
Từ Hoài Cận lấy thân phận là một thương nhân buôn trà, mặc một chiếc áo dài thay cho bộ quân phục đến gặp Tổ Gia tại một tửu lầu.
Vừa ngồi xuống, ông ta nói rất khiêm tốn: “Từ lâu đã ngưỡng mộ danh tiếng của tiên sinh, nay mới được gặp mặt. Tiên sinh quả đúng là có phong thái tiên phong đạo cốt, danh bất hư truyền.”
Tổ Gia cười khà khà: “Các hạ quá khen rồi, tôi cũng chỉ là dân đen bình thường, chỉ cốt sao được sống cho qua ngày đoạn tháng trong cái thời buổi loạn lạc này, đâu thể nói đến đại danh gì.”
Từ Hoài Cận cười nói: “Tiên sinh quá khiêm tốn rồi, hôm nay may có Hoa cô nương đây giới thiệu, nếu không chẳng biết bao giờ mới có duyên gặp được tiên sinh.” Nói đoạn, ông ta đưa cho Tổ Gia một tờ giấy: “Đây là Bát tự của bỉ nhân, phiền tiên sinh xem giúp cho.”
Tổ Gia đón lấy tờ giấy, xem lướt qua, trầm ngâm một lát rồi đột nhiên phán: “Các hạ, có hiểu Tam cương Ngũ thường là gì không?”
Câu hỏi đột ngột khiến cho Từ Hoài Cận bối rối, lắp bắp nói: “Tiên sinh… tiên sinh nói vậy là ý gì?”
Tổ Gia nói: “Tam cương là quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương. Ngũ thường là chỉ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các hạ không có chút tín nghĩa nào cả, vậy thì chúng ta còn có gì để nói nữa đây?”
Từ Hoài Cận giật mình: “Sao tiên sinh lại nói vậy?”
Tổ Gia cười: “Nguyệt nhi nói với ta các hạ là thương nhân buôn bán trà, ta xem Bát tự của các hạ, hoàn toàn không phải là phường lái buôn, người đi buôn thì chẳng thể có Bát tự thế này.”
Từ Hoài Cận bắt đầu toát mồ hôi, hỏi: “Việc này… Vậy với Bát tự của tôi, tiên sinh cho rằng tôi làm nghề gì?”
Tổ Gia nói: “Bát tự của các hạ vô cùng khác thường, Tam kỳ củng chiếu43, Quan tinh, Sát tinh hợp thân, ra trận thì làm tướng quân, vào triều làm tể tướng là Bát tự của người làm quan.” Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Chiêu này chính là trong Thiên có Đả, Thiên Long song hành, một chiêu xuất ra hiệu quả đắc kỳ.
Từ Hoài Cận không sao che giấu được niềm sung sướng trong lòng, buột miệng hỏi: “Xin hỏi tiên sinh, tôi có thể giữ đến chức vụ nào? Hiện giờ đang là thời khắc mấu chốt để được thăng chức, không biết liệu có thể đánh bại được đối thủ hay không, xin tiên sinh chỉ cho.”
Tổ Gia cười: “Một thương nhân buôn trà, làm sao mà có cơ hội thăng quan tiến chức kia chứ?”
Từ Hoài Cận thẹn đỏ mặt: “Mong tiên sinh bỏ quá cho. Quả thực bỉ nhân không phải thương nhân buôn trà, mà giữ một chức vụ trong chính phủ. Mấy ngày trước may gặp được Hoa cô nương tại chốn thanh lâu, nàng ấy cũng vì cuộc sống mà phải sa chân vào nơi đó. Tôi và nàng vừa gặp mặt đã biết là có duyên phận, nên mới có cơ hội gặp được tiên sinh, nàng ấy sợ tiên sinh biết chuyện của mình và sẽ cho mẫu thân nàng hay, nên mới phải dùng đến hạ sách này thôi.”
Tổ Gia chỉ đành lắc đầu: “Biến cố của nhà họ Hoa, ta sớm đã dự liệu trước. Năm xưa ta đã nhắc nhở cha của cô nương ấy, nhưng ông ấy không nghe…”
Từ Hoài Cận cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, nói: “Hầy dà! Mỗi người đều có số mệnh, tiên sinh không cần phải tự trách mình. Kỳ thực, bỉ nhân có biết đôi chút về Tứ trụ và Tướng thuật, không biết tiên sinh có cao kiến gì về thuật số Trung Hoa.”
Tổ Gia vừa nghe, hiểu ngay ẩn ý trong câu nói của ông ta, vì thế ông cười nói: “Chu dịch lấy trời đất làm chuẩn mực, nó bao trùm mọi quy luật trong trời đất. Học Chu dịch phải giữ cho lý trí sáng suốt, nếu lý trí u tối, càng học nhiều, càng rối rắm.”
Từ Hoài Cận nói: “Tiên sinh nói rất đúng. Bỉ nhân có vài vấn đề không được rõ cho lắm, mặc dù đã suy ngẫm nhiều ngày mà vẫn chưa thể lý giải được. Mong tiên sinh tận tình chỉ giáo cho!”
Tổ Gia nói: “Xin cứ nói!”
Từ Hoài Cận nói: “Trước tiên là vấn đề xem tướng mặt. Sách xưa thường nói ‘Thiên đình đầy đặn, Địa các tròn trịa44’ là tướng có phúc. Nhưng tôi thấy bao kẻ tầm thường ngoài đường, có Thiên đình và Địa các tròn đầy, vậy tại sao vẫn chỉ là đám dân đen hạ tiện? Lại như trong sách xem tướng thường nói, muốn xem tài vận thì phải quan sát mũi, nếu sống mũi cao, đầy đặn, sắc trạch sáng nhuận, là mệnh đại phú quý, tôi vẫn thường thấy đám phu xe bán sức lao động ngoài đầu đường, trên bến tàu, nhiều kẻ cũng có tướng mũi to đẹp, nhưng vẫn phải làm việc quần quật mà vẫn không đủ ăn, như vậy thì phải giải thích thế nào đây?”
