Ra khỏi trời Đâu Xuất, tôi lại trì chú Lăng Nghiêm, chân tôi lại thấy hiện tòa sen nâng bốc tôi lên, chỉ nghe tiếng gió ào ào cảnh tiên lướt qua và dạt về phía dưới rất nhanh, đến một nơi dưới đất óng ánh sắc vàng kim, và trải đầy cát vàng sáng chói. Ước chừng khoảng 15 phút sau, thấy bên dưới tòa sen, đường lối thênh thang trải đầy cát vàng, lóng lánh chói rạng và từng hàng, từng dẫy những cây cổ thụ to cao cả chục trượng, cành vàng, lá ngọc. Lá cây cổ thụ có hình 3 góc, 5 góc...7 góc, đều phát ra tia sáng, hoa nở đủ màu, có cả rất nhiều những loại chim đậu đầy nhánh cây dương. Các thứ chim có cánh đủ màu sắc tuyệt đẹp, thân thì có hào quang. Chim có con có 2 đầu, có con có nhiều đầu, chúng cùng hót một loại giọng thanh thót và ca ngâm Thánh hiệu Phật A Di Đà, và nhảy nhót tưng bừng. Bốn chung quanh đều có hàng rào, lan can 7 màu, Bồ Tát Quan Âm nói:
- Cảnh giới mà kinh Phật nói; Thất Trùng La Võng Thất Trùng Hàng Thọ là chỗ này đây.
Bên tai tôi nghe rất nhiều tiếng nói chuyện, nhưng mà nghe chẳng hiểu gì cả. Bồ Tát Quan Âm nói: "Những tiếng ấy Phật A Di Đà nghe hiểu. Trên đường đi tới còn gặp rất nhiều tháp cao đều do thất bảo kết thành, phát từng luồng ánh sáng. Không bao lâu đến trước một ngọn núi bằng vàng, chói lọi ... vàng sáng hắt ra, so với núi Nga Mi bên Trung Quốc không biết ngọn núi này còn cao hơn gấp mấy chục ngàn lần. Bồ Tát Quan Âm nói với tôi:
- Đến rồi đó, chúng ta đã đến trung tâm điểm của thế giới Tây Phương Cực Lạc -rồi đó! Ông có thấy không? Đức Phật A Di Đà ở trước mặt ông đó. Tôi ngạc nhiên:
- Thưa Bồ Tát, con không thấy; ở đây là vách núi vàng ròng kia mà, nó đã che hết tầm nhìn rồi cho nên con không thấy Đức Phật ở đâu?
Không ngờ Bồ Tát nói làm tôi hết sức chưng hửng:
- Không có vách núi gì đâu, ông đang ở trước ngón chân cái của Đức Phật A Di Đà đấy.
Tôi nói:
- A Di Đà Phật, ôi thôi, Ngài cao lớn dường ấy làm sao con có thể nhìn thấy được.
Tôi cứ như là con kiến ngước nhìn nhà chọc trời trên gần 200 tầng lầu của Mỹ vậy ccó, không có cách chi nhìn cho trọn vẹn toàn cảnh của cao ốc ấy. Bồ Tát Quan Âm dặn tôi quỳ xuống nhanh lên và khẩn cầu Phật A Di Đà gia bị cho, để tiếp dẫn tôi được thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi vội quỳ xuống nguyện cầu A Di Đà Phật gia bị. Nguyện cầu được một lúc, tôi cảm thấy thân tôi rần rần chuyển động không ngừng cao lớn lên, cao riết đến khoảng rốn của Ngài. Lúc ấy tôi thấy rõ Đức Phật A Di Đà ở trước mắt tôi, đứng trên đếm không hết những tầng hoa sen rực ánh hào quang ấy. Từng cánh hoa sen lại hiện lộ thắng cảnh bảo tháp phóng ra muôn ngàn tia sáng, trong những tia sáng lại có vô vàn những vị Phật, ngồi ngay ngắn trong rừng tia sáng chói chan ấy. Cũng cùng một lúc tôi còn thấy đại điện với nhữgn vách vàng óng ả, chói lọi, nhìn sâu vào mãi tôi thấy cả toàn cảnh của thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Lúc ấy Sư Viên Quan hiện lại thân thật của Bồ Tát Quan Thế Âm với toàn thân trong suốt sắc óng vàng, trang phục phát ra muôn tia sáng khác nhau. Nhận không rõ là nam hay nữ, giờ đây Bồ Tát Quan Âm với thân hình cao lớn hơn tôi ước độ bằng vai của Đức Phật A Di Đà. Tôi đứng ở nơi ấy được thấy cảnh giới vô cùng đẹp đẽ này, tôi ngắm tới ngất ngây người. Trong nhất thời không thốt ra được một tiếng nói nào cả, đến bây giờ bảo tôi thuật rõ từng cảm nghĩ về cái thấy, cái biết của cảnh giới thù thắng ấy chắc là tôi phải nói trọn cả 7 ngày 7 đêm, chỉ đơn cử nói về nét tướng của Đức Phật A Di Đà thôi, chắc tôi phải kể suốt cả nữa ngày trời. Thí dụ như nói về mắt Ngài có thể so sánh với cả một mặt biển lớn, nói ra có thể không ai tin, chứ thực tế mắt Ngài có thể sánh với cả một đại dương vậy.
Đất nước Cực Lạc của thế giới Tây Phương, nếu theo như lời kinh nói cách đây tới những 10 vạn ức đất Phật; nếu đi bằng tốc độ ánh sáng thì phải hết 150 ức năm ánh sáng mới đến nơi. Với tuổi thọ của con người thì không thể nào đến được, còn nói về vật chất, nếu đi bằng xác thân xương thịt này, dẫu có khởi từ mới lập trái đất, đi hết vòng quanh trái đất đến trái đất hư diệt, tạo lập lại rồi diệt, cũng khó lòng mà đến được. Thế mà chỉ với nguyện lực sẵn có và một lòng vững dạ, cộng với sự khẩn cầu Đức Phật A Di Đà gia bị, thế thì chỉ cần một sát na, lẹ như duỗi tay, đã đến được tận nơi.
Tôi kính cẩn đãnh lễ Đức Phật A Di Đà xin Ngài gia bị, ban cho tôi phước huệ được liễu sanh thoát tử. Ngài bảo tôi:
- Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn con đến đây tham quan các nơi, con cứ đi tham quan đi, rồi sau đó con còn phải trở về gian nữa.
Lúc ấy tôi đã say mê cảnh giới tốt đẹp của Tây Phương Cực Lạc rồi, cho nên tôi cảm thấy thế gian đầy dẫy những nhớp nhúa đau khổ, không muốn trở về nữa, tôi mới năn nỉ:
- Cực Lạc Quốc Độ quá là tốt đẹp, con không muốn về thế gian nữa, nguyện cầu Đức Phật A Di Đà phát đại từ bi tâm mà giữ con lại đây. Ngài dạy:
- Không được, không phải ta không chịu giữ con ở lại thế giới Cực Lạc, mà chỉ vì 2 kiếp về trước con đã vãng sanh đến đây nhưng rồi chính con đòi trở về thế gian cứu đời, độ người, cho nên giờ đây con cần quay về, làm cho xong tâm nguyện của con. Đem tình hình được thấy ở đây truyền đạt cho thế gian biết, lấy đó mà giáo hóa thế nhân.
Đức Phật lại ngâm kệ trùng tuyên lại lời ấy, Ngài vừa dứt ngâm kệ, tôi rúng động toàn thân và nhớ lại tất cả cảnh cũ của hai kiếp trước, lồng lộng trước mắt.
Đức Phật A Di Đà bảo với Quan Âm Bồ Tát hướng dẫn tôi đi tham quan các nơi. Tôi đảnh lễ Ngài 3 lạy rồi cùng với Quan Âm Bồ Tát bước ra khỏi cửa Đài Thuyết Pháp. Lúc này tôi quan sát thấy hành lang, bờ ao, lan can, núi đất đều kết lại bằng 7 báu vật, đều phát ra tia sáng giống như ánh đèn màu vậy. Đặc biệt nhất là tất cả những dạng hữu hình như trên đều trong suốt không chướng ngại, có thể xuyên thấu qua được. Trên cửa Đài có 4 chữ vàng, hai bên cũng có đôi liễu đối, tôi nhìn không hiểu ... chỉ nhớ được 1 chữ còn 3 chữ kia không nhớ rõ. Bồ Tát Quan Âm giải thích "Nếu đọc bằng hoa văn thì đó là Đại Hùng Bửu Điện, cũng có thể đọc là Vô Lượng Thọ Phật". Cái tòa Đại Điện lung linh áng vàng ấy hùng vĩ vô cùng, có tới mấy vạn người ở trong, đồng thời tôi thấy rất đông chư vị Bồ Tát, ngồi hoặc đứng, có vị ngoài điện, toàn thân đều hiện sắc vàng óng trong suốt nhưng cao độ ánh sáng của Bồ Tát thấp hơn Đức Phật chút ít. Trong số chư vị Bồ Tát tôi gặp có cả Đại Thế Chí Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát v.v... Quan Âm Bồ Tát bảo:
- Thôi để tôi dẫn ông đi, chúng ta sẽ đến hạ phẩm hạ sanh trước, thăm lần đến thượng sanh thượng phẩm nha!
Trên đường lướt đi ấy, thân hình Bồ Tát và tôi lần lần thu nhỏ lại và thấp xuống. Tôi thấy lạ, bèn hỏi:
- Bồ Tát Quan Âm tại sao lạ vậy, thưa Bồ Tát? Thân người tại sao lại có tình trạng thu nhỏ như vậy?
Ngài trả lời:
- Chúng sanh từng phẩm, vì cảnh giới không giống nhau nên hình thể và độ cao cũng có lớn nhỏ khác nhau; chúng ta đang ở thượng phẩm nơi trụ xứ đức Phật A Di Đà, mà đi về hướng hạ phẩm, nên biết là trong 9 phẩm sen vàng ấy, chúng sanh trong thượng phẩm cao lớn hơn chúng sanh trong trung phẩm; ở trung phẩm lại có độ cao lớn hơn hạ phẩm, cho nên ta đi từ thượng phẩm thì cố nhiên thân hình cần thu nhỏ lại, thấp xuống để ta không khác thường với chúng sanh nới ấy, đó gọi là thích hợp cảnh giới là vậy.
VI. VIẾNG HẠ PHẨM LIÊN HOA NƠI ĐỐI NGHIỆP VÃNG SANH
- Cảnh giới mà kinh Phật nói; Thất Trùng La Võng Thất Trùng Hàng Thọ là chỗ này đây.
Bên tai tôi nghe rất nhiều tiếng nói chuyện, nhưng mà nghe chẳng hiểu gì cả. Bồ Tát Quan Âm nói: "Những tiếng ấy Phật A Di Đà nghe hiểu. Trên đường đi tới còn gặp rất nhiều tháp cao đều do thất bảo kết thành, phát từng luồng ánh sáng. Không bao lâu đến trước một ngọn núi bằng vàng, chói lọi ... vàng sáng hắt ra, so với núi Nga Mi bên Trung Quốc không biết ngọn núi này còn cao hơn gấp mấy chục ngàn lần. Bồ Tát Quan Âm nói với tôi:
- Đến rồi đó, chúng ta đã đến trung tâm điểm của thế giới Tây Phương Cực Lạc -rồi đó! Ông có thấy không? Đức Phật A Di Đà ở trước mặt ông đó. Tôi ngạc nhiên:
- Thưa Bồ Tát, con không thấy; ở đây là vách núi vàng ròng kia mà, nó đã che hết tầm nhìn rồi cho nên con không thấy Đức Phật ở đâu?
Không ngờ Bồ Tát nói làm tôi hết sức chưng hửng:
- Không có vách núi gì đâu, ông đang ở trước ngón chân cái của Đức Phật A Di Đà đấy.
Tôi nói:
- A Di Đà Phật, ôi thôi, Ngài cao lớn dường ấy làm sao con có thể nhìn thấy được.
