shared http://www.ngo-quyen.org/p113a4312/bac-si-nguyen-hai-chau-va-vo-quach-thi-tuong-vi-benh-ung-thu-nhu-hoa-hay-ung-thu-vu
Bác Sĩ Nguyễn Hải Châu và Võ Quách Tường Vi
Mấy thập niên gần đây chúng tôi nhận thấy xác xuất của bệnh ung thư nhủ hoa hay ung thư vú của chị em phụ nữ người Mỹ gốc Việt đã gia tăng nhiều khi so với những năm đầu tiên khi chúng ta mới bắt đầu qua Mỹ.
Hiện nay trên thế giới có 5 loại ung thư mà dễ gây thiệt hại đến tính mạng cho phụ nữ là (theo thứ tự nhiều nhất): ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày , ung thư ruột, và ung thư tử cung.
Ung thư nhủ hoa hay vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và đứng hàng thứ hai, chỉ sau ung thư phổi, gây tử vong hàng đầu trong số các bệnh ung thư phụ nữ ở Hoa Kỳ. Một trong tám phụ nữ sẽ bị ung thư vú.
Ở Mỹ, Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (Center of Control Disease hay CDC) ước tính hơn 192.370 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm, và số lượng các trường hợp mới đã giảm trong thập niên qua. Hơn 40.000 phụ nữ bị tử vong với căn bệnh này hàng năm.
Đàn ông có thể phát triển bệnh ung thư vú, nhưng nó xảy ra ít hơn nhiều so với phụ nữ. Gần 2.000 người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm. Ung thư vú là loại ung thư đứng hàng đầu của phụ nữ ở trong các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng tại các nước đang phát triển do tăng tuổi thọ, tăng đô thị hóa và áp dụng lối sống phương Tây. Mặc dù một số giảm nguy cơ có thể đạt được bởi phòng chống bệnh trước, nhưng các chiến lược này không thể làm giảm đi phần lớn các bệnh ung thư vú phát triển ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn. Vì vậy, phát hiện sớm để nâng cao kết quả chống lại ung thư vú và sống sót vẫn là nền tảng kiểm soát ung thư vú.
Riêng về người phụ nữ Việt mình đang sống trên nước Mỹ thì nguy cơ để bị ung thư vú cũng trên đà phát triển. Nghiên cứu của tiến sĩ Hồ (2006) cho thấy là phần lớn ung thư vú của phụ nữ gốc Việt, khi tìm ra, thì đã ở vào thời kỳ sau cùng, ung thư đã lan tràn nhiều nơi nên kết quả chữa trị cũng không được tốt đẹp cho lắm. Và cũng có một điều hơi bất ngờ với việc nghiên cứu này là các phụ nữ gốc Việt bị ung thư ở tuổi rất trẻ, dưới 50 tuổi. Vì vậy việc sàng lọc và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ người Việt lại thêm phần quan trọng và nên khuyết khích trong cộng đồng.
Ung thư nhủ hoa hay vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và đứng hàng thứ hai, chỉ sau ung thư phổi, gây tử vong hàng đầu trong số các bệnh ung thư phụ nữ ở Hoa Kỳ. Một trong tám phụ nữ sẽ bị ung thư vú.
Ở Mỹ, Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (Center of Control Disease hay CDC) ước tính hơn 192.370 phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm, và số lượng các trường hợp mới đã giảm trong thập niên qua. Hơn 40.000 phụ nữ bị tử vong với căn bệnh này hàng năm.
Đàn ông có thể phát triển bệnh ung thư vú, nhưng nó xảy ra ít hơn nhiều so với phụ nữ. Gần 2.000 người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú mỗi năm. Ung thư vú là loại ung thư đứng hàng đầu của phụ nữ ở trong các nước phát triển và đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng tại các nước đang phát triển do tăng tuổi thọ, tăng đô thị hóa và áp dụng lối sống phương Tây. Mặc dù một số giảm nguy cơ có thể đạt được bởi phòng chống bệnh trước, nhưng các chiến lược này không thể làm giảm đi phần lớn các bệnh ung thư vú phát triển ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình, nơi ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn. Vì vậy, phát hiện sớm để nâng cao kết quả chống lại ung thư vú và sống sót vẫn là nền tảng kiểm soát ung thư vú.
