Sunday, October 11, 2015

Lục Xuân Út

shared http://vtc.vn/than-y-nguoi-giay-va-bai-thuoc-gut-chan-dong-mien-bac.394.555182.htm

Ông lang bí ẩn

Trong nhiều lần trò chuyện với một lãnh đạo của một tập đoàn sản xuất dược phẩm lớn ở Hà Nội, anh này hay nhắc đến một vị lương y người Giáy, có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc. Tập đoàn dược phẩm này đã sản xuất nhiều bài thuốc mà lương y của một dân tộc nhỏ bé, ít người của Việt Nam, chuyển giao cho, đặc biệt quý là những bài thuốc giải độc, làm đẹp. 

Tuy nhiên, vị lãnh đạo tập đoàn này rất tiếc nuối, khi đã nhiều lần, trong nhiều năm qua, lên tận vùng núi xa xôi, tìm đủ mọi cách, kể cả việc chi số tiền lớn, song vị lương y người Giáy kia vẫn nhất quyết không tiết lộ bài thuốc chữa gút cực kỳ hiệu quả. Theo anh, người Trung Quốc có ý thức rất cao trong việc bảo tồn bài thuốc gia truyền, nên không dễ gì họ tiết lộ, dù có dùng đến rất nhiều tiền. Anh bạn lãnh đạo tập đoàn nọ cũng giấu tịt địa chỉ, tên tuổi vị lương y kia với tôi.

Căn bệnh gút thực sự là nỗi “nhức nhối” trong xã hội hiện đại. Chúng ta ăn nhiều chất, ít vận động, lại sử dụng rượu bia nhiều, nên đại họa gút không chừa một ai. Gút gây đau nhức khủng khiếp. Một bài thuốc gút có giá trị, sẽ khiến cả xã hội quan tâm.Chính vì thế, trong mỗi chuyến đi đến vùng người Giáy, Lai Châu, sang Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, nơi có cộng đồng người Giáy đông đúc, tôi thường dò hỏi về một ông lang chữa gút tài ba. Thế nhưng, bao năm qua, ông lang chữa gút có gốc gác của người Giáy ấy vẫn bặt tăm.
Lục Xuân Út
Ông lang Lục Xuân Út 

Một lần, uống rượu cùng một vị lãnh đạo ở Lào Cai, tôi ngạc nhiên khi mấy năm trời kiêng rượu, giờ anh lại ăn uống thoải mái như vậy. Số là, anh này bị gút nặng, đến nỗi phải chống gậy đi làm, trông chả khác gì thương binh. Bệnh gút khiến những ngón chân của anh sưng húp, các khớp nóng bỏng, đau nhức đến nỗi anh chỉ muốn cắt béng cái chân ném đi. Bao năm rượu không dám uống, nhìn đồ ngon mà chẳng dám đụng đũa. Ấy thế nhưng, giờ đây, anh đã trở lại bình thường, căn bệnh gút tan biến đâu mất. 

Chuyện quả khó tin, nhưng đúng là sự thật hiện hữu. Cũng có thể là hợp thầy hợp thuốc, hoặc cơ duyên nào đó. Gút thực sự là căn bệnh khó chữa, đặc biệt, các chuyên gia hàng đầu thế giới cũng không dám khẳng định có thể giải quyết triệt để căn bệnh này. Hỏi lấy thuốc ở đâu, anh đưa tôi về nhà, lôi ra mấy bịch thuốc. Thuốc được băm chặt thô, đóng trong những túi nilon. Điều đặc biệt là chẳng có tên, địa chỉ, số điện thoại của ông lang. Hóa ra, một quan chức ở Tuyên Quang, chỗ quen biết, sau khi dùng thuốc gút của lang y nọ có hiệu nghiệm, đã mua thuốc rồi gửi sang Lào Cai cho anh. Bản thân anh bạn tôi cũng không biết ông lang tên gì. Nhưng có một thông tin khiến tôi quan tâm, đó là một ông lang người Giáy.

