Thursday, March 3, 2016

LÝ THÁI BẠCH (TRƯỜNG CANH * KIM TINH)

    shared 

    http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/ttonv.htm

    Đức Lý Đại Tiên Trưởng

    Nhứt Trấn Oai Nghiêm

    Đức Lý Thái Bạch là một vị Đại Tiên Trưởng (vào hàng Phật vị), thọ lịnh Đức Chí Tôn làm Đệ Nhứt Trấn Oai Nghiêm cầm quyền Tiên giáo thời Tam Kỳ Phổ Độ, kiêm nhiệm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Giáo Tông của Đạo Cao Đài.
    Trong một kiếp giáng trần ở nước Trung Hoa, Ngài sanh năm 701 đời vua Võ Tắc Thiên (Võ Hoàng Hậu của vua Đường Cao Tông), tại huyện Xương Minh đất Tây Thục. Bà mẹ của Ngài nằm mộng thấy sao Thái Bạch (tức sao Trường Canh hay Kim Tinh) rơi vào lòng Bà mà sanh ra Lý, nên đặt tên là Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch.
    Lý Bạch có dung nhan đẹp đẽ, cốt cách thanh kỳ, 10 tuổi đã đọc được sách của Bách gia chư tử, nhiều người khen là kỳ tài. Năm 15 tuổi, vừa học kiếm thuật vừa luyện văn chương, mở miệng thành thơ, ai nấy đều cho là Tiên dưới thế, nên gọi là Lý Trích Tiên.
    Ngài thường đến Trúc Khê cùng với 5 vị là : Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Trương thúc Minh, Đào Miện, tối ngày uống rượu ngâm thơ, mang tên là nhóm Trúc Khê Lục Dật.
    Đức Lý Thái Bạch lấy hiệu là Thanh Liên Cư sĩ.
    Bản tánh thích thơ và rượu, chẳng thiết tha đến danh lợi quyền, chỉ mong du ngoạn khắp danh lam thắng cảnh.
    Năm 30 tuổi thành gia thất nhưng vẫn ôm mộng hải hồ. Nghe đồn quận Ô Trình đất Hồ Châu có thứ rượu tuyệt ngon, Ngài chẳng quản đường xa ngàn dặm, lần đến nơi, lên lầu gọi rượu uống tràn. Khi đó, Tư Mã Hồ Châu là Giả Diệp đi qua, nghe tiếng Lý Bạch ngâm thơ vang trên lầu, sai người hỏi xem ai ? Lý Bạch liền đáp bằng 4 câu thơ :
      Thanh Liên Cư sĩ, Tiên trần giới,
      Quán rượu ba mươi tuổi chẳng cầu.
      Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi,
      Như Lai Kim túc ấy thân sau.
    Giả Diệp nghe, giật mình hỏi :
    - Có phải Lý Trích Tiên ở đất Thục đó chăng ?
    Rồi Giả Diệp ân cần mời Lý Bạch về tư dinh đàm đạo, thơ rượu suốt 10 ngày và thành thật khuyên :
    - Lấy tài cao của túc hạ thì đoạt bào tía đai xanh dễ như nhặt cọng cỏ, tại sao không đến Trường An dự khoa thi sắp tới ?
    Nét mặt chán chường, Lý Bạch đáp :
    - Triều chánh thối nát, kẻ khéo nịnh thì được chức lớn, người đút lót nhiều thì được đậu cao. Vì vậy, Bạch nầy lang thang bầu rượu túi thơ, tránh bực mình trước bọn khảo quan dốt nát mà cứ làm ra ta đây là Thần Thánh, nhai đi nhai lại mấy chữ sáo của cổ nhân, đóng khung tư tưởng và tình cảm, trong đáy giếng nông cạn mà cứ tưởng là mênh mông biển cả.
    Tiếc cho một tài năng quán thế mà chưa có chỗ dùng, Giả Diệp cũng rán khuyên :
    - Tuy thế, cái danh chói lọi của túc hạ ai mà không biết, cứ đến Trường An, lo gì không có người biết mình mà tiến cử.