Tôi cứ như là con kiến ngước nhìn nhà chọc trời trên gần 200 tầng lầu của Mỹ vậy ccó, không có cách chi nhìn cho trọn vẹn toàn cảnh của cao ốc ấy. Bồ Tát Quan Âm dặn tôi quỳ xuống nhanh lên và khẩn cầu Phật A Di Đà gia bị cho, để tiếp dẫn tôi được thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi vội quỳ xuống nguyện cầu A Di Đà Phật gia bị. Nguyện cầu được một lúc, tôi cảm thấy thân tôi rần rần chuyển động không ngừng cao lớn lên, cao riết đến khoảng rốn của Ngài. Lúc ấy tôi thấy rõ Đức Phật A Di Đà ở trước mắt tôi, đứng trên đếm không hết những tầng hoa sen rực ánh hào quang ấy. Từng cánh hoa sen lại hiện lộ thắng cảnh bảo tháp phóng ra muôn ngàn tia sáng, trong những tia sáng lại có vô vàn những vị Phật, ngồi ngay ngắn trong rừng tia sáng chói chan ấy. Cũng cùng một lúc tôi còn thấy đại điện với nhữgn vách vàng óng ả, chói lọi, nhìn sâu vào mãi tôi thấy cả toàn cảnh của thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Lúc ấy Sư Viên Quan hiện lại thân thật của Bồ Tát Quan Thế Âm với toàn thân trong suốt sắc óng vàng, trang phục phát ra muôn tia sáng khác nhau. Nhận không rõ là nam hay nữ, giờ đây Bồ Tát Quan Âm với thân hình cao lớn hơn tôi ước độ bằng vai của Đức Phật A Di Đà. Tôi đứng ở nơi ấy được thấy cảnh giới vô cùng đẹp đẽ này, tôi ngắm tới ngất ngây người. Trong nhất thời không thốt ra được một tiếng nói nào cả, đến bây giờ bảo tôi thuật rõ từng cảm nghĩ về cái thấy, cái biết của cảnh giới thù thắng ấy chắc là tôi phải nói trọn cả 7 ngày 7 đêm, chỉ đơn cử nói về nét tướng của Đức Phật A Di Đà thôi, chắc tôi phải kể suốt cả nữa ngày trời. Thí dụ như nói về mắt Ngài có thể so sánh với cả một mặt biển lớn, nói ra có thể không ai tin, chứ thực tế mắt Ngài có thể sánh với cả một đại dương vậy.
Đất nước Cực Lạc của thế giới Tây Phương, nếu theo như lời kinh nói cách đây tới những 10 vạn ức đất Phật; nếu đi bằng tốc độ ánh sáng thì phải hết 150 ức năm ánh sáng mới đến nơi. Với tuổi thọ của con người thì không thể nào đến được, còn nói về vật chất, nếu đi bằng xác thân xương thịt này, dẫu có khởi từ mới lập trái đất, đi hết vòng quanh trái đất đến trái đất hư diệt, tạo lập lại rồi diệt, cũng khó lòng mà đến được. Thế mà chỉ với nguyện lực sẵn có và một lòng vững dạ, cộng với sự khẩn cầu Đức Phật A Di Đà gia bị, thế thì chỉ cần một sát na, lẹ như duỗi tay, đã đến được tận nơi.
Tôi kính cẩn đãnh lễ Đức Phật A Di Đà xin Ngài gia bị, ban cho tôi phước huệ được liễu sanh thoát tử. Ngài bảo tôi:
- Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn con đến đây tham quan các nơi, con cứ đi tham quan đi, rồi sau đó con còn phải trở về gian nữa.
Lúc ấy tôi đã say mê cảnh giới tốt đẹp của Tây Phương Cực Lạc rồi, cho nên tôi cảm thấy thế gian đầy dẫy những nhớp nhúa đau khổ, không muốn trở về nữa, tôi mới năn nỉ:
- Cực Lạc Quốc Độ quá là tốt đẹp, con không muốn về thế gian nữa, nguyện cầu Đức Phật A Di Đà phát đại từ bi tâm mà giữ con lại đây. Ngài dạy:
- Không được, không phải ta không chịu giữ con ở lại thế giới Cực Lạc, mà chỉ vì 2 kiếp về trước con đã vãng sanh đến đây nhưng rồi chính con đòi trở về thế gian cứu đời, độ người, cho nên giờ đây con cần quay về, làm cho xong tâm nguyện của con. Đem tình hình được thấy ở đây truyền đạt cho thế gian biết, lấy đó mà giáo hóa thế nhân.
Đức Phật lại ngâm kệ trùng tuyên lại lời ấy, Ngài vừa dứt ngâm kệ, tôi rúng động toàn thân và nhớ lại tất cả cảnh cũ của hai kiếp trước, lồng lộng trước mắt.
Đức Phật A Di Đà bảo với Quan Âm Bồ Tát hướng dẫn tôi đi tham quan các nơi. Tôi đảnh lễ Ngài 3 lạy rồi cùng với Quan Âm Bồ Tát bước ra khỏi cửa Đài Thuyết Pháp. Lúc này tôi quan sát thấy hành lang, bờ ao, lan can, núi đất đều kết lại bằng 7 báu vật, đều phát ra tia sáng giống như ánh đèn màu vậy. Đặc biệt nhất là tất cả những dạng hữu hình như trên đều trong suốt không chướng ngại, có thể xuyên thấu qua được. Trên cửa Đài có 4 chữ vàng, hai bên cũng có đôi liễu đối, tôi nhìn không hiểu ... chỉ nhớ được 1 chữ còn 3 chữ kia không nhớ rõ. Bồ Tát Quan Âm giải thích "Nếu đọc bằng hoa văn thì đó là Đại Hùng Bửu Điện, cũng có thể đọc là Vô Lượng Thọ Phật". Cái tòa Đại Điện lung linh áng vàng ấy hùng vĩ vô cùng, có tới mấy vạn người ở trong, đồng thời tôi thấy rất đông chư vị Bồ Tát, ngồi hoặc đứng, có vị ngoài điện, toàn thân đều hiện sắc vàng óng trong suốt nhưng cao độ ánh sáng của Bồ Tát thấp hơn Đức Phật chút ít. Trong số chư vị Bồ Tát tôi gặp có cả Đại Thế Chí Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát v.v... Quan Âm Bồ Tát bảo:
- Thôi để tôi dẫn ông đi, chúng ta sẽ đến hạ phẩm hạ sanh trước, thăm lần đến thượng sanh thượng phẩm nha!
Trên đường lướt đi ấy, thân hình Bồ Tát và tôi lần lần thu nhỏ lại và thấp xuống. Tôi thấy lạ, bèn hỏi:
- Bồ Tát Quan Âm tại sao lạ vậy, thưa Bồ Tát? Thân người tại sao lại có tình trạng thu nhỏ như vậy?
Ngài trả lời:
- Chúng sanh từng phẩm, vì cảnh giới không giống nhau nên hình thể và độ cao cũng có lớn nhỏ khác nhau; chúng ta đang ở thượng phẩm nơi trụ xứ đức Phật A Di Đà, mà đi về hướng hạ phẩm, nên biết là trong 9 phẩm sen vàng ấy, chúng sanh trong thượng phẩm cao lớn hơn chúng sanh trong trung phẩm; ở trung phẩm lại có độ cao lớn hơn hạ phẩm, cho nên ta đi từ thượng phẩm thì cố nhiên thân hình cần thu nhỏ lại, thấp xuống để ta không khác thường với chúng sanh nới ấy, đó gọi là thích hợp cảnh giới là vậy.
VI. VIẾNG HẠ PHẨM LIÊN HOA NƠI ĐỐI NGHIỆP VÃNG SANH
1. Hạ Phẩm Hạ Sanh - Đem theo vong nghiệp mà vãng sanh
Chưa nói được mấy câu đã đến ao sen hạ phẩm rồi. Thoáng nhìn qua, đã thấy bãi đất bằng như bàn tay đều do cát vàng trãi phủ kín, óng ánh vàng rực. Trên bãi đất rộng mênh mông ấy, có vô số các bé gái chừng 13, 14 tuổi. Các bé ấy mặc cùng một loại áo màu lá mạ, váy màu hồng đào, đeo đai vàng óng. Mà lạ! Tất cả các đứa bé cùng cỡ tuổi, cùng chung một dáng dấp mặt mũi y như nhau. A! Thế ra Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng có con gái nữa.
Tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Thế Âm:
- Thưa Bồ Tát nghe kinh Phật nói ở thế giới Cực Lạc không có sự phân biệt nam nữ, cớ sao ở đây lại có con gái nữa?
Ngài trả lời:
- Đúng vậy, ở nơi đây không hề có sự phân biệt tướng nam tướng nữ. Ông nhìn lại thân hình ông thì biết!
Tôi nhìn lại mới hết hồn, thì ra tôi cũng có dáng dấp của bé gái 13, 14 tuổi và cách ăn mặt cũng giống y hệt những đứa bé gái kia, còn mặt mũi thì thế nào chưa biết chứ tóc tay và quần áo chẳng khác các nữ chúng ở đây tí nào. Tôi ngạc nhiên hỏi Bồ Tát:
- Thưa Bồ Tát tại sao như thế này được? Ngài bảo:
- Ở đây có một vị Bồ Tát chủ trì, nếu vị ấy biến nam thì toàn bộ là nam, khi biến nữ thì toàn bộ đều là nữ. Thực ra dẫu có biến nam hay nữ thì tất cả đều từng ấy tuổi, và dẫu có biến nam hay nữ thì tất cả đều như nhau đâu có sự phân biệt khác phái được, hơn nữa từ hoa sen hóa sanh ra là không có máu thịt chỉ một thể dạng trong suốt, chỉ có thay đổi dáng dấp bề ngoài thôi. Ông nhìn lại xem có phải vậy không?
Tôi nhìn lại thân thể mình đúng là trong vắt như pha lê chiếu sáng, không có xương thịt máu móng tay chân. Những người được vãng sanh đến ao hạ sanh hạ phẩm này đều là đối nghiệp vãng sanh, không luận là trai hay gái, trẻ hay già, sau khi từ hoa sen hóa sanh ra, nhất loạt biến thành bé 13-14 tuổi cùng một cách ngây thơ xinh đẹp như vậy.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Thưa Bồ Tát tại sao người vãng sanh đến đây lại biến thành cùng một dáng dấp, lại cùng một độ tuổi vậy?
Ngài trả lời rằng:
- Tại vì Phật tánh bình đẳng. Phật lực A Di Đà tiếp dẫn họ đến hóa sanh bằng hoa sen, tất cả đều được tiếp độ, tất cả đều được liên hoa hóa sanh, cho nên tất cả đều được đãi ngộ như nhau cho dù là ông cụ bà cụ hay là trai tráng, sau khi từ hoa sen nở ra, đồng loại trở thành những đứa bé mười mấy tuổi, tướng mạo y như nhau, kháu khỉnh dễ thương y như nhau.
Sau khi được hóa sanh ra trong ao hạ sanh phẩm, mỗi ngày trong 6 thời, có một thời là hội giảng kinh do một vị Bồ Tát chủ trì. Khi đến giờ chuông pháp reo vang, người trong ao sen lầu các, nhất loại biến thành nam hoặc nữ có hình tướng nhất định, trang phục đều như nhau, toàn do Phật lực hoặc do Bồ Tát điều khiển. Những người trong hạ sanh hạ phẩm này ban ngày rời khỏi hoa sen ra ngoài chơi giỡn hoặc ca hát, hoặc là nhảy múa, hoặc là lễ bái hay niệm Phật tụng kinh và tất cả đồng theo ý thích của mình. Đến giờ nghỉ ngơi buổi chiều tốt thì mỗi người đều trở về hoa sen của mình, hay nói cách khác ban ngày sen nở ban đêm sen úp. Khi đã trở vào hoa sen rồi sẽ không được hoạt động lăn xăn bên ngoài, chỉ có thể niệm Phật hoặc là có thể trầm tư suy tưởng những vọng ảnh. Vì hạ phẩm hạ sanh nay là đới nghiệp vãng sanh, nên khó tránh được những phân ảnh của vọng nghiệp được đem đến từ đời quá khứ.
Bồ tát Quan Âm dẫn tôi đến một quảng trường. Thoạt đầu tôi chỉ thấy chừng một hai chục bé gái, rồi vài chục, rồi vài trăm, vài ngàn, vài vạn bé. Trong chốc lát cả cái sân rộng mênh mông của quảng trường đã đầy ấp các bé gái có dáng dấp y như nhau, quần áo và độ tuổi cũng như nhau, tập trung lại xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, việc ấy như là một chuyện rất dễ dàng nhẹ nhàng vậy. Chẳng giống như ở thế gian mình đây, muốn tập trung xếp thành một lúc hàng vạn người hay nói dễ hơn chừng ít ngàn người thôi cũng tốn hao nhiều công sức và thời gian để chỉnh đốn hàng lối rồi.
Tôi lại được dẫn đến bên ao sen. Lạ quá, nước trong ao lềnh bềnh như mặt thoáng hơi nước, như là mây, như là không khí vậy, chớ không giống nước ở thế gian này.
Bồ Tát bảo:
- Ông xuống tắm thử đi.
Tôi lo lắng:
- Rồi ướt hết áo sao? Thưa Bồ Tát.
Ngài bảo:
- Không ướt đâu, không giống như ao ở thế gian làm ướt áo lúc tắm.
Tôi vâng lời mạnh dạn xuống tắm. Đúng như vậy, quần áo tôi không hề ướt. Tôi vốn sợ ao hồ vì không biết bơi, nhưng ở đây lại có thể theo ý nghĩ của mình, muốn lên, muốn xuống, qua trái, qua phải, toàn theo ý điều khiển. Tôi thích thú lượn trong ao sen tắm và giỡn nước, vì hiếu kỳ tôi thử hớp một ngụm nước. Ôi ngọt quá. Thế là tôi há to miệng hớp lấy hớp để, càng uống tinh thần càng khỏe khoắn toàn thân nhẹ thênh thênh. Lúc ấy tôi bay tới giữa ao thấy rất nhiều đóa sen vô cùng đẹp đẽ nở sáng lạng, có người ngồi trên hoa sen niệm Phật. Nhưng cũng có một số hoa sen đang héo úa, hoặc gẫy gấp, thậm chí có đóa tàn lụn.