Người Giáy có mặt nhiều nhất ở Lào Cai, rồi đến Lai Châu, tiếp đó là Hà Giang. Tuyên Quang có rất ít người Giáy, nên ông lang nổi tiếng chữa gút, thuộc tộc người Giáy, lại định cư ở Tuyên Quang, nên cũng hơi lạ. Đến Tuyên Quang, thì tôi thực sự tin ông lang người Giáy có biệt tài chữa gút đang ở tỉnh này. Hầu như lãnh đạo tỉnh Tuyên Quang đều biết đến ông lang người Giáy, mà họ gọi ngắn gọn là lang Út. 

Một thầy lang bảo với tôi rằng, muốn tìm hiểu về bệnh gút, hoặc tìm các phương pháp chữa gút, cứ hỏi mấy ông quan chức, bởi quan chức rất hay bị gút. Và, tôi đã xác nhận được ông lang chữa gút nổi tiếng người Giáy, ở xóm Vinh Quang (xã Thái Bình, Yên Sơn, Tuyên Quang). 

Kho thảo dược khổng lồ

Vừa rời khỏi trung tâm thành phố Tuyên Quang, hỏi đường về xã Thái Bình, người dân ven phố đã hỏi lại: “Tìm nhà lang Út chữa gút hả. Cứ đi 8km nữa rồi hỏi, ai cũng biết”. Tiếng tăm lang Út ở miền gái đẹp này quả thực nổi như cồn. Có lẽ, quá nhiều người hỏi đường tìm đến cái địa danh ấy và phần lớn là đi lấy thuốc.

Vòng vèo trong làng, nhấp nhô lên dốc mấy lần qua những mỏm đồi thấp, thì tìm thấy nhà ông lang Út. Biển chỉ đường với cái mũi tên cắm ở những ngã rẽ hoang vắng. Căn nhà sàn của lang Út nằm trên mỏm một quả đồi, phóng tầm mắt nhìn thấy sông Lô. Sân bê tông dưới chân nhà sàn xếp sin sít ô tô, đủ các loại biển xanh, đỏ, trắng, mãi Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình… Có cả xe bán tải, chất những bọc thuốc đầy thùng xe. Mấy anh tài xế bảo: “Mỗi chuyến lên đây phải chở về cả tạ thuốc, phân phối cho các quan sếp uống để trị gút”. Gõ tên ông lang Lục Xuân Út người Giáy trên google, tuyệt nhiên chẳng có kết quả nào. Danh tiếng ông lang người Giáy rất “âm thầm” mà vang xa khủng khiếp như vậy, thì cũng phải phần nào công nhận bài thuốc của ông lang này hiệu nghiệm. 
Lục Xuân Út
Ông lang Út và kho thảo dược khổng lồ 

Bước chân lên nhà sàn, tôi càng choáng ngợp, khi cả một gian phòng rất rộng, có tới cả trăm tải thuốc, chất ngất. Thấy tôi kêu thuốc gì mà chất như núi thế này, ông lang Út bảo còn nhiều ở chỗ khác nữa. Rồi ông tiếp tục mở kho thuốc ở phòng bào chế dưới tầng hầm ngôi nhà sàn khổng lồ cho tôi xem. Theo ông lang Út này, thì trong nhà ông lúc nào cũng có khoảng 30-40 tấn thảo dược thành phẩm, là lượng nguyên liệu chuẩn bị sẵn cho bệnh nhân. Giời ạ! Đến bệnh viện đông y của một tỉnh cũng không tiêu thụ lượng thảo dược lớn khủng khiếp như thế này. 

Ông lang Út bảo: “Cậu nhìn xem, xe to xe con từng đoàn kéo nhau lên chở thuốc thế này, thì mấy tấn kia được mấy ngày thì hết. Mới có 3 tháng mà mình đã tiêu thụ hết 20 tấn rồi. Mỗi huyện có một ông quan chức bị gút biết đến mình và uống thuốc của mình khỏi, thì lập tức quan chức cả huyện ấy tìm lên. Để tiết kiệm thời gian, công sức, các ông ấy phân công một người lên lấy cho tổng thể”.