Riêng về người phụ nữ Việt mình đang sống trên nước Mỹ thì nguy cơ để bị ung thư vú cũng trên đà phát triển. Nghiên cứu của tiến sĩ Hồ (2006) cho thấy là phần lớn ung thư vú của phụ nữ gốc Việt, khi tìm ra, thì đã ở vào thời kỳ sau cùng, ung thư đã lan tràn nhiều nơi nên kết quả chữa trị cũng không được tốt đẹp cho lắm. Và cũng có một điều hơi bất ngờ với việc nghiên cứu này là các phụ nữ gốc Việt bị ung thư ở tuổi rất trẻ, dưới 50 tuổi. Vì vậy việc sàng lọc và chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ người Việt lại thêm phần quan trọng và nên khuyết khích trong cộng đồng.
Sơ lược về vú
Bầu vú gồm có các tuyến tạo sữa (gọi là tiểu thùy), các ống cực nhỏ dẫn sữa tới núm vú (gọi là tiểu quản), và mô mỡ. Đa số trường hợp ung thư vú đều bắt đầu trong các tế bào niêm lót tiểu quản. Đó gọi là ung thư tiểu quản. Những trường hợp khác bắt đầu tại tế bào niêm lót tiểu thùyvà gọi là ung thư tiểu
thùy. Phần còn lại bắt đầu từ những mô khác ở vú.
Ung thư vú là Bệnh gì?
Trước khi nói về Ung thư vú, điều cần thiết và quan trọng là chúng ta nên hiểu Ung Thư cụ thể là bệnh gì và tại sao nó lại nguy hiểm như vậy? Ung thư không phải chỉ là một loại bệnh. Có nhiều dạng ung thư, và ung thư xảy ra khi các tế bào phân chia không kiểm soát được. Những tế bào bất thường này có thể xâm nhập vào các mô lân cận hoặc di chuyển đến các vị trí ở xa bằng cách nhập vào mạch máu hoặc hệ bạch huyết. Tế bào bất thường này cứ tiếp tục tăng lên thêm và lấn át tế bào bình thường. Điều này khiến cơ thể khó hoạt động hiệu quả như thường lệ và dẫn đến nhiều hiệu quả nghiêm trọng, một vài điểm trong số đó là: Rối loạn chức năng tế bào, khối u, di căn.
Rối loạn chức năng của tế bào: Để cơ thể con người hoạt động bình thường, mỗi cơ quan phải có một số lượng tế bào nhất định. Các tế bào trong hầu hết các cơ quan sống không lâu dài lắm. Và để tiếp tục hoạt động cơ thể cần thay thế các tế bào bị mất này bằng quá trình phân chia các tế bào.
Phân chia tế bào được điều khiển bởi các gen nằm trong nhân tế bào. Chúng có chức năng như một sự hướng dẫn nói với các tế bào loại protein nào cần làm, nó sẽ phân chia như thế nào và nó sẽ sống bao lâu. Mã di truyền này có thể bị hư hại bởi một số yếu tố dẫn đến sự sai sót xảy ra trong sự hướng dẫn đó. Những lỗi này có thể làm thay đổi đáng kể cách tế bào hoạt động. Thay vì nghỉ ngơi các tế bào có thể tiếp tục phân chia, thay vì chết các tế bào có thể vẫn sống nhưng lại gây hại hay nguy hiễm cho cơ thể.
Khối u: Nhưng đôi khi quá trình có trật tự này bị trục trặc. Vật liệu di truyền (DNA) của một tế bào có thể bị hư hỏng hoặc thay đổi, gây ra các đột biến có ảnh hưởng đến tăng trưởng và phân chia của tế bào bình thường. Khi điều này xảy ra, các tế bào không chết khi chúng cần và các tế bào mới hình thành khi cơ thể không cần đến chúng. Các tế bào thêm này có thể tạo thành một khối lớn các mô gọi là khối u.