(Nước ao sen này chính là loại nước mà kinh A Di Đà ghi là Bát Công Đức Thủy) .
Tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Thế Âm:
- Thưa Bồ Tát nghe kinh Phật nói ở thế giới Cực Lạc không có sự phân biệt nam nữ, cớ sao ở đây lại có con gái nữa?
Ngài trả lời:
- Đúng vậy, ở nơi đây không hề có sự phân biệt tướng nam tướng nữ. Ông nhìn lại thân hình ông thì biết!
Tôi nhìn lại mới hết hồn, thì ra tôi cũng có dáng dấp của bé gái 13, 14 tuổi và cách ăn mặt cũng giống y hệt những đứa bé gái kia, còn mặt mũi thì thế nào chưa biết chứ tóc tay và quần áo chẳng khác các nữ chúng ở đây tí nào. Tôi ngạc nhiên hỏi Bồ Tát:
- Thưa Bồ Tát tại sao như thế này được? Ngài bảo:
- Ở đây có một vị Bồ Tát chủ trì, nếu vị ấy biến nam thì toàn bộ là nam, khi biến nữ thì toàn bộ đều là nữ. Thực ra dẫu có biến nam hay nữ thì tất cả đều từng ấy tuổi, và dẫu có biến nam hay nữ thì tất cả đều như nhau đâu có sự phân biệt khác phái được, hơn nữa từ hoa sen hóa sanh ra là không có máu thịt chỉ một thể dạng trong suốt, chỉ có thay đổi dáng dấp bề ngoài thôi. Ông nhìn lại xem có phải vậy không?
Tôi nhìn lại thân thể mình đúng là trong vắt như pha lê chiếu sáng, không có xương thịt máu móng tay chân. Những người được vãng sanh đến ao hạ sanh hạ phẩm này đều là đối nghiệp vãng sanh, không luận là trai hay gái, trẻ hay già, sau khi từ hoa sen hóa sanh ra, nhất loạt biến thành bé 13-14 tuổi cùng một cách ngây thơ xinh đẹp như vậy.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Thưa Bồ Tát tại sao người vãng sanh đến đây lại biến thành cùng một dáng dấp, lại cùng một độ tuổi vậy?
Ngài trả lời rằng:
- Tại vì Phật tánh bình đẳng. Phật lực A Di Đà tiếp dẫn họ đến hóa sanh bằng hoa sen, tất cả đều được tiếp độ, tất cả đều được liên hoa hóa sanh, cho nên tất cả đều được đãi ngộ như nhau cho dù là ông cụ bà cụ hay là trai tráng, sau khi từ hoa sen nở ra, đồng loại trở thành những đứa bé mười mấy tuổi, tướng mạo y như nhau, kháu khỉnh dễ thương y như nhau.
Sau khi được hóa sanh ra trong ao hạ sanh phẩm, mỗi ngày trong 6 thời, có một thời là hội giảng kinh do một vị Bồ Tát chủ trì. Khi đến giờ chuông pháp reo vang, người trong ao sen lầu các, nhất loại biến thành nam hoặc nữ có hình tướng nhất định, trang phục đều như nhau, toàn do Phật lực hoặc do Bồ Tát điều khiển. Những người trong hạ sanh hạ phẩm này ban ngày rời khỏi hoa sen ra ngoài chơi giỡn hoặc ca hát, hoặc là nhảy múa, hoặc là lễ bái hay niệm Phật tụng kinh và tất cả đồng theo ý thích của mình. Đến giờ nghỉ ngơi buổi chiều tốt thì mỗi người đều trở về hoa sen của mình, hay nói cách khác ban ngày sen nở ban đêm sen úp. Khi đã trở vào hoa sen rồi sẽ không được hoạt động lăn xăn bên ngoài, chỉ có thể niệm Phật hoặc là có thể trầm tư suy tưởng những vọng ảnh. Vì hạ phẩm hạ sanh nay là đới nghiệp vãng sanh, nên khó tránh được những phân ảnh của vọng nghiệp được đem đến từ đời quá khứ.
Bồ tát Quan Âm dẫn tôi đến một quảng trường. Thoạt đầu tôi chỉ thấy chừng một hai chục bé gái, rồi vài chục, rồi vài trăm, vài ngàn, vài vạn bé. Trong chốc lát cả cái sân rộng mênh mông của quảng trường đã đầy ấp các bé gái có dáng dấp y như nhau, quần áo và độ tuổi cũng như nhau, tập trung lại xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, việc ấy như là một chuyện rất dễ dàng nhẹ nhàng vậy. Chẳng giống như ở thế gian mình đây, muốn tập trung xếp thành một lúc hàng vạn người hay nói dễ hơn chừng ít ngàn người thôi cũng tốn hao nhiều công sức và thời gian để chỉnh đốn hàng lối rồi.
Tôi lại được dẫn đến bên ao sen. Lạ quá, nước trong ao lềnh bềnh như mặt thoáng hơi nước, như là mây, như là không khí vậy, chớ không giống nước ở thế gian này.
Bồ Tát bảo:
- Ông xuống tắm thử đi.
Tôi lo lắng:
- Rồi ướt hết áo sao? Thưa Bồ Tát.
Ngài bảo:
- Không ướt đâu, không giống như ao ở thế gian làm ướt áo lúc tắm.
Tôi vâng lời mạnh dạn xuống tắm. Đúng như vậy, quần áo tôi không hề ướt. Tôi vốn sợ ao hồ vì không biết bơi, nhưng ở đây lại có thể theo ý nghĩ của mình, muốn lên, muốn xuống, qua trái, qua phải, toàn theo ý điều khiển. Tôi thích thú lượn trong ao sen tắm và giỡn nước, vì hiếu kỳ tôi thử hớp một ngụm nước. Ôi ngọt quá. Thế là tôi há to miệng hớp lấy hớp để, càng uống tinh thần càng khỏe khoắn toàn thân nhẹ thênh thênh. Lúc ấy tôi bay tới giữa ao thấy rất nhiều đóa sen vô cùng đẹp đẽ nở sáng lạng, có người ngồi trên hoa sen niệm Phật. Nhưng cũng có một số hoa sen đang héo úa, hoặc gẫy gấp, thậm chí có đóa tàn lụn.
(Nước ao sen này chính là loại nước mà kinh A Di Đà ghi là Bát Công Đức Thủy) .
VII. VIẾNG PHẨM TRUNG HOA
1. NƠI PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ
Ra khỏi ao sen hạ phẩm, tôi lại trì chú, thân như ngồi máy bay lướt gió mà bay lên, đột nhiên tôi có cảm giác thân mình đang từ từ lớn và cao lên. Hoa sen ở Trung Phẩm quả là to lớn, một đóa sen lớn cở 8, 9 trăm dặm, bằng như 1 tỉnh ở Trung Quốc, bán kính hoa sen có thể lớn bằng từ Tân Gia Ba đến nửa nước Thái Lan, toàn hoa sen có thể lớn vậy nên người ngồi trên đó phải lớn tương đương, ta đã biết cao tớ bậc nào chẳng cần phải nói, chư vị cũng biết là phòng xá cung điện ở đây phải lớn đến cỡ nào để tương ứng với hàng vạn chúng sanh vào trong nghe giảng pháp.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Ở Trung Phẩm đa số là Phàm Thánh Đồng Cư tứ chúng đều có (tứ chúng là tăng ni, thiện nam, tín nữ) người vãng sanh đến đây, những người đến đây hơn người Hạ Phẩm một bậc, lúc sanh tiền họ đều có ý niệm ra khỏi Tam Giới. Ở thế giới ta bà chịu khổ tu luyện ngoài việc tự tu, còn tích cực trong công việc Phật sự, hoặc đóng góp xây dựng chùa tháp, hoặc in ấn kinh sách, hoặc là trùng tuyên Phật pháp, dùng phương tiện khéo để khuyên hóa người khác tin Phật, tin pháp tin tăng, giảng giải chỗ nghi ngờ khó hiểu trong kinh Phật để người người tinh tấn tu hành, còn cố gắng bố thí, pháp thí, vô úy thí, nghiêm trì giới luật, biết phát lòng từ bi, hỉ xả, lâm chung nương Tây Phương tam thành tiếp dẫn, vãng sanh đến ao sen Trung Phẩm, nhưng mà cách tu trì như cách tu trì như trên vẫn có bậc sâu cạn, nên ở đây cũng chia làm ba bậc Thượng Sanh, Trung Sanh, Hạ Sanh.
Câu chuyện vừa dứt chúng tôi đã đứng trước một đại điện, tôi đảnh lễ chư vị Bồ Tát nơi đây, Bồ Tát Quan Âm liền dẫn tôi đi tham quan các nơi.
Ôi! Ao sen Trung Phẩm mới đẹp làm sao, so với Hạ Phẩm, sao sen Trung Phẩm không biết vượt trội hơn chục lần, bốn bên đều được xây bằng bảy báu, hoa sen trong ao phóng ra những tia sắc sáng lung linh cùng nhau ánh lên màu sáng chói lọi hấp dẫn vô cùng. Lạ hơn nữa là hoa này rất nhiều thần cánh sen, bên trong mỗi tầng đều hiện đình đài lầu các, bảo tháp, phóng mười mấy thứ ánh sắc, cảnh trí đẹp không sao tả xiết, người ngồi trên toà sen toàn thân hiện sắc óng ánh vàng hồng trong suốt, cũng phóng muôn đạo hào quang. Tất cả những người ở đây y phục cùng loạt giống như nhau, tuổi thì cở trên dưới hai mươi không thấy một đứa trẻ nào hay là một người già nào, bất giác tôi nhìn lại mình thì cũng giống như họ, riêng chỉ có Bồ Tát Quan Âm là giữ nguyên dáng Bồ Tát thôi.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Tại sao cái gì ở đây cũng có hào quang, màu sắc gì thì phát ra màu ấy, còn thân con người ở đây đều phát ra hào quang giống như nhau vậy?
Ngài trả lời:
- Ở đây tất cả mọi cái đều dưới sự tác động của Phật lực Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà phóng ra vô lượng quang minh phản ánh đến đây khiến tất cả đều phát lồ phóng quang chuyển biến, trong thân ông cũng như vậy. Trong mỗi cảnh giới của ao sen cách trang sức và dáng dấp đều giống nhau và cũng một màu, trừ phi chính mình có năng lực thần thông biến hóa ra các dạng khác, bằng không toàn thể đều thống nhất như nhau.
Bồ Tát còn cho biết tuy là Trung Phẩm, ở đây cũng có những đóa sen, những lầu các u trầm, ảm đạm, không phát ra hào quang, nhưng đây không phải là cảnh thực của Cực Lạc mà là cảnh giới vô thường mộng ảo của vọng tưởng dĩ vãng từng cúng sanh.
Bồ Tát chỉ cho tôi xem cái tòa lầu các ảm đạm gần đấy, bốn phía của lầu các là vườn hoa rất rộng, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, chim chóc trên cành nhảy nhót hót vang cảnh trí như nhà trưởng giả hào phú. Gia đình này lớn bé già trẻ chừng hai mươi người, tòa đại sảnh có trang thiết thờ tam bảo, cha mẹ con anh chị em thân quyến tựu lại niệm Phật tụng kinh vô cùng thuần thành và tinh tấn. Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Cái gia đình này hay bố thí, làm lành từ bi hỷ xả, một số đã vãng sanh Trung Phẩm liên hoa, nhưng vẫn cứ vọng nhớ tình cảm xa xưa cho nên thành vọng cảnh luôn như vậy . Bồ Tát còn nói:
- Trong 9 phẩm hoa sen, mỗi phẩm đều từ dưới lên trên, khi tu được rồi thì hoa sen sẽ được dời lên ao phẩm trên. Cũng giống như tham thiền vậy, sơ thiền tu rồi lên nhị thiền, nhị thiền rồi lên tam thiền, rồi mới tới tứ thiền, lý ấy là như vậy.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Ở Trung Phẩm đa số là Phàm Thánh Đồng Cư tứ chúng đều có (tứ chúng là tăng ni, thiện nam, tín nữ) người vãng sanh đến đây, những người đến đây hơn người Hạ Phẩm một bậc, lúc sanh tiền họ đều có ý niệm ra khỏi Tam Giới. Ở thế giới ta bà chịu khổ tu luyện ngoài việc tự tu, còn tích cực trong công việc Phật sự, hoặc đóng góp xây dựng chùa tháp, hoặc in ấn kinh sách, hoặc là trùng tuyên Phật pháp, dùng phương tiện khéo để khuyên hóa người khác tin Phật, tin pháp tin tăng, giảng giải chỗ nghi ngờ khó hiểu trong kinh Phật để người người tinh tấn tu hành, còn cố gắng bố thí, pháp thí, vô úy thí, nghiêm trì giới luật, biết phát lòng từ bi, hỉ xả, lâm chung nương Tây Phương tam thành tiếp dẫn, vãng sanh đến ao sen Trung Phẩm, nhưng mà cách tu trì như cách tu trì như trên vẫn có bậc sâu cạn, nên ở đây cũng chia làm ba bậc Thượng Sanh, Trung Sanh, Hạ Sanh.