Tôi vào nhà, nói chuyện với ông lang Út một hồi. Ông cởi mở, trả lời mọi câu hỏi, mà không biết người đối diện là ai. Có lẽ, bản chất người vùng cao, lại xuất thân từ một dân tộc ít người, nên ông Út vẫn giữ được tính nết mộc mạc, dễ gần, cởi mở. Một lúc sau, mới chột dạ hỏi ngược lại tôi: “Cậu đến chữa bệnh hay làm gì mà nãy giờ hỏi mình suốt thế?”. Biết tôi là nhà báo, ông vui vẻ tiếp, nhưng có một đề nghị: Xin đừng đăng báo! Bởi vì, ông sợ, hàng ngàn người kéo nhau lên, ông chẳng còn thời gian… đi chơi. Tuy nhiên, khi tôi thuyết phục rằng, cần thiết để nhiều người biết, cứu mạng nhiều người, là điều nên làm, thì ông đồng ý tiếp chuyện.

Chưa vào câu chuyện chính, tôi trò chuyện với ông lang Út bằng mấy câu hỏi râu ria:

- Thưa anh, anh là ông lang, mà bốc thuốc nhiều như thế này, chắc phải giàu sụ nhỉ?

Cậu nhìn xem mình có giàu quá không? Mình không nghèo, nhưng không giàu. Mình chẳng có nhà cửa ở phố. Chỉ có mấy gian nhà trên quả đồi này thôi. Đồi này bố mẹ vợ chia cho. À, mìnhcó một thứ giá trị nhất, là cái ô tô, mua năm kia, gần 1 tỷ đồng.

- Ông lang tự lái xe đi khám bệnh à?

Mình thuê ông lái xe về hưu trong xóm, chở mình đi khám bệnh ở khắp nơi. Nhiều ông quan to bận quá, họ còn lo việc lớn cho đất nước, không xắp xếp lên đây được, thì mình cũng phải chạy đi giúp họ. Nhiều cụ già nằm liệt, lên đây khổ thân, mình cũng phải đi giúp tận tình.

- Khám bệnh cho quan chức thì phải giàu chứ?

Mình không thích tiền lắm đâu. Chỉ cần đủ tiêu thôi. Dùng thuốc của mình chỉ tốn bằng người thành thị ăn sáng, mỗi ngày vài chục ngàn. Mình chỉ lãi tí ti thôi, còn phần lớn là trả cho người đi thu hái. Để thu hái được một thang thuốc, người dân phải vào rừng thu hái rồi gùi về 20kg dược liệu. Một nhóm đi rừng cả ngày có khi mới thu hái được một thang. Chữa bệnh mà chặt chém thì thất đức lắm. Các cụ nhà mình xưa kia toàn tự vào rừng hái thuốc, bốc thuốc miễn phí, nhưng mình thu phí đã là khôn hơn các cụ rồi. Người khá giả thì mình lấy đúng giá, còn người nghèo mình cho không. 

- Anh cung cấp mấy bài thuốc và nguyên liệu cho tập đoàn X. phải không?

Ừ, đúng. Nhưng mình không cung cấp cho họ thuốc chữa gút. Dòng họ chỉ truyền bài thuốc gút cho mình. Mình được tổ tiên chọn, phải thề độc trước bàn thờ. Những cây thuốc này đều là bí truyền của dòng họ, không được tiết lộ. Nếu tiết lộ, tổ tiên sẽ trừng phạt.

Vậy là tôi đã tìm đúng ông lang chữa gút người Giáy, vị lang y khiến một lãnh đạo tập đoàn sản xuất dược phẩm phải nể phục, đeo đuổi nhiều năm hòng mua bài thuốc mà không được.

Thầy lang của vua Mèo

Ông lang Lục Xuân Út sinh năm 1964, là người Giáy chính cống. Tổ tiên sống ở vùng biên giới Trung Quốc và Việt Nam. Hiện tại, nhà thờ tổ nằm ở huyện Phú Linh (Vân Nam), bên kia Trung Quốc, cách biên giới có 6km, từ phía Phó Bảng (Đồng Văn) đi lên. Các cụ kể lại, ngày trước, cộng đồng người Giáy sinh cư ở vùng biên giới, còn chưa phân biệt được lãnh thổ một cách rõ ràng. Vì thế, giờ đây, dòng họ của thầy lang Lục Văn Út sinh cư ở cả hai bên biên giới, vẫn đi về thường ngày.