Tổ Gia cười khà khà đáp: “Các hạ lầm rồi! Nếu cứ có lối suy nghĩ như vậy, e rằng… sau này sẽ làm trò cười cho thiên hạ. Thuật xem tướng chung quy được gói gọn trong phép Ngũ hành. Ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Thiên đình Địa các, Tam đình Ngũ nhạc45 chẳng qua chỉ là cách miêu tả rất hình tượng các vị trí bộ vị Ngũ hành. Ngũ hành quý ở sự cân bằng, chỉ xem một bộ vị thì không thể luận được cát hung họa phúc, phải kết hợp xem cả ngũ quan thì mới đúng đắn. Chu Nguyên Chương mặt ngựa môi lừa, nếu chỉ nhìn vào từng bộ phận thì dữ tợn, xấu xí không ai sánh bằng, nhưng kết hợp xem cả ngũ quan, thì đúng là tàng phong tụ khí, Ngũ hành thông thuận, hài hòa, vì thế mới có thể thống nhất nghiệp bá, lên ngôi cửu ngũ chí tôn, đứng đầu thiên hạ. Tương tự, nếu chỉ xem tướng mũi của một người, mà không kết hợp phân tích các bộ vị khác, sẽ không thể nào phán đoán chính xác tài vận cát hung. Huống hồ, trên mũi còn chia thành bốn bộ phận từ trên xuống dưới gọi là Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu. Nếu chỉ thấy mũi cao, đầy đặn, mà không phân biệt cong thẳng, sắc trạch, thì sao có thể luận đoán chính xác? Lúc này, người học Dịch quý ở sự hài hòa. Trương Lương đã biết cắt bỏ những thứ đáng bỏ đi trong cuốn Binh pháp Thái Công để hoàn chỉnh cuốn Kỳ môn Độn giáp. Từ Tử Bình đã bổ sung thêm cái còn thiếu trong Tam trụ của Lý Hư Trung tạo nên Tứ trụ, Thiệu Ung đã phá vỡ trật tự Bát quái mà phát triển thành Hoàng cực kinh thế, người học Dịch không am hiểu về quy luật âm dương, không hiểu biết về quy luật biện chứng, chỉ là kẻ tầm thường mà thôi.” p.259
Lúc này Tổ Gia đang Đả, ông áp dụng chiêu thức cấp Đả mạn Thiên, Tổ Gia đã nắm bắt ngay được những chỗ còn thiếu sót trong mớ kiến thức về Kinh dịch của ông ta, nên cứ việc thao thao bất tuyệt, lý giải cặn kẽ, thấu triệt. Đả cho Từ Hoài Cận phải phục sát đất.
Đây chính là bản lĩnh thật sự của Tổ Gia. A Bảo gồm thành hai loại người, một loại hoàn toàn chỉ đi lừa đảo, một loại có chút bản lĩnh thực sự. Những A Bảo không học Chu Dịch đến nơi đến chốn, cách cái chết chỉ một “bước chân”. Bản lĩnh thật sự học được ở đâu? Một là do các vị nguyên lão của Đường khẩu truyền lại từ đời này sang đời khác, hai là học hỏi cao nhân trong nhân gian. Tổ Gia từ khi còn nhỏ đã được kế thừa một chút kiến thức về Chu Dịch từ Trương Đan Thành, về sau lại thường xuyên lui tới học hỏi các vị hiền tài, từ đó dần thông hiểu đạo lý, thu được không ít kiến thức.
Tổ Gia từng dạy chúng tôi: Chu Dịch là nền móng sinh ra mọi thuật tướng số, điều then chốt là ở sự biến hóa. Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Giống như thuật xem tướng mặt, xem tay, người bình thường chỉ biết “người này có cái mũi rất đẹp, vừa cao vừa thẳng”, “người kia có đôi mắt phượng”, “người này tay đẹp, nuột nà”, mà không biết rằng thuật xem tướng là phải xem Ngũ hành hài hòa, hình thần kiêm bị hay không.

 16.06.2015


Tập 1 Chương 4cDÀN CỤC MỸ NHÂN, BÁO THÙ CHO VƯƠNG Á TIỀU - CAO THỦ ÁM SÁT ĐỆ NHẤT TRUNG QUỐCNguồn: NXB Lao động

Nội dung thu gọn

Ngũ hành hài hòa là thế nào? Tổ Gia từng giải thích cho chúng tôi nghe: Các cơ quan trong cơ thể người đều tương xứng với Ngũ hành. Mắt thuộc Hỏa. Tai, miệng thuộc Thủy, lưỡng quyền (gò má) thuộc Kim, mũi thuộc Thổ, còn đầu, lông mày và tóc đều thuộc Mộc. Trong Ngũ hành có tương sinh tương khắc, bất cứ một bộ phận nào quá to hay bé quá đều có thể làm mất cân bằng Ngũ hành trong cơ thể. Ví dụ, nếu mũi quá to, lưỡng quyền thấp bé, cằm lại nhỏ, nhìn tổng thể trên cả khuôn mặt, rõ ràng chiếc mũi đó quá “đập vào mắt”. Mà mũi thuộc Thổ, Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp, Kim suy thì Thủy cũng chẳng thể vượng được (Kim sinh Thủy). Chiếc mũi giống như Thái Sơn, áp đảo lưỡng quyền, nuốt mất đường Pháp lệnh46 và cằm, bị coi là tướng cực xấu. Bởi vậy muốn phán đoán tướng cát hung của một người, không phải chỉ căn cứ vào một bộ phận nào đó trông đẹp hay xấu, mà phải xem toàn bộ các bộ phận trên khuôn mặt có hài hòa với nhau hay không, tức Ngũ hành phải cân bằng. Xem tay cũng tương tự như vậy, tướng tay tốt hay xấu không chỉ căn cứ vào mấy đường chỉ tay cơ bản. Đường chỉ tay tất nhiên rất quan trọng, như đường sinh mệnh phải dài, đường tình cảm phải ổn định, đường trí tuệ phải rõ nét. Nhưng cần phải xem xét đến toàn bộ hình dáng, độ dày, độ mềm mượt của bàn tay. Tướng tay được phân làm năm loại: tướng tay hình Kim, hình Mộc, hình Thủy, hình Hỏa và hình Thổ. Trong lòng bàn tay lại có trận đồ bát quái, chia thành tám cung vị là Càn, Khôn, Chấn, Ly, Đoài, Tốn, Khảm, Cấn. Cung vị phải tương xứng với hình dáng bàn tay, không bị tương xung tương khắc, đường chỉ tay phải hài hòa với cung vị, không được tương hình tương hại. Bởi vậy, xem tướng tay lấy Bát quái làm chủ. Đường chỉ, màu sắc bàn tay là phụ. Xem tướng tay, đầu tiên phải quan sát hình tướng bàn tay, rồi xem đến đường chỉ tay, Ngũ hành cân bằng, mới có thể luận đoán được ý đồ của tạo hóa.