Câu chuyện vừa dứt chúng tôi đã đứng trước một đại điện, tôi đảnh lễ chư vị Bồ Tát nơi đây, Bồ Tát Quan Âm liền dẫn tôi đi tham quan các nơi.
Ôi! Ao sen Trung Phẩm mới đẹp làm sao, so với Hạ Phẩm, sao sen Trung Phẩm không biết vượt trội hơn chục lần, bốn bên đều được xây bằng bảy báu, hoa sen trong ao phóng ra những tia sắc sáng lung linh cùng nhau ánh lên màu sáng chói lọi hấp dẫn vô cùng. Lạ hơn nữa là hoa này rất nhiều thần cánh sen, bên trong mỗi tầng đều hiện đình đài lầu các, bảo tháp, phóng mười mấy thứ ánh sắc, cảnh trí đẹp không sao tả xiết, người ngồi trên toà sen toàn thân hiện sắc óng ánh vàng hồng trong suốt, cũng phóng muôn đạo hào quang. Tất cả những người ở đây y phục cùng loạt giống như nhau, tuổi thì cở trên dưới hai mươi không thấy một đứa trẻ nào hay là một người già nào, bất giác tôi nhìn lại mình thì cũng giống như họ, riêng chỉ có Bồ Tát Quan Âm là giữ nguyên dáng Bồ Tát thôi.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Tại sao cái gì ở đây cũng có hào quang, màu sắc gì thì phát ra màu ấy, còn thân con người ở đây đều phát ra hào quang giống như nhau vậy?
Ngài trả lời:
- Ở đây tất cả mọi cái đều dưới sự tác động của Phật lực Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà phóng ra vô lượng quang minh phản ánh đến đây khiến tất cả đều phát lồ phóng quang chuyển biến, trong thân ông cũng như vậy. Trong mỗi cảnh giới của ao sen cách trang sức và dáng dấp đều giống nhau và cũng một màu, trừ phi chính mình có năng lực thần thông biến hóa ra các dạng khác, bằng không toàn thể đều thống nhất như nhau.
Bồ Tát còn cho biết tuy là Trung Phẩm, ở đây cũng có những đóa sen, những lầu các u trầm, ảm đạm, không phát ra hào quang, nhưng đây không phải là cảnh thực của Cực Lạc mà là cảnh giới vô thường mộng ảo của vọng tưởng dĩ vãng từng cúng sanh.
Bồ Tát chỉ cho tôi xem cái tòa lầu các ảm đạm gần đấy, bốn phía của lầu các là vườn hoa rất rộng, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, chim chóc trên cành nhảy nhót hót vang cảnh trí như nhà trưởng giả hào phú. Gia đình này lớn bé già trẻ chừng hai mươi người, tòa đại sảnh có trang thiết thờ tam bảo, cha mẹ con anh chị em thân quyến tựu lại niệm Phật tụng kinh vô cùng thuần thành và tinh tấn. Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Cái gia đình này hay bố thí, làm lành từ bi hỷ xả, một số đã vãng sanh Trung Phẩm liên hoa, nhưng vẫn cứ vọng nhớ tình cảm xa xưa cho nên thành vọng cảnh luôn như vậy . Bồ Tát còn nói:
- Trong 9 phẩm hoa sen, mỗi phẩm đều từ dưới lên trên, khi tu được rồi thì hoa sen sẽ được dời lên ao phẩm trên. Cũng giống như tham thiền vậy, sơ thiền tu rồi lên nhị thiền, nhị thiền rồi lên tam thiền, rồi mới tới tứ thiền, lý ấy là như vậy.
Đột nhiên tiếng chuông reo vang, lầu các nầy thoáng cái đã biến mất, tất cả trở lại thân thanh niên khoảng 20 tuổi, hiện sắc óng vàng hồng trong suốt, bề ngoài trang sức đều đồng loạt giống nhau, và số người càng ngày càng đông, không thể kể hết, hình thành một hội trường to lớn.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Hôm nay ở đây do Bồ Tát Đại Thế Chí và Thường Tinh Tấn Bồ Tát giảnh về kinh Pháp Hoa, ông đi nghe chứ!
Tôi trả lời:
- A Di Đà Phật, con rất thích kinh Diệu Pháp Liên hoa thưa Bồ Tát.
Nói rồi tôi cùng Bồ Tát Quan Âm bước lên hội trường của Đài giảng, bốn bên đài giảng đều là hàng rào như gắn những hạt châu phóng ra trăm ngàn tia sáng chiếu rọi lung linh, hai bên có bảy hàng cây báu cao thấy mây xanh, trên cây cũng có đình đài lầu cát và đông đảo các Bồ Tát tập trung trên ấy để nghe giảng kinh, giảng đài này được xây bằng thất bảo lưu ly cao không biết bao nhiêu trượng, vô cùng trang nghiêm.
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi lên đài, tôi đảnh lễ hai vị Bồ Tát giảng sư rồi hai vị chủ tôi ngồi kế bên. Đại Thế Chí Bồ Tát lên bục giảng, lúc ấy không biết từ đâu khói hương xông lên, thơm ngát lan tỏa. Đâu đây du dương tiếng nhã nhạc lưng trời, những con chim muôn màu muôn vẻ nhiều vô số đang bay lượn và hót lên thánh hiệu niệm Phật. Khi tất cả lễ bái xong, Bồ Tát Đại Thế Chí đứng dậy tuyên bố nội dung buổi giảng:
- Diệu Pháp Liên Hoa kinh là căn nguyên của chư Phật Thế Giới Hoa Tạng, là căn bản để thành Phật, hễ muốn thành Phật đạo, cần phải tu kinh học kinh điển này . Lần giảng trước là giảng tiết thứ nhứt, thế nào là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vô lượng bảo, hôm nay sẽ nói đến tiết thứ hai về tác dụng của Diệu Pháp Liên Hoa kinh...
Ðại khái nói khoảng một tiếng đồng hồ.
Tôi nghe xong trong lòng có cái thắc mắc, kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian lưu truyền về văn tự, và câu kinh không đồng nhau, tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm. Ngài cho biết:
- Kinh văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian tương đối cạn dễ hiểu, ở đây lời lẽ huyền bí hơn, diệu mầu hơn, tuy dù có huyền bí hay diệu mầu hơn nhưng ý nghĩa chính cũng cùng một thứ thôi, có thể nói như thế này, người trời không hiểu cảnh giới Bồ Tát, La Hán không hiểu cảnh giới Bồ Tát, Bồ Tát không hiểu cảnh giới của Phật, ông nghe Bồ Tát giảng kinh chỉ phát ngôn bằng một tiếng nói, trăm ngàn tiếng nói cả nước đều được chuyển đến người nghe bằng độc nhất âm điệu của nước mình, đó là ngôn ngữ Đà La Ni tam muội.
Bồ Tát Thường Tinh Tấn giảng xong đất trời hiện ra cảnh tượng, không phải nói là một bức tranh, một bức tranh vô cùng đẹp mắt không thể nói hay nghĩ bàn được, rồi từ lưng trời rải xuống là là những đóa hoa tươi thắm đủ màu sắc, và từ hoa chiếu ra muôn đạo hào quang tỏa ra khắp nơi lung linh tuyệt vời. Trong đài giảng tất cả thanh niên đồng thời đứng dậy lấy vạt áo đựng đầy hoa, lúc ấy nhạc trời đồng trổi lên du dương, diệu vợi, âm thanh không biết từ đâu vọng ra vô cùng hùng tráng, đột nhiên cả ngàn, cả vạn thanh niên áo đỏ ấy đồng loạt lay mình biến thành thanh nữ mặc váy hồng đào, áo màu cốm, lưng đeo đai vàng óng lần lượt vươn lên múa hát vui thật là vui. Không bao lâu tất cả lại biến thành những đóa hoa sen hiện ra từng sắc màu khác nhau, ánh sáng củ hoa sen tủa ra thật là đẹp, sen trắng ánh sáng trắng, sen vàng ánh sáng vàng, mỗi hoa phát ra tia sáng của bản chất cánh sen ấy. Bây giờ không còn thấy bóng người nào nữa, thế rồi trên hoa sen lại hiện hình Bồ Tát ngồi ngay ngắn, rồi tiếp đến lại biến hoa sen thành tháp vàng tháp bạc rọi muôn ngàn hào quang, cảnh sắc nơi đây biến hiện vô cùng tráng lệ và hấp dẫn.
Tôi đang ngắm nhìn một cách xuất thần, tự nhiên trên hư không cả ngàn cả vạn thanh nữ mặc áo màu cốm đi vào, họ đi xuyên tường xuyên vách, tà áo họ lất phất bay từ trên cao cùng nhau bước xuống. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm về việc đi xuyên qua vách. Bồ Tát Quan Âm cho biết:
- Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà hình thành, thánh chất ấy không phải là vật chất, cho nên bất kỳ đình đài, lầu các điện hay bảo tháp núi sông hoa cỏ, cây cối đều trong suốt trong vật chất do đó không có chướng ngại, có thể đi xuyên qua một cách tự nhiên, ông không tin cứ thử một lần xem.
Tôi y lời chạy qua vách đại điện để thử, rồi đến cột lớn, lan can v.v... thân tôi đều đi xuyên qua được. Khi tôi tiếp giáp với vật đó thấy vật đó nhưng nó không cản trở hay vướng vấp thân thể tôi, cũng như ở thế gian chúng ta biết khối nước do mặt thoáng hồ nước nhưng đưa tay vào nước rất tự nhiên không bị cản lạị Tiếp đó, Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến hai chỗ kỳ quan nữa là Bát Đại Cảnh Sơn và Hoa Tạng Thế Giới để tham quang.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Hôm nay ở đây do Bồ Tát Đại Thế Chí và Thường Tinh Tấn Bồ Tát giảnh về kinh Pháp Hoa, ông đi nghe chứ!
Tôi trả lời:
- A Di Đà Phật, con rất thích kinh Diệu Pháp Liên hoa thưa Bồ Tát.
Nói rồi tôi cùng Bồ Tát Quan Âm bước lên hội trường của Đài giảng, bốn bên đài giảng đều là hàng rào như gắn những hạt châu phóng ra trăm ngàn tia sáng chiếu rọi lung linh, hai bên có bảy hàng cây báu cao thấy mây xanh, trên cây cũng có đình đài lầu cát và đông đảo các Bồ Tát tập trung trên ấy để nghe giảng kinh, giảng đài này được xây bằng thất bảo lưu ly cao không biết bao nhiêu trượng, vô cùng trang nghiêm.
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi lên đài, tôi đảnh lễ hai vị Bồ Tát giảng sư rồi hai vị chủ tôi ngồi kế bên. Đại Thế Chí Bồ Tát lên bục giảng, lúc ấy không biết từ đâu khói hương xông lên, thơm ngát lan tỏa. Đâu đây du dương tiếng nhã nhạc lưng trời, những con chim muôn màu muôn vẻ nhiều vô số đang bay lượn và hót lên thánh hiệu niệm Phật. Khi tất cả lễ bái xong, Bồ Tát Đại Thế Chí đứng dậy tuyên bố nội dung buổi giảng:
- Diệu Pháp Liên Hoa kinh là căn nguyên của chư Phật Thế Giới Hoa Tạng, là căn bản để thành Phật, hễ muốn thành Phật đạo, cần phải tu kinh học kinh điển này . Lần giảng trước là giảng tiết thứ nhứt, thế nào là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vô lượng bảo, hôm nay sẽ nói đến tiết thứ hai về tác dụng của Diệu Pháp Liên Hoa kinh...
Ðại khái nói khoảng một tiếng đồng hồ.
Tôi nghe xong trong lòng có cái thắc mắc, kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian lưu truyền về văn tự, và câu kinh không đồng nhau, tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm. Ngài cho biết:
- Kinh văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian tương đối cạn dễ hiểu, ở đây lời lẽ huyền bí hơn, diệu mầu hơn, tuy dù có huyền bí hay diệu mầu hơn nhưng ý nghĩa chính cũng cùng một thứ thôi, có thể nói như thế này, người trời không hiểu cảnh giới Bồ Tát, La Hán không hiểu cảnh giới Bồ Tát, Bồ Tát không hiểu cảnh giới của Phật, ông nghe Bồ Tát giảng kinh chỉ phát ngôn bằng một tiếng nói, trăm ngàn tiếng nói cả nước đều được chuyển đến người nghe bằng độc nhất âm điệu của nước mình, đó là ngôn ngữ Đà La Ni tam muội.
