Monday, July 27, 2015

Ngôn ngữ Sài gòn xưa.

http://www.supercook.com/#/recipes/Asian



CHỦ NHẬT, NGÀY 23 THÁNG 9 NĂM 2012

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Vay mượn từ tiếng Tàu

Có thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong việc hình thành ngôn ngữ vay mượn.

Miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng là tiếng Anh. Có thể lấy bài hát Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn để giải thích sự vay mượn của ngôn ngữ Việt: “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”. Như vậy, Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo thứ tự thời gian là của Tàu, sau đó đến Pháp và cuối cùng là Mỹ trong những năm chiến tranh gần đây nhất.

Trước hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là Tàu cùng những biến thể như Người TàuBa TàuCác ChúKhách Trú và Chệt hoặc ChệcGia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870) giải thích:

“…An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.

“…Kêu Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy...”.

“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...

Cách giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển ViệtNamchệc hay chệt là tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi Chệc để chỉ chung người Hoa.

Người Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại, chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy, tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:

Quảng Đông ăn cá bỏ đầu
Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!

Người Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy, đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấpbò viêntôm viênruột heo nấu cải chua... và nhất là món hủ tíu Tiều Châu.

Người ta còn dùng các từ như KhựaXẩmChú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú ba.

Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy, chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa.

Đạo luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.

Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình rang.

Cũng như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói tiếng Quảng Đông(Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại (Mandarin) mà ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới xử dụng.

Người Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng, nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ).

Trong lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông.

Kết hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một), những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.

Nói cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầucao lâu của người Tàu gốc Quảng Đông, ở Sàigòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới,Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An Đông hay đường Tôn Thọ Tường.

Theo Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:

- Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!
- Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.
- Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.
- Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.

Chủ tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen, nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:

- Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc
- Bà hai mập, ba đồng sáu cắc
- Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về

Nổi tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên, Triều Châu... Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực đơn chắc chắn phải có nhiều mónhuyền thoại danh bất hư truyền về cái chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).

Cơm Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi.

Nghĩ lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?).

Cơm thố

Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá... còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!

Cũng thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Ban không tin ư? Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cútlan truyền khắp Sài Gòn, nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn.

Có người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.

Các tiệm “cà phê hủ tiếu” của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì, xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong truyện Tam Quốc.

Xe mì Tàu còn giữ đến ngày nay
(Ảnh chụp tại xe mì gần Hồ Con Rùa, Sài Gòn)

Ăn điểm tâm thì có hủ tíubánh baohá cảoxíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt” tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc.

Sang hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền.

Cà phê pha bằng vợt
(ảnh Trần Việt Đức)

Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “… Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc trưng của Sài Gòn xưa.

Vào một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để khách có thể nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước). Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).

Những từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì chothầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ.    

Lạp xưởng (người miền Bắc gọi là Lạp xường) là một món ăn có nguồn gốc từ bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng mai quế lộlạp xưởng khôlạp xưởng tươi

Chế biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu.

Lạp xưởng

Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy. Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.

Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo. Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay.

Do thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối... Tại Sóc Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng nghề bánh pía.

Bánh pía Sóc Trăng

Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia truyền của các món này là ướp ngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm.

Vịt quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20 đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong đúng 20 đồng! 

Thịt quay Chợ Lớn

Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi” trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa.

Hột xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán hoặc tàihoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị thu hút vào sòng xóc đĩa.

Các loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên là cù lủ hai),thùng (flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám chi (3 con cùng loại - three of a kind), thú (two) hay thú phé (two separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4 con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn, bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.

Ở phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoonghay nói theo tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát.

Chú Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưahttp://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/11).

Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đíchlượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do. 

Tiệm chạp phô của người Tàu

Cao cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là đại gia. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”.

Xì thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt, Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…

Xì thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có trong tay bằng vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như NamĐô, Trung Việt gộp lại. Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”.

Xì thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos!

Quảng cáo kem đánh răng Hynos

Có rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài Gòn - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân Hàng).

Bên cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Trong các buổi tiếp tân lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cạnh các mệnh phụ phu nhân.

Tạ Vinh là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban Hành Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo, gây xáo trộn thị trường”. Dân chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm gạo”. Ông Kỳ muốn cảnh cáo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quá lạm dụng tình trạng chiến tranh để làm giàu phi pháp, ông đã tổ chức một cuộc họp kín gồm đủ thành phần đại xì thẩu tại Sài Gòn-Chợ Lớn để cảnh cáo.