Hình thần kiêm bị là gì? Thuật tướng số Trung Hoa bắt nguồn từ thời Tiên Tần, phát triển vào thời Tần Hán. Nhà nữ tướng số đầu tiên của Trung Quốc tên là Hứa Phụ đã đề xuất ra khái niệm hình thần cộng tham. Hình chính là vẻ bề ngoài, bao gồm: tướng mặt, tướng tay, tướng xương cốt, nốt ruồi… Thần là khí chất, là trường khí toát ra bên ngoài của một người, cũng chính là diện mạo thần thái của người đó. Người xưa đã nói: “Bề ngoài dễ đoán, thần khí khó định.” Tổ Gia từng nói: “Một vị cao nhân thật sự, chỉ cần anh đi qua họ, về căn bản họ không cần xem tướng mặt, tướng tay, nhưng họa phúc, thọ yểu của anh họ biết rõ như lòng bàn tay. Nhất cử nhất động, đi đứng nằm ngồi của một người cũng đều hiển lộ ra điềm cát hung. Nghe nói năm xưa Lý Hồng Chương đã dẫn theo ba người đến phủ của Tăng Quốc Phiên để cầu chức tước. Đến nơi, họ thấy Tăng Quốc Phiên đang đi dạo trong sân, ba người kia đứng đó, còn chưa kịp nói gì, Tăng Quốc Phiên chỉ liếc mắt nhìn một cái, rồi nói với Lý Hồng Chương: ‘Người đứng bên trái có thể tạm dùng được, người đứng giữa không thể dùng được, người đứng bên phải có thể trọng dụng.’ Tăng Quốc Phiên chỉ nhìn qua dáng đứng và ánh mắt của họ, đã có thể đưa ra nhận định của mình. Về sau, lịch sử đã chứng minh cho lời luận đoán của Tăng Quốc Phiên, người đứng bên phải về sau đã trở thành vị Tuần phủ đầu tiên, tiếng tăm lừng lẫy Đài Loan, đó chính là Lưu Minh Truyền. Trước khi Tăng Quốc Phiên chết, ông ta đã để lại cuốn sách dạy xem tướng số Băng Giám do chính ông nghiên cứu và chỉnh lý.” Đó cũng chính là tài liệu mà hiện nay bọn Từ Hoài Cận đang học theo.
Đứng trước Tổ Gia, Từ Hoài Cận chỉ là một chú chim non mới rời tổ. Nhưng ông ta vẫn muốn thử bản lĩnh của Tổ Gia, lại hỏi về một vấn đề đầy thách thức trong giới xem tướng: “Thưa tiên sinh, vậy thì theo ngài, đoán mệnh theo Bát tự chính xác tới đâu?”
Tổ Gia nghe xong, mỉm cười nói: “Như vừa rồi ta đã nói. Bát tự suy cho cùng cũng chỉ là tổ hợp Thiên can, Địa chi của giờ, ngày, tháng, năm sinh của một người hợp thành. Mỗi nhóm có hai chữ, tổng cộng là tám chữ, nên được gọi là Bát tự, cũng vì nó được tạo thành từ niên trụ, nguyệt trụ, nhật trụ, thời trụ nên còn được gọi là Tứ trụ, đoán mệnh theo Bát tự còn được gọi là đoán mệnh theo Tứ trụ. Ban đầu, Lý Hư Trung đời Đường sáng lập ra phương pháp đoán mệnh theo Tam trụ, tức chỉ xem xét đến ngày, tháng, năm sinh của một người, mà không xem xét đến giờ sinh. Đến đời Tống, Từ Tử Bình đã phát hiện ra những thiếu sót của việc dùng Tam trụ luận đoán số mệnh, ông đã phát triển lên thành Tứ trụ, tức đưa cả giờ sinh của một người vào luận đoán, từ đó, đoán mệnh theo Bát tự mới được hình thành. Vì cống hiến to lớn này của Từ Tử Bình, đoán mệnh theo Bát tự cũng được tôn xưng là “Thuật xem tướng Tử Bình”. Sở dĩ có bước nhảy vọt mang tính lịch sử này là do Từ Tử Bình thấy có quá nhiều người có cùng ngày, tháng, năm sinh, nếu không đưa giờ sinh vào phạm vi luận đoán thì Tam trụ của những người sinh ra vào cùng một ngày sẽ giống nhau hết thảy, số mệnh cũng sẽ giống nhau. Đây rõ ràng là chuyện quá hoang đường. Việc đưa thêm giờ sinh, đã chia nhỏ hơn nữa những người được sinh ra trong cùng một ngày theo 12 canh giờ, giờ sinh khác nhau sẽ có sự khác nhau về mệnh tốt xấu, nhờ sự chia nhỏ này nên kết quả càng chi tiết và chính xác hơn. Nhưng như vậy đã hoàn hảo chưa? Chưa đâu. Những người được sinh ra cùng giờ sinh cũng có rất nhiều, Bát tự của họ cũng y hệt nhau, lẽ nào số mệnh cũng giống nhau ư? Đương nhiên không phải vậy. Theo như thiển ý của ta, nếu có thể lại chi tiết hóa hơn nữa giờ sinh đến từng khắc thì độ chính xác lại tăng thêm một phần, nhưng, như vậy sẽ không còn là đoán mệnh theo Bát tự nữa, mà phải là đoán mệnh theo Thập tự. Đương nhiên, đây chỉ là việc xem xét đến yếu tố thời gian, chứ chưa xem xét đến yếu tố về không gian. Môi trường nơi một người được sinh ra cũng có ảnh hưởng rất lớn đến số mệnh. Các hạ thử nghĩ xem, vào đúng giờ khắc này, trên mảnh đất Trung Hoa rộng lớn có biết bao nhiêu con người được sinh ra? Bát tự của những người này giống nhau, nhưng môi trường mà họ được sinh ra khác nhau một trời một vực. Có người được sinh ra tại nơi có khí hậu ẩm ướt như ở phương Nam, có người được sinh ra tại vùng giá rét khắc nghiệt ở phương Bắc. Địa thế, ánh sáng, nhiệt độ đều khác nhau, thì vận mệnh tất cũng sẽ khác nhau. Bởi vậy, theo ta thấy, Bát tự chỉ là một khái niệm tổng quát, cần phải phối hợp xem Phong thủy với tướng thuật, mới có thể đưa ra kết quả chính xác được.” Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com) Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sau khi Tổ Gia nói xong, ông yên lặng quan sát. Từ Hoài Cận đã bị khuất phục hoàn toàn, ông ta vội đứng lên, cúi rạp người nói: “Tổ Gia quả là người am hiểu tường tận Dịch lý, thông kim bác cổ. Tại hạ xin bái phục, bái phục!”