Bồ Tát Thường Tinh Tấn giảng xong đất trời hiện ra cảnh tượng, không phải nói là một bức tranh, một bức tranh vô cùng đẹp mắt không thể nói hay nghĩ bàn được, rồi từ lưng trời rải xuống là là những đóa hoa tươi thắm đủ màu sắc, và từ hoa chiếu ra muôn đạo hào quang tỏa ra khắp nơi lung linh tuyệt vời. Trong đài giảng tất cả thanh niên đồng thời đứng dậy lấy vạt áo đựng đầy hoa, lúc ấy nhạc trời đồng trổi lên du dương, diệu vợi, âm thanh không biết từ đâu vọng ra vô cùng hùng tráng, đột nhiên cả ngàn, cả vạn thanh niên áo đỏ ấy đồng loạt lay mình biến thành thanh nữ mặc váy hồng đào, áo màu cốm, lưng đeo đai vàng óng lần lượt vươn lên múa hát vui thật là vui. Không bao lâu tất cả lại biến thành những đóa hoa sen hiện ra từng sắc màu khác nhau, ánh sáng củ hoa sen tủa ra thật là đẹp, sen trắng ánh sáng trắng, sen vàng ánh sáng vàng, mỗi hoa phát ra tia sáng của bản chất cánh sen ấy. Bây giờ không còn thấy bóng người nào nữa, thế rồi trên hoa sen lại hiện hình Bồ Tát ngồi ngay ngắn, rồi tiếp đến lại biến hoa sen thành tháp vàng tháp bạc rọi muôn ngàn hào quang, cảnh sắc nơi đây biến hiện vô cùng tráng lệ và hấp dẫn.
Tôi đang ngắm nhìn một cách xuất thần, tự nhiên trên hư không cả ngàn cả vạn thanh nữ mặc áo màu cốm đi vào, họ đi xuyên tường xuyên vách, tà áo họ lất phất bay từ trên cao cùng nhau bước xuống. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi Bồ Tát Quan Âm về việc đi xuyên qua vách. Bồ Tát Quan Âm cho biết:
- Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà hình thành, thánh chất ấy không phải là vật chất, cho nên bất kỳ đình đài, lầu các điện hay bảo tháp núi sông hoa cỏ, cây cối đều trong suốt trong vật chất do đó không có chướng ngại, có thể đi xuyên qua một cách tự nhiên, ông không tin cứ thử một lần xem.
Tôi y lời chạy qua vách đại điện để thử, rồi đến cột lớn, lan can v.v... thân tôi đều đi xuyên qua được. Khi tôi tiếp giáp với vật đó thấy vật đó nhưng nó không cản trở hay vướng vấp thân thể tôi, cũng như ở thế gian chúng ta biết khối nước do mặt thoáng hồ nước nhưng đưa tay vào nước rất tự nhiên không bị cản lạị Tiếp đó, Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến hai chỗ kỳ quan nữa là Bát Đại Cảnh Sơn và Hoa Tạng Thế Giới để tham quang.
2. BÁT ĐẠI CẢNH SƠN
Vãnh sanh đến trung phẩm hạ sanh một số đã rất ít vọng tưởng vọng niệm, hoặc giả không còn vọng niệm, dáng dấp bên ngoài của họ đều biến thành cỡ tuổi mười sáu đến hai mươi, y phục không phân biệt nam nữ, hành động của họ cũng là tập thể, mỗi ngày cúng dường thập phương chư Phật. Hoa sen chỗ này rất nhiều tầng cánh, những cánh sen màu s¡c đều tuôn ra muôn thứ hào quang thật tuyệt đẹp, so với hạ sanh thì khác xa nhau lắm.
Bát Đại Cảnh Sơn là tám núi cảnh lớn, tám núi này tượng trưng cho tám thức của con người: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại đa thức, hợp xưng bát thức tâm điền. Phật A Di Đà thiết lập cảnh này là mong những người trước khi bước vào đất Tịnh Độ này cần khiến cho tám thức của mình tu thành chữ "KHÔNG".
Núi thứ nhất là Quang Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho nhãn thức, trong núi ấy hình ảnh của thế giới mười phương, tất cả và tất cả đều có thể nhìn tường tận được. Thí dụ như cần xem một chúng sanh nào ở thế giới ta bà đang sống thế nào, đời quá khứ thế nào, kiếp tới nữa thế nào, chẳng hạn như kiếp trước là heo, là nô tì ... kiếp trước nữa là gia đình trưởng giả, dế vương, tướng quốc v.v... thậm chí tình hình đất Phật khác đều có thể thấy rõ mồn một.
Núi thứ hai gọi là Thanh Vân Sơn tượng trưng cho nhỉ thức. Vừa đến núi này là lỗ tai ta có thể nghe được tất cả âm thanh của mười phương thế giới, không phải nghe cùng một lúc đâu, ta nghĩ muốn nghe ở đâu hay nghe tiếng gì thì âm thanh vang vọng nhận biết rõ ra, còn biết Đức Phật nào đang giảng kinh điển nào.
Núi thứ ba gọi là Vị Phương Cảnh Sơn tượng trưng cho chỉ tỉ thức. Trên núi này ta có thể ngửi được mùi vị của bất cứ địa phương nào, còn có thể biết cả nội dung của cả mùi ấy nữa, chẳng hạn như mùi hóa chất ấy gồm những hợp chất gì, vàng, đồng, bạc thau sắt v.v...
Núi thứ tư gọi là Âm Thanh Cảnh Sơn tượng trưng cho thiệt thức, nhận biết tiếng từ miệng lưỡi người nào nói ra và ý nghĩa tiếng ấy ra sao, từ cảnh giới Phật Bồ Tát Thinh Văn Duyên Giác, Trời, Người, A Tu La ... thậm chí tiếng ngạ quỹ, súc sanh, địa ngục đều nghe hiểu.
Núi thứ năm gọi là Kim Thân Cảnh Sơn tượng trưng cho thần thức. Trong núi này có thể bằng xúc giác nhận hiện ra tất cả sự vật, có thể thấy tất cả rất nhiều kim thân của thế giới ta bà, 32 tướng v.v... đều rất là rõ.
Núi thứ sáu gọi là Ý Thức Cảnh Sơn tượng trưng cho ý thức. Núi này có thể gặp vô số chư Phật từng kiếp một tu hành như thế nào, và cả chính mình hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp trước là gì, thân thế ra sao, tu hành ra sao mọi thứ đều hiện ra .
Núi thứ bảy gọi là Tế Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho Mạt na thức. Đây là cảnh giới vô cùng đặc biệt gồm cả sáu khả năng ở sáu núi đồng loạt thể hiện, có thể nói ở núi này ta muốn thấy hay biết bất kỳ cái gì cũng hiện ra rõ rệt.
Núi thứ tám gọi là Vô Biên Cảnh tượng trưng cho thức thứ tám A Lại Đa Thức. Cảnh giới này ta có thể ý niệm và nghe thấy được đầy ¡p cả hư không giới tất cả mọi sự việc, quá khứ xa gần, hiện tại và cả vị lai xa gần, nếu chúng ta muốn biết chỉ khơi niệm là biết ngày không khó khăn tí nào.
Vãnh sanh đến trung phẩm hạ sanh một số đã rất ít vọng tưởng vọng niệm, hoặc giả không còn vọng niệm, dáng dấp bên ngoài của họ đều biến thành cỡ tuổi mười sáu đến hai mươi, y phục không phân biệt nam nữ, hành động của họ cũng là tập thể, mỗi ngày cúng dường thập phương chư Phật. Hoa sen chỗ này rất nhiều tầng cánh, những cánh sen màu s¡c đều tuôn ra muôn thứ hào quang thật tuyệt đẹp, so với hạ sanh thì khác xa nhau lắm.
Bát Đại Cảnh Sơn là tám núi cảnh lớn, tám núi này tượng trưng cho tám thức của con người: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại đa thức, hợp xưng bát thức tâm điền. Phật A Di Đà thiết lập cảnh này là mong những người trước khi bước vào đất Tịnh Độ này cần khiến cho tám thức của mình tu thành chữ "KHÔNG".
Núi thứ nhất là Quang Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho nhãn thức, trong núi ấy hình ảnh của thế giới mười phương, tất cả và tất cả đều có thể nhìn tường tận được. Thí dụ như cần xem một chúng sanh nào ở thế giới ta bà đang sống thế nào, đời quá khứ thế nào, kiếp tới nữa thế nào, chẳng hạn như kiếp trước là heo, là nô tì ... kiếp trước nữa là gia đình trưởng giả, dế vương, tướng quốc v.v... thậm chí tình hình đất Phật khác đều có thể thấy rõ mồn một.
Núi thứ hai gọi là Thanh Vân Sơn tượng trưng cho nhỉ thức. Vừa đến núi này là lỗ tai ta có thể nghe được tất cả âm thanh của mười phương thế giới, không phải nghe cùng một lúc đâu, ta nghĩ muốn nghe ở đâu hay nghe tiếng gì thì âm thanh vang vọng nhận biết rõ ra, còn biết Đức Phật nào đang giảng kinh điển nào.
Núi thứ ba gọi là Vị Phương Cảnh Sơn tượng trưng cho chỉ tỉ thức. Trên núi này ta có thể ngửi được mùi vị của bất cứ địa phương nào, còn có thể biết cả nội dung của cả mùi ấy nữa, chẳng hạn như mùi hóa chất ấy gồm những hợp chất gì, vàng, đồng, bạc thau sắt v.v...
Núi thứ tư gọi là Âm Thanh Cảnh Sơn tượng trưng cho thiệt thức, nhận biết tiếng từ miệng lưỡi người nào nói ra và ý nghĩa tiếng ấy ra sao, từ cảnh giới Phật Bồ Tát Thinh Văn Duyên Giác, Trời, Người, A Tu La ... thậm chí tiếng ngạ quỹ, súc sanh, địa ngục đều nghe hiểu.
Núi thứ năm gọi là Kim Thân Cảnh Sơn tượng trưng cho thần thức. Trong núi này có thể bằng xúc giác nhận hiện ra tất cả sự vật, có thể thấy tất cả rất nhiều kim thân của thế giới ta bà, 32 tướng v.v... đều rất là rõ.
Núi thứ sáu gọi là Ý Thức Cảnh Sơn tượng trưng cho ý thức. Núi này có thể gặp vô số chư Phật từng kiếp một tu hành như thế nào, và cả chính mình hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp trước là gì, thân thế ra sao, tu hành ra sao mọi thứ đều hiện ra .
Núi thứ bảy gọi là Tế Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho Mạt na thức. Đây là cảnh giới vô cùng đặc biệt gồm cả sáu khả năng ở sáu núi đồng loạt thể hiện, có thể nói ở núi này ta muốn thấy hay biết bất kỳ cái gì cũng hiện ra rõ rệt.
Núi thứ tám gọi là Vô Biên Cảnh tượng trưng cho thức thứ tám A Lại Đa Thức. Cảnh giới này ta có thể ý niệm và nghe thấy được đầy ¡p cả hư không giới tất cả mọi sự việc, quá khứ xa gần, hiện tại và cả vị lai xa gần, nếu chúng ta muốn biết chỉ khơi niệm là biết ngày không khó khăn tí nào.
3. HOA TẠNG THẾ GIỚI TRIỂN LÃM QUÁN
Phòng triển lãm về Hoa Tạng Thế Giới
Người vãng sanh đến Trung Phẩm Trung Sanh là người trước đây ở thế giới ta bà đối với các việc nhận thức về Phật pháp và cách tu trì tương đối sâu hơn, đồng thời về mặt hành thiện và bố thí có thể nói là không chê được, có thành quả khá lớn. Do đó thành tựu được căn lành lớn.
Trung Phẩm Trung Sanh có rất nhiều phòng ốc và tháp lớn. Khung trời nơi đây mỗi ngày đều mưa hoa, thường cứ hừng sáng chúng sanh nơi đây đều ra hứng đầy hoa tươi đẹp và thơm ngát bằng vạt áo mình để đi cúng dường chư Phật mười phương, đồng thời từ lưng trời vang vọng tiếng nhạc du dương trầm hùng câu thánh hiệu Phật A Di Đà, khó mà diễn tả hết cái tuyệt vời của cảnh này. Đúng là như kinh điển nói, muôn ngàn âm nhạc của vua chúa ở thế gian không bằn gphần trăm ngàn âm nhạc của Chuyển Luận Thánh Vương. Muôn ngàn âm nhạc của cõi Chuyển Luận Thánh Vương không bằng âm nhạc của Trời Đao Lợi. Muôn ngày âm nhạc của Trời Đao Lợi không bằng một âm nhạc của hàng cây báu trên A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ.
Chúng sanh của Trung Phẩm Trung Sanh toàn thân đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc óng vàng hồng, hiện thân trong suốt không bị chướng ngại, do đó trong phút chốc họ có thể đi đến nước chư Phật khác cúng dường mười phương Phật, và cũng trong chốc lát lại trở về chỗ cũ, nếu khi sanh tiền không tạo nhiều công đức khó mà vào được phẩm này.