Dòng họ Lục của ông lang Lục Xuân Út có nghề thuốc gia truyền từ xa xưa. Các cụ kể lại, thì họ Lục có nhiều bài thuốc quý. Mỗi ông lang có uy tín trong gia đình sở hữu một bài thuốc đặc trị, bốc thuốc cho nhân dân trong vùng. Trong số những bài thuốc đó, nổi bật là các bài giải độc, trị các bệnh về gan, tiêu u và gút. 

Ông lang Út cho biết: “Ngày xưa, bệnh gút chưa phổ biến, nên mặc dù dòng họ của mình có bài thuốc trị gút tốt, song ít được dùng đến. Chủ yếu quan lang mắc gút, chứ nhân dân ít bị căn bệnh này. Chữa bệnh gút giỏi, nên tổ tiên mình giao du với tầng lớp quan lại nhiều. Ông nội, rồi đến bố mình không chỉ là thầy lang chữa gút giỏi, mà còn là thầy thuốc riêng của Vua Mèo ở Đồng Văn”.
Lục Xuân Út
Kho chứa thuốc đã đóng gói 

Ông nội của ông lang Lục Xuân Út lấy vợ, rồi di cư sang Đồng Văn sinh sống. Giỏi các bài thuốc quý, nên thường xuyên điều trị cho vua Mèo. Ông nội truyền nghề thuốc cho con trai Lục A Hủi, là bố đẻ của Lục Xuân Út. Cụ Hủi sinh năm 1917, vừa là thầy lang, chăm sóc sức khỏe cho vua Mèo Vương Chí Sình, vừa là thợ chăm sóc ngựa cho vua Mèo. Ông Hủi tài hoa, giỏi thuốc, lấy hai vợ và sinh được tới 10 người con. Vợ cả của ông Hủi là người Trung Quốc, có với nhau 3 người con. Vợ hai là người gốc Nghĩa Hưng (Nam Định), theo bố di cư lên Đồng Văn. Bà hai sinh cho ông 7 người con. Thầy lang Lục Xuân Út là con út của bà hai.

Ông Lục A Hủi được bác Hồ giác ngộ, trở thành Việt Minh, tham gia tiễu phỉ. Ông cũng có công động viên, thuyết phục Vương Chí Sình theo cách mạng. Khi Đồng Văn Giải phóng, ông Lục A Hủi được giữ chức Chủ tịch huyện Đồng Văn. Tuy nhiên, do không biết chữ, ngay sau đó bị xuống chức phó chủ tịch. 

Ông Lục A Hủi nắm tất cả các bài thuốc quý của dòng họ. Ngày đó, ông bốc thuốc cho nhà Vương và nhân dân trong vùng Đồng Văn, cả người Trung Quốc. Ông Hủi truyền cho con cả bài thuốc đặc trị các bệnh về gan, thận. Anh thứ 7 của ông Út học được bài thuốc khớp và dạ dày. Anh cả làm chủ tịch xã Đồng Văn. Anh thứ 7 này sống ở huyện Na Hang. Cả hai ông đều giỏi bốc thuốc, nhưng không hành nghề, mà chỉ vào rừng nhổ cây thuốc cứu người miễn phí. Bệnh nhân là những người quen biết, xóm làng. 

Truyền nhân bài thuốc gút
 
 