Nói xong, ông ta trầm ngâm suy nghĩ một lúc, rồi lại cúi đầu nói với Tổ Gia: “Tiên sinh, bỉ nhân có một việc muốn thỉnh giáo, xin tiên sinh chỉ giúp.”
Tổ Gia điềm tĩnh nói: “Các hạ cứ nói.”
Từ Hoài Cận nói: “Nơi tôi làm việc, sắp cải tổ biên chế. Đây là một cơ hội thăng tiến hiếm có, không biết tiên sinh có thể thi triển đạo pháp, giúp tôi một phen. Tôi nhất định sẽ hậu tạ.”
Tổ Gia trầm ngâm suy nghĩ, rồi thở dài.
Từ Hoài Cận thấy vậy vội vàng hỏi: “Sao tiên sinh lại thở dài, lẽ nào trong mệnh cục của tôi có điềm không được tốt lành ư? Hay là…”
Tổ Gia nói: “Người học Chu Dịch quý ở sự thành khẩn, có như vậy ta mới có thể luận đoán chính xác cho các hạ được.”
Từ Hoài Cận nói: “Vâng! Vâng! Tiên sinh có điều gì xin cứ dạy.”
Tổ Gia nói: “Năm nay, mệnh của các hạ gặp phải tiểu nhân. Tóm lại là luôn có kẻ làm việc xấu sau lưng ông, khiến ông không thể yên lòng được.”
Từ Hoài Cận nói: “Đúng quá! Đều là một lũ lòng lang dạ sói, thường ngày luôn miệng huynh huynh đệ đệ, thế mà lại ngấm ngầm đâm sau lưng. Khốn nạn! Khốn nạn thật!”
Đây đều là những thông tin mà Hoa Nguyệt Dung cung cấp, sau mấy ngày vui vẻ bên nhau, mỗi khi ôm Hoa Nguyệt Dung trong lòng, Từ Hoài Cận thường trút bỏ nỗi bực dọc, chửi bới bọn đồng liêu trong Cục Quân thống rặt một lũ nham hiểm, xảo quyệt. Kỳ thực, cho dù Hoa Nguyệt Dung không cung cấp những thông tin này thì Tổ Gia vẫn có thể lần ra chẳng mấy khó khăn. Bọn người trong Cục Quân thống luôn lục đục, trắng đen hỗn tạp, đấu đá lẫn nhau, đã không còn là chuyện bí mật nữa rồi. Ở đây cái hay chính là ở sự mê muội của người trong cuộc. Từ Hoài Cận thường ngày luôn đề phòng bọn đồng liêu bên cạnh mình, nhưng lại không nghĩ rằng cần phải cảnh giác với cả người ngoài Cục Quân thống.
Tổ Gia nói tiếp: “Các hạ muốn một bước lên mây, thăng quan tiến chức, cần phải làm hai việc. Nếu không, không những không được lên chức, mà còn gặp họa trên chốn quan trường.”
Từ Hoài Cận vội vàng hỏi: “Là hai việc gì? Xin Tiên sinh dạy bảo giúp cho!”
Tổ Gia làm ra điệu bộ muốn nói nhưng lại thôi, lắc lắc đầu rồi thở dài đánh thượt một cái, lẩm bẩm tự nói với mình: “Khó đây, khó đây.”
Từ Hoài Cận sốt ruột: “Tiên sinh cứ nói đừng ngại, cần phải mất bao nhiêu?”
Tổ Gia cười nhạt: “Đây không phải là vấn đề tiền bạc, mà là… Các hạ cũng nghiên cứu về đạo thuật, không biết có từng nghe qua phương pháp lấy âm bổ dương chưa?”
Từ Hoài Cận nghe vậy, mặt đỏ rần nói: “Cái này… cái này tôi đã từng nghe qua, là cách nam nữ giao hoan để đạt được sự cân bằng âm dương, trong Thiên kim yếu phương đã nhắc đến. Tiên sinh nói như vậy là có ý gì?”
Tổ Gia nói: “Tinh hoa của phương pháp này nằm ở chỗ rút lấy khí âm Tiên Thiên của một người con gái trinh nguyên, để bổ sung, bù đắp cho dương khí Hậu Thiên ở nam giới, Tứ trụ Bát tự của các hạ thuộc về thuần dương, mà năm nay lại là năm dương khí cường vượng, phàm trong vũ trụ vật cực tắc phản47. Các hạ cần phải tìm được một người con gái còn trong trắng để cùng giao hoan, âm dương điều hòa, quan vị theo đó tất sẽ được thăng cao. Nhưng, chuyện nam nữ, nhất định phải do đôi bên cùng bằng lòng, các hạ tuyệt đối không được cưỡng cầu, bằng không làm trái đạo trời, chẳng bằng đừng làm còn hơn.”
Từ Hoài Cận nghe thấy, mừng như mở cờ trong bụng: “Đúng là trời giúp ta rồi. Nguyệt nhi chính là một trinh nữ.” Nhưng, ông ta không nói ra, vẫn ra vẻ đạo mạo, trang nghiêm, nói: “Chà chà, tiên sinh nói rất phải, việc này có cưỡng cầu cũng không mang lại kết quả gì, làm sao có thể ích kỷ vì mình mà làm hại đến con gái nhà lành được. Tôi sẽ từ từ tìm kiếm, nếu trời giúp tôi, sớm muộn gì mối lương duyên đó cũng sẽ đến, ngược lại, ý trời không muốn giúp, tôi đây cũng đành chấp nhận.” Mặc dù ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng vui như hoa nở.
Tổ Gia cười thầm trong bụng vì cái điệu bộ ra vẻ con người có đức hạnh của ông ta. Ông lại bồi thêm: “Ngoài ra, nếu ngày nào đó trời giúp, gặp được một cô nương như vậy, cần phải hết sức lưu ý. Sau cuộc giao hoan đó, trong vòng một năm người phụ nữ kia không được phép lại gần sông nước, nếu không sẽ gặp họa mất mạng chứ chẳng chơi.”
Từ Hoài Cận giật mình: “Sao lại phải vậy?”
