Tuesday, December 8, 2015

PHẬT HỌC VẤN ĐÁP

SHARED
http://www.khanhanh.fr/bantin/bt0310/bt31012.htm
 
Bài trí thờ Phật và gia tiên

HỎI : Gia đình tôi đã quy y Tam Bảo từ lâu. Ban đầu, nhà cửa chật hẹp nên thờ tự đơn giản. Sau khi làm nhà mới, gia đình tôi lập một phòng thờ riêng gồm bàn thờ Phật (chính diện) và bàn thờ gia tiên (một bên hông, phía trước, dựa vào tường nhà). Việc bài trí bàn thờ như thế đa phần đều cho rằng đã trang nghiêm, tuy nhiên một số người bảo rằng phải thiết lập bàn thờ Phật và gia tiên ở hai phòng khác nhau, không được thờ chung một phòng. Tuy thành tâm kính thờ Tam Bảo nhưng tôi rất băn khoăn trước những ý kiến trái ngược nhau. Mong được chỉ dẫn để gia đình tôi phụng thờ Tam Bảo và ông bà được trang nghiêm, đúng pháp.

ĐÁP : Việc thờ phụng Tam Bảo và ông bà tổ tiên tại tư gia là truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa của dân tộc. Thờ tự là biểu hiện tâm thành kính đối với Phật tổ, Thánh hiền và ông bà tổ tiên, nói chung đều mang tính tùy duyên, tùy hoàn cảnh.
Tại tư gia, bàn thờ Phật và gia tiên nên bài trí ở nơi trang trọng nhất và dễ nhìn thấy nhất. Trang trọng nhằm thể hiện tâm thành kính, dễ nhìn thấy để tưởng nhớ, kính lễ, noi gương và học tập. Gia đình bạn có đủ điều kiện lập một phòng thờ riêng để thờ Phật và ông bà là lý tưởng, có phước duyên.

Về cách thức thờ tự, nếu phòng thờ rộng có thể thờ "tiền Phật hậu linh" : Bàn thờ Phật ở trước, bàn thờ gia tiên ở phía sau, thấp hơn. Nếu không gian hẹp, thì có thể thờ "thượng Phật hạ linh" : Bàn thờ Phật ở trên, bàn thờ gia tiên ở dưới (chính giữa hoặc hai bên). Bàn thờ gia tiên phải thấp hơn bàn thờ Phật một bậc. Ngoài ra, tùy vào hoàn cảnh thực tế của mỗi gia đình mà phương tiện trong việc bài trí thờ tự. Như trường hợp của gia đình bạn, tuy bàn thờ gia tiên ở trước bàn thờ Phật (hướng bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên hợp thành một góc vuông), thoạt nhìn có vẻ như trái với nguyên tắc "tiền Phật hậu linh" nhưng vẫn hợp lý và đúng như pháp. Khá nhiều chùa khi cúng linh cho Phật tử, thiết bàn thờ linh ở chánh điện cũng theo quy cách này.
Đối với ý kiến cho rằng bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên phải được tôn trí ở hai phòng riêng biệt nhau, theo chúng tôi là không hợp lý và cũng không cần thiết. Không hợp lý bởi không phải gia đình nào cũng có đủ điều kiện hay dư dả về phòng ốc. Không cần thiết vì cách thờ tự truyền thống luôn đi liền với nhau tạo ra không gian tâm linh trong gia đình. Do đó, bạn yên tâm với cách bài trí và thờ tự ở nhà bạn, vì đã hợp lý.

Cúng cơm cho hương linh sau ngày chung thất ?

HỎI : Mẹ tôi mất đã được 5 tuần, em tôi nói rằng sau 49 ngày (chung thất) sẽ không cúng cơm nữa. Vì theo kinh Địa Tạng, sau 7 tuần thì thần thức của hương linh sẽ theo nghiệp mà thọ sanh. Xin hỏi, vậy có nên cúng cơm nữa không ? Mặt khác, em tôi có ý định tụng kinh Dược Sư để cầu an cho mẹ ở cõi âm, điều ấy có nên không ? Vào khoảng tuần thứ 4 sau ngày mẹ mất, tôi mơ thấy mẹ đang lội qua một biển lớn. Giấc mộng ấy có ý nghĩa thế nào ?