    Lý Bạch rất cảm động với tấm chơn tình của Giả Diệp, bèn từ giã đi Trường An, Lý Bạch đến Cung Tử Cực du ngoạn thì gặp Hạ Tri Chương, quan Hàn Lâm Học Sĩ trong triều. Khi xưng tên họ thì cả 2 đều mộ danh nhau. Hạ Tri Chương rước Lý Bạch về nhà kết làm anh em, thù tạc tương đắc.
    Khoa thi sắp mở, Hạ Tri Chương bảo Lý Bạch :
    - Mùa Xuân năm nay mở khoa thi, quan Chủ Khảo Nam Tỉnh là Thái Sư Dương Quốc Trung, anh ruột của Dương Quí Phi, Giám Sát là quan Thái Úy Cao Lực Sĩ. Đó là một bọn tham ô điển hình của thời đại. Hiền đệ không có vàng bạc để đút lót, lại không chịu cúi lòn bọn tiểu nhân thì làm thế nào đạt được mục đích, mặc dầu văn tài của Hiền đệ xuất chúng. Tôi có quen biết 2 người ấy, để tôi viết một bức thơ tiến cử Hiền đệ, may ra họ nể tình tôi mà để cho Hiền đệ có dịp thi thố sở học bình sanh của mình.
    Dương Quốc Trung xem thơ của Hạ Tri Chương liền nói với Cao Lực Sĩ :
    - Không biết Hạ Tri Chương nợ Lý Bạch bao nhiêu vàng bạc mà lại viết thơ suông cho bọn mình. Thực cái bọn thi nhân mơ mộng ấy không hiểu gì về nhơn tình thế sự. Đến ngày nhập trường thi, cứ thấy quyển nào đề tên Lý Bạch là đánh hỏng, chẳng cần biết văn hay văn dở.
    Đến ngày thi, quan Chủ Khảo ra đề. Lý Bạch xem qua, liền vẩy bút là xong bài, đem lên nộp. Dương Quốc Trung tiếp lấy xem, thấy đề tên là Lý Thái Bạch, liền loạn bút son ngang dọc, đánh rớt ngay không thương tiếc, lại còn bỉ mặt Lý Thái Bạch :
    - Hạng thí sinh nầy chỉ đáng mài mực hầu người.
    Cao Lực Sĩ lại a dua thêm :
    - Thứ văn chương bã mía ấy chỉ đáng tháo giày xỏ tất cho người.
    Hai người nói xong truyền lính tống cổ Lý Bạch ra khỏi trường thi.
    Lý Bạch rất phẫn uất, về nhà phàn nàn với Hạ Tri Chương và thề rằng : Nếu sau nầy đắc chí sẽ bắt Thái Sư Dương Quốc Trung mài mực, Thái Úy Cao Lực Sĩ tháo giày thì mới hả dạ.
    Hạ Tri Chương rất ân hận, vì chẳng những không giúp được Lý Bạch mà còn làm cho 2 tên tham quan nghi ngờ mà xử nhục Lý Bạch, nên hết lời an ủi khuyên lơn. Từ đó, Hạ Tri Chương không đá động gì tới việc thi cử, sợ khơi dậy nỗi phẫn uất của Lý Bạch. Hai người cứ uống rượu ngâm thi làm vui.
    Thời gian thấm thoát trôi qua, bỗng một hôm có Sứ Thần Phiên quốc đưa thư đến triều đình. Vua Đường Huyền Tôn (thường gọi là Đường Minh Hoàng) sai Hạ Tri Chương nhận quốc thư và tiếp đãi Sứ giả. Khi mở quốc thư ra đọc thì không một ai biết đọc một chữ nào cả. Vua Đường triệu tập toàn thể các Đại Học Sĩ và triều thần để xem ai biết được thứ chữ Phiên đó. Cả triều thần đều nín lặng.
    Vua Đường Huyền Tôn nổi giận phán :
    - Trong triều có bao nhiêu người bảng vàng bia đá, mang lộc nước ơn vua, mà không ai biết tỏ lòng trung khi lâm đại sự. Chẳng lẽ bằng nầy cẩm bào hoa hốt mà không có lấy một người học rộng biết nhiều để gánh vác cùng Trẫm hay sao ? Lá thơ nầy không đọc được thì biết phúc đáp ra sao ? Đến nỗi bị Phiên bang chê cười sỉ nhục thì Trẫm còn dùng các khanh để làm gì ! Hạn cho 6 ngày, nếu không tìm ra người nào đọc được Phiên thư thì Trẫm sẽ cách chức hết thảy, đuổi tuốt về vườn.