Ông Nguyễn Quang Lượng (Phó chủ tịch huyện Tân Yên, Bắc Giang): Tôi bị bệnh gút hành hạ suốt 8 năm trời, rất khổ sở. Cứ mỗi năm bị mấy trận đau đớn không đi nổi. Các ngón chân, tay sưng phù lên, đau như có con gì gặm trong khớp. Tôi đã dùng đủ các loại thuốc uống, thuốc tiêm, nhưng hiệu quả không cao, cứ hết thuốc lại đau. Thấy anh em trong huyện bảo uống thuốc của ông lang Út người Giáy ở Tuyên Quang khỏi, lúc đầu tôi cũng không tin lắm đâu, nhưng cứ dùng thử xem thế nào. Không ngờ, uống xong, thấy người dịu hẳn, hết đau đớn. Các khớp cũng hết nóng đỏ, xẹp đi. Tôi uống từ đầu năm nay, và đến giờ chưa thấy bệnh tái phát, lại ăn uống, tiếp khách khá thoải mái, không phải kiêng kỵ gì cả. Tháng nào tôi cũng xuống Hà Nội xét nghiệm thì các chỉ số đều bình thường, không thấy dấu hiệu bệnh. Bây giờ, để phòng bệnh, cứ mỗi tuần tôi uống một hai thang. Bài thuốc của anh Út thực sự là thần dược với bệnh gút. Tôi chỉ cho hàng trăm người và mọi người đều phản hồi rất tốt.
Lục Xuân Út tuy là con út, nhưng tính nết nhanh nhẹn, lại có đam mê cây cối, nên được bố cho đi theo hái thuốc nhiều nhất. Hồi 6-7 tuổi, Út đã trèo vách đá như khỉ để lấy thuốc. Những cây thuốc ông Hủi lấy, toàn là kỳ hoa dị thảo, mọc hoang dã trên các vách núi đá dựng đứng. Hồi lên 10 tuổi, Lục Xuân Út đã biết cả trăm cây thuốc quý. Những cây thuốc ấy đều được gọi theo tiếng Giáy, nên dù sau này nghiên cứu sách vở, anh cũng không biết tên khoa học nó là gì, đã từng được nghiên cứu hay chưa. Hầu hết các cây thuốc, khi anh mang cho các thầy thuốc Việt Nam, các nhà khoa học, nhà dược học, đều không biết chúng là cây gì.

Năm 20 tuổi, Lục Xuân Út được bố, là ông A Hủi dắt sang Trung Quốc gặp các cụ trong dòng họ. Nhà thờ tổ uy nghi, toàn mộ đắp đá rất lớn. Phải có đến gần chục cụ, râu dài đến ngực. Trước nhà thờ tổ và các cụ, Lục Xuân Út thề độc không được tiết lộ bài thuốc quý và cả đời phải lấy thuốc cứu người, giữ nghề thuốc bí truyền cho thế hệ sau của dòng họ. Bài thuốc bí truyền mà Lục Xuân Út được tổ tiên truyền lại là bài thuốc chữa gút. Lục Xuân Út phải có trách nhiệm bảo tồn bài thuốc, phát huy mạnh hơn nữa tác dụng của nó.

Ông lang Lục Xuân Út bảo: “Mình thề thế cho đúng thủ tục, lễ nghi, chứ ông cụ A Hủi đã chỉ cho mình bài thuốc gút lâu lắm rồi. Ngoài bài thuốc gút, mình còn biết nhiều bài chữa tê liệt, u lành phần mềm, các bệnh về khớp. Bố mình biết cây gì, đều chỉ cho mình cả thôi. Ở Trung Quốc thì phải giữ nghề như thế, không được tiết lộ cho ai. Thế nhưng, dòng họ nhà mình ở Trung Quốc lại không giữ được nghề. Mấy ông cụ râu dài đều sống trăm tuổi, nhưng giờ chết hết rồi, bọn trẻ đi học đại học, làm cán bộ, không theo nghề nữa. Trong họ, có lẽ là mình chuyên sâu theo nghề nhất”.

Hồi thanh niên trai trẻ, Lục Xuân Út lang thang trong rừng suốt ngày. Anh chàng Út nhỏ thó, lùn tẹt, nhưng trèo đèo lội suối suốt ngày không mệt. Chỉ cần con dao quắm, Lục Xuân Út có thể đi liên miên cả năm trong rừng. 20 năm trước, Lục Xuân Út đi xuyên rừng từ Đồng Văn sang Mèo Vạc, vòng xuống Bắc Mê, sang Na Hang của Tuyên Quang để tìm thuốc. Lục Xuân Út phát hiện ở Na Hang và những khu rừng lân cận của Tuyên Quang có vô số cây thuốc quý chữa gút. Hầu hết những cây thuốc này đều là cây cỏ hoang dã, không được biết đến, nên chúng không bị thu hái. Có nguồn thuốc lớn, Lục Xuân Út đã có điều kiện để giúp đỡ nhiều người bệnh hơn. Tại đây, anh gặp thiếu nữ người Kinh, là Phan Thị Thu Hiền (sinh năm 1973), nên lấy làm vợ. Chàng trai người Giáy theo vợ về làng Vinh Quang (xã Thái Bình, huyện Yên Sơn) để sinh cư. 