ĐÁP : Theo tinh thần của kinh Địa Tạng và quan điểm Phật giáo Bắc truyền nói chung thì thần thức của một người sau khi chết hầu hết đều phải trải qua giai đoạn trung gian, thọ thân trung ấm tối đa là 49 ngày, sau đó sẽ thọ sanh vào một cảnh giới tương ứng với nghiệp lực mà họ đã gây tạo. Và không nhất thiết phải đợi đến ngày chung thất (49 ngày sau khi chết) thì hương linh mới tái sanh mà có thể ngay sau khi chết, hoặc trong tuần thất đầu tiên (7 ngày sau khi chết), hay trong tuần thất thứ hai (14 ngày sau khi chết) cho đến các tuần thất tiếp theo hương linh đều có thể tái sanh tùy nhân duyên, nghiệp lực của mỗi người.
Trong thời gian thọ thân trung ấm, hương linh vẫn thọ dụng được tất cả những vật phẩm mà thân nhân dâng cúng (thường là cơm, nước, hương, hoa) nhưng chỉ hưởng mùi vị của thức ăn mà thôi. Vì thế, thân trung ấm còn được gọi là hương ấm (thọ dụng mùi hương của thực phẩm). Cho nên trong vòng 49 ngày, thân nhân cần dâng cúng cơm nước hàng ngày cho người chết để họ được no đủ, đặc biệt vào những ngày tuần thất thường cúng kính trang trọng hơn (như đến chùa hoặc thỉnh chư Tăng về nhà làm lễ cầu siêu cho người quá vãng).
Sau 49 ngày, khi thần thức tìm được cảnh giới tái sanh, thường thì họ sanh về một trong sáu cõi của lục đạo (trời, a tu la, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục) và từ đây, sự thọ dụng của họ có khác biệt. Đơn cử như, nếu thần thức sanh vào cõi trời thì họ sẽ không ăn thực phẩm của cõi người vì thực phẩm ở cõi trời thượng vị hơn rất nhiều lần. Hoặc nếu họ đọa vào địa ngục thì cũng không thể thọ dụng được thực phẩm của loài người vì bị hành hạ, phải ăn hòn sắt nóng, uống nước đồng sôi, chịu nhiều đau khổ cùng cực v.v... Duy chỉ có các chúng sanh trong loài quỷ thần thì vẫn có thể "ăn" được những phẩm vật do thân nhân dâng cúng.

Mặt khác, đối với phong tục người Việt thì việc làm cỗ dâng cúng cha mẹ ông bà tổ tiên còn thể hiện tấm lòng thành của con cháu đối với người đã khuất. Do đó, để tưởng niệm người thân, vào các ngày giỗ hoặc lễ Tết thì mâm cơm cùng hoa trái để cúng kính ông bà và tổ tiên là điều không thể thiếu. Vì chúng ta là người trần mắt thịt nên không biết được thân nhân của mình sau khi chết tái sanh về đâu (chúng sanh trong loài quỷ thần vẫn hưởng được đồ cúng) và dâng cơm nước để thể hiện lòng thành, sự tri ân đối với người đã khuất là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc nên ta cần phải thực hành cúng kính. Nghĩa là, sau 49 ngày khi thần thức đã tái sanh thì chúng ta không cúng cơm nước hàng ngày như trước đây nhưng vào các ngày lễ tiếp theo như tiểu tường, đại tường hay ngày kỵ giỗ hàng năm thì thân nhân cần phải làm mâm cơm cúng giỗ. Có điều không nên quá câu nệ vào hình thức trong việc cúng kính mà luôn tâm niệm "lễ bạc nhưng lòng thành", tưởng niệm về người đã khuất trong tinh thần tri ân và đền ân.