Pháp trường cát trước Chợ Bến Thành
Chú thích:

(1) Bình- nguyên Lộc là bút hiệu của Tô Văn Tuấn (1914-1987) với cách viết tên rất cầu kỳ: có gạch nối giữa Bình và nguyên, nhưng không có gạch nối giữa nguyên và Lộc, chữ nguyên lại được viết với mẫu tự n không hoa. Nguiễn Ngu-Í trong “Sống và viết với... Bình-nguyên Lộc”, gọi ông là “một trong tam kiệt của miền Nam” bên cạnh Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương. Bình-nguyên Lộc có khoảng 50 truyện dài, 1.000 truyện ngắn và 4 quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại khoảng 800 trang viết tay coi như bị thất lạc. Tác phẩm nổi tiếng phải kể đến Đò dọcRừng mắmCuống rún chưa lìa…

(2) Sữa Ông Thọ là tên gọi của hiệu sữa Longevity trước đây thuộc hãng sữa Foremost. Tên được dùng trước năm 1975 với hình Ông Thọ trong Tam Đa (Phước, Lộc, Thọ) để minh họa. Sau năm 1975, Vinamilk sử dụng lại tên Ông Thọ nên khi Foremost quay trở lại Việt Nam kiện đòi lại thương hiệu nhưng thất bại nên phải dùng nhãn hiệu Longevity.
Hiện nay Longevity đã được chuyển nhượng cho Dutch Lady VN với cái tên Sữa đặc Trường Sinh.

(3) Sữa Con Chim của hãng Nestlé (Thụy Sĩ) đặt chân đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1916. Trải qua nhiều thập kỷ, các sản phẩm như Guigoz, Lait Mont-Blanc, Maggi đã trở nên thân thuộc với các thế hệ người Việt. Nestlé trở lại Việt Nam vào năm 1990, và mở một văn phòng đại diện vào năm 1993. Vào năm 1995, Công ty Nestlé Việt Nam (100% vốn đầu tư nước ngoài) được thành lập, trực thuộc tập đoàn Nestlé 

THỨ TƯ, NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM 2012

Một tháng ở Melbourne

13.8.2007

Chuyến bay Boeing 777-200, VN 781, bay thẳng từ Saigon đến Melbourne kéo dài gần 8 tiếng. Quá nửa hành khách là người Việt, trong đó có những người tôi đã gặp ở cửa hàng Duty Free Tân Sơn Nhất… Tại đây, họ mua thuốc lá Winfield màu xanh, giống như Salem ngày xưa, giá 26 đô la Mỹ một cây. Vốn đã từng là ‘dân hút thuốc’ nhưng tôi chưa bao giờ hút Winfield nên không hiểu sao hiệu thuốc lá này lại thịnh hành đến như vậy.

Ngồi cạnh tôi là một ông người Việt, sau khi nói chuyện về nhiều đề tài, tôi đổi hướng câu chuyện sang thuốc lá Windfield… Cũng may, ông khách tỏ ra am hiểu: “Windfield ở Úc có giá nên những người Việt ‘sành điệu’ thường mua, không phải họ hút mà là bán lại để hưởng chênh lệch, gọi là gỡ lại chút tiền còm…”. À ra thế, người Việt mình dù ở đâu cũng không quên ‘làm kinh tế’ khi có cơ hội!

14.8.2007

Giờ Sài Gòn sớm hơn 4 tiếng so với Melbourne. Cất cánh lúc 10 giờ tối nhưng khi đến Melbournecũng mới tờ mờ sáng dù hành trình kéo dài. Trước lúc hạ cánh, trên phi cơ thông báo những luật lệ nghiêm ngặt về vấn đề kiểm tra thực phẩm của Úc. Vi phạm nhẹ thì thực phẩm bị bỏ lại ngay ở phi trường, những trường hợp nặng có thể bị phạt tiền.

Có tới 3 lines dẫn đến các khu vực kiểm tra hành lý của thuế quan. Người Úc làm việc rất nghiêm và kỹ. Họ dùng cả dao để rạch những những gói bọc kín khi không nhìn thấy bên trong chứa gì. Họ còn hỏi có mang theo thịt bò, thịt heo hay không. Nếu có, thịt sẽ được tống vào thùng rác ngay tại quầy. Cũng may, các loại thực phẩm khô có ghi nhãn rõ ràng như mì gói, mực khô, cà phê, mít sấy khô… đều được passed. Ra khỏi khu vực thuế quan mới thở phào nhẹ nhõm!

Bích Hà đón tại phi trường từ sáng sớm nhưng không có con rể vì còn bận đi làm. Thời tiết tạiMelbourne lúc này là mùa đông dù mới chỉ là tháng 8, xứ Down Under mà! Con gái còn cẩn thận mang theo cả áo ấm cho bố mẹ. Trời se lạnh nhưng vẫn thấy ấm lòng vì sự săn sóc của con.