Tổ Gia nói: “Sau khi âm khí Tiên Thiên của người con gái bị hao kiệt, cần có thời gian hồi phục. Ta lấy một sự so sánh hình tượng thế này đây giống như cây mạ non đã nhiều ngày không đước tưới tắm, héo rũ dưới ánh nắng gay gắt, thủy khí hao tổn, khát khô đến cùng cực, lúc này cần phải tưới nước, nhưng phải tưới nước từ từ từng ít một, để đất thấm nước dần dần, rễ hút lấy cung cấp cho cả cây. Nếu cứ hất nước thật mạnh, không những không cứu được cây mà ngược lại còn khiến cho ngập úng mà chết. Trong vạn vật thuộc âm, thủy là đại kỵ, vậy nên sau khi giao hoan, người phụ nữ phải tránh xa sông nước, nếu không tính mạng khó giữ. Hãy nhớ cho kỹ!”
Từ Hoài Cận nghe thấy thế, toàn thân toát mồ hôi: “Đáng sợ đến vậy sao? Bỉ nhân đã ghi nhớ rồi! Vừa rồi tiên sinh nói có hai việc, vậy việc kia là…”
Tổ Gia mỉm cười nói: “Việc còn lại rất đơn giản, không nguy hại gì đến tính mạng, đó là phải tích đức làm việc thiện. Trong mệnh cục của các hạ, Hỏa khí quá vượng, cần phải dùng thấp Thổ48 để hấp thu Hỏa khí. Trong 12 địa chi, mỗi địa chi đều tương ứng với một con giáp như: Tý là chuột, Sửu là trâu, Dần là hổ, Mão là mèo, Thìn là rồng, Tỵ là rắn, Ngọ là ngựa, Mùi là dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là lợn. Trong 12 con giáp này thì Sửu có Ngũ hành thuộc thấp Thổ. Các hạ tìm mua được 50 con là tốt nhất, nuôi dưỡng cẩn thận, không được bắt chúng cày bừa, không được đánh đập, cũng không được giết mổ lấy thịt, hàng ngày phải cho chúng ăn uống, cứ nuôi chúng cho chúng được sống lâu chết chuồng là được. Nếu các hạ thành tâm thành ý làm việc này, không những quan lộ hanh thông, mà còn có thể tăng thêm tuổi thọ nữa.”
Từ Hoài Cận hỏi: “Sao có thể nói vậy?”
Tổ Gia nói: “Chúng sinh trong sáu cõi, tất cả đều có linh ứng. Có câu ‘ngưu tòng lao, cẩu tòng ngục’. Những người giết mổ ăn thịt hai loài động vật này đều không có kết cục tốt đẹp, sinh thời thì ốm yếu đoản mệnh, sau khi chết sẽ bị đày xuống địa ngục. Ông không những không ăn thịt chúng, còn giải cứu chúng, tự nhiên tuổi thọ tăng lên, quan lộ hanh thông.”
Từ Hoài Cận chợt bừng tỉnh: “Tiên sinh tấm lòng từ bi. Bỉ nhân kính phục! Nhưng, giờ đang thời kỳ loạn lạc thế này, muốn gom đủ 50 con trâu mà nuôi, cũng… cũng không phải là chuyện dễ gì.”
Tổ Gia gật gật đầu: “Mưu sự tại nhân thôi. Các hạ có thể phái thủ hạ đi đến các chợ gia súc tìm thử xem, nhưng có một điều cần lưu ý là phải thành thực trong mua bán, không được cướp đoạt của người ta, nếu không sẽ tạo thêm nghiệp ác đấy.”
Từ Hoài Cận gật đầu: “Tiên sinh cứ yên tâm. Đa tạ tiên sinh chỉ dạy.” Nói xong hắn cầm một xấp tiền đưa cho Tổ Gia.
Tổ Gia xua tay: “Không cần, khi nào các hạ công thành danh toại thì cảm ơn ta cũng không muộn.”
Từ Hoài Cận không biết nói gì thêm nữa.
Vào thời kỳ Dân quốc, thị trường gia súc vốn không khởi sắc, đặc biệt là sau cuộc kháng chiến, tình hình càng ảm đạm. Vì vụ dàn cục này, mà trong vòng một tháng trước đó, Trương Ân Thụy đã phải phái mấy chục tên chân tay đi hết nhà này đến nhà khác ở khắp vùng Giang Hoài để thu mua nghé con. Giá nghé con thấp hơn trâu nhiều, cho nên không phải tốn nhiều tiền. Nhưng vì thời gian gấp rút, sau phải mua cả trâu, cuối cùng thậm trí còn đi ăn trộm, nên cũng gom đủ mấy chục con trâu trước khi Tổ Gia ra tay. Sau đó sai các A Bảo đóng giả bọn buôn bán gia súc, ngày nào cũng dắt nghé, dắt trâu lượn qua các chợ gia súc ở lân cận. Đồng thời còn câu kết với băng nhóm xã hội đen trong vùng, tạm thời đuổi hết bọn Chọc mông lừa ở trong các chợ gia súc đi nơi khác, rồi phái các A Bảo đến chợ giả làm bọn Chọc mông lừa.
Chọc mông lừa là tiếng lóng, chỉ người môi giới đứng giữa bên bán và bên mua. Do hai bên mua bán không quen biết nhau, chợ gia súc thì lại đầy rẫy tiếng lóng và những mưu tính ngấm ngầm thâm hiểm, nên cả hai bên mua và bán đều không dám trực tiếp thương lượng, mặc cả. Từ đó, dần dần đám người chuyên đi dàn xếp mối quan hệ giữa hai bên mua và bán xuất hiện. Chúng đóng vai trò là người môi giới, làm cán cân lợi ích giữa đôi bên, sau khi vụ mua bán thành công sẽ được ăn chia phần trăm.
Đám A Bảo đã làm Chọc mông lừa, như vậy có nghĩa là cả người bán và kẻ môi giới đều là người của mình thì có thể kiếm lời nhiều nhất có thể rồi.