Vấn đề tụng kinh Dược Sư để "cầu an" cho mẹ ở cõi âm, theo chúng tôi thì nên chuyển thành để "cầu siêu" cho mẹ sẽ chính xác hơn. Vì các hương linh thọ sanh trong những cảnh giới khổ đau luôn mong mỏi người thân làm những điều phước thiện để hồi hướng cho họ, giúp họ nương nhờ phước báo ấy để mau được siêu sanh. Tụng kinh (không nhất thiết là kinh Dược Sư, Địa Tạng hay Di Đa...), lễ sám, làm phước như cúng dường, bố thí, phóng sanh rồi hồi hướng phước báo cho thân nhân là những việc cần làm. Nếu hương linh đã tái sanh vào những cảnh giới an lành thì việc hồi hướng phước đức cho họ càng làm cho phước báo của họ thêm tăng trưởng.

Thường thì sau khi người thân mất đi, thân nhân vì quá tiếc thương nên hay nhớ nghĩ về họ và thường mơ thấy người đã khuất. Hầu hết đó chỉ là những giấc mơ bình thường trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta chứ không phải là sự báo mộng của người chết hay khả năng "thấy" được cảnh giới của người chết. Do đó, không nên suy nghĩ nhiều hoặc tìm cách để giải mã những chuyện mộng mị mà tốt nhất là tập trung toàn bộ tâm lực để làm phước hồi hướng cho hương linh. Thiết nghĩ, đó là những việc làm có ý nghĩa thiết thực nhất để cầu nguyện âm siêu dương thái./.
Tô Tử
. - * * * - .
Chiếc áo Mẹ may
Trí Nguyệt
Ngày còn bé tí tẹo, tôi thường theo bà nội đi chùa vào những ngày rằm hay mùng một Âm lịch. Ngôi chùa trong làng cách nhà tôi chừng nửa cây số. Trong khuôn viên chùa trồng rất nhiều hoa phượng. Loại cây nầy thường được trồng ở các ngôi chùa cổ miền Trung. Ngày đó tôi thường mặc duy nhất một chiếc áo ngắn màu trắng. Dù tôi có vài chiếc màu khác nhau, bà nội tôi cứ vẫn bảo tôi phải thay chiếc áo màu trắng ấy mỗi khi đi chùa. Cho đến khi nó quá chật, tôi không thể mặc được nữa thì bà cẩn thận gói nó và cất vào tủ. Nó không những chật mà còn cũ và rách vài chỗ nữa.
Cho đến một buổi chiều mùa đông kia, bà nội cùng tôi ngồi nhìn mưa rơi, bất chợt bà nội hỏi rằng có biết tại sao bà thường bảo tôi mặc chiếc áo màu trắng kia không. Hai mắt bà lúc đó nhìn xa thẳm buồn vời vợi. Bà nói : "Cháu thật tội nghiệp ! Nếu má cháu còn sống thì cháu đâu đến nỗi quần áo rách rưới như thế này". Suốt tuổi thơ của tôi, bình thường, chỉ có vài bộ áo quần ngắn ngủn, cũ kỹ do bà nội đi xin từ mấy gia đình giàu có. Đi học hay đi chơi đâu cũng chỉ quanh quẩn mấy bộ đồ cũ kỹ ấy, chỉ khi nào đi chùa thì bà mới cho tôi mặc chiếc áo màu trắng mới hơn một chút. Bà nói khi mẹ tôi còn sinh tiền thì mỗi khi đi đâu xa, mẹ tôi thường đi bộ chứ không đi xe, hoặc có đi đâu xa quá mà phải đi xe thì mẹ tôi thường dành tiền uống nước dọc đường lại. Số tiền dành dụm đó, mẹ mua vải và tự tay may chiếc áo trắng kia cho tôi. Mẹ nói là phải có một chiếc áo cho đàng hoàng để tôi đi chùa lạy Phật với bà nội. Từ ngày mua được miếng vải, mẹ tôi thường chong ngọn đèn dầu lạc bên cạnh chiếc võng dứa đưa tôi ngủ trong những ngày hè nóng bức và may chiếc