Được bố mẹ vợ chia cho một quả đồi cao nhất làng, Lục Xuân Út bắt đầu âm thầm hành nghề. Lúc đầu, anh bốc thuốc miễn phí cho người bệnh quanh vùng. Tiếng lành đồn xa, những bài thuốc của anh, đặc biệt là thuốc chữa gút, đã lan rộng khắp cả nước. Anh trở thành ông lang dân dã, nhưng cực kỳ bí ẩn.

Những vị thuốc lạ


Mặc dù bốc thuốc cho cả vạn bệnh nhân, nhưng ông lang Lục Xuân Út vẫn làm hoàn toàn thủ công. Mỗi lần bốc thuốc, ông lang Út mở 5 chiếc bao tải lớn chứa nguyên liệu đã thái và phơi khô, rồi cứ thế dùng tay bốc trộn với nhau. Mỗi túi thuốc nặng tới 4kg, gồm 15 gói nhỏ, uống trong 1 tháng. Cứ đóng thuốc đến đâu, là có người đến khuân đi hết.

Lục Xuân Út
Dây nhức xương - một nguyên liệu trong bài thuốc gút 

Tôi lại hỏi: “Nếu thái thuốc thô thế này, anh không sợ bị người khác học mất bí quyết à?”. Thầy lang Lục Văn Út cười nói: “Những cây thuốc của mình đều là thứ chỉ trong dòng họ mình biết thôi, nên có nhìn cây khô cũng không biết được đâu. Cũng vì không ai biết, mà những cây thuốc này không bị khai thác, còn nhiều trong rừng. Đấy cũng là lý do mình bán thuốc với giá rẻ, ai cũng có thể dùng được”. 

Khi tôi hỏi 5 vị trong bài thuốc chữa gút, thì ông thầy lang Lục Xuân Út chẳng giấu giếm gì. Ông Út mở từng bao nguyên liệu, bốc lên và khoe các vị gồm: Cơm lênh, bầu khai, nhức xương, dau dáu, huyết đằng… Tôi bảo: “Cây cơm lênh, bầu khai, dau dáu thì chưa nghe bao giờ, nhưng dây nhức xương và huyết đằng thì nhiều người biết rồi…”. 

Ông lang Lục Xuân Út bảo: “Thưa nhà báo, dây nhức xương có mấy chục loại, mình chỉ dùng đúng một loại mà thôi. Huyết đằng là dây leo bổ máu, nhưng có 6 loại khác nhau. Có loại huyết đằng trị ngứa và dị ứng, có loại trị dạ dày, có loại trị về gan. Loại huyết đằng giải độc gan, điều hòa cơ thể, chính là loại bổ trợ cho các thảo dược trị gút. Loại huyết đằng này dây nhỏ, kỳ quái như con rắn, nó chỉ có ở rừng già. Mới đây, mình vào rừng hái thuốc, thấy có dây huyết đằng mọc ở lối vào rừng, vắt lên vách đá, mình hỏi ông cụ chăn trâu, thì ông cụ bảo ông đã 80 tuổi, mà hồi 9-10 tuổi đã thấy dây huyết đằng mọc ở đây, to như bắp tay rồi. Tức là, đã 70 năm qua, dây huyết đằng này không hề lớn. Tuổi của nó có lẽ phải trăm năm”. 


Lục Xuân Út
Một cây thuốc lạ trong bài thuốc gút 

Nói rồi, thầy lang Lục Xuân Út trèo lên đống thuốc chất trong kho, lôi từ trên mái nhà xuống một đoạn dây leo, to bằng cổ tay, trông như con rắn. Dây huyết đằng to bằng cái phích, như con trăn, bò loằng ngoằng trong rừng, có tuổi trăm năm thì tôi gặp nhiều trong các chuyến đi rừng, nhưng dây huyết đằng cổ thụ mà rất nhỏ và hình thù quái dị thế này thì chưa gặp.