Di căn: Không phải tất cả các khối u đều là ung thư, các khối u có thể lành tính hoặc ác tính. Khối u lành tính không phải là ung thư. Chúng thường có thể được cắt bỏ, và, trong hầu hết các trường hợp, chúng không quay trở lại. Các tế bào trong khối u lành tính không lan ra các phần khác của cơ thể. Các khối u ác tính là ung thư. Các tế bào trong những khối u này có thể xâm nhập vào các mô lân cận và lan ra các phần khác của cơ thể. Sự lây lan của ung thư từ một phần của cơ thể đến phần khác được gọi là di căn.
Ung thư có thể bắt đầu tại bất cứ chỗ nào trong cơ thể. Nơi bắt đầu có thể là vú, phổi, kết tràng, và kể cả máu. Thí dụ, ung thư bắt đầu ở vú được gọi là ung thư vú, ung thu bắt đầu từ ở dạ dày thì gọi là ung thu dạ dày. Và khi tế bào ung thư lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể thì gọi là di căn. Thí dụ: tế bào ung thư trong vú có thể đi vào xương và tăng trưởng tại đó. Ung thư luôn luôn được đặt tên theo chỗ bắt đầu. Vì vậy, khi ung thư vú lan tới xương (hoặc bất cứ nơi nào khác) thì vẫn gọi là ung thư vú. Sẽ không gọi là ung thư xương, trừ khi bệnh bắt đầu tại xương.
Các dấu hiệu và triệu chứng nên chú ý của ung thư vú:
Dấu hiệu phổ biến nhất của ung thư vú là cục u. Có thể cục u sẽ không gây đau. Cục này có thể ở dạng cứng, di chuyển nhưng đôi khi lại dễ đau và mềm. Nếu có bất cứ cục u vú nào mới hay đáng khả nghi thì quý vị phải đến gặp bác sĩ để kiểm tra.
- Sưng, căng phù toàn bộ hoặc một phần vú (ngoại trừ lúc ra huyết hay mang thai)
- Thay đổi ở da vùng vú, chẳng hạn như đau rát, hoặc có chỗ lõm
- Đau bầu vú hoặc núm vú
- Núm vú thụt vào trong
- Núm vú hoặc da vùng vú bị ửng đỏ, đóng vảy, ngứa, hoặc dày hơn.
- Có dịch tiết không phải là sữa (dịch vàng hay đỏ)
Ngoài sự thay đổi ở vú còn có những dấu hiệu khác như:
- Sụt cân (5kg/tháng) không rõ lý do.
- Đầy hơi. Đau bụng, đau vùng chậu, cảm giác mau no.
- Biến đổi tuyến vú. Nếu nhìn thấy sự thay đổi của núm vú hoặc nếu nhận thấy đầu vú có tiết dịch (nhưng không đang cho con bú)
- Rong kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt.
- Thay đổi của da.
- Nuốt khó.
- Chảy máu ở những vị trí bất thường (trong nước tiểu/phân).
- Đau bụng lâm râm và trầm cảm.
- Khó tiêu.
- Thay đổi ở miệng.
- Đau đớn mơ hồ cũng có thể là triệu chứng sớm của một số bệnh ung thư
- Thay đổi ở các hạch bạch huyết (sưng/có khối u ở cách hạch bạch huyết dước nách/cổ).
- Sốt, thay đổi màu da hoặc màu của phân.
- Mệt mỏi kéo dài.
- Ho kéo dài.
Làm sao có thể ngăn chặn và tranh đấu lại ung thư vú?
- Thay đổi những yếu tố mà mình có thể làm được
- Ăn uống và tập thể dục để có thân hình cân đối.
- Tập thể dục ít nhất 30-40 phút mỗi ngày và ít nhất 5 ngày/tuần
- Không uống rượu hơn 1 ly/ngày
- Nếu trên 40 tuổi, cần phải có khám ngực mỗi năm
- Đến gặp bác sĩ và nói chuyện với bác sĩ về nguy hiểm của ung thư vú
- Chia sẽ với bác sĩ về lịch trình ung thứ vú nếu có trong gia đình
Những phương thức ngăn ngừa
- Tự kiểm tra vú hàng tháng.