áo đó cho tôi. Ban ngày mẹ phải tảo tần đi làm thuê, làm mướn, hết chỗ này đến chỗ nọ; ban đêm phải lo việc nhà, nào cơm nước cho gia đình, giặt giũ áo quần cho ông bà nội, cho ba và cho tôi. Bao nhiêu công việc đó cũng ngần đến khuya. Công việc xong xuôi đâu vào đấy, mẹ mới chong đèn may áo và cũng để tiện bề chăm sóc tới khi tôi ngủ hẳn, mẹ mới lên giường nghỉ lưng một chút. Công việc may áo lúc đó không phải bằng máy mà bằng tay. Mỗi mũi kim luồn qua vải là mỗi tấm ân tình, mỗi nỗi nhọc nhằn. Mẹ đã may cho tôi một chiếc áo chỉ, với mong ước nhỏ nhoi là khiến cho tôi vui và mỗi khi đi chùa có được chiếc áo mới. Bà nội ôm tôi vào lòng với một giọng run run nói tiếp rằng chỉ vì chiếc áo đó mà mẹ tôi ngã bệnh nặng. Sau ba ngày hoàn thành chiếc áo mẹ tôi đã ra đi vĩnh viễn. Với tấm thân hạc mảnh khảnh, mẹ tôi lại làm việc quá sức, nào là phải sớm hôm tần tảo nuôi cả gia đình bên chồng, chăm sóc mẹ già, nào là tiết kiệm không dám ăn uống lặt vặt để dành tiền may chiếc áo. Bao nhiêu đó đã khiến mẹ kiệt sức, gầy gò, cơ thể ngày một yếu kém. Mẹ không đủ sức chống chọi với mưa chiều nắng sớm của khí hậu miền Trung. Tất cả những thứ đó đã thực sự cướp đi mạng sống của mẹ tôi vào cái tuổi 25.
Cái ngày tôi xuất gia, bà nội soạn trong tủ lấy ra một cái gói nho nhỏ. Bên ngoài gói một lớp vải cũ bạc màu. Bà đưa tôi gói đó và nói rằng dù đi đâu, ở đâu hay làm gì, thì tôi cũng phải trân trọng cái vật trong ấy. Vì thương nội quá nên tôi nhận cái túi vải ấy mà không biết bên trong là gì nữa. Từ ngày sống cuộc sống thiền môn, tôi thực sự quên hẳn tất cả. Ban ngày hầu thầy, lo công việc chùa tháp, ban đêm tụng kinh ngồi thiền và học kinh, luật tới khuya. Chuông hôm mõ sớm đã thực sự nuôi lớn tôi. Bây giờ tôi là một tu sĩ được rèn luyện kỹ nơi chốn thiền môn quy củ, được mọi người kính mến.
Một ngày nọ, đang lưu học nơi thành phố xa, tôi nghe tin bà nội qua đời. Lòng quá xót xa thương cảm, tôi quyết định về quê để gặp mặt bà lần cuối và cũng để tụng một thời kinh chú nguyện cho bà như lời bà tôi trăng trối. Chính bà nội đã đem lại hạt giống từ bi, mầm trí tuệ giải thoát gieo vào đầu óc trẻ thơ của tôi. Bà nội là thiện tri thức của tôi. Đêm đó, đang sửa soạn hành lý để lên đường về quê, tôi chợt nhớ tới gói vải mà nội đã trao cho tôi cách đây 20 năm. Tôi bèn mang nó theo với ý định là sẽ bỏ nó vào quan tài của nội để bà mang xuống "suối vàng". Khi về tới chùa đã khuya, giữa tiếng côn trùng và tiếng dế buồn, tôi lặng lẽ mở gói vải ra xem thử vật gì trong ấy. Lặng người giây lát, tôi nhẹ nhàng nâng vật ấy lên. Một chiếc áo trẻ con màu trắng đục ! Nhìn chiếc áo cũ ngày xưa lòng tôi càng bồi hồi xao xuyến. Nhiều miếng vá trên vai, vài chỗ vẫn còn thủng, cái cổ áo nhuốm màu lốm đốm đen như ai đã rắc mè lên đấy. Giờ đây tôi đã trở thành một tu sĩ, nhưng khi cầm trên tay kỷ vật thiêng liêng này, những kỷ niệm thời thơ ấu lại dần dần xuất hiện. Hình dáng