Tôi sinh năm 1961, tuổi Tân Sửu, cầm tinh con trâu. Lá số tử vi của tôi cho thấy về Tài Bạch tôi là đàn ông nhưng thuộc sao Thái Âm, làm về ban đêm sẽ thành công, sinh lúc 5g sáng (giờ Dần) trúng vào giờ Cô Thần (tuyệt) nên không có vợ con.
Thế giới sân khấu thấm đẫm từng tế bào
Để vẽ lại ấu thời của tôi, hai cái bóng in đậm là ba và má, rồi cả gia đình, cùng những sắc màu rực rỡ, âm thanh quyến rũ của sân khấu.
Ngay má và ba tôi cũng đồng nghĩa với sân khấu rồi. Thử hình dung đi, một cái đình lớn mang tên đình Cầu Quan - sau này còn gọi là đình Thái - Hưng. Trong lòng cái đình ấy có chứa một cái sân khấu để biểu diễn.
Bao quanh và trên dưới sân khấu ấy, ngoài chỗ cho khán giả ngồi xem còn là nơi sinh sống, ngủ, nghỉ và làm việc của vài gia đình thuộc dòng họ bầu Thắng nổi tiếng của ông ngoại như nhà của các cậu Minh Tơ, Khánh Hồng cùng các cậu, dì, anh chị họ khác của tôi. Mỗi gia đình có khoảng vài mét vuông.
Nếu tính đứng từ sân khấu đó nhìn xuống khán giả thì nguyên một mảng mấy mét vuông thuộc cánh gà bên hông phải của sân khấu chính là nhà của tôi.
Chưa đến giờ diễn, nơi đó đủ chỗ để chứa một bộ bàn ghế để cả nhà dùng cơm cùng chiếc đivăng là giang sơn của má (công chúa, con gái ông bầu mà).
Tới giờ diễn, chiếc bàn xếp lại để chỗ cho dàn nhạc cải lương ngồi - dàn nhạc hồ quảng thì nằm ở ngoài hố nhạc, trước mặt khán giả. Má ngồi trên đivăng để hóa trang - lúc đó kêu là sắm tuồng.
Khu vực này có một gác xép, từ đó có một cầu thang đi xuống cánh gà bên phải sân khấu. Ngay dưới chân cầu thang gác xép đó sẽ là nơi banh cái ghế bố ra thành chỗ ngủ của ba sau khi tan suất hát. Khoảng 9g là tất cả bị lùa lên gác ngủ. Giờ đó bị phát giác còn thức chạy loăng quăng là bị đòn.
Tôi thường ngồi thòng hai chân, ấn mặt vào giữa hai chấn song của lan can trên gác xép ngó xuống sân khấu coi hát như được ngồi ở một loại “chuồng gà” đặc biệt, thiết kế dành cho dân hạng sang trong các nhà hát của Tây xây.
Tới chừng vãn hát, phần gác xép là nơi ngủ của ba chị: Bạch Liên, Bạch Lựu và Bạch Lý. Anh Long thì từ nhỏ vì khó nuôi đã được gửi ở nhà một bà cô cách đình vài bước chân thôi.
Hai người còn lại là chị Bạch Lê và tôi, bạn có đoán được nơi ngủ không? Chính là sàn diễn mình mới được xem hồi nãy, trải chiếu ra thành nơi ngủ của người chị thứ nhì và bé Út trong nhà.
Mỗi ngày, từ lúc mở mắt ra đến lúc tạm nhắm hờ để trôi vào mộng, tất cả thế giới đầy màu sắc và âm thanh của sân khấu như vậy đã ngập tràn, thấm đẫm vào từng tế bào da thịt cùng tâm hồn tôi.
Tôi cũng không thể lơi lỏng ý tưởng mình là con trai của kép chánh Thành Tôn, thuộc một dòng dõi theo nghề hát bội ba đời tại đất Vĩnh Long. Ông nội của tôi là bầu Nở nức tiếng Vĩnh Long. Là kép nổi nhứt vùng vì hát hay lại khá đẹp trai, nhưng ba tôi sớm ý thức được là để thỏa chí làm nghề cần phải xuất hiện ở Sài Gòn nên ông đã rời gánh của cha mình mà lên đó đầu quân. Rồi sau đó sanh tình và kết hôn với Huỳnh Mai, con gái thứ của bầu Thắng.
Sau này tôi biết thêm năm 1924 ông ngoại tôi là nghệ sĩ hát bội Hai Thắng đã gom góp tiền bạc trong gia đình mua lại gánh hát bội của bà Ba Ngoạn (là bà nội của cô Kim Cương), lập đoàn Vĩnh Xuân. Khoảng năm 1950, mấy người anh chị em của má như Minh Tơ - cùng vợ là nghệ sĩ Bảy Sự, các cậu Đức Phú, Khánh Hồng... đều có học hát cải lương của đoàn Phụng Hảo.
Khoảng cuối thập niên 1950 thì danh xưng cải lương tuồng tàu ra đời. Sau đó vài năm khán giả gọi đó là cải lương hồ quảng để rồi sau năm 1975, khi chuyển sang hát lịch sử Việt Nam, bộ môn này chuyển thành loại hình cải lương tuồng cổ.
Người em trai thất lạc
Sau khi sanh hai chị Liên và Lê, mất một con trai, má tôi sanh tiếp hai chị Lựu và Lý. Sanh và nuôi con gái không sao mà hễ sanh con trai là má tôi bệnh, không thì mấy đứa con trai cũng bệnh vì xem ra gia đình không có số nuôi con trai nên tôi suýt cũng theo số phận bị gửi cho người khác nuôi như anh Long. Nhưng rồi mấy chị thèm có em trai quá nên xin ba má để tôi lại nuôi.