Tuy Từ Hoài Cận là một kẻ lọc lõi trong giới đặc vụ tình báo, nhưng lại chỉ là kẻ ngoại đạo đối với tin tình báo trên chợ gia súc, bởi thường ngày ông ta không quan tâm đến, cũng như không bao giờ để ý đến nơi buôn bán hôi hám kia. Truyện "Tôi Là Thầy Tướng Số " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Trong khoảng thời gian này, giá gia súc đột nhiên tăng vọt, Từ Hoài Cận đã phải dùng một khoản kinh phí rất lớn của đặc vụ, mới có thể mua đủ 50 con trâu. Ông ta khoanh lấy một miếng đất ở ngoại thành, rồi thuê vài người chuyên chịu trách nhiệm chăm sóc trâu. Sau khi làm xong hết những việc này, ông ta ngẫm nghĩ rồi bật cười. Ban đêm, nằm trên giường trò chuyện với Hoa Nguyệt Dung, ông ta nói: “Nguyệt nhi, nàng nói xem việc này có hoang đường không chứ? Nếu mà đồn ra ngoài, lại chẳng khiến người ta cười cho thối mũi ấy à?”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Có gì mà hoang đường đâu? Đó là việc liên quan đến vận mệnh, thà tin là nó có thể xảy ra chứ đừng nghĩ là nó không thể xảy ra. Cha muội cũng vì không tin lời vị tiên sinh này, nên mới tán gia bại sản, mất cả mạng sống đó sao? Nếu nói hoang đường, chỉ có mấy ông quan to như Sở trưởng mới hoang đường thì có. Chẳng phải Ngài đã từng nói cấp trên của mình, vị Đới Cục trưởng gì gì đó đã phải đổi đến mười mấy cái tên, lại còn Tưởng Ủy viên trưởng, mỗi khi đi đến đâu dựng trại đóng quân đều phải xem phong thủy…”
“Được rồi, được rồi! Bà cô bé nhỏ của tôi. Những việc này đều là việc cơ mật không được nói với người ngoài.” Từ Hoài Cận ngắt lời Hoa Nguyệt Dung, ôm nàng ta vào lòng, hai người lại quấn lấy nhau.
Đột nhiên Từ Hoài Cận nhớ đến lời dặn của Tổ Gia, vội vàng nói với Hoa Nguyệt Dung: “Nguyệt nhi, năm nay nàng tuyệt đối không được đến bờ sông. Tiên sinh đã nói, phải đầu mùa hạ sang năm nàng mới được lại gần sông nước.”
Hoa Nguyệt Dung cười nói: “Huynh sợ muội bị chết đuối à?”
Từ Hoài Cận nói. “Nói linh tinh, chết cái gì mà chết.”
Ông ta nào đâu biết, theo kế hoạch của Trương Ân Thụy và Tổ Gia, Hoa Nguyệt Dung phải “chết” một lần, nếu không, làm sao có thể thoát thân, lại dễ bị bại lộ. Vì thế, nhân dịp Từ Hoài Cận phải đến Lâm Trấn giám sát công tác, Hoa Nguyệt Dung đi dạo phố cùng với người hầu nhà Từ Hoài Cận, nàng nói nàng đã mang thai, muốn ra chợ cá bên bờ sông mua cá chép để phóng sinh, mong cho con của mình và Từ Hoài Cận sau này có thể “Cá chép vượt vũ môn”. Cô người hầu sống chết ngăn cản không được, đành phải đi theo.
Trương Ân Thụy đã bố trí bọn chân tay ngồi chực sẵn ở chợ cá, vừa hay hôm đó nước sông lên cao. Chính vào lúc Hoa Nguyệt Dung và người hầu gái đang phóng sinh cá bên bờ sông thì trong chợ xảy ra vụ xô xát. Hình như có người cướp cá, rồi không biết một đám người từ đâu chạy nhào ra, xô ngã Hoa Nguyệt Dung và người hầu xuống sông, đợi đến khi cô người hầu được người ta cứu lên bờ thì Hoa Nguyệt Dung đã biến mất trong dòng nước xiết.
Cô người hầu hớt hải chạy vội về nhà, hốt hoảng gọi điện thoại cho Từ Hoài Cận. Ông ta vội vã quay về, đứng trước dòng sông đang cuồn cuộn chảy, thì mọi việc đã muộn mất rồi. Từ Hoài Cận đứng bên bờ sông, gào khóc đến cạn khô nước mắt, con tim kể như đã chết.
Từ Hoài Cận suy sụp suốt mấy tháng trời, vẻ cau mày nhăn mặt cùng với nụ cười của Hoa Nguyệt Dung đã hằn sâu trong tâm trí. Hoa Nguyệt Dung ra đi mang theo cả con tim ông ta. Ngày nào ông ta cũng chạy ra bờ sông, đêm đến, nằm trên giường, đôi mắt vô hồn trân trân nhìn lên trần nhà. Mỗi khi nhớ đến những ngày tháng có Hoa Nguyệt Dung, lại xúc động, nước mắt trào ra.
Ông ta định sau này sẽ chăm sóc thật tốt cho “mẹ” của Hoa Nguyệt Dung, ông ta muốn thực hiện lời hứa của “Nguyệt nhi”, nhưng ông ta đâu biết rằng, người “mẹ” cũng “lao đầu xuống sông mà tự vẫn” vì không chịu đựng nổi nỗi đau mất con gái.
Cuộc chơi kết thúc, tất cả mọi người đều phải rút, ngoài 50 con trâu vẫn đang nhởn nhơ gặm cỏ ra, Từ Hoài Cận đã chẳng còn gì trong tay.
Sau khi Hoa Nguyệt Dung và vị A Bảo già đi lánh mặt một thời gian quay về Đường khẩu, Trương Ân Thụy và Tổ Gia bắt đầu bày tiệc ăn mừng.
Xa cách lâu như vậy, Trương Ân Thụy cũng rất nhớ Hoa Nguyệt Dung. Sau bữa tiệc, Trương Ân Thụy giữ Hoa Nguyệt Dung ở lại, ôm chầm lấy nàng: “Nguyệt nhi, lần này muội đã phải chịu nhiều thiệt thòi rồi.”
Hoa Nguyệt Dung cười khổ sở: “Sao đột nhiên Đại Sư bá lại khách khí như vậy? Lần này đâu có mất mát gì nhiều.”
Trương Ân Thụy nói: “Nguyệt nhi, nàng có biết lần này ta vét về bao nhiêu tiền như vậy là để làm gì không?”
Hoa Nguyệt Dung nói: “Chẳng phải là vì kế sinh nhai của các huynh đệ trong Đường khẩu sao?”
Trương Ân Thụy cười, nói: “Ừm, nói như vậy cũng đúng, nhưng có điều lần này là vì tính kế lâu dài cho các huynh đệ.”
Hoa Nguyệt Dung thấy lạ bèn hỏi: “Lâu dài ư?”
Trương Ân Thụy nói: “Đúng vậy, đây là vụ cuối cùng của chúng ta rồi.”