- Có bác sĩ kiểm tra hàng năm nếu ngoài 40 tuổi, hoặc 35 tuổi nếu có tiền sử gia đình.
- Chụp quang tuyến vú mỗi năm từ 40 tuổi trở lên:
– Sẽ phát hiện khối u nhỏ hoặc bác sĩ phát hiện trong lúc kiểm tra vú cho quí vị.
– Vài khối u nhỏ đến nổi chỉ có khám quang tuyến vú mới phát hiện ra chúng.
Phải chăng có các loại ung thư vú khác nhau?
Có nhiều dạng ung thư vú nhưng có hai dạng chính của ung thư vú: lan tràn và trú định. Các khối u vú có thể là một dạng duy nhất của ung thư vú, hay là kết hợp của của các loại, hoặc một hỗn hợp của bệnh ung thư trú định hay là lan tràn.
- DCIS [Ductal Carcinoma In Situ] (Caxinom Tiểu Quản Trú Định)
DCIS là dạng phổ biến nhất của ung thư vú lúc mới bắt đầu. Các khối u hình thành trong các tế bào của tuyến sữa, nơi mang sữa đến núm vú, hay còn gọi là tiểu quản. Đối với trường hợp DCIS, các tế bào ung thư chỉ phát hiện bên trong cái tiểu quản. Các tế bào này không lan rộng qua thành tiểu quản và xâm nhập mô vú gần đó. Các cơ hội điều trị thành công cao và gần như mọi phụ nữ bị DCIS đều có thể trị lành.
- LCIS [Lobular Carcinoma In Situ] (Caxinom Tiểu Thùy Trú Định)
Thông thường, LCIS không phải là ung thư, xảy ra trong tiểu thùy, đó là những tuyến sản xuất sữa. Trường hợp này bắt đầu tại các tuyến tạo sữa nhưng không tăng trưởng xuyên qua thành vách của tuyến.
Đa số chuyên gia ung thư vú đều cho rằng LCIS không tiếp tục tiến triển thành ung thư vú.
Nhưng quả thật phụ nữ bị LCIS sẽ có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Khoảng một trong 10 trường hợp ung thư vú là ung thư tiểu thùy xâm lấn. Nếu quý vị bị LCIS thì phải rọi khám vú mỗi năm.
Nhưng quả thật phụ nữ bị LCIS sẽ có nguy cơ ung thư vú cao hơn. Khoảng một trong 10 trường hợp ung thư vú là ung thư tiểu thùy xâm lấn. Nếu quý vị bị LCIS thì phải rọi khám vú mỗi năm.
- IDC [Invasive Ductal Carcinoma] (Caxinom Tiểu Quản Lan Tràn)
IDC đôi khi còn được gọi là ung thư tiểu quản tuyến vú xâm nhập, là loại phổ biến nhất của ung thu vú. Trường hợp này bắt đầu tại nhũ quản của vú và tăng trưởng xuyên qua thành tiểu quản. Kế đó bệnh có thể xâm nhập vào mô mỡ của vú. Khoản 80% của tất cả các bệnh ung thư vú là dạng ung thư xâm lấn (lan tràn) và dạng ung thư này cũng có thể lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), hơn 180.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ phát hiện mình bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Hầu hết trong số họ được chẩn đoán bị ung thư tiểu quản lan tràn.
Mặc dù ung thư tuyến vú lan tràn có thể ảnh hưởng đến phụ nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn khi phụ nữ lớn tuổi. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 tuổi hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu quản lan tràn cũng ảnh hưởng đến nam giới.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society), hơn 180.000 phụ nữ ở Hoa Kỳ phát hiện mình bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Hầu hết trong số họ được chẩn đoán bị ung thư tiểu quản lan tràn.