Chúng sanh đến được quả vị Trung Phẩm Trung Sanh họ đã rất ít vọng tưởng, thậm chí rất đông đã dứt tuyệt vọng tưởng, còn về sự ao ước được ăn uống hầu như ít thấy lắm, chứ không giống ở Trung Phẩm Hạ Sanh họ còn thèm các loại bánh và mật hoa. Khi tu đến trình độ càng cao thì sự thèm khát bớt đi rất nhiều.
Trung Phẩm Trung Sanh có một nơi gọi là cái quán triển lãm hay là phòng triển lãm về Thế Giới Hoa Tạng. Trong phòng triển lãm này có thể thấy các dạng và các cách tu luyện của chư Phật và Bồ Tát của nhiều đời nhiều kiếp. Trong phòng triển lãm ấy có rất nhiều tầng, mỗi tầng triển lãm bày ra quá trình tu trì của một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Thí dụ như muốn xem Phật A Di Đà trước đây là ai (Pháp Tạng Tỳ Kheo) cha là vị nào (Thế Tự Tại Vương Như Lai), Ngài tu pháp nào, pháp nguyện gì, kiếp trước nữa là ai, 100 kiếp nữa ra sao...v.v... rồi đến tầng khác chẳng hạn có thể thấy Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Dược Sư, Bồ Tát Quan Âm v.v... từng đời, từng kiếp sống ra sao, ở những nơi nào, nói câu gì, gặp những ai, quá trình tu hành và cuộc sống trong từng đời... lần lượt cho thấy không sót một phần nào. Chúng ta có thể tìm thấy ở đây lịch sử chi tiết của từng vị Phật và Bồ Tát của cả Thế Giới Hoa Tạng.
VIII. VIẾNG THƯỢNG PHẨM LIÊN HOA
Phòng triển lãm về Hoa Tạng Thế Giới
Người vãng sanh đến Trung Phẩm Trung Sanh là người trước đây ở thế giới ta bà đối với các việc nhận thức về Phật pháp và cách tu trì tương đối sâu hơn, đồng thời về mặt hành thiện và bố thí có thể nói là không chê được, có thành quả khá lớn. Do đó thành tựu được căn lành lớn.
Trung Phẩm Trung Sanh có rất nhiều phòng ốc và tháp lớn. Khung trời nơi đây mỗi ngày đều mưa hoa, thường cứ hừng sáng chúng sanh nơi đây đều ra hứng đầy hoa tươi đẹp và thơm ngát bằng vạt áo mình để đi cúng dường chư Phật mười phương, đồng thời từ lưng trời vang vọng tiếng nhạc du dương trầm hùng câu thánh hiệu Phật A Di Đà, khó mà diễn tả hết cái tuyệt vời của cảnh này. Đúng là như kinh điển nói, muôn ngàn âm nhạc của vua chúa ở thế gian không bằn gphần trăm ngàn âm nhạc của Chuyển Luận Thánh Vương. Muôn ngàn âm nhạc của cõi Chuyển Luận Thánh Vương không bằng âm nhạc của Trời Đao Lợi. Muôn ngày âm nhạc của Trời Đao Lợi không bằng một âm nhạc của hàng cây báu trên A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ.
Chúng sanh của Trung Phẩm Trung Sanh toàn thân đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc óng vàng hồng, hiện thân trong suốt không bị chướng ngại, do đó trong phút chốc họ có thể đi đến nước chư Phật khác cúng dường mười phương Phật, và cũng trong chốc lát lại trở về chỗ cũ, nếu khi sanh tiền không tạo nhiều công đức khó mà vào được phẩm này.
Chúng sanh đến được quả vị Trung Phẩm Trung Sanh họ đã rất ít vọng tưởng, thậm chí rất đông đã dứt tuyệt vọng tưởng, còn về sự ao ước được ăn uống hầu như ít thấy lắm, chứ không giống ở Trung Phẩm Hạ Sanh họ còn thèm các loại bánh và mật hoa. Khi tu đến trình độ càng cao thì sự thèm khát bớt đi rất nhiều.
Trung Phẩm Trung Sanh có một nơi gọi là cái quán triển lãm hay là phòng triển lãm về Thế Giới Hoa Tạng. Trong phòng triển lãm này có thể thấy các dạng và các cách tu luyện của chư Phật và Bồ Tát của nhiều đời nhiều kiếp. Trong phòng triển lãm ấy có rất nhiều tầng, mỗi tầng triển lãm bày ra quá trình tu trì của một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Thí dụ như muốn xem Phật A Di Đà trước đây là ai (Pháp Tạng Tỳ Kheo) cha là vị nào (Thế Tự Tại Vương Như Lai), Ngài tu pháp nào, pháp nguyện gì, kiếp trước nữa là ai, 100 kiếp nữa ra sao...v.v... rồi đến tầng khác chẳng hạn có thể thấy Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Dược Sư, Bồ Tát Quan Âm v.v... từng đời, từng kiếp sống ra sao, ở những nơi nào, nói câu gì, gặp những ai, quá trình tu hành và cuộc sống trong từng đời... lần lượt cho thấy không sót một phần nào. Chúng ta có thể tìm thấy ở đây lịch sử chi tiết của từng vị Phật và Bồ Tát của cả Thế Giới Hoa Tạng.
VIII. VIẾNG THƯỢNG PHẨM LIÊN HOA
1. HOA NỞ GẶP PHẬT
Rời khỏi Trung Phẩm Trung Sanh, Trung Phẩm Thượng Sanh, tôi được tiếp dẫn đến ao sen Thượng Phẩm. Khi trì chú lướt đi, tôi lần lần cao lớn lên như dáng dấp lúc đến đảnh lễ Đức Phật A Di Đà.
Rời khỏi Trung Phẩm Trung Sanh, Trung Phẩm Thượng Sanh, tôi được tiếp dẫn đến ao sen Thượng Phẩm. Khi trì chú lướt đi, tôi lần lần cao lớn lên như dáng dấp lúc đến đảnh lễ Đức Phật A Di Đà.
Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Chúng sanh vãng sanh đến Thượng Phẩm là khi ở ta bà tinh tấn tu hành, giữ gìn giới thanh tịnh, siêng năng nghiên cứu điển tích chư Phật, dũng mãnh đoạn trừ 10 nghiệp ác, hành 10 việc lành, nương theo pháp môn mình tu mỗi mỗi đều thực hành thấu đáo, cật lực dấn thân, mười năm như buổi đầu không hề lui bước đến lúc thịt rả xương tan, bỏ thân này mới thôi, ngoài ra còn tạo thêm những công đức lớn bên ngoài nữa, hành bố thí lớn, trong phút cuối cùng liền được đón về Thượng Phẩm. Những chúng sanh này cơ hồ không còn vọng tưởng nữa, sáu căn đều thanh tịnh cũng có thể nói đều đạt cảnh giới Bồ Tát, có thể tự do biến hóa, du hí thần thông. Thí dụ như một nhóm chúng sanh Thượng Phẩm tu một chỗ, nếu họ muốn biến thành những đóa hoa thì họ liền thành đóa hoa, muốn thành tảng đá liền thành tảng đá, muốn thành bảo tháp liền thành bảo tháp, muốn thành cây cổ thụ liền thành cổ thụ.
- Chúng sanh vãng sanh đến Thượng Phẩm là khi ở ta bà tinh tấn tu hành, giữ gìn giới thanh tịnh, siêng năng nghiên cứu điển tích chư Phật, dũng mãnh đoạn trừ 10 nghiệp ác, hành 10 việc lành, nương theo pháp môn mình tu mỗi mỗi đều thực hành thấu đáo, cật lực dấn thân, mười năm như buổi đầu không hề lui bước đến lúc thịt rả xương tan, bỏ thân này mới thôi, ngoài ra còn tạo thêm những công đức lớn bên ngoài nữa, hành bố thí lớn, trong phút cuối cùng liền được đón về Thượng Phẩm. Những chúng sanh này cơ hồ không còn vọng tưởng nữa, sáu căn đều thanh tịnh cũng có thể nói đều đạt cảnh giới Bồ Tát, có thể tự do biến hóa, du hí thần thông. Thí dụ như một nhóm chúng sanh Thượng Phẩm tu một chỗ, nếu họ muốn biến thành những đóa hoa thì họ liền thành đóa hoa, muốn thành tảng đá liền thành tảng đá, muốn thành bảo tháp liền thành bảo tháp, muốn thành cây cổ thụ liền thành cổ thụ.
Hoa sen trên Thượng Phẩm này nhỏ nhất cũng cỡ ba tỉnh, nói cách khác lớn bằng ba lần Mã Lai Á. Tôi được dẫn đến ao sen Thượng Phẩm, ao ở đây đích thực trội hơn ao ở Hạ Sanh và Trung Phẩm nhiều, chung quanh ao tráng lệ hùng vĩ hơn. Từng tầng từng tầng lan can vây lại phát ra muôn đạo hào quang, ngoài ra từ hoa sen tỏa ra muôn ngàn hương thơm. Trong ao có nhiều tháp lớn, hình dáng như núi cao vậy, tháp có nhiều góc cạnh phóng ra muôn ánh sáng đủ màu sắc uyển chuyển tuôn ra. Trong ao còn có nhiều cầu màu sắc đen vô cùng. Ao lớn chưa từng thấy, tầm nhìn không thấy tới bờ bên kia. Trong ao có rất nhiều sen, không có sen nào úa héo cả, tất cả hoa sen đều phát ra ánh sáng lung linh rực rỡ và tỏa hương thơm ngát. Nơi đây còn có những bảo cát bằng cả ngàn cả vạn hạt châu lấp lánh đủ kiểu, hoa thì đếm không hết số. Mỗi tầng lại đầy dẫy những bảo tháp, đình đài, lầu các, thật là hấp dẫn vô cùng, người ngồi ở trên hoa sen ấy toàn thân tỏa sáng ánh hào quang vàng óng, y phục rất hoa lệ cũng phát ra tia sáng màu rất đẹp.
Bất chợt Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ðây có một vị tên là Ấn Quang Pháp Sư, Ngài là một trong ba vị cao tăng Trung Quốc thời cận đại ông có quen không?
Tôi vội trả lời:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát ông ta ở đâu? Tôi đã nghe qua danh và rất quý trọng Ngài nhưng chưa được dịp gặp.
Tôi đang nói chuyện thì một thanh niên chừng ba mươi tuổi ngoài bước ra khỏi hoa sen và hiện nguyên hình tướng Ấn Quang Đại Sư. Chúng tôi gặp mặt nhau mừng lắm, cùng đảnh lễ rồi Ấn Quang Đại Sư nói thao thao bất tuyệt. Ông nói nhiều lắm, tôi quên mất một số, chỉ nhớ lại là ông ta nhắn đi nhắn lại tôi phải truyền đạt tới đồng đạo ở ta bà là phải lấy giới làm chuẩn, nghiêm trì giới luật, nhất tâm niệm Phật, tin hạnh nguyện, tất vãng sanh Tây Phương không sai. Ngoài ra ông còn nhắc nhở những người tu hành đừng tự cho là mình thông minh sửa đổi luật nhà Phật, quy chế chư Tổ, nhất là chớ nên hô hào cải cách duy tân, tái phải oai nghi giới luật.
Chúng tôi cùng bước xuống đài sen đưa đến lầu các lớn, trên đường đi các chim chóc đậu trên cành vàng lá ngọc líu lo ca hát, hòa với âm nhạc trời du dương, thêm vào là âm thanh thướt tha của tiếng niệm Phật khắp nơi. Hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ, hương thơm xông ngát, từng đóa hoa cánh hoa chiến ánh sáng lung linh, ngoài ra lại còn rất nhiều loại đèn châu báu, đèn mã não, đèn lưu ly từng hàng từng hàng ngay ngắn, các loại đèn lấp lánh ánh sáng màu sắc đẹp thôi nói không hết ý. Vào trong lầu các cái gì cũng lấp lánh ánh sáng màu sắc lung linh khiến tôi ngây người ra ngắm nghía. Ấn Quang Đại Sư đi với chúng tôi lên lầu, trên lầu có các loại kính bằng thủy tinh, ở giữa có một cái kính lớn nhất gọi là chiếu thân kính. Bồ Tát Quan Âm giới thiệu:
Kính này có thể soi thấy nguyên hình của từng người, xem bản tánh đã thanh tịnh hay chưa? Có còn vọng tưởng vọng niệm nữa không? Soi một cái là thấy ngay.
Trên lầu có ghế ngồi ngăn thành hai hàng lối, các nghế ngồi đều làm bằng bảy báu sáng lấp lánh. Trên bàn gần đó bày vật gì đó lạ lắm tôi không nhìn ra là gì.
Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ông thấy đói rồi hả?
Tôi thấy đúng là có cồn cào đói. Tôi nói:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát, ở đây có gì ăn không ạ.