    Thánh chỉ ban ra, các quan đứng lặng như phỗng đá, mặt mày tái mét, nhìn nhau ngơ ngác.
    Hạ Tri Chương làm quan Hàn Lâm Học Sĩ trở về dinh, mặt mày buồn bã, kể lại cho Lý Bạch nghe mọi việc vừa mới xảy ra ở triều đình. Lý Bạch nghe xong, thủng thỉnh nói :
    - Nếu khoa thi trước, Bạch nầy không bị bọn Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ làm nhục đánh hỏng thì triều đình hôm nay đâu bị cái nhục nầy.
    Nghe vậy, Hạ Tri Chương mừng quýnh hỏi lại :
    - Hiền đệ đọc được chữ Phiên đó hả ?
    Lý Bạch hững hờ đáp :
    - Đâu có gì khó, đệ đã biết thứ chữ Phiên ấy từ nhỏ. Hôm sau, Hạ Tri Chương đi chầu thật sớm, đợi 3 hồi chuông Cảnh Dương và trống Long Phung xong, Đường Minh Hoàng ra ngự điện, Hàn Lâm Học Sĩ Hạ Tri Chương liền bước ra quì tâu :
    - Muôn tâu Thánh Thượng, hiện ở nhà thần có một người bạn tên là Lý Thái Bạch, học rộng biết nhiều, có thể đọc được Phiên thư, xin Bệ hạ triệu đến.
    Minh Hoàng chuẩn tấu, sai sứ đến phủ triệu Lý Bạch.
    Lý Bạch gởi lời sứ giả về tâu : "Thần là kẻ áo vải phương xa, kém tài kém đức, đâu dám phụng chiếu."
    Sứ về triều tâu lại, nhà vua hỏi Hạ Tri Chương :
    - Lý Bạch không phụng chiếu, không hiểu ý tứ ra sao ?
    Hạ Tri Chương tâu bày :
    - Tâu Bệ hạ, chắc Lý Bạch nhớ cái nhục năm trước trong trường thi, bị khảo quan không xem bài mà đánh hỏng, đuổi ra khỏi trường. Nay áo vải vào triều, cái hận năm xưa vẫn còn đè nặng trong lòng con người tài hoa tuyệt thế ấy, xin Bệ hạ rộng ban cho y tất y sẽ phụng chiếu.
    Đường Minh Hoàng liền khâm tứ cho Lý Thái Bạch Tiến Sĩ Cập Đệ, ban cho bào tía đai vàng, hốt ngà, mão gấm để Lý Bạch vào chầu cho vẻ vang, rồi sai Hạ Tri Chương mang chiếu chỉ và đồ gia ban về cho Lý Bạch. Lý Bạch vâng lời, mặc triều phục vào, đi cùng Hạ Tri Chương vào chầu vua Đường và tạ ơn Thiên tử.
    Đường Minh Hoàng nhìn thấy Lý Bạch có phong độ khác phàm, như Thần Tiên giáng thế, nên có lòng yêu trọng, dụ rằng :
    - Nay có thư nước Phiên gởi đến, quần thần không ai hiểu được nên đặc triệu khanh vào để đọc thư và trả lời cùng Phiên quốc.
    Nói rồi sai Thị thần đem thư giao cho Lý Bạch. Lý Bạch mở thư ra, cao giọng đọc trước triều đình thật lưu loát. Đại ý vua Bột Hải đòi vua Đường dâng nạp nước Cao Ly, nếu không thì chúng khởi binh đánh chiếm.
    Minh Hoàng nghe xong cả sợ, hỏi văn võ triều thần :
    - Các quan có kế chi để chế ngự Phiên quốc ?
    Hạ Tri Chương liền tâu, xin hỏi Lý Bạch, may ra có diệu kế đối phó với Phiên bang.
    Lý Bạch liền tâu :
    - Việc nầy có đáng gì để Thánh Thượng lo âu. Ngày mai, xin triệu Sứ Phiên vào triều, thần sẽ đối Phiên sứ mà viết thơ phúc đáp theo tự tích của người Phiên, trong thư tỏ rõ sức mạnh của Thiên triều, đồng thời sỉ nhục chúng, rồi phủ dụ chúng, để bắt chúng phải phục tùng.
