****
Shared http://niemphat.net/Luan/qvltksosao/phantu.htm
I- Phần Tự
Như thế tôi nghe, một thời Phật ở tại non Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá. Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc đại tỳ-khưu. Nơi chúng hội đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ-tát, trong ấy ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương là bậc thượng thủ.
Đây là đoạn duyên khởi, trước tiên nêu ra 6 điểm để thành tựu cho toàn kinh. Sáu điểm ấy cũng gọi là Lục chủng thành tựu :
1- "Như thế" bao hàm ý nghĩa Chứng Tín. Thật Tướng của các pháp xưa nay không dời đổi gọi là "Như", đúng với lý chơn thật mà nói ra gọi là "Thế". Lại Như Thế có nghĩa : Những lời sau đây hợp với lý như thật, và chính thuật giả là ngài A Nan đã thân nghe Phật nói đúng như vậy. Những lời ấy quyết định đáng tin. Đây gọi là điểm Tín Thành Tựu.
2- "Tôi nghe" là ngài A Nan tự trần thuật chính mình đã nghe những lời sau đây từ nơi kim khẩu của Phật nói ra. Ngài là bậc Ða Văn đệ nhất, thọ trì lời của Phật nói như nước rót vào bình không sai một giọt, lại là thị giả thường hầu cận đức Thế Tôn. Ngài có bổn phận thừa truyền giáo pháp của Như Lai. Nghe thế nào thì thuật lại thế ấy, chớ không phải tự mình ức thuyết. Theo chân lý, tất cả pháp đều không, cái ta cũng là hư huyễn; nhưng trong đây nói "Tôi", vì không có "Tôi" thì không ai "nghe", và nếu không người nghe ai sẽ truyền giáo pháp của Phật? Cho nên hai chữ "Tôi Nghe" chẳng qua là lời tùy thuận theo thế tục để truyền dương Phật Pháp vậy thôi. Điểm thứ hai này gọi là Văn Thành Tựu.
3- "Một thời" chỉ cho thời gian phát khởi ra sự giáo hóa. Đức Như Lai nói kinh gồm rất nhiều thời gian, không tiện và khó nỗi chỉ định ra, bởi thời tiết của mỗi địa phương có khi sai khác, nên gọi chung bằng lối giản tiện là "Một Thời". Lại "Thời" còn ám chỉ cho thời tiết nhân duyên, nếu chúng sanh chưa đến thời tiết nhân duyên được nghe pháp ấy, mà Phật nói sớm ra thì họ khó được lợi ích. Và nếu thuyết pháp sớm hay muộn không hợp thời tiết nhân duyên, tất phạm nhằm lỗi thời đảo. Điểm thứ ba đây gọi là Thời Thành Tựu.
4- "Phật" là chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni. Danh từ Phật ngoài ba nghĩa đã giải ở trên, còn có những nghĩa : Phá Phiền Não, Đại Danh Thinh, ( Bà Dà Bà: danh tiếng lớn). Phật cùng các hàng Bồ Tát, Thinh Văn đều là những bậc giác ngộ, song sự giác ngộ của Phật viên mãn cứu cánh hơn cả, nên cũng gọi là Đại Giác. Sở dĩ nêu ra chữ "Phật", vì trước khi nói kinh phải chỉ rõ ai là thuyết giả, là vị hóa chủ của Đại chúng. Đây là điểm Chủ Thành Tựu.
5- “Tại non Kỳ Xà Quật”: Kỳ Xà Quật (GrdhraKùta), Trung Hoa dịch là Linh Thứu, "Thứu" là chim kên kên. Có thuyết cho rằng đầu núi nầy giống hình kên kên; thuyết khác lại bảo nơi phía Nam của núi thường có loài chim kên kên tụ hợp về tại rừng Thi Đà, vì thế mới gọi là Thứu Phong hay Thứu Lãnh. Còn về chữ "Linh" thì có thuyết nói nơi ngọn núi này thường có bậc tiên thánh y trụ, hoặc nhiều linh thoại (điềm lành) hiện ra, thuyết khác lại bảo là đại ý ám chỉ cho loài chim kên kên có tánh linh. Các thuyết trên đều có thể đều đúng cả, nhưng dù đúng hay không cũng chẳng mấy quan hệ, duy có điểm xác thật là khí hậu ở non Thứu quanh năm luôn luôn mát mẻ, nên đức Phật và các đệ tử thường hay tịnh dưỡng tại nơi đây.
6- "Thuộc thành Vương Xá": Vương Xá tiếng Phạn gọi là La-Duyệt-Kỳ-Dà-La (Rajagrha), ý nghĩa chỉ cho chỗ cư xá của hàng vua chúa. Theo truyền thuyết, thì thuở xưa vua Quảng Xa được thần linh mách bảo rằng: muốn tìm nơi địa cảnh tốt thì nên du ngoạn ngoài thành, tất sẽ được gặp. Một hôm, nhân đi săn bắn vua đuổi theo con nai cùng chạy đến vùng núi Kỳ Xà Quật, thấy nơi đây phong quang, thanh tú, có rừng cây cao tốt, hoa đẹp suối trong, mới di cư tới bản địa và kiến lập thành quách, cung xá. Con cháu của vua kế thừa ý chí tổ phụ, đời đời vẫn định cư tại đây. Lại một truyền thuyết khác bảo: Thuở xưa nhân dân khi mới theo vua di cư vào thành ấy, nhà cửa người nào vừa cất xong cũng đều bỗng tự nhiên phát hỏa cháy tiêu tan cả, duy có cung thất của vua là không bị cháy. Dân chúng đem việc ấy tâu lên, vua bảo: "Từ đây về sau, nếu có ai cất nhà đều phải nói lớn lên: Tôi cất nhà này cho vua!" Mọi người y lời, quả nhiên nhà cửa không bị cháy. Do hai sự tích trên, thành này được mệnh danh là Vương Xá. Ðức Phật khi xuống thành Vương Xá thì hóa độ hàng tại tục, lúc lên đỉnh Thứu sơn lại thuyết pháp cho chúng xuất gia. Hai địa điểm trên đều có liên quan đến phần thuyết giáo của bản kinh. Và đây là thuộc về điểm Xứ Thành Tựu .
6- "Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc đại tỳ khưu": Trong 1250 vị đây gồm có 1.000 đệ tử của ba anh em ngài Ca Diếp và 250 đệ tử của hai ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên. Những người nầy là ban sơ là ngoại đạo thờ lửa, khổ nhọc tu hành rất lâu mà không đắc quả, đến khi gặp đức Như Lai mới được giải thoát. Do đó tất cả đều cảm thâm ân của Phật, nên thường theo làm kẻ tùy thị. "Tỳ Khưu" (Bhiksu) có nghĩa: Khất Sĩ, Bố Ma, Phá Ác, mà nghĩa “khất sĩ” đứng về phần chánh. Khất sĩ là kẻ trên xin giáo pháp của Phật để dưỡng huệ thân, dưới xin thức ăn của đàn việt để dưỡng nhục thân. Trước danh từ Tỳ Khưu có thêm chữ "Đại" là để tỏ ý khen ngợi đức hạnh của các vị ấy siêu việc lớn lao. Nếu theo nguyên văn chữ Phạn thì phải gọi Ma Ha Tỳ Khưu; "Ma Ha" Trung Hoa dịch gồm ba nghĩa là: Đại, Đa, Thắng, nay duy lấy nghĩa "Đại" để hàm nhiếp hai nghĩa kia.
"Nơi chúng hội đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ Tát, trong ấy ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương là bậc thượng thủ": Bồ Tát gọi cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (Bodhisattva), Trung Hoa dịch: Giác Hữu Tình hay Hữu Tình Giác. Hai danh từ này có nghĩa: tuy giác ngộ mà còn có tình thức, tuy còn có tình thức song đã giác ngộ. Văn Thù Sư Lợi (Manjusri), Trung Hoa dịch là Diệu Đức hay Diệu Kiết Tường. “Pháp vương tử” nói đơn giản là nghĩa: con của đấng Pháp Vương. Nếu giải thích rộng ra, thì vị nào từ nơi chánh pháp mà hóa sanh, sẽ nối ngôi Đại Giác để làm thạnh cho dòng giống Phật, mới được gọi là “Pháp vương tử”. Vậy Pháp vương tử là bậc Bổ Xứ Bồ-tát sẽ nối ngôi Phật, như Thái Tử là vị sẽ nối ngôi vua. Nếu luận về chí nguyện, phải để Bồ-tát đứng trước, nay chỉ lấy phần oai nghi nên trước tiên trần thuật hàng Thanh Văn. “Thượng thủ” là người cầm đầu, vị lãnh đạo của một số chúng. Hai đoạn kinh trên đã lược kể số chúng trong pháp hội. Điểm sau cùng nầy gọi là Chúng Thành Tựu.
Tóm lại sáu đoạn hay sáu điểm mệnh danh “lục chủng thành tựu” hoặc
“lục chủng chứng tín trên” đã dự phần bố trí hệ thống của toàn kinh và biện chứng để dẫn khởi lòng tin tưởng cho người học Phật với một ý thú nhiệm mầu.
Bấy giờ trong Vương Xá đại thành có vị Thái Tử tên là A Xà Thế, nghe theo lời xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà Sa La giam trong ngục kín dầy đến bảy lớp cửa, Thái Tử lại ra lịnh cấm các quan, không cho một ai được đến thăm.
Đây mới là điểm chánh thức đi vào duyên khởi của bản kinh. Điểm nầy đại khái trần thuật: do Thái Tử A Xà Thế làm điều bạo nghịch, quốc-thái phu nhơn Vi Đề Hy mới bạch với Phật cầu xin được thoát ly miền ác trược về cõi an lành. Nói Vương Xá đại thành, vì thành nầy rất rộng lớn, gồm có đến chín ức cư dân. A Xà Thế (Ajatasatru), Trung Hoa dịch là Vị Sanh Oán hay Chiết Chỉ. Vị Sanh Oán là mối oán hận lúc chưa sanh ra, Chiết Chỉ là ngón tay gãy. Sự tích nầy hơi dài, xin thuật qua đại lược: Nguyên trước kia vua Tần Bà Sa La kém bề tử tức, đi lễ thần khắp các nơi song cũng không sanh được con. Một hôm có vị tướng sư đến tâu rằng:
- Núi Tỳ-phú-la có bậc tiên nhơn đạo đức, sau ba năm sẽ xả mạng và thác sanh làm con của vua.
Tần Bà Sa La vương vì lớn tuổi muốn có con gấp, sau đôi ba phen cầu thỉnh tiên nhơn xả thân mà không được, mới dặn sứ giết ông đi để cho mình có con sớm. Trước khi chết tiên nhơn có phát nguyện: “Ngày nay vua dùng tâm và miệng sai người giết tôi, nếu tôi sanh làm con vua, cũng sẽ dùng tâm và miệng sai mgười giết vua”. Hôm tiên nhơn chết, đêm đó hoàng hậu cảm giác mình có thai. Lúc bà sắp tới ngày sanh, vua cho người mời danh sư trong nước xem tướng. Các tướng sư đều bảo: "Đứa bé sẽ sanh là con trai, nhưng vì có mối oán hờn đối với bệ hạ, sợ e ngày sau tất làm tổn thương đến thánh thể”. Vua nghe nói sợ hãi dặn cung nữ: khi hoàng hậu lâm bồn, đừng đỡ đứa bé, để nó rớt xuống đất cho chết. Vì oan trái chưa trả xong, đứa bé tuy ở chỗ cao rớt xuống nhưng không chết, chỉ bị gẫy ngón tay út mà thôi. Do đó khi lớn lên Thái Tử A Xà Thế có tật nơi ngón tay út. Danh từ Vị Sanh Oán hay Chiết Chỉ phát xuất bởi gốc tích trên.
Điều Đạt tức là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta - Thiên Nhiệt), con Hộc Phạn Vương, em nhà chú của Phật, anh ruột ngài A Nan (theo kinh Phật thuyết Thập Nhị Du thì Điều Đạt và A Nan đều là con của Cam Lộ Tịnh Vương) Điều Đạt lúc còn tại tục tánh người vốn hung mãnh, đến khi xuất gia nết cũ vẫn không chừa. Ông tuy học thông nội điển và các kinh sách của ngoại giáo, song tâm không hợp với Đạo, thấy Phật được nhiều người cúng dường liền sanh lòng tật đố. Một hôm Điều Đạt đến chỗ Phật cầu xin học pháp thần thông. Đức Thế Tôn không nhận lời, duy bảo: "Ông nên quán lý vô thường, tất sẽ đắc đạo và tự có thần thông". Không được mãn nguyện, ông lại đến cầu hai tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên về việc ấy. Hai ngài cũng bảo: "Đại đức nên quán về Tứ Niệm Xứ, không cần học thần thông làm chi". Sau cùng ông đến gạn hỏi ngài A Nan. Tôn giả A Nan tuy chứng Sơ Quả song chưa đắc Tha Tâm Thông biết được thâm ý của anh mình, liền đem Điều Đạt đến chỗ vắng lặng, trước tiên dạy về phép bay. Người muốn học bay phải ngồi kiết-dà giữ tâm cho yên tĩnh, tưởng thân lay động, kế tưởng thân nhắc lên khỏi mặt đất một phân, một tấc, một thước, một trượng, khỏi mái nhà rồi lần lần bay lên cao. Xong, lại nhiếp tâm tưởng thân lần lần hạ thấp xuống bản tòa. Sau đó dùng thân cử tâm, kế lại thân tâm đều cử, mỗi phiên từ thấp lên cao, từ cao xuống thấp y như trước. Cứ theo ba nguyên tắc ấy mà xoay vần tập luyện cho thuần thục, tự sẽ có kết quả. Ngài A Nan lại tiếp tục dạy cho Điều Đạt phương pháp tưởng bay đi, tưởng thân tâm vào trong tất cả sắc chất. Kế đó tưởng các sắc chất như non, sông, đất liền vào trong thân mình, như hư không vô ngại. Lại tưởng tự thân lớn ra đầy khắp hư không, ngồi nằm tự tại, đưa tay lay động mặt trời mặt trăng. Hoặc tưởng thân rút nhỏ lại, chui vào hạt bụi. Điểm cần yếu trong phép tưởng là nhận định các sắc chất đều như huyễn, tất cả vô ngại. Khi ngài A Nan tuần tự y theo phương pháp chỉ dạy xong, Điều Đạt nhất nhất đều ghi nhớ, rồi tìm chỗ thật thanh vắng tu luyện, không bao lâu ông được phép thần thông.