Mặc dù ung thư tuyến vú lan tràn có thể ảnh hưởng đến phụ nữ ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn khi phụ nữ lớn tuổi. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 tuổi hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu quản lan tràn cũng ảnh hưởng đến nam giới.
- ILC [Invasive Lobular Carcinoma] (Caxinom Tiểu Thùy Lan Tràn)
Trường hợp ung thư vú này bắt đầu ở tuyến sữa (tiểu thùy), là loại phổ biết thứ hai của ung thư vú sau ung thư tiểu quản lan tràn. Theo Hiệp hội Ung thu Hoa Kỳ, hơn 180.000 phụ nữ phát hiện mình bị ung thư vú lan tràn mỗi năm. Khoản 10% của tất cả các bệnh ung thư vú lan tràn là Ung thư tiểu thùy lan tràn. Bệnh có thể lan rộng tới những bộ phận khác của cơ thể.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ , khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu thùy lan tràn có xu hướng cho phụ nữ ở độ 60 tuổi hơn bệnh ung thư tiểu quản lan tràn xảy ra ở giữa 50s.
Một số nghiên cứu đã cho thấy rằng việc sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong và sau thời kỳ mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ của ung thư tiểu thùy lan tràn.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ , khoảng hai phần ba số phụ nữ là 55 hoặc lớn hơn khi họ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú lan tràn. Ung thư tiểu thùy lan tràn có xu hướng cho phụ nữ ở độ 60 tuổi hơn bệnh ung thư tiểu quản lan tràn xảy ra ở giữa 50s.
Một số nghiên cứu đã cho thấy rằng việc sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong và sau thời kỳ mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ của ung thư tiểu thùy lan tràn.
Cái loại Ung thư Vú ít phổ biến:
- IBC [Inflammatory Breast Cancer ] (Ung Thư Vú Dạng Viêm)
- Ung thư vú dạng viêm là dạng ung thư vú hiếm thấy. Theo Viện Ung thư Quốc gia , khoảng 1-5% của tất cả các trường hợp ung thư vú ở Hoa Kỳ là ung thư vú viêm. Thường gặp nhất là trường hợp không có cục u hoặc ung bướu. IBC làm cho da ở vùng vú có màu đỏ và cảm thấy nóng ấm. Có thể da sẽ dày lên và lỗ chỗ - nhìn giông giống như vỏ cam. Bầu vú có thể to hơn, cứng hơn, nhạy đau, hoặc bị ngứa.
Vì không có cục u nên có thể sẽ không thấy IBC trên hình rọi khám vú. Sẽ khó có thể phát hiện IBC từ sớm. Bệnh này dễ có nguy cơ lan rộng và gây hậu quả tệ hại hơn so với ung thư tiểu quản hay tiểu thùy lan tràn.
IBC có xu hướng phát triển và lây lan nhanh chóng, với các triệu chứng xấu đi trong vài ngày hoặc thậm chí vài giờ. Điều quan trọng là nhận ra các triệu chứng và tìm kiếm sự điều trị kịp thời. Mặc dù ung thư vú viêm là một bệnh ung thư chuẩn đoán nghiêm trọng, hãy nhớ rằng phương pháp điều trị hiện nay là tốt hơn lúc trước rất nhiều.
IBC có xu hướng phát triển và lây lan nhanh chóng, với các triệu chứng xấu đi trong vài ngày hoặc thậm chí vài giờ. Điều quan trọng là nhận ra các triệu chứng và tìm kiếm sự điều trị kịp thời. Mặc dù ung thư vú viêm là một bệnh ung thư chuẩn đoán nghiêm trọng, hãy nhớ rằng phương pháp điều trị hiện nay là tốt hơn lúc trước rất nhiều.
Độ tuổi trung bình lúc chẩn đoán ung thư vú viêm ở Hoa Kỳ là 57 tuổi đối với phụ nữ da trắng và 52 cho phụ nữ Mỹ gốc Phi. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, ung thư vú viêm là phổ biến hơn ở phụ nữ Mỹ gốc Phi. Một nghiên cứu năm 2008, cho thấy rằng tình trạng lên cân làm cho một người có nhiều khả năng để phát triển IBC. Cũng giống như các hình thức khác của bệnh ung thư vú, IBC cũng có thể ảnh hưởng đến nam giới.