Má kể có lần tôi bị đau ban lên sởi rất nặng và đã ngưng thở khi được vài tháng tuổi. Ba má đã mang tôi lên chùa Tân Nghĩa ở Gò Vấp, nơi ba má tôi quy y.
Sư trụ trì mang tôi đặt trong lòng chiếc đại hồng chung, ông gióng lên ba hồi chuông và rồi cái xác tôi giật mình thức dậy sau một giấc ngủ dài rồi cười ngất như thể bị ai đó cù lét. Sư trụ trì phán: “Cái xác phàm nầy coi như đã qua một kiếp, giờ thằng nhỏ đã được tái sinh trong kiếp mới”.
Tôi được thầy đặt pháp danh là Thiện Tâm từ đó. Để dễ nuôi hơn trong kiếp mới này, ba má cho giả làm con gái để tóc dài và cho bận áo đầm. Cả nhà phải né tên thật mà gọi trại đi là Thành Tâm, với lòng tin nếu có “mấy người coi số tử” tới tìm, sẽ lầm tưởng là đứa trẻ khác mà không bắt đi.
Không hiểu sao gia đình tôi khó nuôi con trai lắm. Anh đầu mất, anh Bạch Long phải gửi người khác nuôi và kêu ba má tôi là anh Hai, chị Hai. Chúng tôi còn một người em trai nữa, ba má đặt tên Thành Long, nhưng phải gửi chính bà mụ đỡ đẻ nuôi. Về sau bà sang Pháp sống. Có tin về là em chúng tôi đã lập gia đình rồi và đang rất hạnh phúc.
Lần đó có một vị đạo diễn nước ngoài về Việt Nam làm việc, tôi tình cờ biết được anh chính là con trai ruột của bà mụ năm nào. Khi bà mất, anh có nhận nuôi người em này của chúng tôi. Khi anh ấy ly dị vợ thì Thành Long cũng rời nhà và tự lập gia đình riêng.
Chúng tôi rất muốn tìm gặp lại em, nhưng vị đạo diễn này cho biết chính anh ấy muốn tìm cũng không biết tìm nơi đâu. Chúng tôi chỉ còn biết cầu nguyện một ngày nào đó sẽ được gặp lại người em trai thất lạc. Không chừng em Thành Long cũng không biết là mình còn anh chị sống tại Việt Nam và mấy chị nữa sống ở Mỹ, Pháp, Úc. Anh Bạch Long tên thiệt là Thành Tùng, nhưng anh lấy nghệ danh là Bạch Long để nhớ về người em này.
Phải là nghệ sĩ sống trong nghề nhiều năm, ở giai đoạn trước đây (mà cả sau này nữa) mới mang cảm giác sợ con cái mình theo nghề diễn của mình sẽ thấy trước đời sẽ cực khổ nhiều hơn niềm vui.
Ba má tôi cũng vậy, không muốn “đời cha ăn mặn đời con khát nước”, cứ sợ các con theo nghiệp mình sẽ khóc nhiều hơn cười nên luôn buộc các con phải học xong trung học rồi muốn làm gì thì làm.
Ấy vậy mà thích diễn quá, tôi đã mấy lần bước ra sàn diễn nhà tham gia làm quân sĩ cùng với anh Bạch Long, trước mắt ba tôi. Anh lúc đó coi như người của “nhà khác” rồi, nên là người duy nhất trong gia đình bấy giờ được đi hát.
Khi bị tôi xin được làm đứa quân sĩ thứ hai đứng chung, anh Long cũng sợ anh Hai (tức là ba của hai đứa), nhưng vì cưng đứa em út, thấy tôi mê quá anh làm liều. Chính anh là người “sắm tuồng” (vẽ mặt) cho tôi. Khi ba tôi ra hát, vừa dòm thấy tôi ông hết sức ngạc nhiên, còn tôi thì run lên từng chập vì sợ ăn đòn.
Vừa xong lớp đó là ba chụp lấy cây roi mây định khi vào cánh gà sẽ quất cho mấy roi, nhưng ông vừa vào cánh gà bên này, tôi đã tọt sang cánh gà bên kia. Chạy vòng vòng như vậy, lại tới lớp ông phải ra.
Tôi cứ thoắt hiện thoắt biến như vậy cho tới khi vãn tuồng thì tôi... thoát nạn.
Đình Cầu Quan nằm ngay trung tâm thành phố Sài Gòn hoa lệ, cách chợ Bến Thành đâu có bao xa, nay là đất vàng đất bạc, nhưng ngày ấy tôi cũng ý thức được cái xóm mình lớn lên là một xóm nghèo.
Nghịch lý thay, cái nghèo ấy đã khiến cho tâm hồn tôi, nghiệp diễn tôi lại giàu có hơn lên.
|
_____________
Kỳ tới: Cô đơn trong ngôi nhà mình
Nghệ sĩ Thành Lộc và chị gái - nghệ sĩ Bạch Lựu - tại sân khấu 5B Võ Văn Tần năm 1988 - Ảnh tư liệu gia đình |
Nhà tôi ngộ, hầu như các thành viên không bao giờ khoe và khen ngợi nhau trên báo chí, nó như thành cái nếp nên có thể nói mỗi thành viên trong gia đình dù có thành công riêng thì bên cạnh đó sẽ là một nỗi cô đơn riêng...
Tính công dân của tôi được hình thành từ ba khi còn là một thằng nhỏ ba chở trên xe Vespa dạo phố, ba dạy tôi Luật giao thông. Ba dạy tôi khi gặp đám tang biết ngừng lại bỏ nón cúi chào. Tin không? Ba còn dám chở chị em chúng tôi đi xem sinh viên biểu tình và giải thích cho chúng tôi nghe những biến động chính trị của thời cuộc.
Mỗi lần ba chở đi xem sinh viên và thầy chùa biểu tình, má nhét vào túi chị em chúng tôi mỗi đứa một bao nilông và miếng chanh (để lỡ có gặp lựu đạn cay thì nặn chanh vào mắt, trùm bao nilông vào đầu rồi... chạy).