Nhà Hà & Phước ở một khu yên tĩnh, có sân trước, sân sau nhưng chỉ để trồng cỏ chứ không có hoa vì hai vợ chồng còn bận… đi cầy. Hàng xóm bên tay trái là một cặp vợ chồng Việt-Úc, bên phải và phía sau lưng là 2 gia đình Việt Nam, nghe nói có gốc từ miền Bắc.

Với con gái

Bữa ăn sáng đầu tiên tại Úc là món sandwich ăn với trứng gà, jambon có trét Vegetime, một loại thực phẩm ‘quốc hồn quốc túy’ của nước Úc. Ngày xưa, khi còn đi dậy, tôi đã giảng cho học trò vềVegemite, đại khái là món này trét trên sandwich hay toast tựa như bơ nhưng lại là bã của chất men (yeast) sau khi đã nấu bia.

Vegemite hoàn toàn không có chất rượu nhưng lại chứa nguồn vitamin dồi dào khi được pha chế với các loại rau quả (vegetable) nên mới thành cái tên Vegemite. Cảm giác đầu tiên của tôi khi ăn thửVegetime có vị ngọt như mật ong hay mứt jam, gần giống với bơ đậu phụng, nhưng có phần mặn hơn.

15.8.2007

Vợ chồng con gái đã lên lịch sẵn để tiếp Mon & Dad. Hà sẽ nghỉ 2 ngày và Phước sẽ nghỉ 2 ngày tiếp theo sau đó cả hai sẽ cùng nghỉ. Nhà chỉ có 1 chiếc xe nên hôm nay 3 chúng tôi đi xe bus ra khu mua sắm. Ở Melbourne có vé Metcard đặc biệt dùng chung cho các phương tiện công cộng như xe bus, xe lửa và xe điện (tram). Cũng có nhiều loại Metcard: đi trong vòng 2 giờ, vé nguyên ngày hoặc vé tháng.

Có một cuộc gặp gỡ thú vị trên xe bus. Một bà cụ người Á đông khi lên xe bà cụ hỏi một cách tỉnh bơ bằng giọng Quảng Nam“Có ai là người Việt không?”. Không ngờ tài xế lại là người Việt nên hỏi lại:“Bà đi đâu?”… Qua câu chuyện làm quen trên xe mới biết bà sang Úc được 9 năm và bà nhờ chỉ chỗ làm thẻ MediCard. Con cái bận đi làm nên cụ phải tự lo. Với vốn liếng tiếng Anh bập bõm nhưng bà cụ tỏ ra rất tự tin trong giao tiếp.

Trong khi chờ đợi Bích Hà đi hỏi dùm, bà cụ thản nhiên kéo ghế cửa hàng Starbucks phía bên ngoài để nghỉ chân nhưng không gọi thức uống. Con gái dắt bà cụ rời quán cà phê được một lúc lại nghe bà cụ than: “Mình bậy quá, kéo ghế ngồi mà khi đi lại không để ghế vào chỗ cũ cho người ta…”. 

Chuyện nhỏ nhưng phải ghi lại. Dù ở tuổi nào đi nữa, người Việt sống tại nước ngoài cũng đã phần nào tiêm nhiễn chút lịch sự tối thiểu của phương Tây. Trường hợp bà cụ 80, dù không thực hiện việc trả ghế lại chỗ cũ nhưng cũng đã nhận thức được thế nào là cách hành xử đúng đắn. 

16.8.2007

Ngày của Hồng Hoa và Đạt. Khi còn ở Việt Nam, Hồng Hoa là bạn thân cùng làm tại Bệnh viện Sài Gòn với bà xã còn Đạt là một sĩ quan VNCH. Tôi còn nhớ mãi, hồi đó anh thường đi chiếc Mobylette màu xám mỗi khi đón vợ.

Đạt lái xe chở vợ đến thăm chúng tôi. Cả hai đều thuộc loại… nói nhiều nên gặp lại nhau sau một thời gian xa cách mới có dịp cà kê dê ngỗng, hết chuyện này đến chuyện khác. Từ chuyện Đạt một mình vượt biên sang đến Úc rồi bảo lãnh vợ con đoàn tụ đến chuyện hai con giờ đã trưởng thành, một đứa đã lập gia đình và một hãy còn ở chung với bố mẹ…  

Việc Đạt & Hoa liên lạc được với Hà & Phước ở Melbourne cũng thuộc loại… hy hữu. Nhân một lần vợ chồng Đạt ghé thăm một người bạn lại là láng giềng của Hà & Phước, Hà nhận ra Hồng Hoa và báo tin về nhà. Thế là trái đất tròn, tình bạn vẫn còn duy trì sau bao năm xa cách. 