Hoa Nguyệt Dung sửng sốt: “Cuối cùng?”
Trương Ân Thụy nói: “Chẳng phải nàng vẫn thường hỏi ta, khi nào có thể cưới nàng, chúng ta cùng rời khỏi chốn thị phi này, để được sống một cuộc sống yên vui hay sao? Giờ đây chúng ta đã sắp được rời khỏi chốn thị phi này rồi, bỏ lại tất cả, để sống một cuộc sống khác, một cuộc sống đàng hoàng, đường đường chính chính.”
Những lời này khiến Hoa Nguyệt Dung giật mình ngồi bật dậy: “Muội chưa hiểu.”
Trương Ân Thụy nói: “Cuộc sống chuyên đi lừa đảo không phải là kế lâu dài. Sau khi Cửu gia chết, ta đã định rửa tay gác kiếm, muốn đầu quân cho Lý Kế Thâm đi kháng Nhật. Số tiền kiếm được lần này đều dùng để mua súng ống đạn dược. Hai hôm nữa, ta sẽ đánh bài ngửa với mọi người. Ai bằng lòng theo ta, ta sẽ đưa đi cùng, còn những ai không bằng lòng theo ta thì tùy… Ta muốn đưa muội đi, sau này sẽ đối tốt với muội, cưới hỏi muội đàng hoàng…” Nói đến đây, Trương Ân Thụy nắm chặt tay Hoa Nguyệt Dung, ánh mắt tha thiết nhìn nàng.
Hoa Nguyệt Dung im lặng.
“Sao vậy? Muội không thấy vui sao? Chúng ta sắp đi trên con đường chính nghĩa rồi, muội sẽ là cô dâu của ta. Về sau ta sẽ không để nàng phải lo lắng, sợ hãi nữa!” Trương Ân Thụy vừa nói vừa nhìn Hoa Nguyệt Dung với ánh mắt tha thiết.
Hoa Nguyệt Dung trầm giọng nói: “Muội vui, muội vui lắm!”
Trương Ân Thụy từ từ cởi áo Hoa Nguyệt Dung…
Một khi phụ nữ đã thay lòng thì mọi thứ diễn ra trên giường cũng chẳng còn hương vị gì cả. Cái cảm giác này không thể nói được thành lời, nhưng có thể cảm nhận được. Sau một hồi lăn qua lăn lại, Trương Ân Thụy buông Hoa Nguyệt Dung ra, tựa vào đầu giường, châm một điếu thuốc, hút một hơi thật dài, rồi chậm rãi nhả khói, nói: “Muội rất khác.”
Hoa Nguyệt Dung không chối cãi, cũng không lên tiếng, nàng im lặng rất lâu rồi nói: “Khác sao?”
Trương Ân Thụy nói: “Muội vẫn như đang dàn cục.”
Hoa Nguyệt Dung gượng cười một cách khổ sở: “Chẳng phải ngày nào muội cũng ở trong cục đó sao?”
Trương Ân Thụy hít một hơi dài, nhả khói ra. Khói thuốc bện lại thành những vòng tròn bay lên. Hai người im lặng, không ai nói với ai câu gì. Căn phòng bỗng trở nên tĩnh lặng. Một lúc lâu sau, Trương Ân Thụy nói: “Muội nói đi! Nói!”
Hoa Nguyệt Dung cắn môi, cúi đầu trầm tư suy nghĩ, một lúc sau ngập ngừng, ấp úng nói: “Muội… có thể sống cuộc sống của mình không? Muội không cần thứ gì khác và muội cũng không muốn nói gì lúc này.”
Tay Trương Ân Thụy run lên, tàn thuốc dài rụng xuống, lại là một khoảng tĩnh lặng trống rỗng. Hoa Nguyệt Dung vẫn cúi đầu. Một lúc sau, Trương Ân Thụy nói tiếp: “Mấy năm nay… Muội đi theo ta phải chịu nhiều cực khổ… Nếu muội đã có lựa chọn, chỉ cần không phương hại đến việc lớn của ta, ta… sẽ để muội ra đi.”
Đột nhiên Hoa Nguyệt Dung ngước mắt lên, nhìn thẳng vào Trương Ân Thụy nói: “Để muội đi thật sao?”
Trương Ân Thụy chau mày, không nói.
Hoa Nguyệt Dung đột nhiên quỳ xuống, nước mắt tuôn rơi: “Hãy để muội đi! Hãy buông tha muội! Muội thề sẽ sẽ giấu kín những chuyện này trong lòng, suốt đời không bao giờ nói ra. Muội chỉ cầu mong được sống cùng ông ấy. Muội chỉ cầu mong được sống cùng ông ấy.”
Trương Ân Thụy sững sờ nhìn Hoa Nguyệt Dung, mãi sau mới nói: “Hãy đứng lên, đứng lên đi, từ từ nói. Nói ta xem đã xảy ra chuyện gì, ta sẽ để muội đi.”
Hoa Nguyệt Dung nhìn Trương Ân Thụy với ánh mắt dè chừng. Trương Ân Thụy mỉm cười nói: “Đừng sợ, hãy nói ta nghe.”
Hoa Nguyệt Dung thu hết can đảm nói ra từ đầu đến cuối mọi việc chôn giấu trong lòng, nàng kể đến việc Từ Hoài Cận đã đối xử với mình chân tình thế nào, bản thân mình cũng không kìm nén nổi tình cảm nên đã yêu thương Từ Hoài Cận ra sao, nàng kể mãi, kể mãi… Cuối cùng khi đôi mắt đã nhòa lệ, nàng nói: “Là muội có lỗi với huynh, là muội có lỗi với huynh. Lần này, muội không thể đi cùng huynh được, không thể đi cùng được. Sau này muội nhất định sẽ không nói ra những chuyện này, tuyệt đối im lặng. Đường khẩu cũng sắp giải tán rồi, muội không làm hại đến việc lớn của huynh, muội chỉ cầu xin huynh buông tha cho muội!”
Trương Ân Thụy chỉ im lặng nghe, gương mặt không chút biểu cảm, cuối cùng chỉ nhẹ nhàng hỏi: “Nói như vậy, muội … yêu hắn thật lòng sao?”
Hoa Nguyệt Dung thẳng thắn gật đầu. Trương Ân Thụy nhắm nghiền mắt lại, hai giọt nước mắt từ từ lăn xuống.