    Đường Minh Hoàng nghe vậy rất hài lòng, thấy rõ tài năng của Lý Bạch, liền phong Lý Bạch làm Hàn Lâm Học Sĩ, lại ban yến tại điện Kim Loan, truyền Lý Bạch được tự do chè chén, không cần bó buộc lễ nghi.
    Lý Bạch vui say thả cửa, say túy lúy, nhà vua phải bảo nội thị đỡ Lý Bạch vào nằm ở Thiên điện.
    Đầu canh năm hôm sau, Lý Bạch vẫn còn say, ngủ li bì. Minh Hoàng thăng điện, truyền nội thị bắt ngự trù nấu canh cá chua dã rượu, đem đến để ban cho Lý Bạch. Minh Hoàng chính tay trao đến cho Lý Bạch dùng. Bạch tạ ơn vua, dùng xong cảm thấy hết say, tinh thần sảng khoái.
    Lát sau, Sứ thần vào chầu. Lý Bạch tay cầm Phiên thư, đứng cạnh ngự tọa, cao giọng đọc hết lá thư, không nhầm một chữ. Phiên sứ thất kinh. Lý Bạch thay lời vua, dụ rằng :
    - Nhà ngươi là Sứ của một nước nhỏ, dám vô lễ với Thiên triều, Thánh Thượng lượng bể bao dung, không nỡ hỏi tội, sẽ có chiếu xuống phúc đáp cho vua nước ngươi biết đâu là phải, biết đâu là quấy, nhà ngươi cứ ở đó mà đợi lịnh.
    Minh Hoàng truyền đặt văn kỷ thất bảo cạnh ngự tọa, ban cho Lý Bạch cẩm đôn ngồi cạnh vua để thảo chiếu.
    Lý Bạch tâu :
    - Thần có một lời tâu, xin Bê hạ xá tội cuồng vọng.
    Đường Minh Hoàng liền chuẩn hứa :
    - Khanh cứ tâu bày, dù có lầm lỗi, Trẫm cũng không bắt tội. Lý Bạch phấn khởi tâu xin :
    - Trước thần vào thi bị Thái Sư Dương Quốc Trung và Thái Úy Cao Lực Sĩ xua đuổi. Nay thấy 2 người ấy tại triều, văn khí của thần bị bế tắc. Vậy cúi xin Bệ hạ sai Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày để thần được hùng tâm phấn khởi mà thảo chiếu thư làm cho Phiên vương phải bội phục mà triều cống.
    Minh Hoàng đã lỡ hứa, không làm sao được, đành phải chiều ý Lý Bạch. Thế là Lý Bạch trả được cái hận năm xưa, trong lòng rất hả hê khoái chí nhứt đời, ngạo nghễ ngồi trên cẩm đôn, nhìn Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy cởi giày, vểnh mặt múa bút, loáng một chốc đã xong tờ chiếu, dâng lên long án.
    Minh Hoàng thấy chữ viết trong tờ chiếu không khác chi Phiên thư, tuy miệng không nói ra, nhưng trong bụng rất bằng lòng nghĩ rằng : Con người tài hoa uyên bác đến bực nầy, dù bắt Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày, cũng không trách Trẫm được, rồi truyền Lý Bạch đọc chiếu cho Phiên sứ nghe.
    Minh Hoàng nghe đọc, văn chương trác tuyệt, ý tứ tân kỳ, tô điểm Thiên triều, hạ thị Phiên quốc, hùng tâm đởm lược, lấy làm vui sướng, truyền nội thị giao chiếu cho Phiên sứ. Phiên sứ nhận chiếu rất kinh sợ, không dám hó hé một lời, cúi đầu lạy tạ, lặng lẽ rút lui.
    Hàn Lâm Hạ Tri Chương đưa tiễn Sứ Phiên ra khỏi triều. Phiên sứ hỏi :
    - Quan thảo chiếu là hạng người nào mà khiến Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày ?
    Hạ Tri Chương liền đáp :
    - Người ấy họ Lý, tên là Thái Bạch, làm quan Hàn Lâm Đại Học Sĩ, là một vị Tiên Thượng giới giáng trần để giúp Thánh triều. Thái Sư và Thái Úy bất quá chỉ là kẻ hiền ở thế gian, tất phải phụng sự bậc Thần Tiên ở Thượng giới.