Đạt đưa chúng tôi đến thưởng ngoại cảnh chùa Quang Minh gần nhà, đến trưa ra Footscray ăn phở ở tiệm Chú Thể. Gọi tô nhỏ nhưng vẫn không ăn hết! Thịt bò ở Úc vốn có tiếng, thịt mềm, rất nhừ đối với những người có tuổi, như vậy tạm coi là ngon. Người phục vụ tại đây là những thanh niên, họ nói tiếng Bắc. Không biết chừng là du học sinh từ Việt Nam qua?

Chùa Quang Minh

Buổi tối cơm nước xong xuôi, đến gần 10g Hà & Phước rủ đi casino Crown, coi chơi cho biết. Crown khá hấp dẫn về đêm với ánh đèn mầu, người ra vào nhộn nhịp, có đến gần nửa là người châu Á, chắc Việt Nam chiếm đa số! Điều đáng nói là ít thấy người Việt chơi slot machines, có lẽ máy đánh bạc chỉ dành cho các loại ‘tép riu’, chơi vài chục đồng nên… không bõ! Bà xã thử thời vận. Bỏ vào máy tổng cộng $5, bấm một hồi ăn được… $5. Hên quá, thế là hòa vốn!

Người Việt thường tụ tại các sòng poker, roulette, lotto. Sòng chia thành nhiều cấp có đề biển rõ ràng để người chơi ‘liệu cơm gắp mắm’: $10, $20, $30… lên đến $100. Những khuôn mặt ‘đỏ đen’ căng thẳng trông rất tội nghiệp vì họ tự nhốt mình vào vòng cờ bạc. Con rể kể, có những doanh nhân ăn nên làm ra, có những người đã từng làm chủ mấy căn nhà nhưng rốt cuộc rồi cũng hết sạch, thân bại danh liệt cũng chỉ vì cờ bạc. Một đêm cả nhà ‘đi đánh bạc’ mãi đến 2 giờ sáng mới về đến nhà. Cũng may huề vốn!

Casino Crown với con rể

17.8.2007

Vợ chồng Hà & Phước làm cơm đãi bạn bè nhân dịp cuối tuần có bố mẹ qua Melbourne chơi. Khách có vợ chồng Hải thuộc tuýp người ‘ăn to nói lớn’ và vợ chồng Vượng là nhà báo, cộng tác trên radio SBS, chương trình Việt ngữ, có vợ cũng tên Hà và là em gái của Hải. Vượng ăn nói chững chạc và dĩ nhiên có nhiều thông tin về chính trị và xã hội tại Úc cũng như Việt Nam.

Con rể nấu ăn rất giỏi. Phước có thể nấu cả món Việt lẫn món Úc, ai ăn cũng phải khen. Đặc biệt có món ‘gỏi già’, đặc sản sông nước miền Tây nhưng phải đợi đến khi sang Úc tôi mới được thưởng thức qua tài làm bếp của Phước. Gỏi già gồm cá, mực, thịt, đậu hũ nấu với me chua và ăn với bún. Điều thú vị là bún khô làm ở bên Tàu nhưng lại có đề tiếng Việt! Nghe nói, ở Sài Gòn, trong chợ Bến Thành, có một hàng bán gỏi già rất đông khách ăn dù giá 30.000 đồng một tô.

Bữa cơm thân mật có cả rượu vang đỏ và mọi người chuyện trò rôm rả từ chiều đến tận 9 giờ tối. Khách về vội vàng lên mạng đọc tin tức: Một bà cụ 70 tuổi người Việt đáp chuyến bay Saigon-Melbourne bị quan thuế phát hiện có mang trong người chất bạch phiến.

Phước nói những vụ như vậy vẫn thường xảy ra. Người ta lợi dụng người già cả để chuyển ma túy vào Úc, nếu trót lọt con cháu kiếm được khá tiền, nếu bị phát giác, người già chắc cũng được châm chước. Úc không áp dụng luật tử hình, tội nặng nhất là chung thân. Đối với những người ‘gần đất, xa trời’ xem ra án chung thân cũng chẳng là bao!

18.8.2007

Thứ Bảy là ngày bận rộn. Buổi sáng cả nhà đi xem chợ Second Hand Market, một loại như chợ trời, chuyên bán đồ cũ với giá rẻ nhưng khách đến chợ phải mua vé vào cửa với giá $2, tiền Úc. Chợ chỉ họp vào những ngày cuối tuần nhưng lúc nào cũng tấp nập người mua-bán với khoảng 100 gian hàng dã chiến. Có người dựng lều, có người bầy hàng trên bàn và có người bày ngay trên mặt đất. Khách hàng có thể mặc cả thoải mái cho đến khi ‘thuận mua, vừa bán’!