· Triple-Negative Breast Cancer (Ung thư vú 3 âm):
Báo cáo bệnh lý của bạn có thể nói rằng các tế bào ung thư vú xét nghiệm âm tính với thụ thể estrogen ( ER- ) , thụ thể progesterone ( PR ) , và HER2 ( HER2- ). Những loại ung thư vú có xu hướng lây lan nhanh hơn và không đáp ứng với điều trị nội tiết tố hoặc các loại thuốc nhắm mục tiêu thụ HER2.
· Ung thư vú tái phát:
Ung thư vú tái phát là ung thư đã trở lại sau khi bị ung thư và không bị phát hiện trong một thời gian. Nó có thể xảy ra trong các mô vú còn lại hoặc tại các địa điểm khác như phổi, gan, xương và não. Mặc dù những khối u ở những vị trí mới, chúng vẫn được gọi là ung thư vú.
Làm sao bác sĩ biết tôi có bị ung thư vú hay không?
Những thử nghiệm có thể sẽ thực hiện
Rọi khám vú là cách tốt nhất để sớm phát hiện ung thư vú. Sẽ khám vú để tìm những thay đổi ở núm vú hoặc da vùng vú. Kiểm tra hạch bạch huyết dưới nách và trên xương đòn của quý vị. Hạch bạch huyết sưng phù hay cứng có thể cho biết ung thư vú đã lan rộng.
Nếu các dấu hiệu đều trỏ vào ung thư vú, thì sẽ thử nghiệm thêm. Sau đây là một vài thử nghiệm quý vị có thể phải trải qua:
- Rọi khám vú: Thường dùng thể thức rọi khám để sớm phát hiện ung thư vú, nhưng cũng có thể sử dụng cách này để hiểu rõ thêm về bệnh trạng vú có thể có.
- Rọi MRI: MRI sử dụng sóng vô tuyến và nam châm cực để hiểu rõ thêm về kích thước ung thư và tìm bất cứ dạng ung thư nào khác tại vú.
- Siêu âm vú: Siêu âm không thay thế thể thức MRI, nhưng có thể giúp bác sĩ biết cục cộm là u nang hoặc u bướu, và có thể gây ung thư hay không.
- Rọi hình tiểu quản: Đôi khi thử nghiệm này cũng giúp phát hiện nguyên nhân tạo thành dịch tiết ở núm vú. Muốn thực hiện thử nghiệm, bác sĩ sẽ đặt một ống nhựa rất mỏng vào tiểu quản ở núm vú. Một lượng nhỏ "chất màu" được cho vào tiểu quản. Chất này tạo đường nét hình dạng tiểu quản dưới quang tuyến X và cho thấy có ung bướu bên trong tiểu quản hay không.
- Khám dịch tiết từ núm vú: Nếu có chất lỏng rỉ ra từ núm vú của quý vị thì sẽ gởi chút ít chất này tới phòng thí nghiệm (lab). Sẽ quan sát chất dịch dưới kính hiển vi để xem có bất cứ tế bào ung thư nào không.
- Sinh thiết vú Khi sinh thiết, bác sĩ trích lấy một mẩu mô nhỏ để quan sát dưới kính hiển vi. Sẽ thực hiện sinh thiết khi thử nghiệm cho thấy có lẽ quý vị đã bị ung thư. Sinh thiết là cách duy nhất để biết chắc chắn quý vị có bị ung thư hay không.
Có nhiều dạng sinh thiết. Nên hỏi bác sĩ xem quý vị cần làm loại nào. Mỗi dạng đều có những ưu điểm và nhược điểm. Lựa chọn dạng sử dụng còn tùy vào trường hợp riêng của quý vị.
Đôi khi cần phải giải phẫu để cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần cục u. Điều này thường được thực hiện tại bệnh viện, và có gây tê tại chỗ. Nghĩa là quý vị vẫn còn tỉnh nhưng vú sẽ bị tê. Có thể cũng sẽ cho dược phẩm để làm quý vị thấy buồn ngủ.