Sau khi đắc thần thông, Điều Đạt liền đi đến cung điện của Thái Tử A Xà Thế hiện ra nhiều cách biến hóa khiến cho Ðông Cung sanh lòng tin tưởng, kính trọng, cúng dường rất hậu. Đã thâu phục được Thái Tử, một hôm ông lại đi đến chỗ Phật thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Nay ngài tuổi tác đã cao, xin đem đồ chúng và Pháp Tạng phú chúc lại cho tôi, để an dưỡng lúc suy già". Đại chúng nghe ông nói lời ấy đều kinh ngạc, nhìn ngó lẫn nhau. Đức Phật mỉm cười bảo: "Như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên có thể gọi là bậc đại pháp tướng mà ta không còn đem chánh pháp phú chúc, huống chi ông là kẻ ngu si ư?" Bị mất mặt trước đại chúng, Điều Đạt đem lòng oán hận liền đến cung Thái Tử A Xà Thế. Đông Cung thấy ông đi đến, cung kính đón tiếp và hỏi rằng: "Chẳng hay tôn giả quang lâm có việc chi, mà xem nhan sắc không được vui?" Ông đáp: "Tôi cùng Thái Tử tuy quen thân chưa được bao lâu, mà đối xử như tình chí thiết. Hôm nay tôi có vẻ lo lắng, chẳng qua cũng vì ngài đó thôi!" Thái Tử vội hỏi duyên cớ. Điều Đạt bảo: "Tôi xem ý đức vua đối với Thái Tử không được ân hậu. Sở dĩ ngón tay út của Thái Tử bị tật là do khi ngài mới sanh ra, vua đã âm mưu cố ý để cho tôn thể rớt từ trên cao xuống đất. Nếu ngài không có phước đức thì lúc ấy mạng căn đã tuyệt, đâu còn sống đến ngày nay? Hiện giờ đức vua đã già, Sa-môn Cù Đàm cũng đã lớn tuổi không còn đương nổi trách nhiệm nữa. Vậy chúng ta nên tìm cách phế trừ hai người đó, để Thái Tử sẽ làm tân vương, phần tôi thì làm tân Phật, chẳng hay tôn ý thế nào?” Do oan nghiệp đời trước, Thái Tử A Xà Thế nghe xong, liền nổi giận y theo lời. Từ đó, Đề Bà Đạt Đa lo vận động kéo một nhóm tăng lữ về phe mình, tự chế ra giới luật mới, và âm mưu hại Phật nhiều phen, song kết cuộc đều thất bại, bị sanh đọa Ðịa Ngục. Phần A Xà Thế thì làm điều nghịch đạo bắt giam vua cha cho đến chết.
Tần Bà Sa La (Bimbisara), Trung Hoa dịch là Mô Thật hay Kiên Ảnh. Hai danh từ nầy chỉ cho nghĩa: Người có hình vóc mạnh khỏe, chắc chắn.
Trên đây đã giải thích về nguyên ủy của đoạn chánh văn: "Nghe theo lời xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà Sa La giam trong ngục kín dày đến bảy lớp cửa".
Quốc thái phu nhân là Vi Đề Hy, vì mến tưởng vua, bà lo nghĩ phương chước cứu giúp. Bà tắm gội sạnh sẽ, lấy bột nhồi với sữa và mật thoa dính nơi thân, đổ đầy nước trái nho vào các hạt chuỗi Anh Lạc, rồi lén đem các thức ấy dâng cho vua. Tần Bà Sa La vương thọ dụng thức ăn uống xong, xin nước xúc miệng, rửa mặt, đoạn chắp tay hướng về núi Kỳ Xà Quật kính lễ đức Thế Tôn và thưa rằng: "Ngài Đại Mục Kiền Liên là bạn thân của tôi, xin khởi lòng từ bi truyền cho tôi giới Bát Quan Trai".
Quốc thái phu nhân là người có địa vị tối cao trong nước. Vi Đề Hy (Vaidehi), Trung Hoa dịch là Tư Duy hoặc là Thắng Diệu Thân, chỉ cho người có sắc thân xinh đẹp và hay lo lắng, quán xuyến mọi việc. Bà Vi Đề Hy là chánh hậu của vua Tần Bà Sa La, mẹ của Thái Tử A Xà Thế. Thái Tử cấm quần thần không cho vào thăm vua mà chẳng ngăn cản mẹ, vì bà là người tối thân, lại thuộc về hàng phụ nữ, chắc không đến nỗi có mưu biến gì, nên chẳng mấy lưu tâm. Bà Vi Đề Hy muốn dâng thức ăn cho vua mà phải làm như thế, vì sợ Thái Tử để ý rồi phát giác ra được.
Đại Mục Kiền Liên (Moggalli), Trung Hoa dịch là Thái Thúc Thị; vì ngài nguyên dòng dõi của một vị tu tiên trong núi, sống bằng đậu và bắp. Ngài là vị đệ tử thường hầu bên hữu của Phật. Trong tiền kiếp, Mục Kiền Liên cạo tóc và may áo ca sa cho một vị Bích Chi Phật, nguyện đắc thần thông, nên khi Phật ra đời ngài được khen là bậc A La Hán thần thông đệ nhất.
Bát Quan Trai, "Bát" là tám giới: không sát sanh; không trộm cắp; không dâm dục; không nói vọng; không uống rượu; không trang điểm; không tự ca múa trổi âm nhạc và cố ý xem nghe; không ngồi nằm giường cao rộng sang đẹp. "Quan" có nghĩa là ngăn đóng, vì tám giới ấy hay ngăn đóng các cửa ác nghiệp nên gọi là "Bát Quan". "Trai" có nghĩa trung, là ăn giữa ngày, không được quá ngọ. Tám điều trên duy có nghĩa "giới" không gồm nghĩa "trai", điều sau kiêm cả hai nghĩa "giới, trai", vì thế nên không gọi cửu giới mà gọi "Bát Quan Trai". Những giới này công dụng rất vi tế, chỉ có Phật mới thân chứng. Tại sao thế? Vì chư Phật mới dứt phiền não và tập khí, ngoài ra từ ngôi đại giác trở xuống, phiền hoặc tuy đoạn song tập khí vẫn còn. Vì muốn cho hàng tại gia gieo hạt giống giải thoát, nên Phật mới chế ra giới Bát Quan Trai để họ thọ trì trong một ngày đêm. Giữ đúng giới này, công đức vượt hơn hàng nhơn thiên rất nhiều.
Khi ấy ngài Mục Kiền Liên biết được, liền bay đến chỗ Tần Bà Sa La Vương lẹ như chim ó, chim cắt; mỗi ngày truyền giới Bát Quan Trai cho vua. Đức Thế Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na vì vua thuyết pháp. Như thế trải qua hai mươi mốt ngày, nhờ được ăn uống và nghe pháp, nên dung sắc vua hòa nhã tươi vui.
Ngài Mục Kiền Liên đã được Lục Thông, nghe thấy và biết sự cầu thỉnh của vua, nên dùng sức thần túc trong khoảnh khắc hiện đến chỗ cấm ngục. Tướng thần túc này rất mầu nhiệm, vì e người đời không biết nên trong kinh mới thí dụ là “lẹ như chim ó, chim cắt”. Thật ra sức thần thông của tôn giả Mục Kiền Liên có thể trong một niệm đi quanh bốn đại bộ châu trăm ngàn vòng đâu phải tầm thường như chim ó, chim cắt ư? Giới Bát Quan Trai chỉ hạn cuộc trong một ngày đêm, nên mãn kỳ phải truyền lại. Mỗi ngày vua đều thọ giới, vì không biết Thái Tử A Xà Thế sẽ sai người đến giết lúc nào, nên chí thành tịnh niệm giữ giới từng ngày, giờ, phút, cho tăng phần công đức.
Phú Lâu Na (Pùrna), Trung Hoa dịch Mãn Nguyện Tử hay Mãn Từ Tử, vị đệ tử thuyết pháp bậc nhất của đức Phật. Đức Thế Tôn vì thương xót Tần Bà Sa La Vương nên sai tôn giả Phú Lâu Na đến thuyết pháp làm cho vua hiểu rõ nhân quả, đạo lý, dứt mối sầu khổ ưu phiền. Qua hai mươi mốt ngày mà vua vẫn vui vẻ bình yên vì được hoàng hậu săn sóc về phần thể chất và hai Tôn Giả an ủi về phần tinh thần.
Lúc đó A Xà Thế đến hỏi người giữ cửa rằng : “Phụ vương ta hôm nay còn sống chăng?” Viên thủ ngục đáp: “Tâu đại vương! Do quốc thái phu nhân thoa bột với mật vào thân và đựng nước trái nho trong hạt chuỗi đem cung phụng; lại có hai sa môn là Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na bay đến truyền giới thuyết pháp không thể ngăn cấm, nên hiện tại đức vua vẫn bình yên". A Xà Thế nghe xong, nổi giận bảo: "Mẹ ta là giặc vì đã làm bạn với kẻ giặc. Bọn Sa môn kia là hạng người xấu, dùng chú thuật làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không chết!" Nói đoạn, rút gươm muốn đến giết mẹ.
Đang khi ấy, có hai vị đại thần thông minh tài trí là Nguyệt Quang, Kỳ Bà, thấy thế vội quỳ xuống làm lễ và can gián rằng: "Tâu đại vương! Chúng tôi nghe trong kinh Tỳ Đà La nói từ thuở kiếp sơ đến nay những ác vương tham ngôi báu mà giết hại cha có một vạn tám ngàn người; song chưa từng nghe có ông vua nào giết mẹ. Nay nếu đại vương làm việc ác nghịch trái đạo này, tức là để vết nhơ cho dòng giống Sát Đế Lỵ, nào khác gì hạng Chiên Đà La. Bọn thần không nỡ ở lại trông nhìn cảnh tượng ấy, vậy xin từ nay bái biệt!" Nói xong đứng lên đưa tay đè chuôi gươm rồi thối lui quay đi.
Vi Đề Hy phu nhơn dù có hành vi kín đáo, song lâu ngày cũng khó che giấu được. Viên thủ ngục vì muốn chạy tội cho mình, phải đem sự thật mà thưa ra. A Xà Thế đã hờn vì mẹ lén đem thức ăn cho vua cha, lại nói nghe hai vị Tôn Giả dùmg phép thần thông tự do tới lui trong ngục thất, nên càng thêm giận, mới có lời vô ý thức: "Các thầy Sa-môn là hạng chuyên dùng chú thuật để huyễn hoặc người, làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không chết".
"Nguyệt Quang" là Hoa ngôn, chỉ cho người trí huệ sáng suốt như ánh trăng. "Kỳ Bà" là Phạn ngữ, Trung Hoa dịch: Cố Hoạt, vì trước kia ông từng phát nguyện sẽ trở thành vị lương y cứu sống mọi người, nên tùy nơi đức mà lập danh. Tương truyền khi Kỳ Bà mới sanh ra một tay cầm đãy thuốc, một tay cầm ống kim. Ông cũng là con của vua Tần Bà Sa La, thân mẫu là Yêm La Nữ (Nại nữ), thấy anh muốn làm điều bội nghịch, nên cùng Nguyệt Quang cùng đến can ngăn. Tỳ Đà La (Vetàla) một bộ loại về chú thuật trong kinh điển Phệ-Đà. “Kiếp sơ” là thuở thế giới vừa thành lập, mới có loài người ở. Sát Đế Lỵ( Ksatriya) là giai cấp vua chúa; Chiên-đà-la hoặc Thủ-đà-la (Sùdra) là giai cấp tiện dân, hai dòng giống sang hèn theo thế tập bên xứ Ấn Độ. Trước cảnh tượng người từ mẫu chắp tay cúi đầu run sợ chờ chết, đứa con bất hiếu hung hăng cầm gươm muốn chém đâm, quả thật bất nhẫn và đau lòng, nên hai vị đại thần cương quyết can ngăn, là vì không nỡ thấy điều vô đạo ấy. “Đưa tay đè chuôi gươm rồi thối lui quay đi” là cử chỉ thị oai khiến cho A Xà Thế kinh sợ và tỏ ý quyết liệt.