    Phiên sứ ghi nhớ mọi điều, trở về Phiên bang mà tâu trình các việc. Phiên Vương nghe sứ trở về tâu rõ các việc, rồi mở thư ra xem thì càng thêm sợ hãi. Thiên triều có Thần Tiên xuống giúp thì bao nhiêu vọng tưởng đều tiêu tan hết, bèn truyền viết biểu xưng thần, năm năm xin triều cống. Nhờ đó mà Minh Hoàng rất quí trọng Lý Bạch, ban cho Lý Bạch nhiều bạc vàng châu báu, nhưng Lý Bạch đều dửng dưng từ chối.
    - Bạc vàng châu báu không phải là sở nguyện của hạ thần, xin Thánh Thượng cho làm Vô Ưu Học Sĩ, du ngoạn, thi tửu một bầu, nghênh ngang vui thú.
    Đường Minh Hoàng biết Lý Bạch là người thanh cao, không dám cưỡng ép. Từ đó, vua thường ban yến, giữ Lý Bạch ngủ lại Long điện để bàn việc chính sự trong nước.
    Một ngày kia, Lý Bạch cỡi ngựa dạo chơi nơi đường phố Trường An, bỗng thấy một bọn đao phủ dẫn chiếc tù xa, hỏi ra mới biết viên tướng chịu tội là Quách Tử Nghi ở Tinh Châu. Lý Bạch biết họ Quách là một vị tướng tài ba, cần phải cứu nạn, liền chạy đến dặn bọn đao phủ tạm dừng xử quyết, chờ Lý Bạch vào triều trần tấu. Lý Bạch liền bay ngựa vào triều, yết kiến Minh Hoàng, cầu xin một đạo chỉ ân xá, rồi lại bay ngựa trở lại pháp trường, tuyên đọc chiếu ân xá Quách Tử Nghi và khuyến nhủ nên rán sức đái công chuộc tội.
    Tử Nghi lạy tạ ơn cứu mạng, rồi hỏi họ tên, được biết người vừa cứu mình là Lý Bạch.
    Dương Quí Phi là em ruột của Dương Thái Sư, thấy Minh Hoàng quá yêu mến Lý Bạch, thì đem lòng ghen ghét, thường tâu vua chê bai Lý Bạch kiêu ngạo, không giữ đúng lễ quân thần.
    Nghe Dương Quí Phi nói vậy, Đường Minh Hoàng không triệu Lý Bạch vào cung yến tiệc, mà cũng không giữ lại trong cung để bàn việc nước. Lý Bạch thấy vậy biết ngay rằng bọn Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ hiệp cùng Dương Quí Phi gièm pha với vua để tìm cách báo thù Lý Bạch.
    Mấy lần Lý Bạch tâu vua xin đi du ngoạn, nhưng vua Đường vẫn giữ lại không cho đi. Lý Bạch chỉ biết cùng 7 người bạn thân cùng nhau thơ rượu, chén tạc chén thù, ngâm thơ đàn hát, vui thú tháng ngày, nổi danh là ẨM TRUNG BÁT TIÊN, gồm : Lý Bạch, Hạ Tri Chương, Lý Thích Chi, Nhữ Vương Dương Tiến, Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Húc, và Tiêu Toại.
    Một ngày kia, Đường Minh Hoàng triệu Lý Bạch vào cung để phóng thích con phượng hoàng về nơi cỏ nội mây ngàn, non xanh nước biếc.
    - Trẫm thấy khanh tánh tình cao khiết, không thích ràng buộc chốn quan trường, nên Trẫm tạm cho khanh về quê vui thú, khanh có cần thứ gì, Trẫm sẽ ban cấp.
    Lý Bạch liền quì tâu :
    - Tâu Bệ hạ, thần cảm đội ơn đức của Bệ hạ, thần không cần gì ngoài một ít tiền để mua rượu, thơ rượu là nguyện vọng.
    Đường Minh Hoàng liền ban cho Lý Bạch một tấm Kim Bài, trên đó khắc chữ ngự phê vào một mặt : "Lý Bạch là Thiên hạ Vô Ưu Học Sĩ, đến đâu uống rượu thì công khố phải chi tiền, Phủ cấp ngàn quan, Huyện cấp năm trăm. Văn Võ quân dân ai thất kính sẽ bị khép tội không tuân chiếu."