Hoa Nguyệt Dung không nói gì, lặng lẽ lui ra khỏi phòng Trương Ân Thụy. Trở về phòng mình, nàng lấy bút mực ra viết một bức thư mà nàng tự biết rằng sẽ không bao giờ có thể gửi đi được, viết xong nàng đặt thư dưới gối, rồi ra trước gương chải lại tóc, sau đó nằm lên giường, gối đầu lên bức thư rồi nhắm mắt lại trong niềm hạnh phúc.
Một tiếng súng vang lên khi trời còn chưa sáng, cảnh đêm tĩnh mịch dường như cũng run rẩy, thương cảm cho một kiếp hồng nhan, Hoa Nguyệt Dung đã chết. Không ai biết Trương Ân Thụy vì nghĩ đến việc lớn của mình, hay vì nỗi oán hận trong lòng. Chỉ biết rằng, ông ta đã tự tay giết chết người con gái mà mình yêu thương nhất. Càng không ai có thể biết rằng trước khi chết Hoa Nguyệt Dung có ngủ thật hay không, hay là nàng im lặng nằm trên giường. Có lẽ nàng cũng nghe thấy tiếng bước chân của Trương Ân Thụy, hơn hết là nghe được tiếng lên đạn của ông ta, nhưng nàng không chạy trốn, mà có muốn cũng không biết phải trốn nơi nào. Đất trời tuy rộng lớn, nhưng không có nơi nào cho nàng dung thân cả.
Nhiều năm sau, nhắc lại vụ dàn cục này Tổ Gia vẫn chỉ biết lắc đầu thở dài. Ai tốt, ai xấu, ai trong cục, ai ngoài cục, Tổ Gia không rõ, Trương Ân Thụy cũng không rõ, Từ Hoài Cận lại càng không rõ. Hoa Nguyệt Dung ra đi, mang theo nỗi thống khổ và mối tình chưa dứt của cả cuộc đời nàng.
Sau khi quân Nhật đánh đến, Tổ Gia sai người đem những con trâu này đến cho các vị hương thân phụ lão của địa phương, họ đã dùng những con trâu này đi kéo xe, giúp đưa các chiến sĩ, quân nhân Quốc dân Đảng bị thương ở tiền tuyến về. Tổ Gia thở dài thương cảm: “Người nuôi trâu ba năm, trâu phục vụ người cả đời, thiện ác tương báo vốn rất đơn giản, vì đâu con người cứ vướng mãi trong cái vòng luẩn quẩn này!”
Về sau, Tổ Gia nghe nói Từ Hoài Cận và Quân thống đường ai nấy đi. Hắn bị truy sát phải chạy sang Hồng Kông, về sau không có tin tức gì nữa.
Sau khi Trương Ân Thụy lừa được tiền liền chiêu binh mãi mã, lôi kéo người hòng đọ sức với Cục Quân thống. Nghe nói ông ta đã giết chết rất nhiều thân tín dưới quyền của Đới Lạp. Về sau, Trương Ân Thụy đầu quân cho Lý Kế Thâm cùng phản Tưởng kháng Nhật. Sau khi cuộc kháng chiến bùng nổ toàn diện, Trương Ân Thụy đã nhiều lần xung phong ra tiền tuyến. Năm 1940 ông ta bị một viên đạn bắn trúng ngực trong chiến dịch Quế Nam, trước khi chết có để lại một di nguyện, sau khi hỏa tảng đưa tro cốt của mình về quê nhà, chôn bên cạnh mộ phần cô độc của Hoa Nguyệt Dung.
Vụ dàn cục mỹ nhân lần này, là cuộc giao đấu trực diện đầu tiên của phái Giang Tướng với Cục Quân thống Quốc dân Đảng. May thay, lần đó bọn đặc vụ của Quân thống vẫn chưa phát giác ra, nên chưa bị chúng quay lại vồ. Phong Tử Thủ muốn báo thù cho Cửu gia, Tổ Gia cũng vậy. Ông đã dùng cách này để nhắn nhủ Phong Tử Thủ, cũng là giảng một bài học sinh động cho anh ta. Từ đó. Phong Tử Thủ ngộ ra một đạo lý rằng: phàm là người thành đại sự, tất không phải là kẻ hữu dũng vô mưu, liều mạng thì ai cũng có thể liều, nhưng một mạng sống thì đáng bao nhiêu quan tiền chứ?
Thế lực của Quân thống ngày một mạnh thêm, Tổ Gia đã liệu trước sớm muốn đến một ngày phái Giang Tướng sẽ đụng độ với Cục Quân thống tại nơi ngõ hẹp, nhưng ông không ngờ rằng ngày đó lại đến nhanh và bất ngờ như vậy.



Mai hoa dịch số đều gỉang giải về phương pháp bói tóan, nhưng lại chẳng hề có một cương lĩnh chung, cũng không hề nói đến phương thức và cách thức suy luận, diễn giải cụ thể. Cả một cuốn sách thần kỳ như thế, cuối cùng cũng chỉ dùng một bài thơ mà đòi thay thế phương pháp giải đóan, bài thơ viết rằng:
Nhất vật kỳ lai hữu  nhất thân,
Nhất thân hòan hữu nhất Càn Khôn;
Năng tri vạn vật bị vu ngã,
Khẳng bá tam tài biệt lặp căn;
Thiên hướng nhất trung phân hạo hoa,
Nhân vu tâm thượng khởi kinh luân;
Tiên nhân diệc hữu lưỡng ban thoại,
Đạo bất hư truyền chỉ tại nhân.
Người tinh từong sẽ phát hiện ra bài thơ này cực kỳ giống với Quán vật ngâm trong Kích nhưỡng tập của Thiệu Ung. Bài vịnh Quán vật ngâm viết rằng:
Nhất vật tòng lai hữu nhất thân,
Nhất thân hòan hữu nhất Càn Khôn;
Năng tri vạn vật bị vu ngã,
Khẳng bá tam tài biệt lập căn;
Thiên hướng nhất trung phân thể dụng,
Nhân vu tâm thượng khởi kinh luân;
Thiên nhân yên hữu lưỡng ban nghĩa,
Đạo bất hư truyền chỉ tại nhân.
…đây rõ ràng là đã trộm dùng ý niệm và học thuyết của Thiệu Ung, người đời sau tự lập môn hộ. Nếu Tưởng sư gia vẫn cố chấp không chịu tỉnh ra, e rằng sẽ làm trò cười cho thiên hạ!”

(p.403,404)

No comments:

Post a Comment