Tôi vẫn còn nhớ gặp các thầy chùa tập võ Thiếu lâm ở viện Hóa Đạo (nhà hát Hòa Bình bây giờ), tôi cứ thắc mắc: “Kỳ vậy ba, tại sao thầy chùa mà lại học võ đánh người?”. Ba cười ngất giải thích: “Người hiền cũng cần phải biết tự vệ đó con”.
Những lần cha con tranh luận đối kháng nhau, có lúc tôi sợ mình bị hỗn với ba nên dần dần tôi né, riết thành thói quen không bộc lộ cảm xúc, nghĩ gì làm gì thì cứ âm thầm. Ra trường, trở thành diễn viên của Đoàn kịch Trẻ, cũng không báo với gia đình. Tới lúc thấy tôi đi đêm đi hôm, ba mới nói ủa, nó ra trường rồi hả? Tôi chỉ dạ.
Vậy đó, im lặng đôi khi lại là khả năng tự vệ của mình. Ngồi chung mâm cơm, những gì có thể cùng vui với gia đình thì tôi chia sẻ, những gì không cùng suy nghĩ với mọi người thì tôi giữ cho riêng mình.
Tôi rất sợ các thành viên trong gia đình làm tổn thương nhau dù mình vẫn là cục cưng của gia đình và tôi vẫn rất yêu thương gia đình mình, nhưng giống như tên một vở kịch mà nhà văn Ngọc Linh đã từng khoe với tôi ông định dùng để đặt cho vở kịch mới của ông, tôi thấy mình: “Cô đơn trong ngôi nhà của mình”.
Tiếng khóc người cha
Cuộc đổi đời 1975 xảy ra. Theo dòng chảy của thời cuộc, gia đình tôi cũng không còn đoàn tụ, nhiều thành viên đã định cư xứ người ngay vào thời điểm tôi bắt đầu sự nghiệp. Ba má tuổi già sức yếu, các chị ở phương xa nên trên lộ hành mà tôi đi xem ra có vẻ rộng thênh thang vì tôi chỉ đi một mình.
Cái bóng tối dưới gầm sân khấu giả nó đã ứng vào đời mình. Ba má biết mình có danh có giải là qua báo chí, các chị ở xa sẽ không biết điều đó nếu thằng em không kể (thời đó làm gì có Internet để biết) mà thằng em thì rất lười kể (lười quen rồi) nên chỉ biết từ bạn bè của các chị đưa tin.
Các chị có trách thằng em cũng chỉ biết cười, vinh quang còn không cho biết thì việc gì phải chia sẻ tai ương cho nặng lòng nhau. Các chị ở xa còn phải đương đầu với biết bao nghịch biến nơi xứ người.
Ba má cả đời cực khổ vì con thì tai ương của thằng con út có là bao mà kể. Làm việc rồi đụng chạm với lãnh đạo quản lý xin nghỉ việc, bị chính ngay cái nơi mình lãnh lương đì triệt mình, trôi dạt về ngoại ô đi tấu hài với danh hài Duy Phương... Tôi im như thóc, gia đình không biết gì cả.
Má tôi tuổi Canh Ngọ, người ta nói canh là canh cô mồ quả, vậy mà sao tôi lại thấy mình y chang má. Nhưng nếu những đứa con cô đơn một, tôi tin ba tôi là từng ấy nỗi cô đơn cộng lại. Lần đầu tôi thấy ba tôi khóc là vào năm 1970, ông đã òa khóc như con nít, như mất mát một thứ gì quý giá nhất trong đời mình.
Đó là ngày người anh của tôi, con của má lớn dưới Vĩnh Long, trưởng nam của ba - một hạ sĩ quan của Việt Nam Cộng hòa - vừa chết trận. Một người đàn ông như ba khi không còn kiềm chế được, để nỗi đau của mình vỡ ra thì nó kinh khủng hơn những tiếng khóc vật vã của phụ nữ nhiều lắm.
Có lẽ lúc đó tôi còn quá nhỏ để buồn khóc như ba nhưng nét mặt và tiếng khóc của ba tác động vào tôi rất mạnh, tôi biết chắc rằng nó đã ảnh hưởng rất lớn vào biểu lộ diễn xuất của tôi sau này: đàn ông khóc có khả năng đâm trúng tim khán giả hơn phụ nữ!
Lần thứ hai ba khóc là lúc giữa khuya. Mọi người trong nhà ngủ yên nên ba không thể khóc lớn, chỉ là tiếng rên khe khẽ, rất khẽ. Tôi ngồi ở một góc tối nhìn ba khóc, tôi muốn đến khóc với ba nhưng không thể vì tôi đã mất thói quen chia sẻ với ba từ lâu rồi.
Đó là ngày cùng một lúc bốn thành viên trong gia đình rời khỏi quê hương trong nỗi bức bách, không thể làm nghề. Sau này trong diễn xuất của tôi cũng lại ảnh hưởng từ những tiếng rên khe khẽ ấy. Hình tượng nhân vật ông Tư trong kịch Dạ cổ hoài lang chính là ba tôi chứ chẳng ai khác.
Ngọt bùi thì chia, đắng cay thì chịu
Nhà tôi xưa nay là vậy - ngọt bùi chia nhau hưởng, đắng cay thì mạnh ai nấy nuốt. Ngay tôi đây, cả ngọt bùi mà tôi còn không dám khoe trực tiếp vì ba tôi xưa nay ít khi nào khen mấy đứa con. Chị Lê tôi lúc đó rất nổi tiếng (từng được xem là hồ quảng chi bảo) mà còn chưa thấy ba khen hay, chỉ toàn lôi cái dở ra mà chê thì cỡ như tôi thỉnh thoảng được vài bài báo khen, có nhắc đến ba, đâu dám khoe, chỉ lén để lên bàn của ba.