    Nhà vua lại ban cho ngàn lạng vàng, bào gấm đai ngọc, yên vàng ngựa quí, và 12 người tùy tùng theo hầu Lý Bạch. Lý Bạch tạ ơn ông vua tri kỷ, rồi từ tạ. Minh Hoàng thân cắm 2 đóa hoa vàng lên mũ của Lý Bạch, thân tiễn 3 chung ngự tửu, truyền nội thị đỡ Lý Bạch lên ngựa ngay trước ngai vàng để đi ra khỏi triều môn. Đó là một ân huệ chưa từng có của thời phong kiến. Đường Minh Hoàng bùi ngùi trông theo bóng của Lý Bạch đến khuất mới lui vào trong nội điện.
    Trăm quan đưa rượu tiễn hành đến ngoài 10 dặm. Hạ Tri Chương và 6 bạn nữa đưa tiễn rượu thơ đến ngoài trăm dặm, viết mấy trăm bài thi, đưa tiễn suốt 3 ngày mà vẫn chưa nỡ dứt tình tri kỷ. Hạ Tri Chương là người buồn nhứt vì yêu Lý Bạch nhứt.
    Khi Lý Bạch về đến đất Thục, bạn bè quan viên hay tin đều đến thăm, thơ rượu xướng họa vui say. Hứa Phu nhân đón Lý Bạch, hân hoan nối lại khúc cầm đài của giai nhân và danh sĩ.
    Sau nửa năm sống ở quê nhà, Lý Bạch lại động lòng bốn phương, liền nói với vợ là muốn đi du ngoạn sơn thủy. Hứa Phu nhân rất buồn thảm, đau đớn nỗi chia ly, nhưng phải cố làm vui để tiễn chàng thi sĩ.
    Lần nầy, Lý Bạch không xênh xang trào phục, mà giả trang theo hàng Nho sĩ nghèo, dắt theo một đứa tiểu đồng, cỡi một con lừa tai vểnh để nghe thơ rượu ngâm vịnh dọc đường.
    Ngày kia đi đến huyện Hoa Âm, dân chúng than thở quan Huyện hà khắc nhũng lạm thối nát. Lý Bạch có ý cảnh tỉnh quan Huyện, liền cho lừa nghênh ngang thẳng vào Huyện đường, vói tay đánh 3 hồi trống, làm như không biết có Huyện quan đang xét việc trên công đường. Huyện quan nghe trống, nhìn ra thấy một người đang cỡi lừa thì giận lắm, sai lính lệ ra lôi cổ tống giam vào ngục và bắt khai cung. Ngục quan sai quăng giấy bút vào cho Lý Bạch khai, nếu không sẽ đánh cho một trận. Lý Bạch cười, lượm giấy bút viết luôn : " Người khai cung là Lý Bạch, quê ở Cẩm Châu, Hàn Lâm Học Sĩ, say rượu thảo hồi thơ, sứ Phiên sợ thất phách, Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy cổi giày, Kim Loan làm điện ngủ, thanh danh khét bốn phương, trước sân rồng lên ngựa, giữa huyện Hoa Âm, các ngươi là thứ gì mà không cho ta cỡi lừa ?"
    Ngục quan xem xong, hồn bay phách rụng, khấu đầu lạy Lý Bạch như tế sao, cầu xin tha tội. Lý Bạch cười bảo :
    - Việc nầy không can gì đến ngươi, hãy gọi quan Huyện tới đây nói rằng ta phụng chỉ tra xét tội tham nhũng của bọn ngươi.
    Ngục quan vội vàng mang tờ cung lên quan Huyện, thuật lại lời Lý Bạch. Tri Huyện hoảng sợ hết vía, chạy bay vào ngục, lạy van Lý Bạch, thỉnh Lý Bạch lên công đường để được nghe lời giáo huấn.
    Chờ các quan hành lễ xong, Lý Bạch móc Kim Bài của vua ban cho đặt lên bàn, cho các quan trong huyện xem rồi phủ dụ :
    - Lũ các ngươi ăn lộc nước, chịu ơn vua, tại sao còn vơ vét tài sản của dân, nếu không hối cải, ta theo Kim Bài mà xử đoán, các ngươi sẽ bị xử trảm cả lũ.