Theo thầy lang Lục Xuân Út, vị quý nhất, chủ đạo trong bài thuốc trị gút gia truyền của dòng họ, là cây cơm lênh. Tôi tra một số sách thuốc, thì có thấy nhắc đến thảo dược cơm lênh, còn gọi là: trâu cổ, vảy ốc, bị lệ, cây xộp, mộc liên, sung thằn lằn. Tuy nhiên, đây lại là tầm gửi, mọc trên thân cây gỗ, lá hình vảy ốc, có quả bằng quả sung… Như vậy, cây cơm lênh mô tả trong sách không phải thảo dược mà ông lang Lục Xuân Út sử dụng. Cây cơm lênh có lá như lá lúa, nhưng ngắn hơn. Theo thầy lang Út, đây là một loại lan, mọc hoang dã trên vách đá cao, chứ không mọc trên cây. Loại lan này chỉ sống ở rừng già, trong các khe đá ẩm ướt, tối tăm. Ông Út đã mang cây lan này cho nhiều thầy lang miền núi, nhưng không ai biết dùng để làm thuốc, chỉ mỗi dòng họ của ông dùng, nên trong rừng vẫn còn nhiều. Loài lan có tên cơm lênh ra hoa đỏ pha vàng, nhìn không đẹp, lại khó trồng làm cảnh, nên không bị tận diệt. 

Ngoài tác dụng trị gút, thì cơm lênh có nhiều kháng sinh tự nhiên. Xưa kia, ông nội, rồi bố ông thường hái cơm lênh tắm cho trẻ mới sinh. Các cụ bảo tắm bằng nước cơm lênh trẻ sẽ khỏe, tăng sức đề kháng, không bị ốm vặt, nhiễm lạnh… Ngoài ra, trẻ con bí đái, tiểu rắt, chỉ cần ngâm mình trong nước cơm lênh là hết bệnh. 

Cùng với cơm lênh, dây dau dáu có tác dụng thẳng vào xương khớp. Dây dau dáu chỉ bằng ngón tay cái, nhưng cực bền. Người miền núi thường lấy dây này làm thừng trâu để cày bừa, thậm chí dùng trâu kéo gỗ. Không ai biết dùng dây dau dáu để làm thuốc ngoài dòng họ của lang y Lục Xuân Út.

Thầy lang người Giáy Lục Xuân Út bảo: “Mình cũng muốn tiết lộ những cây thuốc này cho một nhà nghiên cứu nào đó để phân tích, rồi nghĩ cách cứu nhiều người, nhưng lại sợ lộ bài thuốc, làm mất nghề gia truyền, rồi người ta vào rừng nhổ hết cây thuốc quý thì gay lắm”. 


Hiện có rất nhiều độc giả liên lạc với tòa soạn và tác giả xin số điện thoại của ông lang Lục Xuân Út. 

Tòa soạn xin cung cấp số điện thoại để độc giả cả nước tiện liên lạc, nghe tư vấn về bệnh gout: 016 33 68 1111.

Lấy thuốc tại số 8, ngõ 469, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. ĐT: 043 9168 666

Địa chỉ nhà ông lang Lục Xuân Út: xóm Vinh Quang, Thái Bình, Yên Sơn, Tuyên Quang.

Độc giả trong TP.HCM lấy thuốc tại: 14/12/21, đường số 53 (Phạm Văn Chiêu), phường 14, Q.Gò Vấp. ĐT: 0988 990 398.