A Xà Thế nghe qua kinh sợ bảo: "Các ông không vì ta sao?" Kỳ Bà thưa: "Nếu đại vương muốn cho chúng tôi ở lại giúp đỡ, xin đừng giết hại quốc thái". A Xà Thế nghe nói, tỏ vẻ ăn năn, vội cất gươm bỏ ý nghĩ giết mẹ, sai nội quan cầm quốc thái phu nhơn trong thâm cung, không cho ra ngoài nữa.
Câu nói: "Các ông không vì ta sao?" là A Xà Thế sợ hiền thần bỏ đi, quốc vận nguy khốn; lại e hai người ấy vốn bậc tài trí không biết có mưu đồ gì cứu thoát vua Tần Bà Sa La mà lật ngược cuộc diện lại chăng? Sự kinh sợ của ông cũng hữu lý và thiết thật. Câu hỏi của Thế-vương hàm nhiều ẩn nghĩa, lời đáp của Kỳ Bà lại thẳng thắn nói rõ ra, cũng là ý can gián lần thứ hai. A Xà Thế tuy nhận lời khuyên can, tỏ sắc ăn năn tra gươm vào song lại bảo nội quan giam cầm mẹ, là mối dư hận của ông đối với thân mẫu hãy còn. Kỳ thật nếu ông ra lệnh giam cầm Vi Đề Hy phu nhơn, duy bảo quan quân giữ chặt nơi ngục giam vua cha, thì bà cũng không có phương tiện nào giúp đỡ Tần Bà Sa La vương được.
Vi Đề Hy bị u cấm, sầu lo tiều tụy, xa trông về non Kỳ Xà Quật đảnh lễ Phật và bạch rằng: "Đức Như Lai Thế Tôn! Lúc trước ngài thường bảo hiền giả A Nan đến thăm viếng và khuyên dạy con. Nay con có việc lo buồn, không làm sao còn được thấy oai nghi trang trọng của đấng Thiên Nhơn Sư nữa! Xin Đức Thế Tôn thương xót cho hai vị tôn giả Mục Liên, A Nan đến dạy dỗ con”. Bạch xong lời ấy, bà thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa, hướng về chỗ Phật thường ngự, cúi đầu đảnh lễ.
A Nan (Ananda), Trung Hoa dịch là Khánh Hỉ hoặc vô nhiễm, vị hiền giả thường hầu cận Đức Phật. Ngài A Nan được đức Phật thường nhận lời cầu thỉnh, sai đến thăm viếng khuyên dạy vua và quốc hậu nước Ma Kiệt Đà, vì sự hoằng pháp độ người cần phải nhờ bậc có quyền thế. Tuy Như Lai là đấng chí thánh cũng chiều thuận theo thường tình để làm mô phạm cho đời sau. Bởi tự thân ở nơi thâm cung, nên bà Vi Đề Hy không dám thỉnh Phật, mà chỉ xin mời hai vị Tôn Giả. Trong hai ngài, Mục Liên là thầy của bà, A Nan là vị đại đức thường lui tới quen thân, nên mới có sự cầu thỉnh ấy. Trước đã lạy rồi, sau còn đảnh lễ là quốc thái phu nhân tỏ ý thành khẩn ân cần.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ở núi Kỳ Xà Quật biết rõ tâm niệm bà Vi Đề Hy, liền bảo hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan theo lời yêu thỉnh bay đến cấm thất. Và chính Ngài cũng ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật, hiện ra nơi vương cung. Khi bà Vi Đề Hy lễ xuống vừa ngước đầu lên, đã thấy Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ngồi trên tòa sen bá bảo, thân sắc tử kim rực rỡ, bên tả có Mục Liên, bên hữu có A Nan đồng đứng hầu. Trên hư không, các Phạm Vương, Đế Thích và Hộ Thế chư thiên mưa nhiều thứ hoa đẹp ở cõi trời phơi phới bay xuống để cúng dường Phật.
Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), Trung Hoa dịch Năng Nhân Tịch Mặc, bậc có tâm nhân từ và chứng được Giác Tánh vắng lặng. Danh hiệu nầy tiêu biểu cho hai đức Bi Trí, cũng hàm nghĩa Ứng Thân, Pháp Thân. Đức Phật dùng phép thần thông ẩn nơi đây, hiện nơi kia theo cổ thích, có ba ý nghĩa :
1- Đức Thế Tôn là đấng cha lành trong Tam Giới, hiện thân của đức từ bi, vì muốn hộ trì tâm niệm của vua A Xà Thế, nên không tự đi đến ngục thất, e ông thấy mà khởi lòng sân hận.
2- Vì muốn lưu hành chánh pháp, phải nhờ cậy người quyền thế, nên không muốn làm mất lòng một vị quốc vương.
3- Vì tiêu biểu địa vị và sức thần thông của đức Như Lai cao siêu hơn hàng Thinh Văn, Duyên Giác. Phạm Vương là vị vua của cõi trời Phạm Thiên (Brahmadeva), danh từ này cũng chỉ chung cho chư Thiên đã thành tựu Phạm hạnh ở cõi Sắc Giới. "Phạm" có nghĩa là "trong sạch", vì chư thiên đã ở đó đã xa lìa sự dục nhiễm. Đế Thích tức Thích Đề Hoàn Nhân; gọi cho đủ là Thích Ca Đề Bà Nhân Đà La (Sakradevànam-Indra), Trung Hoa dịch là Năng Thiên Chủ. Đây là vị chúa tể ba mươi ba Thiên Quốc ở cõi Đao Lợi. "Hộ Thế" là chỉ cho Tứ Thiên Vương. "Chư Thiên" là nói chung cõi trời ở hai cõi Dục và Sắc. Thiên chúng thấy Phật ẩn thân tại Kỳ Xà Quật, hiện ra nơi vương cung, nghĩ rằng: Đức Thế Tôn tất sắp nói pháp hy kỳ, mình sẽ nhân bà Vi Đề Hy mà được sự lợi ích chưa từng nghe, nên đồng đến phụng thị mà mưa hoa cúng dường.
Vi Đề Hy phu nhân thấy Đức Thế Tôn, liền tự bứt chuỗi Anh Lạc đeo nơi thân, gieo mình phủ phục xuống đất, khóc lóc và thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kiếp trước con có tội chi nay sanh ra đứa con ác này. Và đức Như Lai lại có nhân duyên gì, mà cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến thuộc? Cúi xin đức Thế Tôn vì con giảng giải rộng những cõi nào không còn lo buồn khổ lụy để con được vãng sanh về đó. Hiện nay con rất nhàm chán cõi Diêm Phù Đề nhơ khổ, bởi cõi này dẫy đầy chúng địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, cùng nhiều điều lỗi lầm xấu ác. Con nguyện kiếp sau không còn thấy người dữ, không còn nghe tiếng ác nữa! Nay con gieo năm vóc trước Đức Thế Tôn, tha thiết cầu xin sám hối! Nguyện đấng Ðại Từ soi ánh huệ nhật, chỉ dạy cho con phép quán để sanh về chỗ nghiệp lành thanh tịnh”.
Vi Đề Hy phu nhân khi thấy Phật liền bứt chuỗi ngọc, vì bậc vương hầu như bà duy sang cả đối với hạng thần dân, sánh với đấng Đại Giác còn vô cùng thấp kém; hành động đó nhằm biểu lộ: trước đức Thế Tôn mình chỉ là kẻ phàm phu đầy tội lỗi, không có chi đáng tôn trọng. Lại sự trang sức đối với thế gian là nghiệp tham nhiễm, trước đấng Giác Ngộ trong lành, bà cảm thấy hổ thẹn nên vội bứt chuỗi Anh Lạc.
Câu: "Kiếp trước con có tội chi..." là phu nhơn đã nhận rõ cõi đời dẫy đầy tội ác, tự nghĩ mình là người thế tục lỗi lầm vương vào cảnh con mưu giết mẹ đã đành, đến chư Phật là bậc chí thiện tại sao còn bị Đề Bà Đạt Đa nhiều phen ám hại? Câu hỏi của bà không ngoài ý niệm tỏ ra chán nản cõi đời ác trược, để làm nhân phát khởi lời thỉnh vấn sau là cầu xin đức Thế Tôn chỉ điểm quốc độ an lành và phương pháp vãng sanh để cho mìmh tu tập.
Diêm Phù Đề (Jambudvipa), Trung Hoa dịch là Thắng Kim, vì phía Bắc châu này có thứ cây Diêm Phù, dưới cây ấy có chất vàng rất quý tên Diêm Phù Na Đàn. Đây là lấy tên cây để lập danh xứ sở. Một thuyết khác nói cây Diêm Phù ở mé biển phía Bắc của châu Nam Thiện Bộ. Dưới đáy biển có chất vàng Diêm Phù Na Đàn chói lên làm cho nước biển và cây ánh ra sắc vàng rực rỡ. “Năm vóc” cũng gọi là “ngũ thể” hay “ngũ luân” tức là đầu và tứ chi.
“Sám hối” là danh từ do tiếng Phạn và Hoa kết hợp. "Sám" gọi cho đủ là Sám-ma, Trung Hoa dịch là "hối vãn" có nghĩa là ăn năn lỗi trước, đây là Phạn ngữ. "Hối" ý nghĩa cũng như "sám", thuộc về Hoa âm. Bà Vi Đề Hy xét nghĩ Tịnh Độ là cõi sạch lành, e mình nhiều nghiệp chướng khó được duyên nghe pháp và vãng sanh, nên đã thành khẩn thỉnh cầu còn tha thiết sám hối để cho tiêu nghiệp. Pháp của Đức Phật nói từ nơi trí huệ chân thật phát sanh, có thể phá tan màn vô minh phiền não, nên gọi là “huệ nhật”. Đây là danh từ nêu cả pháp và dụ.
Câu “chỉ dạy cho con phép quán ..." là bà Vi Đề Hy muốn biểu lộ là mình đã nhàm chán cõi nhơ ác, không còn luyến tưởng đến kẻ thân sơ, có thể an tâm dứt muôn duyên để quán niệm cảnh thanh tịnh. Trước phu nhân đã thỉnh cầu Phật chỉ bày cõi an lành, sau lại hỏi về phương cách vãng sanh. Phần tự trần thuật nhân duyên khải phát đến đây đã xong. Kế sau là đoạn chánh thức của kinh này, Đức Phật sẽ vì bà Vi Đề Hy chỉ dạy rõ pháp thức tu tập.
|
***
A-xà-thế đích sám hối (496)
Sau khi giết vua cha là Tần-bà-sa-la rồi, một hôm vua A-xà-thế nằm mộng thấy cha về mỉm cười mà nói với ông rằng:
– A-xà-thế! Ta là cha của con. Tuy con đã giết ta, nhưng ta không oán hận con. Là đệ tử của đức Phật nên ta nguyện dùng đức từ bi của Phật mà tha thứ cho con. Dù sao con cũng đã là con của ta, nên ta chúc con một điều, mong con sớm biết sám hối, tỉnh ngộ mà bước đi trên con đường ánh sáng.
Vua A-xà-thế rất buồn, vì dù sao ông cũng nghĩ đến tình thương của cha, nghĩ đến việc mình đã giết cha một cách vô lý, và ông cảm thấy vô cùng ân hận việc đã làm.
Một hôm, vua A-xà-thế cùng mẹ là phu nhân Vi-đề-hy ngồi cùng bàn ăn cơm. Không thấy con trai của mình là Ưu-đà-da vào bàn ăn, ông bảo người hầu cận:
– Ưu-đà-da đâu rồi? Tìm nó về đây cùng ăn cơm.
Người hầu cận đáp rằng:
– Ưu-đà-da đang nghịch với con chó.
Khi người hầu cận gọi Ưu-đà-da về, hoàng tử vẫn còn ôm một con chó nhỏ trong tay. Vua A-xà-thế hỏi con rằng:
– Tại sao con không ăn cơm?
Ưu-đà-da nũng nịu trả lời:
– Không cho con chơi chung với chó thì con không ăn cơm đâu!
Vua A-xà-thế đành phải chiều ý con và tất cả cùng ăn cơm chung bàn. Sau một lúc, vua A-xà-thế nói với Vi-đề-hy phu nhân rằng:
– Vì thương con mà vua phải ăn cơm chung với chó, thật khó coi!
Quốc thái phu nhân Vi-đề-hy trả lời:
– Ăn cơm chung với chó thì có chi là đặc biệt! Nay vua thương con, chịu ngồi ăn chung với chó mà đã lấy làm chua chát. Tiên vương ngày trước đối với vua còn làm nhiều việc khó làm hơn nữa, nhưng vua không biết đó thôi. Lúc vua còn nhỏ, trên ngón tay có nhọt, đau đớn vô cùng, làm cho vua đêm ngày không ngủ được. Tiên vương ôm vua đặt lên đầu gối, dùng miệng ngậm nhọt độc trên ngón tay cho vua bớt đau. Có khi, khí ấm trong miệng làm cho nhọt vỡ ra và chảy mủ, tiên vương sợ giấc ngủ của vua bị kinh động nên phải nuốt chỗ mủ ấy. Tiên vương thương vua như vậy đó, vì thương con nên đã làm những điều mà người khác không làm được.
Vua A-xà-thế nghe phu nhân Vi-đề-hy kể, yên lặng đặt chén cơm xuống, đứng dậy bước sang phòng bên cạnh. Từ đó trở đi, ông không còn cảm thấy làm vua là vinh quang và sung sướng nữa. Trong tim ông dường như có một tảng đá thật lớn đang đè nặng.