Mặt hàng bầy bán tại đây rất đa dạng, từ ‘chổi cùn giẻ rách’ cho đến chậu kiểng bonsai, hoa phong lan… Có cả hàng Việt Nam như băng nhạc, CD, VCD, DVD, xuất xứ là hàng sang băng lậu, giá rẻ mạt. Có hàng còn để nhạc Việt hay cải lương qua máy cassette.

Hỏi chuyện một người bán, anh ta nói thủ tục giữ chỗ rất đơn giản, chỉ cần đóng $4 là có quyền đem xe vào rồi bầy hàng ra bán. Chắc chắn thu nhập chẳng bao nhiêu nhưng đây cũng là cách giải quyết những món hàng không còn dùng đến theo kiểu như garage sale của Mỹ. Triết lý của loại chợ trời có lẽ gói gọn trong câu… Cũ người mới ta!

Second Hand Market

Buổi chiều ghé thăm nhà Đạt & Hoa. Căn nhà quá đẹp với vườn hoa và cây cảnh có từ thời chủ trước là người Úc gốc Ý. Đạt đã về hưu nên có thì giờ chăm sóc từ vườn trước đến sân sau. Cây cối được tỉa xén một cách tỷ mỷ tạo thành những hình độc đáo như quả cầu, bình hoa…

Ngoài những giống hoa của Úc, Đạt còn trồng các loại cây trái nhiệt đới như lựu, ổi, ớt để gợi lại những hình ảnh quê hương. Ở Đạt, tôi thấy một bài học về sự kiên trì hiếm có, từ việc chăm sóc cây cảnh đến những lo toan trong cuộc đời. Một thân một mình vượt biên và được nước Úc chấp nhận như một di dân.

Vườn hoa nhà Đạt

Nước Úc coi những cựu quân nhân VNCH như những người lính đã từng chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Úc. Những người như Đạt nhận được tiền trợ cấp, tương đương với lương của cựu quân nhân Úc. Bên cạnh đó, anh còn được hưởng những ưu đãi trong cuộc sống qua việc được miễn phí hoặc giảm giá các dịch vụ công cộng như điện, nước, giao thông như những cựu chiến binh Úc.

Tôi cũng gặp lại Nguyễn Lương Năng trước đây dạy tại trường Sinh ngữ Quân đội Sài Gòn. Qua những lời tâm sự, chúng tôi thấy Mỹ là nước đồng minh ‘số một’ của VNCH trong suốt cuộc chiến nhưng chế độ đãi ngộ dành riêng cho các cựu quân nhân miền Nam chỉ là con số không nếu so với những gì nước Úc đã làm. Thật may mắn cho những cựu quân nhân đã chọn hoặc được chọn để định cư tại Úc. Câu nói Đất lành chim đậu quả là không sai!

24.8.2007

7 giờ tối xuất phát chuyến đi Bright vào cuối tuần. Bright là một thị trấn vùng quê cách Melbournekhoảng 3 giờ lái xe. Có một điều trùng hợp thú vị giữa Bright và Đà Lạt. Cả hai thành phố đều có khí hậu rất thích hợp cho người lớn tuổi. Đà Lạt cách Sài Gòn hơn 300km, xa lộ từ Melbourne đi Bright cũng có một khoảng cách tương tự nhưng chỉ mất 3 giờ trong khi lên Đà Lạt kéo dài đến 5 hay 6 tiếng.

Một cuộc hội ngộ lý thú ở Bright

Chuyến đi còn có 2 cặp Vượng & Hà và Hải & Hoa, tổng cộng 4 cặp, đi 2 xe, lên thăm thầy Thịnh và chị Thanh Xuân ở Bright. Mối quan hệ của chúng tôi cũng khá ly kỳ. Khi còn ở Ban Mê Thuột, tôi học môn sử của thầy Thịnh, sau đó thầy lập gia đình với Thanh Xuân, học dưới tôi vài lớp. Hải và Hà là em của Xuân, đại gia đình đều đoàn tụ tại Úc.

Khi vợ chồng con gái quen với gia đình Thịnh & Xuân ở Melbourne mới ‘té ngửa’ về mối quan hệ giữa bố và thầy Thịnh ngày xưa. Trong khi con gái gọi thầy cũ của bố là ‘anh’ thì tôi vẫn quen mồm ‘thưa thầy’! Giây phút đầu tiên thầy trò gặp lại nhau thật bất ngờ và xúc động ngay khi bước vào nhà với… bài quốc ca VNCH vang lên từ máy cassette. Phản ứng tự nhiên, mọi người đều đứng nghiêm.