Thấy tôi nháng về, ba ghẹo “làm gì mà dạo này tai tiếng dữ vậy ta”. Tuổi lớn sức yếu, ba tôi không có sức xem tôi ngoài sân khấu, chỉ xem tôi diễn trên tivi, trong lòng ông cũng vui khi thấy con thành công nhưng ít khi nào khen, sợ con bị lừng. Tôi không phải là trường hợp đầu tiên. Ba dạy chị em chúng tôi đúng như ông bà xưa thôi: thắng không kiêu bại không nản, và thêm câu của ông: hoạn nạn không than. Nó thành cái nếp nhà của chúng tôi luôn từ đó.
Ba tôi rất ghét nghệ sĩ thường hay nói câu “nghề này bạc bẽo”, ba nói không có nghề nào bạc hết chỉ có con người sống với nhau mà thôi. Làm nghề hát mà cứ lên án nghề thì nghề có phụ cũng đáng. Tôi chịu ảnh hưởng quan điểm này của ba nhiều. Chỉ có điều với chuyện đời, xem ra cụ còn hồn nhiên, ngây thơ hơn tôi.
Ngày đám tang bác Ba Vân (NSND - một nghệ sĩ từng được đặt danh hiệu là quái kiệt), linh cữu ông được quàn tại Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật 81 Trần Quốc Thảo, người ta muốn quàn ông ở đó cho “xứng tầm”. Nói nôm na là Nhà nước lo hết, song vẫn chấp điếu để dùng tiền điếu đó trang trải lễ tang...
Khi ba yếu, tôi có nói với ba là không thích đưa ba lên Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật đâu ba, ngại giống như bác Ba Vân, ba đồng ý vì ba cũng ưng đưa ba về trụ sở Hội Nghệ sĩ sân khấu ở Cô Bắc hơn. Tuy vậy mà ba vẫn cứ “lạc quan”: “Con yên tâm đi, ba là NSND, thế nào cũng được Nhà nước cho được hòm, nhớ không chấp điếu nha con”.
Ba tôi không muốn mắc nợ ai nữa, nợ nhân gian thế cũng đã đủ rồi. Ba còn dặn đám tang ba không được ồn ào trống kèn, người đến đưa tang không được khóc, xe tang không đi chậm làm nghẽn giao thông. Lúc còn sống ông vốn không thích những thứ ấy nên không muốn đám tang của mình lại rơi vào trường hợp như vậy. Ba mất, chúng tôi làm đúng y như lời ông dặn, trang trải mọi thứ, riêng cái hòm thì... ba tôi sai.
Cái hòm không đáng là bao, tự tôi lo được cho ba nhưng vẫn thấy ngán ngẩm trước những điều không trung thực...
Còn nhớ lúc bắt đầu nổi tiếng, tôi cũng có đi sưu tầm lục lọi những bài báo về mình, cắt cắt dán dán thành một cuốn sách to đùng đi bọc da đàng hoàng biết để chi không: để khoe. Sau ngày ba tôi mất, tôi đốt hết và rồi từ đó chẳng cắt dán thêm một bài nào nữa.
Tổ ấm quá hot của tôi nay vắng ba, Liên, Lê, Lựu. Nhưng cái hiện tại có mấy đại dương xa vẫn không tạo cho tôi có cảm giác chúng tôi ngăn cách như ngày xưa còn ở chung nhà với những nỗi đau không thể chia sẻ. Và sau mỗi suất diễn, trở về với nơi gối đầu của mình, dường như đêm từng đêm tôi lại thấy mình gần với ba hơn. Chỉ tiếc là vĩnh viễn không có một Thành Tâm con để có những khoảnh khắc hiếm hoi đồng cảm với một Thành Lộc cha, đã đang đứng trên đỉnh của con dốc cuộc đời, đã thấy mọi lợi danh như bụi bay trong gió, nhưng ngó bộ vẫn còn sân si, chưa tìm ra lối xuống.
Ngay cả danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú của tôi cũng trượt lên trượt xuống hai lần, sau lần thứ nhất tôi được mời vào phòng riêng và người ta mời tôi vào Đảng với lời hứa hẹn tôi sẽ được danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú ngay sau đó. Tôi cảm giác giống như một cuộc thương lượng mang tính thỏa hiệp - dù là ưu ái - nhưng tôi vẫn cảm thấy mình bị tổn thương.
Tôi đã nói không và còn hứa hẹn: “Các anh yên tâm, em không là đảng viên, không là ưu tú, nhưng em vẫn cứ là một nghệ sĩ lương thiện và xuất sắc ở bất kỳ nơi đâu trên cái dải đất cong cong hình chữ S này, em hứa đấy!”. Tôi hãnh diện vì tôi đã làm đúng điều mình đã hứa, mặc dù năm đó tôi sém bị trượt danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú một lần nữa, nếu không nhờ sự tác động của công luận.
|
_______________
Kỳ tới: Trái tim nhảy múa
Nghệ sĩ Thành Lộc múa ballet trên giày tây khi chấm thi bán kết 4 chương trình Vietnam’s Got Talent năm 2013 - Ảnh: BHD |
Cụ thể là ban kịch của chú Xuân Phát, thuộc Đài Truyền hình Việt Nam số 9 và chương trình thiếu nhi Sơn Ca của Đài Truyền hình Đắc Lộ.
Mãi đến 1975, tôi vừa 14 tuổi, thấy mình có khả năng nhảy múa, đặc biệt mê múa ballet, lúc đó mới có Nhà thiếu nhi Thành phố để tôi vừa học, vừa tham gia đội múa.