Nghiệp báo của vua A-xà-thế hiện tiền, thân ông nổi đầy mụn nhọt, tâm ông lại không lúc nào là không bị hối hận dày vò. Ông bèn nói với quần thần rằng:
– Bây giờ cả thân lẫn tâm của ta đều bệnh nặng, nhất định là do tội mưu hại vua cha mà ra, ai có thể chữa lành cho ta?
Giữa các đại thần có nhóm lục sư ngoại đạo Nguyệt Xưng, muốn an ủi vua nên dùng đủ thứ tà giáo để chứng minh rằng vì nước mà giết cha thì không có tội, nhưng vua A-xà-thế nghe họ nói không hề động tâm mà còn nặng thêm lòng hối hận.
Lúc ấy có một vị danh y đại thần tên là Kỳ-bà bước lên tâu rằng:
– Đại vương, hiện giờ đại vương cảm thấy trong người như thế nào?
Vua A-xà-thế lắc đầu bảo rằng:
– Kỳ-bà! Bệnh của ta rất trầm trọng, không những thân ta mang bệnh mà bệnh khổ trong tâm cũng rất nặng. Ta nghĩ rằng ngay cả lương y, thuốc thần, chú thuật cũng đều không chữa lành cho ta được! Ngày đêm nằm trên giường ta ưu sầu khổ não, rên xiết kêu la, không tài nào nhắm mắt. Kỳ-bà! Tuy ông là bậc danh y trong thiên hạ, nhưng lần này ngay cả ông cũng phải bó tay thôi!
Kỳ-bà nói một cách trang trọng:
– Đại vương! Xin ngài đừng thất vọng bi thương như vậy. Hiện nay, trên thế gian này, ngoài đức Phật ra, thần nghĩ rằng đúng là không có một người thứ hai có thể cứu bệnh cho đại vương.
Khi Kỳ-bà nói ra những lời ấy, các tùy tùng của vua A-xà-thế đều biến sắc. Họ sợ là Kỳ-bà đã chọc giận vua. Nhưng lần này vua A-xà-thế không hề nổi giận, chỉ yên lặng nhắm mắt. Kỳ-bà quan sát biết được tâm của vua rồi, bèn nói tiếp:
– Đại vương, thần chỉ là một thầy thuốc. Thầy thuốc tuy có thể chữa bệnh thân thể, nhưng tuyệt nhiên không chữa trị được bệnh của tâm. Đức Phật là vị y sĩ vô thượng, chỉ cần đại vương bằng lòng đến bái kiến ngài, chắc chắn ngài sẽ đón tiếp đại vương. Đức Phật giống như biển cả mênh mông, có thể dung nạp tất cả mọi dòng sông. Bệnh khổ của Đại vương do tâm mà sinh, cần phải trị dứt bệnh căn của tâm sau đó mới trị được bệnh của thân.
Vua A-xà-thế gật đầu nói rằng:
– Phải rồi Kỳ-bà, ông nói rất đúng. Ta cũng rất muốn bái kiến đức Phật, song ta sợ ngài sẽ không tiếp ta vì ta là người tội lỗi. Đó là chưa kể những gì ta đã làm cùng với Đề-bà Đạt-đa... Ta rất có lỗi với đức Phật...
Kỳ-bà biết được tâm của vua A-xà-thế ngay trong giờ phút ấy nên tiến thêm một bước nữa, nói rằng:
– Đại vương, thần nghe nói rằng ngay trong giây phút lâm chung, tiên vương đã tha tội cho đại vương rồi. Tiên vương là đệ tử của đức Phật, đệ tử của Phật mà còn tha thứ cho đại vương, không lẽ một đấng đức độ viên mãn, tâm đại bi trùm khắp như đức Phật mà lại không tha thứ cho ngài sao?
Thần nghe đức Phật thuyết giảng rằng, nếu có người tạo tội ác mà biết khởi tâm tàm quý, khẩn thiết chí thành sám hối trước Tam Bảo thì có thể tiêu trừ tội lỗi ấy và nghiệp chướng cũng nhẹ đi. Tuy có một thời đại vương không tin nhân quả mà tạo nghiệp ác, nhưng nếu nhìn theo pháp môn sám hối của đức Phật, thì đại vương vẫn có thể được cứu. Thần thấy nay đại vương đã có tâm tàm quý và sám hối thì đại vương đã bắt đầu bước đi trên một con đường mới rồi!
Thần lại đã từng nghe đức Phật giảng rằng, người có trí huệ thì không dám tạo tội, nếu không cẩn thận mà tạo tội thì sau đó biết sám hối. Người ngu si là người tạo tội mà không hối cải, hay là tạo tội xong lại còn che giấu. Nếu đại vương đến được trước mặt đức Phật để mà sám hối, nói rõ là sẽ không tái phạm nữa, thì ánh sáng từ bi của ngài sẽ phù hộ che chở cho đại vương.
Đại vương, người trí không che giấu tội của mình. Đức Phật thường nói, làm người phải tin sâu nhân quả, tin chắc chắn rằng không ai thoát được nghiệp báo dẫu trong đường tơ kẽ tóc.
Trên thế gian này chỉ có những kẻ mất lòng tin là không thể cứu được, đại vương không mất lòng tin thì chắc chắn là sẽ được đức Phật cứu độ.
Lòng từ ái của đức Phật vô lượng vô biên, tất cả chúng sinh đều được ngài thương xót. Đức Phật không phân biệt kẻ oán người thân, kẻ thương người ghét, người giàu kẻ nghèo, kẻ sang người hèn... Ngài cứu độ tất cả mọi người một cách bình đẳng. Đức Phật cho phép ông Bạt-đề tôn quý xuất gia, cũng cho phép ông Ưu-ba-ly hạ tiện xuất gia. Đức Phật tiếp nhận sự cúng dường của phú ông Tu-đạt-đa, cũng không từ chối sự bố thí của kẻ bần cùng.
Đức Phật đã cảm hóa ngài Đại Ca Diếp vốn trốn tránh dục nhiễm gia nhập vào tăng đoàn, nhưng Ngài cũng đã dùng phương tiện khuyến hóa được một người đầy tham dục như ngài Nan-đà và cho xuống tóc. Quỷ mẹ cùng Ương-quật-ma-la, ai nghe tên cũng hãi hùng nhưng đức Phật đã tìm đến họ để hóa độ. Đối với ai Phật cũng hết lòng thương xót, xin đại vương không nên nghi ngại gì cả.
Thật ra nói lên những lời này thần rất e ngại, nhưng thần không thể không nói ra với đại vương. Hiện giờ đức Phật đang cùng các vị đệ tử của ngài đến vườn lê của hạ thần và sẽ thuyết pháp nơi đó, xin đại vương hãy mau đến tham bái ngài, xóa tan màn mây đen tối trong tâm và để chỗ cho bầu trời quang đãng xán lạn. Đây là một cơ hội ngàn vàng, thần khẩn khoản xin đại vương đừng bỏ lỡ!
Vua A-xà-thế nghe xong, trong mắt phát ra những tia hy vọng lẫn hối hận, ông đáp:
– Nghe khanh nói trẫm rất vui mừng, vậy khanh hãy về chọn ngày lành tháng tốt, trẫm nhất quyết đến tham bái đức Phật để cầu xin sám hối.
Kỳ-bà lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý:
– Đại vương, trong giáo pháp của đức Phật, không có những sự mê tín như ngày lành tháng tốt. Đức Phật thường dặn dò các vị đệ tử của ngài rằng: Không nên bói toán, bốc quẻ hung kiết. Tu học chính pháp và hành động theo chính pháp thì ngày nào cũng lành và tháng nào cũng tốt cả. Tốt nhất là đại vương nên khởi hành ngay!
Vua A-xà-thế rất vui lòng, cho chuẩn bị thật nhiều phẩm vật cúng dường, và cùng một đại đội tùy tùng rầm rộ hướng đến vườn lê của Kỳ-bà.
Nhưng trên đường đi, A-xà-thế bỗng cảm thấy lo sợ và bất an. Ông ra lệnh cho voi lớn kéo đoàn xe ngựa phải ngừng lại, nói với Kỳ-bà rằng:
– Kỳ-bà, ta nghĩ rằng đức Phật đã lìa mọi nhiễm ô, ngài có nhân cách thanh tịnh như trăng tròn. Tăng đoàn của Ngài toàn là những vị thánh nhân đã đoạn diệt phiền não. Ta và Đề-bà Đạt-đa đã phản nghịch đức Phật, thì làm sao ngài lại bằng lòng tiếp kiến một kẻ cực ác vô đạo như ta? Làm sao ngài lại chịu đưa bàn tay cứu độ ra cho một kẻ tội lỗi như ta? Ta nghĩ hay là thôi vậy, chúng ta nên quay về!
Kỳ-bà nghiêm sắc mặt mà nói rằng:
– Tình của cha mẹ đối với con cái vốn bình đẳng, nhưng phần lớn cha mẹ lại thường đặc biệt lo lắng cho những đứa con có bệnh. Từ bi của đức Phật cũng bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, nhưng đối với người có tội, ngài càng đặc biệt quan tâm hơn. Đối với những kẻ mất hẳn lòng tin, đức Phật còn thuyết chính pháp cho nghe, đại vương chưa phải đã mất lòng tin thì lý do gì mà đức Phật không từ bi cứu độ?
Vua A-xà-thế còn đang do dự, thì trong không trung bỗng nhiên có âm thanh vang lên:
– A-xà-thế, ta là Tần-bà-sa-la, phụ vương của con. Con hãy mau tin nghe theo lời của danh y Kỳ-bà, đến chỗ đức Phật mà cầu sám hối. Ta muốn nói với con một điều, đèn pháp sắp tắt, thuyền pháp sắp chìm, cây pháp sắp gãy, hoa pháp sắp tàn rồi. Mặt trời có lúc phải lặn về tây, đức Phật nay sắp nhập Niết Bàn. Lúc ấy thì căn bệnh trầm trọng của con, ai sẽ cứu chữa? Tội nặng ngũ nghịch mà con đã phạm khiến cho trong không bao lâu nữa con sẽ đọa địa ngục. Ta thương con nên mới khuyên con hãy mau đến chỗ của đức Phật mà cầu cứu. Trừ đức Phật đại giác, đời đời kiếp kiếp không ai có thể cứu độ con được!
A-xà-thế nghe được âm thanh từ ái của cha, đau khổ quá, ngã xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh dậy thì danh y Kỳ-bà dẫn ông xuống xe đến chỗ đức Phật đang tĩnh tọa trong giảng đường.
Đức Phật ngồi ngay ngắn trên tòa sư tử, bốn bề có đệ tử vây quanh, ánh lửa sáng rực, hương khói cuồn cuộn bay, mọi người đang an tĩnh tọa thiền.
Vua A-xà-thế rửa chân bước vào giảng đường, Kỳ-bà đưa ông đến trước tòa của đức Phật, chắp hai tay trước ngực mà thưa rằng:
– Thế Tôn, thỉnh ngài quán sát tâm con!
Đức Phật mở đôi mắt trong sáng ra, hiền từ đáp rằng:
– Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu.
Vua A-xà-thế kinh ngạc trước sự ưu ái của đức Phật, vội vàng quỳ xuống, cúi đầu thật thấp nói một cách hổ thẹn:
– Thế Tôn từ bi! Con không xứng đáng, con là người cực ác vô đạo, nếu được Thế Tôn quát mắng con đã thấy vô cùng hạnh phúc, nay lại còn được Thế Tôn dùng lời từ ái như thế, con rất cảm kích!
Tâm đại bi của Thế Tôn không bỏ sót một chúng sinh nào, hôm nay con mới được thấy tận mắt. Thế Tôn là bậc cha lành của tất cả chúng sinh. Con rất hối hận đã sát hại người cha vô tội, bây giờ thân tâm con bất an, nguyện Thế Tôn từ bi cứu vớt!
Đức Phật nhẹ nhàng nói:
– Trên thế gian có hai loại người có thể có hạnh phúc chân chính: một là người tu thiện pháp không tạo tội, hai là người tạo tội biết sám hối. Nay cơ duyên hối lỗi của đại vương đã thành thục. Trên đời này có ai là không phạm tội? Biết lỗi thì sửa đổi, đó là cách cư xử của người tốt. Pháp môn của ta quảng đại vô biên, đại vương cứ luôn luôn sám hối là được.
Đại vương, tội lỗi vốn không có bản thể, vốn là không, huyễn, nếu tâm ý mà hết bám giữ thì tội lỗi cũng tiêu diệt. Hiểu rõ rằng tâm và tội bản thể là không, không có thật, thì đó là sám hối một cách chân chính.
Từ nay đại vương hãy lấy chính pháp trị dân, đừng làm điều phi pháp nữa. Nên lấy đức cải hóa dân, đừng nên bạo tàn. Nếu đại vương nhân từ thì danh thơm tiếng tốt sẽ lan truyền bốn phương, đại vương sẽ được chúng sinh tôn kính, không muốn phục tùng cũng không được. Chuyện quá khứ đã qua rồi, chẳng còn gì để bàn đến nữa. Từ nay trở đi, việc quan trọng là làm sao sửa đổi. Đại vương mà làm việc thiện thì sẽ được an ổn, sung sướng. Tiến thêm một bước nữa thì hãy học pháp Không của Phật đạo, chứng quả Không để được giải thoát.