Ngài bảo:
- Về thức ăn thì cũng như ở Hạ Phẩm vậy, ở đây ông muốn ăn gì sẽ có dọn ra.
Tôi nói:
- Vậy thì hay quá, tôi chỉ ước được ăn cơm trắng với canh rau cải trắng thế thôi.
Tôi vừa nói dứt cơm trắng và tô canh còn nóng hổi được bày ra ở bàn, đũa muỗng cũng đầy đủ. Tôi hỏi:
- A Di Đà Phật. Thưa chư vị không ăn bây giờ sao?
Bồ Tát trả lời:
- Ðây không có ai ăn đâu, ông cứ tự nhiên ăn đi.
Bất chợt Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ðây có một vị tên là Ấn Quang Pháp Sư, Ngài là một trong ba vị cao tăng Trung Quốc thời cận đại ông có quen không?
Tôi vội trả lời:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát ông ta ở đâu? Tôi đã nghe qua danh và rất quý trọng Ngài nhưng chưa được dịp gặp.
Tôi đang nói chuyện thì một thanh niên chừng ba mươi tuổi ngoài bước ra khỏi hoa sen và hiện nguyên hình tướng Ấn Quang Đại Sư. Chúng tôi gặp mặt nhau mừng lắm, cùng đảnh lễ rồi Ấn Quang Đại Sư nói thao thao bất tuyệt. Ông nói nhiều lắm, tôi quên mất một số, chỉ nhớ lại là ông ta nhắn đi nhắn lại tôi phải truyền đạt tới đồng đạo ở ta bà là phải lấy giới làm chuẩn, nghiêm trì giới luật, nhất tâm niệm Phật, tin hạnh nguyện, tất vãng sanh Tây Phương không sai. Ngoài ra ông còn nhắc nhở những người tu hành đừng tự cho là mình thông minh sửa đổi luật nhà Phật, quy chế chư Tổ, nhất là chớ nên hô hào cải cách duy tân, tái phải oai nghi giới luật.
Chúng tôi cùng bước xuống đài sen đưa đến lầu các lớn, trên đường đi các chim chóc đậu trên cành vàng lá ngọc líu lo ca hát, hòa với âm nhạc trời du dương, thêm vào là âm thanh thướt tha của tiếng niệm Phật khắp nơi. Hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ, hương thơm xông ngát, từng đóa hoa cánh hoa chiến ánh sáng lung linh, ngoài ra lại còn rất nhiều loại đèn châu báu, đèn mã não, đèn lưu ly từng hàng từng hàng ngay ngắn, các loại đèn lấp lánh ánh sáng màu sắc đẹp thôi nói không hết ý. Vào trong lầu các cái gì cũng lấp lánh ánh sáng màu sắc lung linh khiến tôi ngây người ra ngắm nghía. Ấn Quang Đại Sư đi với chúng tôi lên lầu, trên lầu có các loại kính bằng thủy tinh, ở giữa có một cái kính lớn nhất gọi là chiếu thân kính. Bồ Tát Quan Âm giới thiệu:
Kính này có thể soi thấy nguyên hình của từng người, xem bản tánh đã thanh tịnh hay chưa? Có còn vọng tưởng vọng niệm nữa không? Soi một cái là thấy ngay.
Trên lầu có ghế ngồi ngăn thành hai hàng lối, các nghế ngồi đều làm bằng bảy báu sáng lấp lánh. Trên bàn gần đó bày vật gì đó lạ lắm tôi không nhìn ra là gì.
Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ông thấy đói rồi hả?
Tôi thấy đúng là có cồn cào đói. Tôi nói:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát, ở đây có gì ăn không ạ.
Ngài bảo:
- Về thức ăn thì cũng như ở Hạ Phẩm vậy, ở đây ông muốn ăn gì sẽ có dọn ra.
Tôi nói:
- Vậy thì hay quá, tôi chỉ ước được ăn cơm trắng với canh rau cải trắng thế thôi.
Tôi vừa nói dứt cơm trắng và tô canh còn nóng hổi được bày ra ở bàn, đũa muỗng cũng đầy đủ. Tôi hỏi:
- A Di Đà Phật. Thưa chư vị không ăn bây giờ sao?
Bồ Tát trả lời:
- Ðây không có ai ăn đâu, ông cứ tự nhiên ăn đi.
Tôi nghĩ mà mắc cỡ quá, nhưng cũng ngồi vào ăn. Tôi ăn no nê rồi để gọn bát đũa lại, tự nhiên bát đũa muỗng đều biến đi đâu mất.
Tôi thắc mắc hỏi Bồ Tát, Ngài nói rằng:
- Tại ông vọng tưởng bụng đói, và khao khát muốn ăn cũng giống như ở thế gian chiêm bao vậy. Trong chiêm bao cái gì cũng có khi thức tỉnh ra rồi chẳng có cái gì cả. Ông vọng tưởng ăn, thức ăn liền đến, ăn no rồi vọng tưởng về ăn không còn, những gì thuộc về vọng tưởng cũng vì vậy mà biến mất. Tôi gật đầu hiểu ra. Ngài nói thêm:
- Tự tánh thanh tịnh thì không thèm ăn, không thèm khát, không thèm muốn cái gì ở trong hư không, thật ra trong hư không vốn là không có cái gì. Vọng tưởng dấy lên cũng giống như sương mờ được un lên vậy, cái ý ấy ông từ từ nghiệm ra, nếu mà lãnh hội được thì sẽ hiểu ra tam muội của việc ấy.
Người vãnh sanh về sen Thượng Phẩm vọng niệm ít nhất, hầu hết đều là Phật tánh chơn như, đều chứng quả vị Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, trong chốc có thể nương nguyện lực Phật A Di Đà biểu hiện ra vô số hoa tươi đẹp, trái cây và phẩm vật cúng dường v.v... để đi cúng dường chư Phật mười phương. Còn đến giờ thuyết pháp nghe kinh thì cả ngày vạn ức Bồ Tát đều ngồi ngay ngắn trên hoa sen, hoặc trên lầu, trên bảo tháp, trên bảy hàng cây báu, trực tiếp nghe lời giảng của Đức Phật A Di Đà.
Tôi thắc mắc hỏi Bồ Tát, Ngài nói rằng:
- Tại ông vọng tưởng bụng đói, và khao khát muốn ăn cũng giống như ở thế gian chiêm bao vậy. Trong chiêm bao cái gì cũng có khi thức tỉnh ra rồi chẳng có cái gì cả. Ông vọng tưởng ăn, thức ăn liền đến, ăn no rồi vọng tưởng về ăn không còn, những gì thuộc về vọng tưởng cũng vì vậy mà biến mất. Tôi gật đầu hiểu ra. Ngài nói thêm:
- Tự tánh thanh tịnh thì không thèm ăn, không thèm khát, không thèm muốn cái gì ở trong hư không, thật ra trong hư không vốn là không có cái gì. Vọng tưởng dấy lên cũng giống như sương mờ được un lên vậy, cái ý ấy ông từ từ nghiệm ra, nếu mà lãnh hội được thì sẽ hiểu ra tam muội của việc ấy.
Người vãnh sanh về sen Thượng Phẩm vọng niệm ít nhất, hầu hết đều là Phật tánh chơn như, đều chứng quả vị Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, trong chốc có thể nương nguyện lực Phật A Di Đà biểu hiện ra vô số hoa tươi đẹp, trái cây và phẩm vật cúng dường v.v... để đi cúng dường chư Phật mười phương. Còn đến giờ thuyết pháp nghe kinh thì cả ngày vạn ức Bồ Tát đều ngồi ngay ngắn trên hoa sen, hoặc trên lầu, trên bảo tháp, trên bảy hàng cây báu, trực tiếp nghe lời giảng của Đức Phật A Di Đà.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Người ở trái đất vãng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông, tại sao thân quyến của họ đều không nhìn thấy vậy? Ngài bảo:
- Người địa cầu phần nhiều còn vọng nghiệp che lấp, rất nhiều cái gần hơn còn chưa nhìn thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng tưởng, tâm như hư không, thì người địa cầu cũng có thể nhìn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc được.
Tôi thừa cơ hỏi hỏi Bồ Tát:
- Cầu Ngài chỉ dạy: Thưa Bồ Tát “Cần phải niệm Phật ra sao mới là tốt nhất?” Mới có thể tu nhanh nhất?
Ngài bảo:
- Cần thiền định song tu, nhất tâm niệm Phật, niệm Phật tham thiền gọi là tịnh độ thiền.
Tôi hỏi:
- Thưa Bồ Tát xin Bồ Tát chỉ cho biết tu tịnh độ thiền bằng cách nào?
Ngài gật đầu chỉ dạy như sau:
- Số người có thể chia thành hai nhóm như cách tu của chúng sanh Thượng Phẩm Tây Phương Cực Lạc đây, nhóm trước niệm hai câu A Di Ðà Phật, nhóm sau mặc niệm lắng nghe, sau đó nhóm sau niệm hai câu, nhóm trước mặc niệm lắng nghe, tu trì như vậy đã không mệt nhọc, lại không ngừng niệm, tâm và khẩu như nhau. Phật tánh tự nhiên lộ, tính tất sanh định, định tất sanh huệ.
- Người ở trái đất vãng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông, tại sao thân quyến của họ đều không nhìn thấy vậy? Ngài bảo:
- Người địa cầu phần nhiều còn vọng nghiệp che lấp, rất nhiều cái gần hơn còn chưa nhìn thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng tưởng, tâm như hư không, thì người địa cầu cũng có thể nhìn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc được.
Tôi thừa cơ hỏi hỏi Bồ Tát:
- Cầu Ngài chỉ dạy: Thưa Bồ Tát “Cần phải niệm Phật ra sao mới là tốt nhất?” Mới có thể tu nhanh nhất?
Ngài bảo:
- Cần thiền định song tu, nhất tâm niệm Phật, niệm Phật tham thiền gọi là tịnh độ thiền.
Tôi hỏi:
- Thưa Bồ Tát xin Bồ Tát chỉ cho biết tu tịnh độ thiền bằng cách nào?
Ngài gật đầu chỉ dạy như sau:
- Số người có thể chia thành hai nhóm như cách tu của chúng sanh Thượng Phẩm Tây Phương Cực Lạc đây, nhóm trước niệm hai câu A Di Ðà Phật, nhóm sau mặc niệm lắng nghe, sau đó nhóm sau niệm hai câu, nhóm trước mặc niệm lắng nghe, tu trì như vậy đã không mệt nhọc, lại không ngừng niệm, tâm và khẩu như nhau. Phật tánh tự nhiên lộ, tính tất sanh định, định tất sanh huệ.
2. VIẾNG THÁP LIÊN HOA
Bồ Tát Quan Âm hối thúc: "Thôi lẹ đi, thời giờ eo hẹp lắm. Tôi dẫn ông đi thăm viếng Tháp Liên Hoa, là tháp lớn của Phật A Di Ðà".
Lại lướt qua thêm my tòa lầu các đến vạn tầng. Những tháp này có bao nhiêu góc cạnh cũng không đếm hết được. Tất cả các tháp đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc màu uyển chuyển ánh lung linh, đẹp vô ngần. Trong tháp vang vọng ra tiếng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, liên tục hai câu đầu nghe rất trong vút. Câu đầu tiên nghe rất cảm động và tha thiết như con réo mẹ cứu giúp vậy, còn câu thứ hai nghe trầm hùng rất quyết tâm và thân thiết.
Tòa tháp này dành riêng cho chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến dạo chơi. Tháp lớn lắm, khó mà hình dung ra được. Có thể lớn cở my ngàn my vạn độ lớn của trái đất chúng ta ở, còn độ cao thì không thể tính được. Trong tháp có rất nhiều cung điện, các loại màu sắc đều có thể phát hào quang trong suốt. Các chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến đây đều có thể xuyên tường tự do ra vào, không bị ngăn trở. Muốn lên muốn xuống đều tùy tâm tưởng thì sẽ đến ngay vị trí. Trong tháp có thể nói muốn gì có nấy, trong y có thể thấy tất cả cảnh tượng của một chúng sanh của Hoa Tạng thế giới, có thể thấy được đất Tịnh Ðộ của hằng trăm, hàng vạn đức Phật khắp nơi. Cảnh vật nơi đây thật là tuyệt vời khó mà dùng bút mực tả cho hết được.
Bồ Tát Quan Âm hối thúc: "Thôi lẹ đi, thời giờ eo hẹp lắm. Tôi dẫn ông đi thăm viếng Tháp Liên Hoa, là tháp lớn của Phật A Di Ðà".
Lại lướt qua thêm my tòa lầu các đến vạn tầng. Những tháp này có bao nhiêu góc cạnh cũng không đếm hết được. Tất cả các tháp đều phóng ra muôn đạo hào quang, sắc màu uyển chuyển ánh lung linh, đẹp vô ngần. Trong tháp vang vọng ra tiếng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, liên tục hai câu đầu nghe rất trong vút. Câu đầu tiên nghe rất cảm động và tha thiết như con réo mẹ cứu giúp vậy, còn câu thứ hai nghe trầm hùng rất quyết tâm và thân thiết.