Công viên bên sông Ovens

Thị trấn Bright nằm gọn trong thung lũng có dòng sông Ovens êm đềm. Công viên nằm bên bờ sông là một địa điểm lý tưởng để nghỉ ngơi và tận hưởng hoa đồng cỏ nội. Bright còn giữ lại nhiều di tích lịch sử của thời đổ xô đi tìm vàng tại Melbourne vào những năm 1850.

Cuốc, xẻng và thau đãi vàng tại Beechworth

Tại Beechworth, du khách có thể thấy di tích những mỏ vàng, nhìn tận mắt cách thức lọc vàng và luyện vàng thô thành những thỏi vàng nguyên chất. Bên cạnh đó là viện bảo tàng trưng bày vật dụng và hình ảnh của thời tìm vàng. Victorian Gold Rush chính thức khởi đầu từ năm 1851, hầu như vào cùng thời điểm với California Gold Rush tại Mỹ trong thời kỳ 1948-1852.

Vào mùa đông, Mt Beauty ở Bright tuyết phủ trắng xóa trên đỉnh

Hai ngày ở Bright là một kỷ niệm khó quên đối với cả chủ lẫn khách. Chúng tôi, dù đã lớn tuổi, nhưng nhà lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười đùa như thời son trẻ. Chỉ tiếc một điều khi mọi người về lạiMelbourne, chỉ còn anh chị Thịnh & Xuân ở lại với cuộc sống hàng ngày trầm lắng. God bless you all.

29.8.2007

Mãi tới hôm nay mới là ngày ‘chính thức’ làm một tour Melbourne. Đã nhiều lần chạy xe quanh khu vực downtown ‘cưỡi xe xem hoa’ nhưng hôm nay chúng tôi mới thực sự khám phá thành phố lớn thứ hai của Úc, chỉ đứng sau Sydney. Rất ít người biết Melbourne đã từng là thủ đô của Australia trong suốt thời gian kể  từ ngày 1.1.1901 đến năm 1927 mới chuyển về Canberra.

Melbourne là thành phố lớn thứ hai của Đế quốc Anh mang nhiều công trình kiến trúc từ thời nữ hoàng Victoria. Nổi bật nhất là Royal Exhibition Building được xây dựng từ năm 1880 và đây cũng là công trình đầu tiên của Úc được UNESCO chọn làm Di sản Thế giới vào năm 2004.

Tòa nhà Triển lãm Hoàng gia

Nhà ga Trung tâm ở góc đường Flinders và Swanston cũng là một công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn của Anh. Nơi đây, hàng ngày có đến 1.500 chuyến xe lửa chở khoảng 110.000 hành khách. Ngày cũng như đêm, Flinders Street Railway Station lúc nào cũng nhộn nhịp người qua lại và là trái tim củaMelbourne

Flinders Street Railway Station

Queen Victoria Market thu hút hầu hết du khách khi đến Melbourne, người ta nói chợ được thành lập từ những năm 1850. Ngày nay, chợ mở rộng đến 7 hectares, có hơn 1000 gian hàng bày bán đủ các loại rau quả, thực phẩm, quần áo và thủ công mỹ nghệ. Hôm chúng tôi đến Queen Vic có cả mấy con lạc đà cho du khách dạo chợ. Đúng là... đi chợ kiểu Úc!

Queen Victoria Market

Ngoài kiến trúc, ảnh hưởng của Anh vẫn còn in đậm nét trong cuộc sống hàng ngày tại Úc, từ ngôn ngữ giao tiếp (Australian English là biến thể của British English) cho đến kiểu lái xe bên trái. Riêng tạiMelbourne, người lái xe khi gặp bảng Hook Turn có thể rẽ phải khi đang giữ lề trái tại các ngã tư có mật độ xe qua lại đông đúc.

Khi đèn đỏ của làn đường bạn đang đi sáng lên và đèn lưu thông của làn đường vuông góc chuyển sang màu xanh, bạn sẽ điều khiển xe 90 độ để chuyển hướng vào đường muốn rẽ. Xe của bạn lúc đó sẽ được ưu tiên so với các xe đang di chuyển thẳng hướng theo làn đường bạn muốn rẽ! Thật ly kỳ, chỉ ở Melbourne mới có.

2.9.2007

Đến Melbourne tôi đã bỏ ra vài ngày để tìm hiểu về cộng đồng người Việt tại đây vì trong những thập niên 1970 và 1980, nhiều người tị nạn từ Campuchia và Việt Nam đã chọn nơi đây làm quê hương. Footscray được coi như trung tâm sinh hoạt lớn nhất của người Việt tại Melbourne với vô số hàng quán, văn phòng dịch vụ nổi lên san sát, hoàn toàn không có chỗ cho McDomalds hay Starbucks.