A-xà-thế nghe đức Phật giáo huấn rồi, cảm thấy đầy hy vọng và tin tưởng trong cuộc sống mới. Ông vô cùng hoan hỉ, tất cả mây đen mê vọng đã được quét sạch, quỳ trước bảo tòa ông cảm động rơi nước mắt. Quả thật là, “Lãng tử hồi đầu kim bất hoán” (kẻ chơi bời phóng túng mà biết quay về thì còn quý hơn vàng), cuối cùng rồi vua A-xà-thế quy y với đức Phật và được cứu độ.
– A-xà-thế! Ta là cha của con. Tuy con đã giết ta, nhưng ta không oán hận con. Là đệ tử của đức Phật nên ta nguyện dùng đức từ bi của Phật mà tha thứ cho con. Dù sao con cũng đã là con của ta, nên ta chúc con một điều, mong con sớm biết sám hối, tỉnh ngộ mà bước đi trên con đường ánh sáng.
Vua A-xà-thế rất buồn, vì dù sao ông cũng nghĩ đến tình thương của cha, nghĩ đến việc mình đã giết cha một cách vô lý, và ông cảm thấy vô cùng ân hận việc đã làm.
Một hôm, vua A-xà-thế cùng mẹ là phu nhân Vi-đề-hy ngồi cùng bàn ăn cơm. Không thấy con trai của mình là Ưu-đà-da vào bàn ăn, ông bảo người hầu cận:
– Ưu-đà-da đâu rồi? Tìm nó về đây cùng ăn cơm.
Người hầu cận đáp rằng:
– Ưu-đà-da đang nghịch với con chó.
Khi người hầu cận gọi Ưu-đà-da về, hoàng tử vẫn còn ôm một con chó nhỏ trong tay. Vua A-xà-thế hỏi con rằng:
– Tại sao con không ăn cơm?
Ưu-đà-da nũng nịu trả lời:
– Không cho con chơi chung với chó thì con không ăn cơm đâu!
Vua A-xà-thế đành phải chiều ý con và tất cả cùng ăn cơm chung bàn. Sau một lúc, vua A-xà-thế nói với Vi-đề-hy phu nhân rằng:
– Vì thương con mà vua phải ăn cơm chung với chó, thật khó coi!
Quốc thái phu nhân Vi-đề-hy trả lời:
– Ăn cơm chung với chó thì có chi là đặc biệt! Nay vua thương con, chịu ngồi ăn chung với chó mà đã lấy làm chua chát. Tiên vương ngày trước đối với vua còn làm nhiều việc khó làm hơn nữa, nhưng vua không biết đó thôi. Lúc vua còn nhỏ, trên ngón tay có nhọt, đau đớn vô cùng, làm cho vua đêm ngày không ngủ được. Tiên vương ôm vua đặt lên đầu gối, dùng miệng ngậm nhọt độc trên ngón tay cho vua bớt đau. Có khi, khí ấm trong miệng làm cho nhọt vỡ ra và chảy mủ, tiên vương sợ giấc ngủ của vua bị kinh động nên phải nuốt chỗ mủ ấy. Tiên vương thương vua như vậy đó, vì thương con nên đã làm những điều mà người khác không làm được.
Vua A-xà-thế nghe phu nhân Vi-đề-hy kể, yên lặng đặt chén cơm xuống, đứng dậy bước sang phòng bên cạnh. Từ đó trở đi, ông không còn cảm thấy làm vua là vinh quang và sung sướng nữa. Trong tim ông dường như có một tảng đá thật lớn đang đè nặng.
Nghiệp báo của vua A-xà-thế hiện tiền, thân ông nổi đầy mụn nhọt, tâm ông lại không lúc nào là không bị hối hận dày vò. Ông bèn nói với quần thần rằng:
– Bây giờ cả thân lẫn tâm của ta đều bệnh nặng, nhất định là do tội mưu hại vua cha mà ra, ai có thể chữa lành cho ta?
Giữa các đại thần có nhóm lục sư ngoại đạo Nguyệt Xưng, muốn an ủi vua nên dùng đủ thứ tà giáo để chứng minh rằng vì nước mà giết cha thì không có tội, nhưng vua A-xà-thế nghe họ nói không hề động tâm mà còn nặng thêm lòng hối hận.
Lúc ấy có một vị danh y đại thần tên là Kỳ-bà bước lên tâu rằng:
– Đại vương, hiện giờ đại vương cảm thấy trong người như thế nào?
Vua A-xà-thế lắc đầu bảo rằng:
– Kỳ-bà! Bệnh của ta rất trầm trọng, không những thân ta mang bệnh mà bệnh khổ trong tâm cũng rất nặng. Ta nghĩ rằng ngay cả lương y, thuốc thần, chú thuật cũng đều không chữa lành cho ta được! Ngày đêm nằm trên giường ta ưu sầu khổ não, rên xiết kêu la, không tài nào nhắm mắt. Kỳ-bà! Tuy ông là bậc danh y trong thiên hạ, nhưng lần này ngay cả ông cũng phải bó tay thôi!
Kỳ-bà nói một cách trang trọng:
– Đại vương! Xin ngài đừng thất vọng bi thương như vậy. Hiện nay, trên thế gian này, ngoài đức Phật ra, thần nghĩ rằng đúng là không có một người thứ hai có thể cứu bệnh cho đại vương.
Khi Kỳ-bà nói ra những lời ấy, các tùy tùng của vua A-xà-thế đều biến sắc. Họ sợ là Kỳ-bà đã chọc giận vua. Nhưng lần này vua A-xà-thế không hề nổi giận, chỉ yên lặng nhắm mắt. Kỳ-bà quan sát biết được tâm của vua rồi, bèn nói tiếp:
– Đại vương, thần chỉ là một thầy thuốc. Thầy thuốc tuy có thể chữa bệnh thân thể, nhưng tuyệt nhiên không chữa trị được bệnh của tâm. Đức Phật là vị y sĩ vô thượng, chỉ cần đại vương bằng lòng đến bái kiến ngài, chắc chắn ngài sẽ đón tiếp đại vương. Đức Phật giống như biển cả mênh mông, có thể dung nạp tất cả mọi dòng sông. Bệnh khổ của Đại vương do tâm mà sinh, cần phải trị dứt bệnh căn của tâm sau đó mới trị được bệnh của thân.
Vua A-xà-thế gật đầu nói rằng:
– Phải rồi Kỳ-bà, ông nói rất đúng. Ta cũng rất muốn bái kiến đức Phật, song ta sợ ngài sẽ không tiếp ta vì ta là người tội lỗi. Đó là chưa kể những gì ta đã làm cùng với Đề-bà Đạt-đa... Ta rất có lỗi với đức Phật...
Kỳ-bà biết được tâm của vua A-xà-thế ngay trong giờ phút ấy nên tiến thêm một bước nữa, nói rằng:
– Đại vương, thần nghe nói rằng ngay trong giây phút lâm chung, tiên vương đã tha tội cho đại vương rồi. Tiên vương là đệ tử của đức Phật, đệ tử của Phật mà còn tha thứ cho đại vương, không lẽ một đấng đức độ viên mãn, tâm đại bi trùm khắp như đức Phật mà lại không tha thứ cho ngài sao?
Thần nghe đức Phật thuyết giảng rằng, nếu có người tạo tội ác mà biết khởi tâm tàm quý, khẩn thiết chí thành sám hối trước Tam Bảo thì có thể tiêu trừ tội lỗi ấy và nghiệp chướng cũng nhẹ đi. Tuy có một thời đại vương không tin nhân quả mà tạo nghiệp ác, nhưng nếu nhìn theo pháp môn sám hối của đức Phật, thì đại vương vẫn có thể được cứu. Thần thấy nay đại vương đã có tâm tàm quý và sám hối thì đại vương đã bắt đầu bước đi trên một con đường mới rồi!
Thần lại đã từng nghe đức Phật giảng rằng, người có trí huệ thì không dám tạo tội, nếu không cẩn thận mà tạo tội thì sau đó biết sám hối. Người ngu si là người tạo tội mà không hối cải, hay là tạo tội xong lại còn che giấu. Nếu đại vương đến được trước mặt đức Phật để mà sám hối, nói rõ là sẽ không tái phạm nữa, thì ánh sáng từ bi của ngài sẽ phù hộ che chở cho đại vương.
Đại vương, người trí không che giấu tội của mình. Đức Phật thường nói, làm người phải tin sâu nhân quả, tin chắc chắn rằng không ai thoát được nghiệp báo dẫu trong đường tơ kẽ tóc.
Trên thế gian này chỉ có những kẻ mất lòng tin là không thể cứu được, đại vương không mất lòng tin thì chắc chắn là sẽ được đức Phật cứu độ.
Lòng từ ái của đức Phật vô lượng vô biên, tất cả chúng sinh đều được ngài thương xót. Đức Phật không phân biệt kẻ oán người thân, kẻ thương người ghét, người giàu kẻ nghèo, kẻ sang người hèn... Ngài cứu độ tất cả mọi người một cách bình đẳng. Đức Phật cho phép ông Bạt-đề tôn quý xuất gia, cũng cho phép ông Ưu-ba-ly hạ tiện xuất gia. Đức Phật tiếp nhận sự cúng dường của phú ông Tu-đạt-đa, cũng không từ chối sự bố thí của kẻ bần cùng.
Đức Phật đã cảm hóa ngài Đại Ca Diếp vốn trốn tránh dục nhiễm gia nhập vào tăng đoàn, nhưng Ngài cũng đã dùng phương tiện khuyến hóa được một người đầy tham dục như ngài Nan-đà và cho xuống tóc. Quỷ mẹ cùng Ương-quật-ma-la, ai nghe tên cũng hãi hùng nhưng đức Phật đã tìm đến họ để hóa độ. Đối với ai Phật cũng hết lòng thương xót, xin đại vương không nên nghi ngại gì cả.
Thật ra nói lên những lời này thần rất e ngại, nhưng thần không thể không nói ra với đại vương. Hiện giờ đức Phật đang cùng các vị đệ tử của ngài đến vườn lê của hạ thần và sẽ thuyết pháp nơi đó, xin đại vương hãy mau đến tham bái ngài, xóa tan màn mây đen tối trong tâm và để chỗ cho bầu trời quang đãng xán lạn. Đây là một cơ hội ngàn vàng, thần khẩn khoản xin đại vương đừng bỏ lỡ!
Vua A-xà-thế nghe xong, trong mắt phát ra những tia hy vọng lẫn hối hận, ông đáp:
– Nghe khanh nói trẫm rất vui mừng, vậy khanh hãy về chọn ngày lành tháng tốt, trẫm nhất quyết đến tham bái đức Phật để cầu xin sám hối.
Kỳ-bà lắc đầu tỏ vẻ không đồng ý:
– Đại vương, trong giáo pháp của đức Phật, không có những sự mê tín như ngày lành tháng tốt. Đức Phật thường dặn dò các vị đệ tử của ngài rằng: Không nên bói toán, bốc quẻ hung kiết. Tu học chính pháp và hành động theo chính pháp thì ngày nào cũng lành và tháng nào cũng tốt cả. Tốt nhất là đại vương nên khởi hành ngay!
Vua A-xà-thế rất vui lòng, cho chuẩn bị thật nhiều phẩm vật cúng dường, và cùng một đại đội tùy tùng rầm rộ hướng đến vườn lê của Kỳ-bà.
Nhưng trên đường đi, A-xà-thế bỗng cảm thấy lo sợ và bất an. Ông ra lệnh cho voi lớn kéo đoàn xe ngựa phải ngừng lại, nói với Kỳ-bà rằng:
– Kỳ-bà, ta nghĩ rằng đức Phật đã lìa mọi nhiễm ô, ngài có nhân cách thanh tịnh như trăng tròn. Tăng đoàn của Ngài toàn là những vị thánh nhân đã đoạn diệt phiền não. Ta và Đề-bà Đạt-đa đã phản nghịch đức Phật, thì làm sao ngài lại bằng lòng tiếp kiến một kẻ cực ác vô đạo như ta? Làm sao ngài lại chịu đưa bàn tay cứu độ ra cho một kẻ tội lỗi như ta? Ta nghĩ hay là thôi vậy, chúng ta nên quay về!
Kỳ-bà nghiêm sắc mặt mà nói rằng:
– Tình của cha mẹ đối với con cái vốn bình đẳng, nhưng phần lớn cha mẹ lại thường đặc biệt lo lắng cho những đứa con có bệnh. Từ bi của đức Phật cũng bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, nhưng đối với người có tội, ngài càng đặc biệt quan tâm hơn. Đối với những kẻ mất hẳn lòng tin, đức Phật còn thuyết chính pháp cho nghe, đại vương chưa phải đã mất lòng tin thì lý do gì mà đức Phật không từ bi cứu độ?
Vua A-xà-thế còn đang do dự, thì trong không trung bỗng nhiên có âm thanh vang lên:
– A-xà-thế, ta là Tần-bà-sa-la, phụ vương của con. Con hãy mau tin nghe theo lời của danh y Kỳ-bà, đến chỗ đức Phật mà cầu sám hối. Ta muốn nói với con một điều, đèn pháp sắp tắt, thuyền pháp sắp chìm, cây pháp sắp gãy, hoa pháp sắp tàn rồi. Mặt trời có lúc phải lặn về tây, đức Phật nay sắp nhập Niết Bàn. Lúc ấy thì căn bệnh trầm trọng của con, ai sẽ cứu chữa? Tội nặng ngũ nghịch mà con đã phạm khiến cho trong không bao lâu nữa con sẽ đọa địa ngục. Ta thương con nên mới khuyên con hãy mau đến chỗ của đức Phật mà cầu cứu. Trừ đức Phật đại giác, đời đời kiếp kiếp không ai có thể cứu độ con được!