    Quan Huyện lạy như tế sao, nhận tội và xin khoan dung, hứa trở thành một vị quan thanh liêm gương mẫu.
    Tin nầy đồn đại ra khắp nơi, các quan địa phương khác đều tin là vua Huyền Tôn sai Lý Bạch đi các nơi tuần sát các quan, thăm hỏi dân tình, nên đều lo sợ, không dám làm điều bạo ngược với dân chúng.
    Nói về giặc An Lộc Sơn nổi lên đánh vào kinh đô làm vua Đường Huyền Tôn phải bỏ chạy vào đất Thục; còn Thái Tử Lý Hanh được quần thần thuyết phục ở lại chiêu tập binh mã đánh lại An Lộc Sơn.
    Thái Tử đến Linh Vũ rồi đưa hịch đi khắp nơi, thu thập những người trung nghĩa, tích thảo đồn lương, chuẩn bị phản công An Lộc Sơn. Các quan đồng tâu xin Thái Tử lên ngôi Hoàng Đế. Thái Tử bằng lòng, lên ngôi tại Linh Vũ, lấy hiệu là Túc Tôn, niên hiệu Chí Đức, tôn vua Huyền Tôn làm Thái Thượng Hoàng, tất cả các quan đều được thăng trật.
    Túc Tôn định dâng biểu cho Huyền Tôn thì chiếu của vua Huyền Tôn vừa tới, phong Thái Tử làm Đại Nguyên Soái, cầm binh đánh dẹp giặc An Lộc Sơn.
    Cuộc lên ngôi của Túc Tôn khi chưa có chiếu chỉ của vua cha bị nhiều người cho là bất hợp pháp, có nhà Nho lại nói : Nhân lúc khốn đốn, con cướp ngôi cha.
    Lúc đó, Vĩnh Vương Lý Lân (em của Thái tử Lý Hanh) đang trấn ở Giang Lăng thấy vậy không phục, nói rằng :"Thái Tử tự ý lên ngôi khi chưa có chiếu chỉ của Phụ Hoàng, thì ta đây cũng có quyền lên ngôi. Cả vùng Giang Lăng rộng lớn và trù phú thế nầy, sao ta không mưu lấy nghiệp riêng ?"
    Nói rồi, Lý Lân lên ngôi làm vua ở Giang Lăng, lập triều đình riêng, mở cửa chiêu hiền đãi sĩ.
    Nghe tin Lý Bạch là danh sĩ đang ẩn cư tại Lư Sơn, Lý Lân cho sứ giả đến mời. Lý Bạch nói :
    - Ta đã được vua Huyền Tôn phong làm Hàn Lâm Đại Học Sĩ, Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy cổi giày cho ta, say rượu ngủ tại Kim Loan điện, lên ngựa trước ngai vàng, đi uống rượu thì quan Phủ , Huyện phải trả tiền, danh vọng đến thế mà ta còn không màng, huống chi ra làm mưu thần cho một tên phản loạn triều đình,
    Nói xong, Lý Bạch đuổi sứ giả về.
    Lý Lân liền cho quân lính đến bắt cóc Lý Bạch đưa về Giang Lăng, chiêu dụ nhiều lần nhưng Lý Bạch nhứt định thà chịu chết chớ không nhận làm quan cho Lý Lân. Lý Lân tức giận, đem Lý Bạch giam vào ngục Tần Dương.
    Vua Túc Tôn, dẹp yên được giặc An Lộc Sơn, liền sai Hoài Nam Tiết Độ Sứ Cao Thích và Phó Sứ Lý Thành Vũ kéo quân đi hỏi tội Lý Lân ở Giang Lăng. Vĩnh Vương Lý Lân đại bại nên phải tự tử, còn Lý Bạch ở trong nhà ngục Tần Dương bị bắt giải về triều.