Tại sao là phân cấp giai đoạn ung thư vú lại quan trọng?
Xác định các giai đoạn sẽ giúp xác định cách tốt nhất để ngăn chặn và loại bỏ các bệnh ung thư vú.
Làm thế nào là giai đoạn xác định?
Phân cấp ung thư vú được dựa trên các yếu tố sau:
· Kích thước của khối u trong vú
· Số lượng hạch bạch huyết bị ảnh hưởng
· Các hạch bạch huyết gần được tìm thấy dưới cánh tay , được gọi là vùng nách
· Dấu hiệu chỉ hay không ung thư ung thư vú đã xâm lấn các cơ quan khác trong cơ thể
Nếu ung thư vú đã di căn, hoặc di căn, bằng chứng được thể tìm thấy trong xương, gan, phổi, hoặc não .
Giai đoạn 0 & 1
Giai đoạn thấp nhất đại diện cho việc phát hiện sớm nhất của sự phát triển ung thư vú . Ở giai đoạn 0 và 1, các tế bào ung thư được giới hạn trong một khu vực rất hạn chế, ung thư còn nhỏ và chưa lan rộng.
Giai đoạn 2 ( II ) và Giai đoạn 2A ( IIA )
Giai đoạn 2 ung thư vú vẫn còn trong giai đoạn đầu, nhưng có bằng chứng cho rằng ung thư đã bắt đầu phát triển, lây lan. Nó vẫn còn được chứa vào vùng ngực và thường điều trị rất hiệu quả.
Giai đoạn 3 ( III ) A, B , và C
Giai đoạn 3 bệnh ung thư vú được coi là ung thư đã lâu hơn và với bằng chứng của ung thư xâm lấn các mô gần xung quanh của vú.
Giai đoạn 4 ( IV )
Giai đoạn 4: ung thư vú cho thấy ung thư đã lan rộng ra khỏi vú đến các khu vực khác của cơ thể.
Tôi cần phải theo loại trị liệu nào?
Có nhiều cách điều trị ung thư vú, nhưng nói chung có 2 dạng chữa trị chánh. Đó là trị liệu tại chỗ và trị liệu cho toàn bộ cơ thể.
Phẫu thuật và chiếu xạ chỉ dùng để trị ung bướu. Những phương pháp này không ảnh hưởng đến phần còn lại của cơ thể. Điều này gọi là trị liệu tại chỗ.
Những cách điều trị như hóa học trị liệu và liệu pháp nội tiết tố sẽ phát huy khắp toàn bộ cơ thể. Phương pháp này có thể truy lùng tế bào ung thư ở bất kỳ nơi đâu trong cơ thể. Đó gọi là chữa trị toàn thân.
Cách điều trị ung thư vú phù hợp nhất cho quý vị còn tùy vào những điều sau đây:
- Tuổi của quý vị
- Bất cứ bệnh trạng nào khác quý vị đang có
- Giai đoạn và cấp độ ung thư của quý vị
- Cơ may dạng chữa trị này đủ sức trị lành bệnh ung thư của quý vị, hoặc có hữu ích gì khác
- Mức độ quý vị chịu đựng những phản ứng phụ xuất hiện khi chữa trị
Phẫu thuật trị ung thư vú
Đa số phụ nữ bị ung thư vú đều trải qua một số dạng phẫu thuật. Có một vài dạng giải phẫu là cắt bỏ u vú, cắt bỏ vú, và cắt bỏ hạch bạch huyết ở nách.
Lựa chọn giữa cắt bỏ u vú và cắt bỏ vú
Cắt bỏ u vú còn gọi là phẫu thuật bảo toàn vú. Ưu điểm của cắt bỏ u vú là có thể giữ lại hầu hết bầu vú. Nhược điểm của điều này: ắt hẳn bệnh nhân sẽ phải trải qua xạ trị sau phẫu thuật. Nhưng một vài phụ nữ đã qua thủ thuật cắt bỏ vú cũng cần được chiếu xạ vào vùng vú.