Bánh mì với chè đậu đen đá
Trên Facebook của mình, tôi vừa đưa ra hình một bát chè đậu đen và kể lại một trong những kỷ niệm thời gian tham gia đội múa.
“Tôi được chọn là một trong mười đội viên của Sài Gòn ra Hà Nội tập huấn một tháng trời ngoài ấy cùng với 33 đội viên khác của cả nước để tham dự Đại hội liên hoan thiếu nhi thế giới lần thứ nhất với chủ đề “Hãy để mặt trời luôn chiếu sáng” tại Matxcơva - thủ đô của Liên Xô cũ.
Lúc đó cả nước ăn đói mặc kém lắm, mọi thứ mua sắm và ăn uống còn phải dùng tem phiếu và chúng tôi mỗi đứa phải vác ra 15kg gạo để tự túc phần ăn của mình, góp vô bếp ăn chung mà khi ăn thì khẩu phần ăn trở thành cơm nấu độn chung với mì sợi hoặc khoai mì (ngoài ấy gọi là sắn).
Mỗi ngày ngoài bữa ăn sáng qua loa đạm bạc một ly sữa và vài lát bánh mì, có khi là một gói xôi, có khi chỉ là hai cái bánh giò, còn ăn cơm độn mì thì đúng có một cữ trưa mà thôi, vậy bữa chiều ăn gì?
Đó là một đĩa xúp, nói là xúp nghe cho sang vì không hề có xúp mà chính là... chè đậu đen với đầy đá lạnh, gọi là chè đỗ đen đá (theo cách gọi của người miền Bắc) ăn kèm với một ổ bánh mì.
Lần đầu tiên trong đời tôi ăn bánh mì với chè đậu đen lạnh! Cứ xé bánh mì ra nhúng vào nước chè lạnh rồi cho vào mồm, lấy cái muỗng (ngoài ấy gọi là cái thìa) vớt đậu nhai cùng...
Lúc đầu tôi cứ nghĩ mình không ăn được, nhưng nếu không ăn được thì sẽ ăn cái gì? Vì sẽ không có bữa cơm tối đâu! Một tháng 30 ngày, chiều nào cũng chỉ ăn mỗi món đó thôi, không ăn cho no thì sức đâu để tập huấn?
Chúng tôi vừa học chính trị, rồi tập văn nghệ với các tiết mục ca múa nhạc như một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp thiếu nhi để sang đó mà thi thố... Sáng tập cái này, chiều tập cái kia, tối tập cái nọ... liền tù tì một tháng trong hoàn cảnh ngôi nhà chung nghèo, rất nghèo!
Vậy mà ăn riết quen miệng đâm ra thấy ngon, và thấy ghiền cái món bánh mì chấm chè đậu đen này làm sao. Sau này hoàn cảnh ăn uống dân mình khá lên nhiều, tôi mới kể món khoái khẩu một thời của tôi là ăn bánh mì với chè đậu đen đá, nhiều em út nhìn tôi như “người hành tinh khác” và chọc tôi ăn gì kỳ, ăn như... cái đồ khùng!
Không biết bây giờ nếu ăn lại món đó tôi có còn thấy ngon không nữa, nhưng quả thật ngay lúc này đây trong ký ức ẩm thực của tôi vẫn đọng lại hương vị của món ăn nhà nghèo thời bao cấp đó mà éo le thay là khi nhớ lại tôi vẫn thấy ngon, ngon y như hồi xưa mới lạ chớ!
Trong đại hội liên hoan ấy tôi rinh về cho mình một huy chương vàng cho tiết mục múa đôi dân gian Khmer Nam bộ, người cùng múa với tôi nay đã là một bác sĩ khoa nhi. Đoàn thiếu nhi VN lúc đó giành nhiều huy chương vàng khác nữa.
Những người cùng ăn chè đậu đen bánh mì với tôi lúc đó bây giờ có người đã là giám đốc, hiệu trưởng, giáo sư, nghệ sĩ thành danh... Không biết họ có còn nhớ về món ăn lạ lùng này không? Món xúp ngọt độc đáo của VN thời bao cấp.
Riêng tôi không bao giờ quên được vì nó cũng chính là một phần đời niên thiếu của tôi, của cậu thiếu niên 16 tuổi cùng mùa hè Hà Nội 1977 nóng bức!”.
Đưa đoạn này lên xong, tôi nhận được nhiều chia sẻ, trong đó có nhiều người trong cuộc.
Một cuộc cách mạng lớn
Bây giờ ngồi kể lại những chuyện này, tôi thấy đời sao nhanh hơn giấc mộng. Nói thì nhanh chớ lúc đó cũng phải cân nhắc nhiều lắm với một đứa con nhà nòi của sân khấu truyền thống, đã tham gia kịch truyền hình khi vừa lên 8 tuổi, thoắt mê môn văn, thoắt mê ballet, rồi chuyển sang mê kịch, lại là mê kịch từ Bắc vào.
Sau khi ra Hà Nội tập huấn một tháng cùng 42 người trên toàn quốc, rồi dự Liên hoan Thiếu nhi thế giới năm 1977 về, tôi giành được huy chương vàng nhờ tiết mục Đôi bạn do biên đạo múa Ngọc Cường của Trường Múa Việt Nam tại Hà Nội dàn dựng.
Thầy đã sáng tác dựa trên nền âm nhạc và động tác của múa Khmer Nam bộ. Sau đó, thầy Ngọc Cường cho biết Trường Múa Việt Nam tại Hà Nội có nhã ý muốn đào tạo tôi theo chương trình chính quy 11 năm.
Sự kiện này có thể kể lại chi tiết như sau, theo như tôi nhớ: sau khi có lời đề nghị cho một tương lai chung sống 11 năm tại Hà Nội của Trường Múa Việt Nam, hai người tôi tham khảo ý kiến là thầy Thái Ly và chị Hồng Hà - chị phụ trách thiếu nhi của tôi lúc đó. Thầy nói “thầy tin với kỹ năng múa đã có, con có thể là một diễn viên kịch xuất sắc, nhưng với nhiều nhược điểm của cơ thể, có cố lắm con cũng chỉ là một diễn viên múa trung bình”.