    Vua Túc Tôn định xử tội Lý Bạch, thì Phó soái Quách Tử Nghi vội viết biểu tâu rằng :
    " Lý Bạch là đại tài tử, lại là người có phẩm cách tuyệt vời. Xưa Thượng Hoàng từng ban yến mời Lý Học Sĩ ra làm quan, mấy lần Lý Bạch đều từ chối. Nay Lý Lân tiếm xưng, cho người đi bắt Lý Học Sĩ ép buộc làm quan, nhưng Lý Học Sĩ cương quyết từ chối, nên bị Lý Lân bắt giam tại Tần Dương. Thần nguyện đem tánh mạng của dòng họ nhà thần trên 100 người ra để bảo đảm việc nầy. Xin Bệ hạ đừng giết oan một người tài giỏi và trung hậu như Lý Học Sĩ."
    Vua Túc Tôn cho pháp ty tra xét thì quả đúng như lời tâu của Quách Tử Nghi, nên Túc Tôn tha cho Lý Bạch.
    Sau đó, vua Túc Tôn đi rước Thái Thượng Hoàng Đường Huyền Tôn nơi đất Thục trở về kinh đô Tràng An.
    Thượng Hoàng nói với Túc Tôn :
    - Hai tướng Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật đều có công lớn, nhưng công của Quách thì lớn hơn Lý nhiều. Việc thất bại vừa rồi không phải lỗi của Quách Tử Nghi mà bởi Quách Tử Nghi không được trọn quyền quyết định.
    Túc Tôn vâng mệnh, nên về sau phong thưởng cho Lý Quang Bật làm Thái Úy Trung Thư Lệnh, còn Quách Tử Nghi làm Phàn Dương Vương.
    Nhân đó, Thượng Hoàng nói :
    - Bây giờ, mới biết Lý Bạch có con mắt tinh đời : Chỉ có anh hùng mới biết anh hùng ! Nếu Lý Bạch không cứu Quách Tử Nghi lúc đó thì ai cứu được nhà Đường buổi nay ? Nói đúng hơn là Lý Bạch đã cứu nhà Đường ta đó.
    Vua Túc Tôn nghe Thượng Hoàng nói thế thì lấy làm ân hận vì đã đối xử không tốt với Lý Bạch.
    Sau vụ Lý Lân, Lý Bạch càng chán nãn sự đời. Từ đó, Lý Bạch thả một lá thuyền cùng bầu rượu túi thơ, du ngoạn Động Đình Hồ.
    Nột đêm trăng sáng tuyệt vời, thuyền đến ven sông Thái Trạch, khung cảnh huyền ảo, Lý Bạch ngồi lặng đầu thuyền, nhấp chén men say, hồn lâng lâng như bay bổng. Từ không trung có tiếng nhạc đưa đến, một con cá kình lớn nổi lên, Tiên đồng hiện ra giữa Trời, cầm phướn đến trước Lý Bạch, thưa : " Phụng lịnh Thượng Đế, xin rước Tinh Quân trở về ngôi cũ."
    Quan địa phương dâng biểu về triều, báo cáo sự việc Lý Thái Bạch thoát trần về Tiên.
    Năm đó là năm 762, Lý Thái Bạch thọ 61 tuổi. Vua Đường Túc Tôn dạy lập Đền thờ tại bờ sông đề là "Lý Trích Tiên Từ", ghi ngày kỷ niệm thoát trần, hằng năm cúng tế.
    Đức Lý Thái Bạch có giáng cơ cho một bài thi tóm tắt cuộc đời của Ngài như sau :
      LÝ BAÏCH (Noel 1925)Đường trào hạ thế hưởng Tam quan,
      Chẳng vị công danh, chỉ hưởng nhàn.
      Ly rượu trăm thi, lời vẫn nhắc,
      Tánh Tiên muôn kiếp, vốn chưa tàn.
      Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
      Đầy túi thi văn đổ chứa chan.
      Bồng đảo còn mơ khi bút múa,
      Tả lòng thế sự vẽ giang san.
      (TNHT)
    Đức Lý Thái Bạch giáng cơ cho biết quyền hành của Ngài mà Đức Chí Tôn đã giao trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qua bài thơ sau đây :
      Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
      Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
      Quyền năng vưng thuở Thiên triều,
      Càn Khôn Thế giới dắt dìu Tinh Quân.
      Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
      Cho đến Đường triều mới biến thân.
      Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
      Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
      Động Đình thi rượu đong muôn đấu,
      Bồng Đảo câu Tiên nắm một cần.
      Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
      Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân.

      Lý Thái Bạch

No comments:

Post a Comment