Xạ trị
Chiếu xạ nghĩa là dùng chùm tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Có thể sử dụng trị liệu này để tiêu diệt bất cứ tế bào ung thư nào còn sót trong vú, tại thành ngực, hoặc ở vùng nách sau khi giải phẫu.
Có 2 cách để thực hiện liệu pháp chiếu xạ. Có thể chiếu xạ vào vú từ máy móc đặt bên ngoài cơ thể. Quý vị có lẽ đã nghe nói về điều này dưới tên gọi chiếu xạ bằng chùm tia ngoài. Và cũng có thể đặt thẳng các hạt phóng xạ vào mô vú ở kế cạnh vùng ung thư thay vì nhắm chùm tia chiếu xạ từ bên ngoài cơ thể vào mục tiêu. Điều này gọi là liệu pháp cận phóng xạ.
Hóa học trị liệu (hay hóa liệu pháp)
Hóa học trị liệu nghĩa là sử dụng thuốc để chống lại ung thư. Có thể cho dược phẩm qua gân máu hoặc uống dưới dạng viên. Các loại thuốc này đi vào máu và lan truyền khắp cơ thể. Hóa học trị liệu được thực hiện theo chu kỳ hay chu trình. Tiếp theo sau mỗi chu trình điều trị là một quãng tạm nghỉ vài tuần lễ. Sẽ dùng ít nhất 2 dược phẩm chữa trị trong hầu hết thời gian. Quá trình điều trị thường kéo dài nhiều tháng.
Bệnh nhân vẫn thường lo lắng về các phản ứng phụ của hóa học trị liệu. Phương pháp này có thể làm cho quý vị cảm thấy mệt mỏi, thấy khó chịu ở bao tử, và bị rụng tóc. Nhưng những vấn đề rắc rối này sẽ trở lại bình thường sau khi kết thúc chữa trị. Vì vậy, nếu tóc của quý vị đã rụng thì cũng sẽ mọc lại.
Liệu pháp nội tiết tố
Estrogen là nội tiết tố nữ được cơ thể tạo ra cho tới khi quý vị đạt đến giai đoạn thay đổi trong cuộc đời, và sau thời điểm đó thì chỉ tạo ra một lượng ít hơn rất nhiều. Estrogen làm cho một vài dạng ung thư vú tăng trưởng mạnh hơn. Vì lý do đó, ngăn chận ảnh hưởng của estrogen hoặc hạ thấp mức estrogen cũng là cách điều trị một số dạng ung thư vú.
Tamoxifen là loại thuốc ngăn chận estrogen thường dùng nhất. Dược phẩm này được uống hàng ngày dưới dạng viên. Trong đa số trường hợp, bệnh nhân sẽ dùng tamoxifen trong 5 năm sau khi trải qua phẫu thuật. Thuốc này hạ thấp xác suất tái phát ung thư ở một vài phụ nữ. Cũng có thể sử dụng tamoxifen để điều trị tình trạng ung thư vú đang lan rộng, và để giảm thiểu tỷ lệ ung thư vú ở phụ nữ rất dễ có nguy cơ bị bệnh này. Còn có nhiều dược phẩm và cách thức khác với mục đích hạ thấp estrogen để chống lại ung thư vú. Nên yêu cầu bác sĩ trình bày rõ về bất cứ loại thuốc nào đã trao cho quý vị.
Làm cách nào để tìm hiểu thêm?
Bài viết này đã lấy tài liệu trong những trang web sau đây. Xin mời quí vị vào những trang web này để nghiên cứu thêm.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Tìm kiếm ra bệnh sớm thì sự chữa trị sẽ có kết quả tốt đẹp hơn nhiều. Chúng tôi xin mạo muội chia sẻ với quí vị những điều tìm thấy ở trên đây. Hầu mong quí vị phụ nữ chúng ta để ý đến sức khỏe của mình một chút.
Chúc quí vị sức khỏe!!
Hải Châu và Tường Vi
12-2014
No comments:
Post a Comment