Được lời khuyên vàng đó, tôi đành cảm ơn và từ chối tấm thâm tình của Trường Múa Việt Nam và âm thầm lên một kế hoạch cho riêng mình. Vào năm học lớp 11 Trường trung học Cô Giang, tôi biết Trường Nghệ thuật sân khấu 2 mở khóa thi tuyển.
Ngang trái và đầy kịch tính là ngày thi chuyên môn bên trường sân khấu trùng với ngày thi học kỳ 2 bên Trường Cô Giang. Tôi đánh liều tự bỏ thi học kỳ 2 bên phổ thông để đi thi vào trường sân khấu mà ba má tôi không hề hay biết. Bữa thi đó ai cũng biết tôi là con ông Thành Tôn đi thi.
Thầy Đoàn Bá bảo tôi kéo cao quần lên để thấy bắp chuối chân coi tôi có còn khả năng cao thêm được nữa không. Tôi thấy vậy là mình tiêu rồi, tôi đã rơi vào trường hợp thả mồi bắt bóng.
Tổ nghiệp lại thử gân tôi một lần nữa. Hồi đó, Trường Nghệ thuật sân khấu 2 bắt thi chuyên môn hai vòng. Ngày thi vòng hai của trường sân khấu lại trúng ngay ngày thi vớt học kỳ 2 của lớp 11 bên trường phổ thông lần nữa.
Dĩ nhiên, tôi đành phải làm liều bỏ thi vớt phổ thông lần nữa để chọn đi thi vòng 2 sân khấu. Đến ngày nhập học lớp 12 trung học, mới biết là mình đã bị lưu ban vì không có điểm thi học kỳ 2.
Về nhà thấy có thư của trường sân khấu gửi báo tin đậu rồi hú hồn muốn xỉu. Biết chắc là sẽ bị đòn nếu ba biết bị ở lại lớp 11, cái thư của trường sân khấu là bùa hộ mạng. Mãi đến ngày khai trường bên Nghệ thuật sân khấu 2 mới dám báo cho ba má biết là mình không còn học chữ nữa mà đã chọn học nghề.
Ba tôi là nghệ sĩ nhưng không dạy con theo kiểu “nghệ sĩ” mà rất nề nếp, thậm chí gia trưởng. Cả nhà tôi ai đi đâu thì đến giờ cơm tất cả đều phải quây quần.
Đó cũng là giờ để các người con báo cho cả nhà biết có chuyện gì mới. Nói chung các con làm gì ba má cũng phải biết hết.
Hành động của tôi vào năm đó: tự quyết định ngừng học bên trường phổ thông để chuyển hẳn học trường nghề mà không thông qua ai, phải nói đối với tôi là một cuộc cách mạng lớn.
Không thể khinh suất
Hai nữ ca sĩ Ngọc Bích và Cẩm Vân là hai đàn chị mà tôi vô cùng ngưỡng mộ và kính trọng. Mỗi khi hai chị hát, tôi có cảm giác hai chị hát để mà chết ngay sau đó, rút ruột rút gan ra mà hát, hát khàn hết cả giọng mà tôi xót lắm, chỉ sợ sau đó hai chị sẽ hư giọng luôn!
Thời điểm hai chị còn là hai nữ hoàng ca nhạc ở phong độ đỉnh nhất thì đời sống kinh tế của người dân mình vẫn còn khó khăn lắm, mua một vé xem ca nhạc phải xếp hàng, vậy mà sân khấu ca nhạc nào có hai chị là đông nghịt khán giả, nên tôi thật bất ngờ khi cả hai chị đều chia sẻ với tôi thật giống nhau: người ta bỏ tiền mua vé không phải đến sân khấu để xem mình làm những điều hời hợt, có hát rồi chết cũng được, miễn khán giả hài lòng là mãn nguyện.
Lòng tự trọng nghề nghiệp của chị Vân và chị Bích thật sự đã ảnh hưởng rất lớn đến con đường sự nghiệp của tôi cho đến tận bây giờ.
Đúng, khán giả là người nghèo còn nhiều, kiếm ra đồng tiền mua vé cực lắm, không thể khinh suất được.
|
______________
Kỳ tới: Giữ một lời hứa
Nghệ sĩ Thành Lộc trong vai Chu Xung - một vai diễn mà Thành Lộc rất yêu - trong vởLôi vũ nổi tiếng một thời- Ảnh tư liệu |
Từ một sự “phải lòng”
Khi dòng kịch Bắc xuôi Nam, nói theo giọng Hà Nội là tôi đã “phải lòng” dòng kịch ấy. Thằng nhóc mê kịch là tôi bấy giờ, đoàn diễn mấy đêm kiếm đủ tiền mấy đêm, đi coi đến độ thuộc hết lời thoại.
Không chỉ đi xem diễn, còn lởn vởn nơi các thần tượng của mình ở, ngóng khi chiếc xe Hải Âu ra vào mang theo các anh chị cô chú đó từ khách sạn đến và rời nơi diễn.
Chưa tốt nghiệp phổ thông, đã ngồi soạn một lá thư dài gửi cho anh Hà Văn Trọng là thành viên hội đồng nghệ thuật Ðoàn kịch nói trung ương, trong đó cho biết mình sẽ theo con đường các anh các chị, sẽ thi vào trường sân khấu và còn hứa sẽ trở thành nghệ sĩ kịch nói nổi tiếng nữa.
Từ nhỏ tôi đã luyện tánh “nghĩ được là làm được” mà.