A-xà-thế nghe được âm thanh từ ái của cha, đau khổ quá, ngã xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh dậy thì danh y Kỳ-bà dẫn ông xuống xe đến chỗ đức Phật đang tĩnh tọa trong giảng đường.
Đức Phật ngồi ngay ngắn trên tòa sư tử, bốn bề có đệ tử vây quanh, ánh lửa sáng rực, hương khói cuồn cuộn bay, mọi người đang an tĩnh tọa thiền.
Vua A-xà-thế rửa chân bước vào giảng đường, Kỳ-bà đưa ông đến trước tòa của đức Phật, chắp hai tay trước ngực mà thưa rằng:
– Thế Tôn, thỉnh ngài quán sát tâm con!
Đức Phật mở đôi mắt trong sáng ra, hiền từ đáp rằng:
– Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu.
Vua A-xà-thế kinh ngạc trước sự ưu ái của đức Phật, vội vàng quỳ xuống, cúi đầu thật thấp nói một cách hổ thẹn:
– Thế Tôn từ bi! Con không xứng đáng, con là người cực ác vô đạo, nếu được Thế Tôn quát mắng con đã thấy vô cùng hạnh phúc, nay lại còn được Thế Tôn dùng lời từ ái như thế, con rất cảm kích!
Tâm đại bi của Thế Tôn không bỏ sót một chúng sinh nào, hôm nay con mới được thấy tận mắt. Thế Tôn là bậc cha lành của tất cả chúng sinh. Con rất hối hận đã sát hại người cha vô tội, bây giờ thân tâm con bất an, nguyện Thế Tôn từ bi cứu vớt!
Đức Phật nhẹ nhàng nói:
– Trên thế gian có hai loại người có thể có hạnh phúc chân chính: một là người tu thiện pháp không tạo tội, hai là người tạo tội biết sám hối. Nay cơ duyên hối lỗi của đại vương đã thành thục. Trên đời này có ai là không phạm tội? Biết lỗi thì sửa đổi, đó là cách cư xử của người tốt. Pháp môn của ta quảng đại vô biên, đại vương cứ luôn luôn sám hối là được.
Đại vương, tội lỗi vốn không có bản thể, vốn là không, huyễn, nếu tâm ý mà hết bám giữ thì tội lỗi cũng tiêu diệt. Hiểu rõ rằng tâm và tội bản thể là không, không có thật, thì đó là sám hối một cách chân chính.
Từ nay đại vương hãy lấy chính pháp trị dân, đừng làm điều phi pháp nữa. Nên lấy đức cải hóa dân, đừng nên bạo tàn. Nếu đại vương nhân từ thì danh thơm tiếng tốt sẽ lan truyền bốn phương, đại vương sẽ được chúng sinh tôn kính, không muốn phục tùng cũng không được. Chuyện quá khứ đã qua rồi, chẳng còn gì để bàn đến nữa. Từ nay trở đi, việc quan trọng là làm sao sửa đổi. Đại vương mà làm việc thiện thì sẽ được an ổn, sung sướng. Tiến thêm một bước nữa thì hãy học pháp Không của Phật đạo, chứng quả Không để được giải thoát.
A-xà-thế nghe đức Phật giáo huấn rồi, cảm thấy đầy hy vọng và tin tưởng trong cuộc sống mới. Ông vô cùng hoan hỉ, tất cả mây đen mê vọng đã được quét sạch, quỳ trước bảo tòa ông cảm động rơi nước mắt. Quả thật là, “Lãng tử hồi đầu kim bất hoán” (kẻ chơi bời phóng túng mà biết quay về thì còn quý hơn vàng), cuối cùng rồi vua A-xà-thế quy y với đức Phật và được cứu độ.
shared http://rongmotamhon.net/xem-sach_Truyen-tich-Vu-Lan-Phat-Giao-_cgdqtcst_show.html
***
Lúc bấy giờ Vua A xà Thế ngồi xe tứ mã cùng với đầy đủ quần thần ra thành đi đến nơi Phật ngụ, trước Phật nhà vua tác lễ mà đứng rồi bạch Phật:
Thưa Thế Tôn: Mọi người do từ nhân duyên nào mà tạo ra tội?
Phật bảo A Xà Thế: - Do sống với cái ta với nhân, ngã mà liền tạo ra tội. Vì tham thân mà dụng có thân, cho nên tội nằm ở trong thân, không cách ly được nó.
Vua A Xà Thế hỏi: Hổ trợ cho tham ái thì gốc của nó nằm ở chỗ nào?
Phật dạy: Không sáng suốt là gốc vậy.
Vua liền hỏi: Căn nguyên của không sáng suốt là ai?
Phật dạy: Chỗ tạo tác cùng với các niệm khác. Ðây chính là nguyên do…
Vua lại hỏi: Chỗ nào giúp cho niệm khác?
Phật dạy: Thân kia vốn không đồng với chỗ tạo ra thì gọi đó là chỗ ấy.
Vua lại hỏi: Vốn nó khác thì sao gọi là chỗ giúp cho niệm khác?
Phật dạy: Chỗ hóa hiện như trò ảo không sở hữu được cho nên là khác.
Vua lại hỏi: Ai là kẻ biến hóa?
Phật dạy: Không có người tạo cho nên nó là biến hóa.
Vua lại hỏi: Không chỗ sanh, không sở hữu thì phải so tính như thế nào?
Phật dạy: Vì dụng của nó là không chỗ sanh, không sở hữu, nên không thể so tính.
Vua lại hỏi: Chỗ nghi ngờ thì từ nhân duyên nào mà khởi phát?
Phật dạy: Vì không chỗ để căn cứ.
- Sao gọi là không chỗ dựa? Vua hỏi.
Phật dạy: Như lời nói ra, điều nghe được thì ấy là chỗ nghi. Ðây gọi là điều không căn cứ.
Vua lại hỏi: Ðạo này ở chỗ nào? Chỗ nào là tín?
Phật dạy: Thoát ra khỏi dâm, nôï, si thì đây là đạo.
Chỗ nào là niềm tin này? Vua hỏi.
Phật dạy: Các pháp căn bản không được chỉ bày, song tâm kia không khác cho nên là tín.
Vua A Xà Thế liền nói: Lành thay! Lành thay! Như điều Như Lai thuyết dạy, thì vì lý do nào mà mọi người không tin tự tạo tác là sao? Nay ta nghe theo lời của người ác ra lệnh cho kẻ hạ thần là tự giết chết cha ta. Bởi vì cái tham lợi nước sai khiến, vì cái tham tài bảo sai khiến, vì cái tham lợi làm chúa tể của dân sai khiến, vì tham lợi cái địa vị cao quí sai khiến. Nay ta sai bảo kẻ hạ thần đểø sát hại cha ta. Tham thân, nghi ngờ cô độc không thể tự mình cỡi trói, hoặc uống, hoặc ăn, ở nơi vui đùa trác lạc. Hoặc nơi điện ngự, nghe ngóng xét dò việc nước. Hoặc ở trong cung với 5 thứ dục lạc, hoặc một mình cùng với mọi thứ đều đầy đủ, ngày đêm với nó mà nào có quên. Uống ăn thì không thể nào tiêu, thân này cũng đâu có nằm, nhan sắc cũng không hòa vui. Khi ấy, tâm ta thường là yếu điểm của lo sợ, biết không thể rời bỏ được địa ngục Nê Lê thì lại đem lời giải bày. Nếu mù lòa thì phải nhờ ơn Phật mà được con mắt sáng. Nếu bị nhận chìm bởi nước thì nương theo Phật mà ra khỏi. Những ai có nỗi khổ niềm đau thì Phật là người khiến họ được an ổn. Những ai có khiếp sợ thì Phật là người làm việc bảo hộ họ. Những ai đang bần cùng thì Phật có thể vì họ mà làm ra trân bảo. Những ai có mất đi lối đạo thì Phật có thể chỉ bày cho họ con đường đạo. Phật vì lòng thương càng lớn mà không cho việc làm ấy là sự cần mẫn thái quá, tâm bình đẳng đối với tất cả, kiên cố với nó mà làm dày lên, thường nhẫn với khổ, vui mà không bỏ đối với bất cứ một ai. Nay thân ta như là tấm thân của sợ hãi, sầu bi chỉ có Phật là đang gia hộ ta, khiển nguy mà được an. Thân không có khả năng để cứu lấy, chỉ cúi xin Phật mà ta được sự cứu giúp. Không nơi quay về thì con cúi xin Ngài nhận làm nơi để con quay về. Giống như không con mắt, chỉ mong sao được mắt để mà nhìn thấy, như ước muốn của người què là mơ ước làm sao để được đứng vững. Nay phải vào địa ngục A tỳ cho đến đại địa ngục Nê Lê, điều khiến được là xin không vào. Ngưỡng mong Như Lai nay hãy vì con mà nói rõ điều hồ nghi của con khiến lòng được giảøi tỏa, đến chết cũng không còn ngờ vực, khiến trọng tội từ đó được giảm nhẹ.
Phật nghĩ đến vua A Xà Thế đã nói lên được các điều kia, nó sâu thẳm mà vi diệu, bệnh này chẳng thể nào trị liệu được, chỉ riêng có Phật, Văn thù sự lợi mới có được cảm ứng. Xá lợi Phất nhờ oai thần Phật, nói với A Xà Thế rằng: Muốn giải tỏa hồ nghi thì sáng mai làm thức ăn thỉnh mời Văn thù Sư lợi v.v… đến cung kia để nhận sự cúng dường. Những ai là người của quan thuộc thì đều phải được cái phước kia kể cả các sắc dân của nước La Duyệt đều nhân công đức này mà có thể làm công đức cho mình. Vua A Xà Thế liền bạch Văn thù Sư lợi:
Mong đoái tưởng ban đại ân, sáng mai, xin được chiếu cố, mời Bồ tát đến cung dùng bửa cúng dường.
Văn thù Sư lợi bèn đáp rằng: Bằng sự đầy đủ thì có thể đó là sự cúng dường rồi. Văn thù Sư lợi lại nói: Phật pháp đâu phải vì đồ ăn, áo mặc!
A Xà Thế liền bạch: Phải lấy cái gì để cúng đây?
Văn thù Sư lợi đáp lời: Nếu đã thấu rõ được sự vi diệu thì việc cúng kia xét cho cùng không chỗ nào vẫn đục, cũng không chỗ vướng mắc, cũng không chỗ nghi ngờ, không chỗ khó khăn, không chỗ sợ sệt, không một chỗ kinh hãi. Như vậy là do lòng thương xót mà được. Văn thù Sư lợi lại bảo A Xà Thế: Ýniệm về các Pháp cũng không niệm hữu, cũng không niệm vô, điều này là do lòng thương mà được. Không phải niệm tâm quá khứ, cũng không phải niệm tâm tương lai, cũng không phải niệm tâm hiện tại, ý niệm về niệm này là để lòng thương càng được nhân lên. Nhà ngươi không phải nhớ nghĩ đến bất cứ chỗ nào để có thể thấy được tất cả, cũng chẵng chân thành tạo ra niệm ấy là để lòng thương càng được nhân lên.
Vua A Xà Thế lại bạch Văn thù Sư lợi: Như lời Bồ Tát nói thì chỗ chuyển tải của pháp đều không có khác? Cúi xin hãy vì con nên càng phải thương mà nhận cho lời mời của con.
Văn thù Sư lợi lại bảo: Dừng lại thôi! Ðạo kia, vì chẳng phải do điều ấy nên hoặc uống hoặc ăn, hoặc vua không niệm có ta, có ngã, thọ mạng, người, là vì niệm ấy do bởi lòng thương được tăng cường. Nếu tâm không chỗ nắm, cũng không chỗ duyên, cũng không 4 đại, cũng không 5 ấm, cũng không sáu suy, cũng không nắm giữ ba cõi, cũng không ở công đức, cũng không niệm không có công đức, cũng không ở tục, cũng không ở đạo, cũng không ở tội, cũng không ở vô tội, cũng không ở còn, cũng không ở hết, cũng không ở thoát, cũng không ở không thoát, cũng không ở sanh tử, cũng không ở niết bàn. Thực hiện được như vậy là do bởi lòng thương xót được tăng cường.
Vua A Xà Thế lại bạch Văn thù Sư lợi: Nghe pháp này lòng hăng hái lại bội phần phấn khích, do vậy nên con muốn thỉnh Bồ tát nhằm để con nhờ pháp ấy mà được an ổn.
Văn thù Sư lợi đáp lời: Nhà ngươi mong cầu có được chỗ duyên, muốn được an ẩn, bởi vậy không duyên thì không an ổn. Vì sao vậy ? Vì nhân của pháp kia là không chỗ duyên, không có an, không niệm pháp ấy cũng không cống cao. Tất cả không chỗ niệm cho nên duyên, cho nên an. Ở trong đây không có ác ý,về sau lại không có tai biến, tiếp theo có tai biến, ấy là không an. Từ xưa đến mãi mãi không có khác biệt, bởi vậy mới là an.
A Xà Thế lại hỏi: Nói lên chỗ pháp nào mà không có sai biệt là có thể được an?