Tòa tháp này dành riêng cho chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến dạo chơi. Tháp lớn lắm, khó mà hình dung ra được. Có thể lớn cở my ngàn my vạn độ lớn của trái đất chúng ta ở, còn độ cao thì không thể tính được. Trong tháp có rất nhiều cung điện, các loại màu sắc đều có thể phát hào quang trong suốt. Các chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến đây đều có thể xuyên tường tự do ra vào, không bị ngăn trở. Muốn lên muốn xuống đều tùy tâm tưởng thì sẽ đến ngay vị trí. Trong tháp có thể nói muốn gì có nấy, trong y có thể thấy tất cả cảnh tượng của một chúng sanh của Hoa Tạng thế giới, có thể thấy được đất Tịnh Ðộ của hằng trăm, hàng vạn đức Phật khắp nơi. Cảnh vật nơi đây thật là tuyệt vời khó mà dùng bút mực tả cho hết được.
Chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh nếu muốn đến những nơi Tịnh Ðộ của vị Phật nào cũng đến trong nháy mắt rất dễ dàng. Chúng tôi vào trong tháp Liên Hoa, thân như ngồi thang máy vậy, xuyên thấy từng tầng, không vướng chi cả, hoàn toàn trong suốt hết. Trong các tầng của tháp có từng nhiều người đang niệm Phật, tất cả là những thanh niên khoảng 30 tuổi. Mỗi một tầng cách ăn mặc đều khác, đại khái chừng 20 loại màu sắc. Tất cả những người ở đây đều là nam, không thấy một người con gái nào. Tất cả những người thanh niên ấy ngồi ngay ngắn nơi đài sen của mình niệm Phật Bồ Tát Quan Âm. Ở đây tu hành tinh tấn lắm trong ngày sáu thời: hai thời dành niệm Phật, hai thời chỉ tịnh, hai thời nghỉ ngơi, bây giờ thì họ đang niệm Phật.
Tôi tiến vào tầng giữa, chỉ thấy từng hàng người ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn của mình tham thiền niệm Phật, rất đẹp mắt, có vị ngồi ngay giữa phòng là vị đại Bồ Tát đang ở đây dẫn chúng niệm Phật. Người nào niệm giỏi thì trên đầu phát ra những tia sáng, trong tia sáng có vô số những vị hóa Phật, như Ðức Phật A-Di-Ðà vậy, trong mỗi tia sáng số hóa Phật vô số ức vị, vị Ðại Bồ Tát ngồi giữa dân chúng ấy cũng có nhiều hóa Phật nương tia sáng hiện các loại chim bay bay lại ở tên chóp tháp, hoặc ở đại sảnh bay đến cũng cùng nhau niệm Phật; bay như vậy mà không mảy may hỗn loạn. Trong tháp có rất nhiều đèn trân châu, đèn lưu ly đều phát ra sức sáng tối đa, có loại đèn tròn to, tự động chuyển biến các dạng màu sắc.
Tóm lại cảnh trí nơi đây nói không hết cái lung linh uyển chuyển đẹp. Ði cúng dường mười phương chư Phật cũng tập trung ở đây mà đi. Tại nơi đây có thể thấy được bất cứ thế giới nào mà toàn thế giới Hoa Tạng cũng hiện ở đây. Tất cả chúng sanh, tất cả Phật Thánh đều hiện rõ ở đây cả.
IX. A DI ĐÀ PHẬT CHỈ DẠY
Tôi tiến vào tầng giữa, chỉ thấy từng hàng người ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn của mình tham thiền niệm Phật, rất đẹp mắt, có vị ngồi ngay giữa phòng là vị đại Bồ Tát đang ở đây dẫn chúng niệm Phật. Người nào niệm giỏi thì trên đầu phát ra những tia sáng, trong tia sáng có vô số những vị hóa Phật, như Ðức Phật A-Di-Ðà vậy, trong mỗi tia sáng số hóa Phật vô số ức vị, vị Ðại Bồ Tát ngồi giữa dân chúng ấy cũng có nhiều hóa Phật nương tia sáng hiện các loại chim bay bay lại ở tên chóp tháp, hoặc ở đại sảnh bay đến cũng cùng nhau niệm Phật; bay như vậy mà không mảy may hỗn loạn. Trong tháp có rất nhiều đèn trân châu, đèn lưu ly đều phát ra sức sáng tối đa, có loại đèn tròn to, tự động chuyển biến các dạng màu sắc.
Tóm lại cảnh trí nơi đây nói không hết cái lung linh uyển chuyển đẹp. Ði cúng dường mười phương chư Phật cũng tập trung ở đây mà đi. Tại nơi đây có thể thấy được bất cứ thế giới nào mà toàn thế giới Hoa Tạng cũng hiện ở đây. Tất cả chúng sanh, tất cả Phật Thánh đều hiện rõ ở đây cả.
IX. A DI ĐÀ PHẬT CHỈ DẠY
Thăm xong chín phẩm hoa sen rồi, tôi lại được đưa trở về trước Ðức Phật A-Di-Ðà. Tôi quỳ trước Ngài chí thành đảnh lễ, cầu Phật gia bị và chỉ dạy, từ chính kim khẩu Ðức Phật A-Di-Ðà từng câu từng câu một vô cùng thận trọng mà nhắc nhở tôi:
- Phật Tánh của chúng sanh vốn là bình đẳng, tùy nghiệp mình làm đảo điên ý thức, lấy giả làm thực tạo nhân chịu báo, trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi không dứt, chịu khổ vô vàn. Bốn mươi tám nguyện ta thề hằng độ chúng sanh, trai gái già trẻ, lấy tín nguyện hạnh nhất tâm bất loạn, tịnh độ thiền, chỉ cần mười niệm quyết được vãnh sanh.
Tôi quỳ lễ bái nữa, Ngài dạy tiếp:
- Con có nhân duyên với thế giới ta bà, con muốn độ cha mẹ nhiều đời, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc, con cần dặn họ giữ giới làm lành, lấy giới làm thầy, dạy học tịnh độ thiền, thiền định song tu. Con cần dặn kỹ các loại đạo giáo Thích, Ðạo Nho, Ðạo Gia Tô, Hồi Giáo v.v... các giáo cần cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau khích lệ, đừng nói dèm pha nhau, đừng phỉ báng nhau, đừng nói những lời tà chánh. Người tà, ta đạo, người ma, ta cao, người thấp, ta quý, đừng soi tìm cái dấu vết sai sót nhỏ của nhau mà phỉ báng không ngừng, đây chỉ là hành vi diệt căn lành; bào mòn thì giờ quý báu vào chuyện không đâu, thực chẳng đáng.
- Cửa Phật quảng đại, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Ðạo nào cũng thực, có thể tu trì tà biến được ra chánh, ma biến được ra đạo, nhỏ có thể đi về lớn, cùng nhau đùm bọc nương nhau tinh tấn tu hành pháp môn của mình, sửa sai của mình, hành cái lành của mình mới đúng là chánh tông huệ mạng của chư Phật.
Ngưng một lúc Ngài bảo:
- Thôi con về là vừa rồi.
Tôi bái lễ tạ, lễ ba lần và lui gót.
Trên đường về tôi vẫn cứ bay bay không thấy Nam Thiên Môn, đi bằng trì chú và nương hoa sen đi thật nhanh, đến ngay Trung Thiên La Hán tôi ngừng niệm chú thì hoa sen biến mất, lại thấy vị đồng tử hôm trước đưa nước trong cho uống. Thầy tri khách bảo tôi vào phòng nghỉ tí đã, tôi vào phòng nghỉ, thoáng cái đã say say trong giấc ngon lành.
- Phật Tánh của chúng sanh vốn là bình đẳng, tùy nghiệp mình làm đảo điên ý thức, lấy giả làm thực tạo nhân chịu báo, trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi không dứt, chịu khổ vô vàn. Bốn mươi tám nguyện ta thề hằng độ chúng sanh, trai gái già trẻ, lấy tín nguyện hạnh nhất tâm bất loạn, tịnh độ thiền, chỉ cần mười niệm quyết được vãnh sanh.
Tôi quỳ lễ bái nữa, Ngài dạy tiếp:
- Con có nhân duyên với thế giới ta bà, con muốn độ cha mẹ nhiều đời, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc, con cần dặn họ giữ giới làm lành, lấy giới làm thầy, dạy học tịnh độ thiền, thiền định song tu. Con cần dặn kỹ các loại đạo giáo Thích, Ðạo Nho, Ðạo Gia Tô, Hồi Giáo v.v... các giáo cần cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau khích lệ, đừng nói dèm pha nhau, đừng phỉ báng nhau, đừng nói những lời tà chánh. Người tà, ta đạo, người ma, ta cao, người thấp, ta quý, đừng soi tìm cái dấu vết sai sót nhỏ của nhau mà phỉ báng không ngừng, đây chỉ là hành vi diệt căn lành; bào mòn thì giờ quý báu vào chuyện không đâu, thực chẳng đáng.
- Cửa Phật quảng đại, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Ðạo nào cũng thực, có thể tu trì tà biến được ra chánh, ma biến được ra đạo, nhỏ có thể đi về lớn, cùng nhau đùm bọc nương nhau tinh tấn tu hành pháp môn của mình, sửa sai của mình, hành cái lành của mình mới đúng là chánh tông huệ mạng của chư Phật.
Ngưng một lúc Ngài bảo:
- Thôi con về là vừa rồi.
Tôi bái lễ tạ, lễ ba lần và lui gót.
Trên đường về tôi vẫn cứ bay bay không thấy Nam Thiên Môn, đi bằng trì chú và nương hoa sen đi thật nhanh, đến ngay Trung Thiên La Hán tôi ngừng niệm chú thì hoa sen biến mất, lại thấy vị đồng tử hôm trước đưa nước trong cho uống. Thầy tri khách bảo tôi vào phòng nghỉ tí đã, tôi vào phòng nghỉ, thoáng cái đã say say trong giấc ngon lành.
X. VỀ ĐẾN THẾ GIAN
Lúc tôi tỉnh lại loay hoay không biết mình đang ở đâu, không thấy người trời, không thấy Bồ Tát, không thấy tòa đại diện cũng không thấy nơi nào phát ra hào quang nữa ... Tôi nhớ lại mới ba giờ khuya hôm qua tôi đi dạo cả ngày và giờ lại tối khuya nữa rồi chắc chừng hai mươi tiếng đồng hồ đi tham quan thích thú quá đi. Ở đây sao mà tối thui như mực, đưa tay không thấy ngón, tôi cảm thấy như đang ở trên một tảng đá lớn của động núi cõi nào, lần mò hồi lâu mới có tia sáng hừng đông, tinh thần phục hồi ngay như thường, tôi thấy ra đã ở thế giới ta bà.
Ở trong động không thấy lối ra, tôi gọi, tôi nhẩy, tôi khát, không ai trả lời. Cuối cùng tôi cũng tìm được lối ra ven theo đường núi xuống dưới đi bộ 20 cây số đến đường Xích Thủy gặp người đi đường tôi bèn hỏi ra, hú vía kinh hồn, thì ra bây giờ là ngày 8 tháng 4 năm 1973 rồi. Tôi bấm đốt ngón tay đếm, té ra tôi rời khỏi nhân gian hơn sáu năm năm tháng...
Tôi lầm bầm niệm trong lòng, Nam Mô A-Di-Ðà Phật, kẻ giác thành Bồ Tát, người mê ấy chúng sanh, Phật pháp có túc thân, lúc gặp duyên thì độ, tôi phải thừa kế ý chí của ân Sư Hư Vân lão Hòa Thượng, thực hành chỉ thị của Ðức Phật A-Di-Ðà và Bồ Tát Quan Thế Âm, hoằng pháp độ chúng sanh hữu thiện duyên.
Ở trong động không thấy lối ra, tôi gọi, tôi nhẩy, tôi khát, không ai trả lời. Cuối cùng tôi cũng tìm được lối ra ven theo đường núi xuống dưới đi bộ 20 cây số đến đường Xích Thủy gặp người đi đường tôi bèn hỏi ra, hú vía kinh hồn, thì ra bây giờ là ngày 8 tháng 4 năm 1973 rồi. Tôi bấm đốt ngón tay đếm, té ra tôi rời khỏi nhân gian hơn sáu năm năm tháng...
Tôi lầm bầm niệm trong lòng, Nam Mô A-Di-Ðà Phật, kẻ giác thành Bồ Tát, người mê ấy chúng sanh, Phật pháp có túc thân, lúc gặp duyên thì độ, tôi phải thừa kế ý chí của ân Sư Hư Vân lão Hòa Thượng, thực hành chỉ thị của Ðức Phật A-Di-Ðà và Bồ Tát Quan Thế Âm, hoằng pháp độ chúng sanh hữu thiện duyên.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
No comments:
Post a Comment