Chợ Footscray

Cách trung tâm Melbourne khoảng 2km có khu Richmond cũng là nơi tập trung một số cửa hàng của người Việt dọc theo đường Victoria. Đặc biệt tại đây có một mô hình chợ Bến Thành thu nhỏ được dựng lên để nhắc nhở những người xa quê nhớ đến Sài Gòn ngày xưa.

Chợ Bến Thành tại Richmond

Chịu khó đi khoảng 20km về phía tây nam sẽ gặp Springvale, một địa danh quen thuộc đối với người Việt khi di dân đến Melbourne. Nơi đây, trước kia tập trung những thuyền nhân tỵ nạn được chính phủ Úc chấp nhận cho nhập cư. Ngày nay, thị trấn này vẫn còn một số người ở lại để sinh sống và kinh doanh nhỏ lẻ.

Springvale đã từng là trại tỵ nạn của người Việt
khi mới đến Melbourne

11.9.2007

Rời Melbourne vào đúng ngày Bin Laden tấn công nước Mỹ 6 năm về trước. Nhờ trời phi cơ đáp xuống phi đạo an toàn chứ không đâm xầm vào World Trade Center! Tiệc farewell vẫn còn tràn đầy cảm xúc đọng lại trong lòng khách phương xa. Xin tạm biệt Melbourne sau 1 tháng sống và vui bên những người thân và bạn bè ở xứ kangaroo.

penseedl wrote on Feb 26, '11, edited on Feb 26, '11
nguyenngocchinh said “Gỏi già gồm cá, mực, thịt, đậu hũ nấu với me chua và ăn với bún.”
Món này hơi lạ! Đã nấu rồi thì không thể là "gỏi " nữa. Xin hỏi anh Chính vì sao lại gọi món này là "Gỏi Già " vậy ?

nguyenngocchinh wrote on Feb 26, '11
Như đã nói, phải tới Mel tôi mới được thưởng thức món bún gỏi già của miền sông nước Cửu Long nên sự hiểu biết về món bún này chỉ là con số không. Pensee thắc mắc nên tôi lướt một vòng net và xin trích lại vài đoạn có liên quan đến gỏi già:
“Bún gỏi già thực ra cũng hao hao giống bún mắm thôi. Nói là giống, nhưng vị của nó khác nhau xa. Bún mắm và bún gỏi già có chung nguyên liệu là mắm cá. Bún gỏi phải nấu chung với me, mới cho ra vị nước lèo chua chua ngọt ngọt ăn không ngán là vì vậy. Đặc biệt, món ăn này chỉ ăn chung với tép là ngon nhất. Tép bạc, tép lột, hay tôm sú lột đều được cả. Những con tép đỏ au, được lột vỏ kỹ càng trông hấp dẫn làm sao ấy. Bún gỏi già chua chua ngọt ngọt ăn ghém với rau muống và bông chuối bào... Nhưng mà nó ngon nhờ hẹ. Nếu không có cọng hẹ nào thì cái tô bún của bạn coi như tiêu. Thêm nữa phải có nước chấm đặc biệt nó là nước cốt mắm cá linh nguyên chất, rất thơm và có vị ngọt đậm đà.” (Bún gỏi già Mỹ Tho,http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Bun-goi-gia-My-Tho/10890036/239/)
“Không biết món ăn này xuất xứ từ đâu. Nhưng tôi chưa thấy trên thành phố này có một nơi nào bán món này cả, cả tên gọi cũng rất khác biệt. Bún gỏi già... Tôi không thể giải thích được vì sao nó lại có tên như thế. Mỗi lần về Mỹ Tho là tôi lại chạy ra quán ăn quen thuộc, gọi một món quen thuộc:” Bún gỏi già”. Chắc các bạn sẽ thắc mắc lắm vì không biết tại sao cái món bún có cái tên lạ tai lại làm tôi thích thú... Tôi ăn nhiều rồi, nhưng chưa lần nào thử nấu cả, không phải lười biếng đâu, vì không có bí quyết, tôi sợ mình sẽ làm hư món khoái khẩu của mình.” (http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?idcha=1028&cap=4&id=1055)
Tiện đây nếu quý vị nào biết về bún gỏi già xin cho ý kiến, thanks.

nguyenngocchinh wrote on Feb 26, '11
Lại mới tìm thêm được một bài viết về loại bún này nhưng lại được gọi là 'gỏi dà' chứ không là 'gỏi già'. Xin trích để các bạn cùng tham khảo:

"Sóc Trăng và Bạc Liêu là những tỉnh có nền văn hóa cộng cư Kinh - Hoa - Khmer. Đồng thời, mỗi dân tộc đều lưu truyền những món ngon độc đáo, ngày càng được nâng cao thành một nghệ thuật như: bún nước lèo, bún bò cay Bạc Liêu, bún tiêu Sóc Trăng… Trong đó, món "bún gỏi dà" Sóc Trăng, hương vị thật ấn tượng.
Sao gọi "gỏi dà"?
Người viết đã bỏ công đi tìm hỏi nhiều nơi về nghĩa gốc của hai chữ “gỏi dà” nhưng vẫn chưa hài lòng, vì bao nhiêu lý giải đều mang tính suy diễn. Như bà Trịnh Thị Ngọc Nữ, 64 tuổi, chủ quán "bún gỏi dà" ở Mỹ Xuyên, Sóc Trăng, giải thích như sau: Nguồn gốc của gỏi dà là món gỏi cuốn. Sau đó người ăn không cuốn nữa mà cho bún vào tô, trộn thêm thịt, tép, rau và tương xay trộn đều để và ăn như và cơm. Sau nữa, các bà nội trợ mới có sáng kiến cho thêm nước súp vào tô thành món “bún gỏi dà” như hiện nay. Do tiếng Nam bộ phát âm những chữ V, D, Gi khá giống nhau nên có người nói gỏi dà, người đọc gỏi già.
Chưa hài lòng với cách giải thích của bà Ngọc Nữ, người viết lại tìm đến nhà "cô Năm gỏi dà" ở đường Cần Thơ. Do cô Năm bán món "gỏi dà" lâu năm nên đã thành danh cô “Năm Gỏi Dà”. Nay cô đã qua đời. Con cháu cô Năm nói rằng, “gỏi dà” là món bún tép, có thêm thịt luộc và rau sống. Đây là món ăn thuần Việt, rẻ tiền lại ngon miệng nên được nhiều người ưa thích.
Như thế chúng ta có thể tạm kết luận rằng, “gỏi dà” là món ăn xuất phát từ bún khô, sau đó mới nâng lên thành bún nước. Nhưng nước bún gỏi dà không có hương vị mắm đồng hoặc mắm bò hóc như bún nước lèo Sóc Trăng, Bạc Liêu và Trà Vinh.
“Mỹ Xuyên có bún gỏi dà
Dùng qua sẽ thấy đậm đà hương quê”
Đó là hai câu thơ do chính bà chủ quán Ngọc Nữ sáng tác và treo trước quán ăn để mời chào bao thực khách gần xa.
Thành phần của một tô bún "gỏi dà" cũng giống như tô bún riêu, bún mắm, bún nước lèo… nhưng khác ở chỗ nước súp đậm đà mùi vị tương xay và ít nước me chín. Bà chủ quán Ngọc Nữ cho biết bí quyết của món bún gỏi dà là tép và nước súp. Phải là tép đất mới ngọt đậm. Những vùng quê của Sóc Trăng vẫn còn loại tép ngon này quanh năm. Tép luộc xong được người nấu lột bỏ vỏ lấy thịt, để nguyên con màu đỏ tươi trông rất đẹp mắt. Nồi nước súp phải hầm bằng xương heo chung với nước luộc tép, nêm thêm ít đường, ớt và ít nước bột me chua.
Ngoài ra, món này còn hơn thua nhau ở thành phần gia vị và sự tinh tế trong chế biến các món tương xay trộn với đậu phộng rang đâm nhuyễn và tỏi phi. Những loại gia vị này giao hòa với nhau tạo thành một hương vị hấp dẫn đặc trưng không lẫn vào đâu được. Nếu muốn khẩu vị thêm "bắt bén", bạn có thể vắt thêm chút chanh và cho vào chút tương ớt, cặp thêm ít rau thơm, thế mới đúng điệu.
Một anh bạn nhà thơ bình luận về "bún gỏi dà" thật chí lý: “Đây là một tô bún đặc sắc nhờ hội đủ các chất đạm, chất béo, rau tươi và nhiều thứ gia vị thơm tho. Mình chỉ ngửi và nhìn mấy con tép màu đỏ tươi trên mặt tô sóng sánh nước cũng đã… nổi thèm!”
Nước bún gỏi dà ngọt tự nhiên, không cần cho thêm bột ngọt. Tép đất tươi nguyên con vừa mềm vừa ngọt. Còn thịt đùi heo luộc thái nhỏ vừa giòn vừa béo. Thêm vị cay cay, bùi bùi của tương và ớt làm cho người thưởng thức cứ nhớ mãi… Tại chợ Bến Thành, TP.HCM, cũng có bán món này, nhưng không ngon, giá lại đắt.


http://chinhhoiuc.blogspot.com.au/search/label/Th%E1%BB%9Di%20th%C6%A1%20%E1%BA%A5u

No comments:

Post a Comment