Văn thù Sư lợi nói: Nếu vô tác rỗng không, cái khả năng tạo tác không có thì không thì không có tướng, không có nguyện, không có tạo tác, cũng không có người tạo tác. Ai có ý niệm về ngã, có chỗ tạo ra, không chỗ tạo ra, cho nên là sai khác. Cũng không cầu, không chỗ duyên với thân, iệng, ý thì đây là tạo tác. Vì sao vậy? Vì không có tướng sống chết, cho nên các pháp nếu có chỗ duyên thì phải biết tất cảđều không chỗ để duyên.
A Xà Thế lại hỏi: Vì sao gọi là sống chết, không sống chết?
Văn thù liền bảo:Không niệm quá khứ cùng tận, cũng không niệm tương lai chưa đến, cũng không niệm hiện tại mà niệm vô thường.Với các pháp không niệm có chỗ tăng, có chỗ giảm. Hiện thực được sự sống chết như thế này thì không còn sống chết.
A Xà Thế lại hỏi: Chưa giải thoát thì phải như thế nào để hợp cùng với đạo?
Văn thù Sư lợi bảo: Nhà ngươi biết ánh sáng trời, trăng cùng với bóng tối hợp lại được không?
A Xà Thế thưa: Hợp không được. Vì sao vậy? Vì mặt trời xuất hiện thì các tối tăm bị xua tan.
Văn thù Sư lợi lại hỏi: Phải chăng Vua biết được bóng tối từ chỗ nào đến rồi ư?
Nhà Vua đáp lời: Không thể biết được xuất xứ của nó là từ chỗ nào.
Văn thù Sư lợi bảo: Ðiều ấy là thời của đạo trí. Giống như mặt trời mọc không thể biết các tối tăm đang ở đâu. Như vậy là thời, cũng không biết bóng tối chưa thoát ra đang ở nơi nào? Văn thù Sư lợi lại bảo: Ðạo cùng với cái “chưa thoát” giống nhau. “Chưa thoát” cùng với đạo giống nhau. Vì sao vậy? Vì hoàn toàn là cái rỗng không, vì chưa thoát cùng với đạo bình đẳng. Các pháp đều bình đẳng. Ai biết điều này thì “chưa thoát”, ấy là đạo. Vì sao vậy? – Vì cầu không thoát, không biết nơi chốn, cho nên gọi là đạo. Vì sự cầu kia không chỗ thoát mà không thể thấy thì đây là đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Vì sao bảo rằng không thoát mà là đạo. Văn thù Sư lợi dạy: Với không thoát thì đây là đạo?
_ Không làm hiện thực nó, đó là đạo _ Văn Thù bảo.
A Xà Thế lại hỏi: Ðạo kia, phải học như thế nào?
Văn Thù liền đáp lời: Giống như học các pháp.
A Xà Thế lại hỏi: Do bởi học các pháp, há lẽ các pháp có nơi chốn ư?
Văn thù Sư lợi bảo: Học cái học này thì không thể đến được đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Với cái học kia thì phải đến Nê hoàn không?
Văn thù Sư lợi bảo: Hóa ra có pháp từ Nê hoàn đến, rằng ngã từ Nê hoàn lại?
A Xà Thế liền thưa: Cũng không đi, cũng không đến .
Văn thù Sư lợi nói với A Xà Thế rằng: Ai học đạo mà biết không nơi chốn, cho nên đó là đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Phải trụ đạo vào chỗ nào để học cái học này?
VănThù liền đáp rằng: Vô sở trụ, đây là học đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Việc học đạo kia thì không trụ ở việc học tịnh giới, Tam muội trí tuệ?
Văn Thù liền đáp rằng: Ðạo kia, bằng không duyên vào giới, không cầu tam muội, thì không cống cao trụ ở nơi trí tuệ. Văn thù Sư lợi bảo A Xà Thế: Thế ra, có thể duyên vào giới, cầu tam muội, cống cao ở nơi trí tuệ, làm như vậy thì co ùchỗ cho trú ngụ không?
A Xà Thế thưa: Không có chỗ.
Văn thù Sư lợi bảo: Cho nên phải biết đạo không nơi chốn để trụ.
A Xà Thế lại hỏi: Người nam, người nữ phải như thế nào để tự mình đối diện với đạo?
Văn thù Sư lợi bảo: những ai muốn học đạo thì không thấy pháp hữu thường, vô thường, không thấy pháp có thoát, không có thoát, cũng không thấy pháp an hoặc khổ, cũng không thấy pháp là ngã hoặc mọi người, cũng không thấy pháp từ nơi sanh, tử đến niết bàn. Học cái học đạo này là đối diện với đạo.
Vua A Xà Thế liền thưa: Lành thay! Lành thay! Như điều thuyết dạy của Bồ tát Văn thù Sư lợi, con cúi mong Văn Thù nhận cho lời mời của con. Vì sao vậy? Vì để giải tỏa nổi cô độc nghi ngờ ở trong con. Từ trong con chín muồi những nghĩ suy rằng như các pháp không ta, không ngã, không thọ, không mạng mà ta có nỗi nghi ngờ cô độc.
Văn thù Sư lợi bảo: Như không có thì không thể khiến có. Bởi không có ấy nên cũng không thoát, cũng chẳng không chỗ thoát. Ai nói về ngã mà có thoát khỏi ngã. Do bởi không có thoát nên cũng chẳng thoát, cũng không chỗ thoát, Vì sao vậy? Vì các pháp đều thoát ra khỏi nó.
Phật bảo Văn thù Sư lợi nhận lời mời của Vua A xà Thế vì công dụng của nó là được vô số người.
Văn thù Sư lợi thưa: Xin nhận sự chỉ giáo của Như Lai. Vì sao vậy? Vì không trái với lời dạy.
A Xà Thế rất lấy làm phấn khởi vui mừng liền từ tòa ngồi đứng lên, vì Phật các tỳ kheo và Văn thù Sư lợi tác lễ mà ra về. Vừa đi, A Xà Thế lại hỏi Xá Lợi Phất :Văn thù Sư lợi với đoàn tuỳ tùng là bao nhiêu người?
Xá Lợi Phất bảo: 500 người đều được mời đến thọ trai ở vương cung.
Nhà Vua bèn theo đường về lại thành. Vua liền ban lệnh cho đại quan sai người làm thức ăn trăm vị. Ngay ngày ấy cho sửa sang trên điện Vua. Nơi đây, tràng phan, màn trướng, lộng hoa được trang hoàng để đón rước. Hoa được rãi khắp đất cung điện, đem danh hương xông đều khắp nơi. Sắp đặt 500 sàn cao, tất cả sàn đều trải danh ngọc được chuốt gọt đủ kiểu, màu sắc của nó đẹp vô ngần. Nội cung họp lại, tất cả điều chỉnh lại sắc đẹp bằng hương hoa khắp người. Ban lệnh cho thành, quách, các ngã tư đường, chợ, làng mạc đều phải quét dọn sạch sẽ, đặt hương hoa hai bên đường. Cạnh đường thì đều dàn dựng màng trướng, cờ phan làm nổi bật uy nghiêm. Cổng làng nào cũng đều dựng song kết hoa đón mừng. Ra lệnh cho nhân dân, mọi người sáng sớm ấy phải đón đường nghinh tiếp cúng dường.
Văn thù Sư lợi liền vào sơ dạ.Văn Thù tự nghĩ: Ta cùng với một số ít xuất hiện đến chỗ mời hội thì cũng không ai cảm động, chi bằng đến cõi khác để mời Chư Bồ tát đi đến nơi ấy rồi khiến họ đến thỉnh, tất cả đều nghe lời thuyết pháp của ta. Khi niệm này hiện lên, bấy giờ thời gian như cái duỗi cánh tay, Văn Thù liền từ đó mất dạng, đến Phương Ðông, qua tám vạn hai ngàn cõi Phật. Cõi độ này có tên gọi là Thường Danh Văn. Vị Phật ở đây có hiệu là Duy Tịnh Thủ. Hiện tại có chúng Bồ tát không dị đạo, cõi độ này thường chuyển pháp luân A Duy Việt Trí. Tất cả các thứ cây trên đất cõi đều là các báu, hoa, lá, quả của nó vô số sắc màu. Một khi gió thổi qua các cây này thì chỉ nghe tiếng Phật, chỉ nghe tiếng pháp và tiếng Tăng A Duy Việt Trí. Ở đây cái thường dùng là nghe âm thanh Tam bảo, cho nên cõi của Phật ấy tên gọi là Sa đà duy cù tra. Văn thù Sư lợi đã có mặt tại nơi đây, vì Phật, Văn Thù tác lễ, bạch Như Lai Duy Tịnh Thủ rằng: Xin vì lời mời của tôi mà ngài khiến bảo hết Bồ tát sang quốc độ Sa Ha, đến vương quốc A Xà Thế, dự bữa cúng dường.
Phật liền nói với Bồ tát: Ai muốn đi thì hoan hỉ đến dự hội.
Thưa Thế Tôn: Mọi người do từ nhân duyên nào mà tạo ra tội?
Phật bảo A Xà Thế: - Do sống với cái ta với nhân, ngã mà liền tạo ra tội. Vì tham thân mà dụng có thân, cho nên tội nằm ở trong thân, không cách ly được nó.
Vua A Xà Thế hỏi: Hổ trợ cho tham ái thì gốc của nó nằm ở chỗ nào?
Phật dạy: Không sáng suốt là gốc vậy.
Vua liền hỏi: Căn nguyên của không sáng suốt là ai?
Phật dạy: Chỗ tạo tác cùng với các niệm khác. Ðây chính là nguyên do…
Vua lại hỏi: Chỗ nào giúp cho niệm khác?
Phật dạy: Thân kia vốn không đồng với chỗ tạo ra thì gọi đó là chỗ ấy.
Vua lại hỏi: Vốn nó khác thì sao gọi là chỗ giúp cho niệm khác?
Phật dạy: Chỗ hóa hiện như trò ảo không sở hữu được cho nên là khác.
Vua lại hỏi: Ai là kẻ biến hóa?
Phật dạy: Không có người tạo cho nên nó là biến hóa.
Vua lại hỏi: Không chỗ sanh, không sở hữu thì phải so tính như thế nào?
Phật dạy: Vì dụng của nó là không chỗ sanh, không sở hữu, nên không thể so tính.
Vua lại hỏi: Chỗ nghi ngờ thì từ nhân duyên nào mà khởi phát?
Phật dạy: Vì không chỗ để căn cứ.
- Sao gọi là không chỗ dựa? Vua hỏi.
Phật dạy: Như lời nói ra, điều nghe được thì ấy là chỗ nghi. Ðây gọi là điều không căn cứ.
Vua lại hỏi: Ðạo này ở chỗ nào? Chỗ nào là tín?
Phật dạy: Thoát ra khỏi dâm, nôï, si thì đây là đạo.
Chỗ nào là niềm tin này? Vua hỏi.
Phật dạy: Các pháp căn bản không được chỉ bày, song tâm kia không khác cho nên là tín.
Vua A Xà Thế liền nói: Lành thay! Lành thay! Như điều Như Lai thuyết dạy, thì vì lý do nào mà mọi người không tin tự tạo tác là sao? Nay ta nghe theo lời của người ác ra lệnh cho kẻ hạ thần là tự giết chết cha ta. Bởi vì cái tham lợi nước sai khiến, vì cái tham tài bảo sai khiến, vì cái tham lợi làm chúa tể của dân sai khiến, vì tham lợi cái địa vị cao quí sai khiến. Nay ta sai bảo kẻ hạ thần đểø sát hại cha ta. Tham thân, nghi ngờ cô độc không thể tự mình cỡi trói, hoặc uống, hoặc ăn, ở nơi vui đùa trác lạc. Hoặc nơi điện ngự, nghe ngóng xét dò việc nước. Hoặc ở trong cung với 5 thứ dục lạc, hoặc một mình cùng với mọi thứ đều đầy đủ, ngày đêm với nó mà nào có quên. Uống ăn thì không thể nào tiêu, thân này cũng đâu có nằm, nhan sắc cũng không hòa vui. Khi ấy, tâm ta thường là yếu điểm của lo sợ, biết không thể rời bỏ được địa ngục Nê Lê thì lại đem lời giải bày. Nếu mù lòa thì phải nhờ ơn Phật mà được con mắt sáng. Nếu bị nhận chìm bởi nước thì nương theo Phật mà ra khỏi. Những ai có nỗi khổ niềm đau thì Phật là người khiến họ được an ổn. Những ai có khiếp sợ thì Phật là người làm việc bảo hộ họ. Những ai đang bần cùng thì Phật có thể vì họ mà làm ra trân bảo. Những ai có mất đi lối đạo thì Phật có thể chỉ bày cho họ con đường đạo. Phật vì lòng thương càng lớn mà không cho việc làm ấy là sự cần mẫn thái quá, tâm bình đẳng đối với tất cả, kiên cố với nó mà làm dày lên, thường nhẫn với khổ, vui mà không bỏ đối với bất cứ một ai. Nay thân ta như là tấm thân của sợ hãi, sầu bi chỉ có Phật là đang gia hộ ta, khiển nguy mà được an. Thân không có khả năng để cứu lấy, chỉ cúi xin Phật mà ta được sự cứu giúp. Không nơi quay về thì con cúi xin Ngài nhận làm nơi để con quay về. Giống như không con mắt, chỉ mong sao được mắt để mà nhìn thấy, như ước muốn của người què là mơ ước làm sao để được đứng vững. Nay phải vào địa ngục A tỳ cho đến đại địa ngục Nê Lê, điều khiến được là xin không vào. Ngưỡng mong Như Lai nay hãy vì con mà nói rõ điều hồ nghi của con khiến lòng được giảøi tỏa, đến chết cũng không còn ngờ vực, khiến trọng tội từ đó được giảm nhẹ.