shared https://www.flickr.com/photos/vietpharma/5944498009


TÊN VIỆT NAM: TRÂU CỔ, vảy ốc, cơm lênh, bị lệ, cây xộp, mộc liên, sung thằn lằn, mác púp (Tày).
 TÊN KHOA HỌC: FICUS PUMILA L.
 HỌ: MORACEAE
 MÔ TẢ:
 Cây leo nhỏ, mọc áp sát trên thân cây gỗ, đá hoặc gia thể khác nhờ rễ. Khi cây còn nhỏ, lá hình vảy ốc. Ở cây trưởng thành, cành lá mọc vươn dài và mang hoa, quả. Lá mọc so le, nhẵn. Cụm hoa mọc ở kẽ lá; hoa đực mọc ở gần đỉnh cụm hoa; hoa cái ở dưới. Quả phức mọc riêng lẻ, nhẵn, màu tím nâu khi chín.
 MÙA HOA QUẢ:
 Tháng 5-10.
 PHÂN BỔ:
 Cây mọc hoang ở vùng rừng núi, trung du. Còn được trồng làm cảnh.
 BỘ PHẬN DÙNG:
 Cành lá thu hái quanh năm. Quả thu hái vào mùa thu, phơi hoặc sấy khô. Khi dùng, sao vàng.
 THÀNH PHẦN HÓA HỌC:
 Chất gôm thuỷ phân cho glucosa, fructosa, arabinosa, protein, nhựa mủ.
 CÔNG DỤNG:
 Thuốc bổ máu, bổ toàn thân, chữa lỵ lâu ngày, trĩ, tắc tia sữa, di tinh, liệt dương, kinh nguyệt không đều, bí đại tiểu tiện, lở ngứa, nhọt, đau lưng, nhức xương, thấp khớp. Ngày 8-16g cành và lá, dạng thuốc sắc, cao, rượu thuốc; hoặc 3-6g quả dạng thuốc sắc, cao hoặc làm mứt.
 Nguồn: Viện Dược Liệu www.VietPharma.com

^^^
shared http://www.lrc-hueuni.edu.vn/dongy/show_target.plx?url=/thuocdongy/H/HuyetDang.htm&key=&char=H


Huyết đằng

Huyết đằng, Hồng đằng, Dây máu - Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils., thuộc họ Huyết đằng -Sargentodoxaceae.
Mô tả: Dây leo có thể cao tới 10m, vỏ ngoài màu hơi nâu. Thân cây tròn có vân, khi cắt ra có chất nhựa màu đỏ như máu. Lá mọc so le, có 3 lá chét, cuống dài 4-5-10cm; lá chét giữa có cuống ngắn, các lá chét bên không cuống, phiến lá chét giữa hình trứng, dài 8-16cm, rộng 4-9cm, các lá chét bên hình thận hơi to hơn lá giữa, và gân giữa lệch. Hoa ở nách lá, màu vàng hay vàng lục. Quả mọng hình trứng, khi chín có màu lam đen, xếp thành chùm.
Hoa tháng 3-5 quả tháng 8-10.

Bộ phận dùng: Thân cây - Caulis Sargentodoxae. Thường có tên là Đại huyết đằng. Rễ cũng được dùng
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở Lào Cai, Bắc Thái, Hoà Bình, Lạng Sơn. Có thể thu hái thân cây quanh năm, trước hết chặt ra từng đoạn dài, để 3-5 ngày cho se bớt, rồi rửa sạch, thái miếng phơi khô. Khi chặt thì nhựa chảy ra như nhựa cây Kê huyết đằng, có thể hứng lấy nhựa về phơi khô mà dùng.
Thành phần hóa học: Thân chứa tanin.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng chát, tính bình; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, khư phong.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường được dùng trị đau ruột, đau bụng, bế kinh, đau bụng kinh, phong thấp đau nhức, té ngã sưng đau, huyết hư đầu váng.

Đơn thuốc:
1. Chữa phong thấp, gân xương đau nhức, tay chân đau mỏi, co quắp, tê bại, hoặc sưng nề: dùng 20-40g Huyết đằng sắc uống hoặc phối hợp với Cẩu tích, Cốt toái bổ, Ngưu tất, Tỳ giải, mỗi vị 20g, Bạch chỉ 4g, Thiên niên kiện 6g sắc uống.
2. Chữa huyết hư trên đầu xây xẩm, chóng mặt, tim đập không đều nhịp, đau nhói ở vùng tim, các khớp xương đau mỏi: Dùng Huyết đằng 20g, Huyền sâm, Mạch môn, Ngưu tất, Hạt muồng sao mỗi vị 15g. Tâm sen 4g, sắc uống.

^^^




No comments:

Post a Comment