mẹ tôi dưới ánh đèn dầu khuya, một tay giữ lấy áo, một tay cầm kim đưa lên đưa xuống, thỉnh thoảng ngừng tay kim để đẩy nhẹ chiếc võng cho tôi ngủ. Từng mũi kim xuyên qua làn vải mỏng là mẹ tôi đã khâu kết trọn quãng đời trẻ trung của người vào đấy với một hy vọng nhỏ nhoi như ngọn đèn dầu đêm khuya. Giờ đây ngọn đèn đã đi về đâu ? Nó mang theo một kỷ niệm của thời quá khứ, mang theo hình bóng người mẹ suốt đời hy sinh cho con. Tôi có thể mua bao nhiêu ngọn đèn dầu cũng được. Tôi cũng có thể đốt lên bao nhiêu ngọn đèn trong đêm khuya cũng được, nhưng tôi không thể tạo ra được ngọn đèn mà năm xưa nó chứng kiến cảnh mẹ tôi cặm cụi may áo trong đêm. Giá như tôi có thể tạo ra ngọn đèn ấy, nhưng còn mẹ tôi thì sao ? Đây là một mất mát lớn không thể tìm lại được trong đời tôi. Tôi nghĩ không những riêng tôi mà hầu hết con người sống trên đời này đều phải chịu cảnh thiệt thòi đó. Cái gì mất cũng có thể tìm lại được, một khi mất mẹ thì ngàn muôn năm vẫn là đứa con mồ côi. Nhưng may thay, trường hợp của tôi hạnh phúc hơn; tôi có chiếc áo đã gói trọn cuộc đời của mẹ và nó thay thế mẹ để theo tôi suốt cuộc đời và sẽ theo tôi xuống lòng đất lạnh.
Từ ngày đó, tôi không còn mẹ nữa, nhưng tôi có cả một quãng đời của mẹ trong chiếc áo cũ kia. Trong chiếc áo đó không những có hình dáng mẹ âm thầm đưa từng mũi kim sợi chỉ, mà còn có cả tiếng ầu...ơ ru con giữa trưa hè hay trong đêm vắng nữa. Tuổi thơ của tôi, cuộc đời trẻ trung của mẹ và lòng thành kính của nội đã gói trọn trong chiếc áo cũ đó. Cho dù chiếc áo đó có bị thời gian bào mòn, không gian thay đổi trong quy luật vô thường. Một ngày nào đó nó sẽ tan hoại đi, nhưng 3 yếu Tố : Tuổi thơ của tôi, cuộc đời của mẹ và lòng thành của nội sẽ không bao giờ phai mờ. Chính ba yếu tố đó đã tạo ra cuộc sống đạo hạnh của tôi. Chiếc áo cũ rách đó quý hơn tất cả những thứ gì tôi có trên đời.
Khi nhận ra giá trị của chiếc áo, tôi quyết định không bỏ vào quan tài của nội. Nếu bà nội tôi biết được sự thay đổi này, thì bà cũng vui vẻ nơi "chín suối". Tôi nghĩ đó cũng là ý nghĩ của nội tôi khi trao nó cho tôi. Chiếc áo có một tiềm lực vô biên. Tuổi thơ của tôi đã đi qua. Cuộc đời trẻ trung của mẹ cũng lùi vào quá khứ và nay bà nội tôi cũng ra đi vĩnh viễn. Chỉ có chiếc áo vẫn còn bên tôi, có nghĩa là tôi mất mẹ, mất nội, nhưng thực ra chưa mất gì cả. Nếu trong cuộc đời hành đạo của tôi có làm được điều gì ích lợi cho đời, cho chúng sanh, phần lớn cũng do nơi chiếc áo cũ rách kia. Đó là do đức hy sinh của nội, lòng thương bao la của mẹ gói trọn trong đó. Không những thế, mà mỗi khi nhìn chiếc áo đó thì tôi không thể lơ đãng trong tu tập, trong đạo hạnh để thời gian trôi qua vô ích. Khi nào tôi giải đãi, yếu kém thì chiếc áo cũ rách kia là lời khuyên hữu hiệu nhất, động viên cho tôi tiếp tục lý tưởng của mình. Tôi tin rằng nội và mẹ sẽ thảnh thơi an lạc nếu tôi tu hành nghiêm túc.