Phật nghĩ đến vua A Xà Thế đã nói lên được các điều kia, nó sâu thẳm mà vi diệu, bệnh này chẳng thể nào trị liệu được, chỉ riêng có Phật, Văn thù sự lợi mới có được cảm ứng. Xá lợi Phất nhờ oai thần Phật, nói với A Xà Thế rằng: Muốn giải tỏa hồ nghi thì sáng mai làm thức ăn thỉnh mời Văn thù Sư lợi v.v… đến cung kia để nhận sự cúng dường. Những ai là người của quan thuộc thì đều phải được cái phước kia kể cả các sắc dân của nước La Duyệt đều nhân công đức này mà có thể làm công đức cho mình. Vua A Xà Thế liền bạch Văn thù Sư lợi:
Mong đoái tưởng ban đại ân, sáng mai, xin được chiếu cố, mời Bồ tát đến cung dùng bửa cúng dường.
Văn thù Sư lợi bèn đáp rằng: Bằng sự đầy đủ thì có thể đó là sự cúng dường rồi. Văn thù Sư lợi lại nói: Phật pháp đâu phải vì đồ ăn, áo mặc!
A Xà Thế liền bạch: Phải lấy cái gì để cúng đây?
Văn thù Sư lợi đáp lời: Nếu đã thấu rõ được sự vi diệu thì việc cúng kia xét cho cùng không chỗ nào vẫn đục, cũng không chỗ vướng mắc, cũng không chỗ nghi ngờ, không chỗ khó khăn, không chỗ sợ sệt, không một chỗ kinh hãi. Như vậy là do lòng thương xót mà được. Văn thù Sư lợi lại bảo A Xà Thế: Ýniệm về các Pháp cũng không niệm hữu, cũng không niệm vô, điều này là do lòng thương mà được. Không phải niệm tâm quá khứ, cũng không phải niệm tâm tương lai, cũng không phải niệm tâm hiện tại, ý niệm về niệm này là để lòng thương càng được nhân lên. Nhà ngươi không phải nhớ nghĩ đến bất cứ chỗ nào để có thể thấy được tất cả, cũng chẵng chân thành tạo ra niệm ấy là để lòng thương càng được nhân lên.
Vua A Xà Thế lại bạch Văn thù Sư lợi: Như lời Bồ Tát nói thì chỗ chuyển tải của pháp đều không có khác? Cúi xin hãy vì con nên càng phải thương mà nhận cho lời mời của con.
Văn thù Sư lợi lại bảo: Dừng lại thôi! Ðạo kia, vì chẳng phải do điều ấy nên hoặc uống hoặc ăn, hoặc vua không niệm có ta, có ngã, thọ mạng, người, là vì niệm ấy do bởi lòng thương được tăng cường. Nếu tâm không chỗ nắm, cũng không chỗ duyên, cũng không 4 đại, cũng không 5 ấm, cũng không sáu suy, cũng không nắm giữ ba cõi, cũng không ở công đức, cũng không niệm không có công đức, cũng không ở tục, cũng không ở đạo, cũng không ở tội, cũng không ở vô tội, cũng không ở còn, cũng không ở hết, cũng không ở thoát, cũng không ở không thoát, cũng không ở sanh tử, cũng không ở niết bàn. Thực hiện được như vậy là do bởi lòng thương xót được tăng cường.
Vua A Xà Thế lại bạch Văn thù Sư lợi: Nghe pháp này lòng hăng hái lại bội phần phấn khích, do vậy nên con muốn thỉnh Bồ tát nhằm để con nhờ pháp ấy mà được an ổn.
Văn thù Sư lợi đáp lời: Nhà ngươi mong cầu có được chỗ duyên, muốn được an ẩn, bởi vậy không duyên thì không an ổn. Vì sao vậy ? Vì nhân của pháp kia là không chỗ duyên, không có an, không niệm pháp ấy cũng không cống cao. Tất cả không chỗ niệm cho nên duyên, cho nên an. Ở trong đây không có ác ý,về sau lại không có tai biến, tiếp theo có tai biến, ấy là không an. Từ xưa đến mãi mãi không có khác biệt, bởi vậy mới là an.
A Xà Thế lại hỏi: Nói lên chỗ pháp nào mà không có sai biệt là có thể được an?
Văn thù Sư lợi nói: Nếu vô tác rỗng không, cái khả năng tạo tác không có thì không thì không có tướng, không có nguyện, không có tạo tác, cũng không có người tạo tác. Ai có ý niệm về ngã, có chỗ tạo ra, không chỗ tạo ra, cho nên là sai khác. Cũng không cầu, không chỗ duyên với thân, iệng, ý thì đây là tạo tác. Vì sao vậy? Vì không có tướng sống chết, cho nên các pháp nếu có chỗ duyên thì phải biết tất cảđều không chỗ để duyên.
A Xà Thế lại hỏi: Vì sao gọi là sống chết, không sống chết?
Văn thù liền bảo:Không niệm quá khứ cùng tận, cũng không niệm tương lai chưa đến, cũng không niệm hiện tại mà niệm vô thường.Với các pháp không niệm có chỗ tăng, có chỗ giảm. Hiện thực được sự sống chết như thế này thì không còn sống chết.
A Xà Thế lại hỏi: Chưa giải thoát thì phải như thế nào để hợp cùng với đạo?
Văn thù Sư lợi bảo: Nhà ngươi biết ánh sáng trời, trăng cùng với bóng tối hợp lại được không?
A Xà Thế thưa: Hợp không được. Vì sao vậy? Vì mặt trời xuất hiện thì các tối tăm bị xua tan.
Văn thù Sư lợi lại hỏi: Phải chăng Vua biết được bóng tối từ chỗ nào đến rồi ư?
Nhà Vua đáp lời: Không thể biết được xuất xứ của nó là từ chỗ nào.
Văn thù Sư lợi bảo: Ðiều ấy là thời của đạo trí. Giống như mặt trời mọc không thể biết các tối tăm đang ở đâu. Như vậy là thời, cũng không biết bóng tối chưa thoát ra đang ở nơi nào? Văn thù Sư lợi lại bảo: Ðạo cùng với cái “chưa thoát” giống nhau. “Chưa thoát” cùng với đạo giống nhau. Vì sao vậy? Vì hoàn toàn là cái rỗng không, vì chưa thoát cùng với đạo bình đẳng. Các pháp đều bình đẳng. Ai biết điều này thì “chưa thoát”, ấy là đạo. Vì sao vậy? – Vì cầu không thoát, không biết nơi chốn, cho nên gọi là đạo. Vì sự cầu kia không chỗ thoát mà không thể thấy thì đây là đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Vì sao bảo rằng không thoát mà là đạo. Văn thù Sư lợi dạy: Với không thoát thì đây là đạo?
_ Không làm hiện thực nó, đó là đạo _ Văn Thù bảo.
A Xà Thế lại hỏi: Ðạo kia, phải học như thế nào?
Văn Thù liền đáp lời: Giống như học các pháp.
A Xà Thế lại hỏi: Do bởi học các pháp, há lẽ các pháp có nơi chốn ư?
Văn thù Sư lợi bảo: Học cái học này thì không thể đến được đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Với cái học kia thì phải đến Nê hoàn không?
Văn thù Sư lợi bảo: Hóa ra có pháp từ Nê hoàn đến, rằng ngã từ Nê hoàn lại?
A Xà Thế liền thưa: Cũng không đi, cũng không đến .
Văn thù Sư lợi nói với A Xà Thế rằng: Ai học đạo mà biết không nơi chốn, cho nên đó là đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Phải trụ đạo vào chỗ nào để học cái học này?
VănThù liền đáp rằng: Vô sở trụ, đây là học đạo.
A Xà Thế lại hỏi: Việc học đạo kia thì không trụ ở việc học tịnh giới, Tam muội trí tuệ?
Văn Thù liền đáp rằng: Ðạo kia, bằng không duyên vào giới, không cầu tam muội, thì không cống cao trụ ở nơi trí tuệ. Văn thù Sư lợi bảo A Xà Thế: Thế ra, có thể duyên vào giới, cầu tam muội, cống cao ở nơi trí tuệ, làm như vậy thì co ùchỗ cho trú ngụ không?
A Xà Thế thưa: Không có chỗ.
Văn thù Sư lợi bảo: Cho nên phải biết đạo không nơi chốn để trụ.
A Xà Thế lại hỏi: Người nam, người nữ phải như thế nào để tự mình đối diện với đạo?
Văn thù Sư lợi bảo: những ai muốn học đạo thì không thấy pháp hữu thường, vô thường, không thấy pháp có thoát, không có thoát, cũng không thấy pháp an hoặc khổ, cũng không thấy pháp là ngã hoặc mọi người, cũng không thấy pháp từ nơi sanh, tử đến niết bàn. Học cái học đạo này là đối diện với đạo.
Vua A Xà Thế liền thưa: Lành thay! Lành thay! Như điều thuyết dạy của Bồ tát Văn thù Sư lợi, con cúi mong Văn Thù nhận cho lời mời của con. Vì sao vậy? Vì để giải tỏa nổi cô độc nghi ngờ ở trong con. Từ trong con chín muồi những nghĩ suy rằng như các pháp không ta, không ngã, không thọ, không mạng mà ta có nỗi nghi ngờ cô độc.
Văn thù Sư lợi bảo: Như không có thì không thể khiến có. Bởi không có ấy nên cũng không thoát, cũng chẳng không chỗ thoát. Ai nói về ngã mà có thoát khỏi ngã. Do bởi không có thoát nên cũng chẳng thoát, cũng không chỗ thoát, Vì sao vậy? Vì các pháp đều thoát ra khỏi nó.
Phật bảo Văn thù Sư lợi nhận lời mời của Vua A xà Thế vì công dụng của nó là được vô số người.
Văn thù Sư lợi thưa: Xin nhận sự chỉ giáo của Như Lai. Vì sao vậy? Vì không trái với lời dạy.
A Xà Thế rất lấy làm phấn khởi vui mừng liền từ tòa ngồi đứng lên, vì Phật các tỳ kheo và Văn thù Sư lợi tác lễ mà ra về. Vừa đi, A Xà Thế lại hỏi Xá Lợi Phất :Văn thù Sư lợi với đoàn tuỳ tùng là bao nhiêu người?
Xá Lợi Phất bảo: 500 người đều được mời đến thọ trai ở vương cung.
Nhà Vua bèn theo đường về lại thành. Vua liền ban lệnh cho đại quan sai người làm thức ăn trăm vị. Ngay ngày ấy cho sửa sang trên điện Vua. Nơi đây, tràng phan, màn trướng, lộng hoa được trang hoàng để đón rước. Hoa được rãi khắp đất cung điện, đem danh hương xông đều khắp nơi. Sắp đặt 500 sàn cao, tất cả sàn đều trải danh ngọc được chuốt gọt đủ kiểu, màu sắc của nó đẹp vô ngần. Nội cung họp lại, tất cả điều chỉnh lại sắc đẹp bằng hương hoa khắp người. Ban lệnh cho thành, quách, các ngã tư đường, chợ, làng mạc đều phải quét dọn sạch sẽ, đặt hương hoa hai bên đường. Cạnh đường thì đều dàn dựng màng trướng, cờ phan làm nổi bật uy nghiêm. Cổng làng nào cũng đều dựng song kết hoa đón mừng. Ra lệnh cho nhân dân, mọi người sáng sớm ấy phải đón đường nghinh tiếp cúng dường.
Văn thù Sư lợi liền vào sơ dạ.Văn Thù tự nghĩ: Ta cùng với một số ít xuất hiện đến chỗ mời hội thì cũng không ai cảm động, chi bằng đến cõi khác để mời Chư Bồ tát đi đến nơi ấy rồi khiến họ đến thỉnh, tất cả đều nghe lời thuyết pháp của ta. Khi niệm này hiện lên, bấy giờ thời gian như cái duỗi cánh tay, Văn Thù liền từ đó mất dạng, đến Phương Ðông, qua tám vạn hai ngàn cõi Phật. Cõi độ này có tên gọi là Thường Danh Văn. Vị Phật ở đây có hiệu là Duy Tịnh Thủ. Hiện tại có chúng Bồ tát không dị đạo, cõi độ này thường chuyển pháp luân A Duy Việt Trí. Tất cả các thứ cây trên đất cõi đều là các báu, hoa, lá, quả của nó vô số sắc màu. Một khi gió thổi qua các cây này thì chỉ nghe tiếng Phật, chỉ nghe tiếng pháp và tiếng Tăng A Duy Việt Trí. Ở đây cái thường dùng là nghe âm thanh Tam bảo, cho nên cõi của Phật ấy tên gọi là Sa đà duy cù tra. Văn thù Sư lợi đã có mặt tại nơi đây, vì Phật, Văn Thù tác lễ, bạch Như Lai Duy Tịnh Thủ rằng: Xin vì lời mời của tôi mà ngài khiến bảo hết Bồ tát sang quốc độ Sa Ha, đến vương quốc A Xà Thế, dự bữa cúng dường.
Phật liền nói với Bồ tát: Ai muốn đi thì hoan hỉ đến dự hội.
Phật thuyết kinh Vua A Xà Thế.
shared http://hoavouu.com/a25913/phat-thuyet-kinh-vua-a-xa-the
***
No comments:
Post a Comment