Nói nào ngay, khi tôi 16 tuổi, xem nghệ sĩ Thế Anh đẹp trai đóng Ðôi mắt lúc đó đã 41 tuổi mà như người ta hay nói 41 là độ tuổi đỉnh cao của nghề nghiệp nên khi mình bước vào tuổi tứ thập tôi cũng hơi run, tự ngó coi đã giữ lời hứa được chưa, vì giờ sắp hết rồi.
Cũng may là ở điểm chuyển giao thế kỷ đó, kiểm lại những gì đã làm thấy mình không đến nỗi là người thất hứa.
Một thời ngó Minh Trang như nữ thần, chỉ dám thấy cái lưng, nhìn lén được nàng ngồi ăn sáng cũng đủ thấy vui cả ngày rồi, đâu nghĩ ra có lúc được đóng chung khi Trang về 5B.
Năm 1994 được đóng phim Thời thơ ấu với nghệ sĩ Ðoàn Dũng, không tưởng nổi gần 20 năm trước mình quá ngưỡng mộ anh trong những vai Người cha thô bạo, Kẻ đốt đền (Herostratus), giờ may mắn được đóng chung, mà anh còn đóng vai phụ cho mình.
Không tả được niềm vui khi nhận lời mời của đạo diễn Lê Hữu Lương tham gia đóng phim Có một tình yêu như thế, lý do là phim đó có Trần Vân và Lê Khanh. Anh Trần Vân sau đó mất sớm, còn Lê Khanh trở thành người bạn nghề tri kỷ ở Hà Nội mãi đến giờ.
Nghề này vừa là nghiệp mà cũng vừa là đạo. Mà để luyện được đắc đạo phải qua nhiều nỗi đoạn trường.
Khúc đoạn trường
Rời khỏi Ðoàn kịch Trẻ mà mình góp phần lớn vào đó: công sức tài năng và trên hết còn là niềm tin, là lý tưởng để xây dựng nền móng, tôi coi như bị thất nghiệp.
Tuy vậy, phòng tổ chức sở vẫn còn giữ biên chế tôi lại để tôi có thể về công tác ở bất kỳ đoàn nghệ thuật nhà nước nào tôi muốn.
Tôi từ chối. Làm sao tôi có thể đứng dưới trướng một người mà tôi không hề nể phục. Rời khỏi biên chế nhà nước vào thời điểm đó, trong mắt của nhiều người tôi là một kẻ ngông cuồng, dại dột. Biết sao được, tôi chỉ làm theo trái tim và lý trí của mình.
Nhưng cũng phải mưu sinh, phải có thu nhập để mà tồn tại. Tôi nhận lời gia nhập nhóm đi tấu hài với anh Duy Phương.
Một tháng trời đi diễn với anh, thấy cũng lạ là anh chỉ sắp tôi diễn ở ngoại thành và các tỉnh, tôi có hỏi anh tại sao anh không cho tôi diễn ở các tụ điểm trong thành phố, anh mới nói có lệnh của phòng tổ chức biểu diễn là không cho phép tôi diễn ở nội thành.
Đó là một cái lệnh “miệng”, không thành văn bản, mà tội danh gán vào tôi nghe cũng hầm hố lắm. Thật buồn và thấy bế tắc, tôi cũng xin chia tay anh Duy Phương luôn.
Tưởng đã chia tay với nghiệp diễn luôn rồi. Nhưng không, “dư luận quần chúng” đã kéo tôi trở lại. Dư luận quần chúng là tên một vở kịch của Romania thuộc nhóm Câu lạc bộ Ðạo diễn trẻ diễn ở 5B đã nhóm lại lòng yêu nghề trong tôi.
Nhân gặp Việt Anh, vốn cũng quý tôi, kéo tôi về (thật ra là tôi xin về) thay vai của Hải Ðệ trong vở đó.
Sân khấu 5B tuy ở ngay trung tâm nhưng lúc đó còn là sân khấu thể nghiệm (thuộc Hội Sân khấu), quan hệ hàng ngang với sở nên sở đành phải “ý kiến” với hội rằng tôi chỉ được diễn trong chu vi của 5B thôi chớ không được diễn tự do bên ngoài.
Riêng vở Chuyện bây giờ mới kể, là vở đi dự liên hoan sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, nên chính giám đốc Sở Văn hóa can thiệp. Sau khi tranh luận, chính vị này ký giấy phép cho vở ra mắt nhưng phải cắt vai của Thành Lộc ra.
Phải nói ông tổng thư ký Hội Sân khấu thành phố đã bảo vệ quyền lợi của tôi tối đa vì tôi cũng là hội viên của hội, nhờ vậy mà tôi không bị cắt vai.
Giai đoạn sau đó còn khá nhiều nỗi vui buồn. Nhưng vẫn thấy nhớ ơn những người tạo điều kiện cho tôi được về hành nghề ở 5B.
Ngoài việc làm mất hiệu lực cái lệnh miệng kia, tôi còn có cơ hội diễn chung với Minh Trang - người mà mấy năm trước tôi chỉ dám đứng bên kia đường ngó vào khách sạn Bến Nghé, rồi đạp xe rượt theo xe Hải Âu chỉ để ngó từ xa cảnh nàng ăn sáng.
Còn bây giờ dưới mái nhà 5B, tôi được làm con của nàng (Lôi vũ) rồi cả người yêu của nàng nữa (Một cuộc đời bị đánh cắp).
Khi tôi về sân khấu 5B, nhiều đồng nghiệp giỏi nghề khác như Kim Xuân, Thành Hội, Khánh Hoàng... cũng về thêm. Tất cả cộng hưởng và tương tác lẫn nhau tạo những vở có chất lượng nghệ thuật và bề dày tư tưởng, nhất là trong các kỳ liên hoan sân Khấu.
Sân khấu 5B thật sự trở thành một thánh đường và đồng thời cũng là một chiếc áo không còn vừa vặn trong một cơ thể đang phát triển...