Khi viết lên những dòng này để tưởng nhớ một kỷ vật giá trị, người đọc chắc sẽ khinh thường vì lẽ tôi xuất thân hàn vi. Một lo ngại khác là các pháp hữu (bạn đạo) cho rằng tôi xuất gia không phải vì một lý do chính đáng, như là mến mộ đạo Phật, say mê nghiên cứu giáo lý hay mang một lý tưởng cao thượng. Nếu quả như thế thì tôi sẽ không biện minh lời nào, vì đó là sự thật đời tôi. Chính tôi cũng thấy xấu hổ rằng ngoài những nguyên nhân ấy ra, tôi thật sự không có một hoài bão cao xa hay tâm nguyện nào khi cất bước xuất gia. Khi tôi thực sự chấp nhận nếp sống thiền môn, với chuông chiều mõ sớm, thời gian ấy tôi rất xúc động và say mê với ý nghĩa câu : "Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập. Như nhất chúng sanh vị thành Phật. Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn", nghĩa là (tôi nguyện sẽ không chứng Phật quả cho tới khi nào trong cõi đau khổ này không còn một chúng sanh nào chưa giác ngộ giải thoát). Trong sinh hoạt hằng ngày trong chốn thiền môn, tôi cũng bị thuyết phục bởi tất cả những động tác dù lớn hay nhỏ cũng đều đặt trọng tâm vào sự quan tâm chú nguyện tới chúng sanh. Tất cả những động tác đều đi kèm với một bài kệ, mỗi bài đều có mang câu "đương nguyện chúng sanh". Đó là tiếng sét lý tưởng đã đánh mạnh vào đầu óc trẻ thơ của một chú tiểu. Khi còn là một chú điệu để chỏm, tôi không ân hận thân phận thấp hèn của mình. Trái lại tôi rất cảm ơn thân phận và hoàn cảnh đó. Chính cái thân phận ấy và hoàn cảnh ấy đã mang tôi vào chốn thiền môn và cũng chính hoàn cảnh ấy đã khiến tôi siêng năng tu tập. Thành quả mà tôi có được như hôm nay đều xây dựng trên căn bản bần cùng khốn đốn trong suốt quãng thời gian thơ ấu của tôi.
Tôi về thăm lại chùa xưa, đồng thời dự đám tang bà nội lại đúng vào mùa hoa phượng nở đỏ sân chùa, gợi cho tôi nhớ lại những kỷ niệm ấu thơ, những ngày đầu đi chùa. Hoa còn đó, vẫn nở như xưa mà cảnh vật và con người đổi thay nhiều quá. Tôi vẫn đứng trước cảnh chùa đầy hoa phượng giờ đây khác với tôi năm xưa theo nội đi chùa giẫm lên hoa phượng tại nơi này. Ngày xưa, tôi là thằng bé đi theo nội và còn có cả mẹ may áo cho tôi. Ngày nay, hoa phượng vẫn nở đỏ, bầu trời vẫn xanh, sân chùa vẫn rợp bóng, mà bà không còn, mẹ cũng khuất bóng từ lâu. Đứng giữa cái thường và cái vô thường đó, đầu óc tôi bối rối giữa quá khứ và hiện tại, vừa rõ ràng mà cũng vừa mơ hồ. Đứng giữa thường và vô thường, giữa quá khứ và hiện tại, con người tự tìm cho mình một lẽ sống thật có ý nghĩa là một chuyện không dễ dàng. Miên man trong ý nghĩ đó, tôi lặng lẽ cúi xuống nhặt một chiếc hoa phượng nhẹ nhàng ép vào trong chiếc áo cũ rách kia và cất bước tiến về phía trước để đi cho hết con đường mà nội và mẹ đã gởi gắm trong chiếc áo đó. Hy vọng một ngày nào đó tôi trở lại chốn xưa, ôm chiếc áo vào lòng nằm trên tấm thảm hoa phượng trước sân chùa xưa để nhìn mây trắng ngàn muôn năm cứ vô tình trôi qua trước mắt./.

No comments:

Post a Comment