Nhân duyên với Idecaf
Một nhân duyên mới lại đến, Huỳnh Anh Tuấn - một người yêu trẻ - vốn trước đây là diễn viên múa rối của Ðoàn múa rối thành phố - rủ tôi cùng làm sân khấu cho thiếu nhi tại Trung tâm Trao đổi văn hóa với Pháp (Idecaf) - một sân khấu với khán phòng 400 chỗ cực đẹp.
Lời rủ rê này đánh thức đứa nhỏ trong tôi, đánh thức một thời bé Thành Tâm hạnh phúc biết bao khi được tham gia tạo món ăn tinh thần cho những người cùng lứa tuổi.
Hà Nội có một nhà hát Tuổi Trẻ với mảng sân khấu dành riêng cho thiếu nhi, trong khi Sài Gòn đã từng có hẳn một liên hoan sân khấu dành cho thiếu nhi mà một đoàn nghệ thuật cho thiếu nhi thì lại không, chỉ có một đoàn múa rối thì không đủ và không phong phú.
Vậy là vở Hoàng tử chăn lợn ra đời. Thắng! Rồi có thêm vài vở thiếu nhi ra đời nữa, thừa thắng xông lên làm thêm vở cho khán giả lớn, với vở đầu tiên làKhoảnh khắc tình yêu, rồi sau đó là Tình yêu dành cho hai người.
Idecaf đã có Chuyện văn chương và Cậu Ðồng, khán giả và báo chí ào ào kéo tới rần rần. Lần này không chỉ riêng tôi mà cả đám chúng tôi trở thành một cọng gai to tổ chảng trong mắt ai kia.
Thế là một loạt tin xấu tung ra, nào là nghệ thuật tư nhân đi theo khuynh hướng tư bản (vì lúc đó chúng tôi toàn diễn kịch của Pháp hoặc chuyển thể từ văn học Pháp) dùng vật chất để tha hóa nghệ sĩ nhà nước.
Có người đến tận nhà một quan chức thành phố cầu cứu vị quan chức này dùng quyền lực để đóng cửa sân khấu Idecaf vì cho rằng Huỳnh Anh Tuấn đã dùng tiền mua chuộc tôi bỏ sân khấu nhà nước.
May thay, câu trả lời của vị quan chức đó là: “Tụi bay là sân khấu xã hội hóa, người ta cũng là sân khấu xã hội hóa, tụi bay làm giỏi người ta cũng làm giỏi sao lại đòi triệt người ta!”.
Nhờ sự hiểu biết của vị quan chức ấy mà chúng tôi thoát nạn. Tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa thật sự an toàn, may cho chúng tôi là ngay vào thời điểm đó Luật doanh nghiệp đã bắt đầu mở rộng sang lĩnh vực nghệ thuật cho phép thành lập công ty tư nhân.
Vậy là trong vòng 11 ngày tôi và Huỳnh Anh Tuấn trút hết tiền túi trong người mình có hợp với vốn điều lệ để xin phép ra đời một công ty riêng. Công ty Thái Dương cùng sân khấu Idecaf đã ra đời như vậy đó.
Kể nhiều chuyện cho các bạn nghe để các bạn thấy tấm huy chương nào cũng có hai mặt. Nhiều lúc không biết tôi chọn nghề nghiệp này hay nghiệp đã chọn tôi, nhưng phần mình tôi tin mình đã chọn đúng.
Và bạn có thấy không, ít ra trong tư cách một con người, tôi cũng đã chứng minh cho những người thân cùng các tiền bối của mình thấy được rằng tôi đã giữ được chữ tín với lời hứa năm nào trong lá thư gửi cho anh Hà Văn Trọng (Nhà hát Kịch VN).
____________
Thành Lộc dành chương này cho những vai diễn như những cái bóng vô hình. Vậy chuyện gì đã xảy ra với cái người đã gần 600 lần “xắn linh hồn mình” chia cho gần 600 cái bóng kia?
Kỳ tới: Là bóng hay là hình
Ông Tư và ông Năm của Dạ cổ hoài lang qua hóa thân của hai nghệ sĩ Thành Lộc và Việt Anh - Ảnh tư liệu |
Vậy chuyện gì đã xảy ra với cái người đã gần 600 lần xắn xương máu và linh hồn mình chia cho gần 600 cái bóng kia. Và tôi vẫn còn sống. Thôi thì trong lúc chờ có thêm những vai mới, hay mà mình sẽ thích, tôi tạm lọc ra vài cái bóng ảo đã lưu đậm dấu trong mình để kể cho bạn nghe.
Trút vào nhân vật
Khi các bạn phóng viên yêu cầu kể vài vai diễn mình thích, tôi thường nêu tên Ignacio - nhân vật nổi loạn của vở Trong hào quang bóng tối (tác giả: Antonio Buero Vallejo, đạo diễn: Kim Loan). Chuyện kể về một ngôi trường nuôi dạy người khiếm thị bẩm sinh.
Bị nhà trường ru ngủ rằng hãy yên tâm đi với hiện trạng tối tăm, cộng đồng người khiếm thị này không ý thức được rằng bên cạnh thế giới của họ còn có một thế giới rộng lớn: thế giới của những người sáng mắt.
Mắt Ignacio không thấy nhưng huệ nhãn trong anh đã cảm nhận được có một thế giới sáng hơn, rộng hơn. Và anh đã gieo nhận thức này vào mọi người...
Tôi thấy mình giống Ignacio ở tư tưởng nổi loạn. Chất nổi loạn trong tôi như được tiếp sức. Lúc đó tuy tôi chưa có huệ nhãn như anh, nhưng vài bức xúc trước những bất công quanh mình cũng đủ cho tôi trút vào nhân vật, khát vọng muốn cho môi trường sáng tạo quanh mình tốt hơn.
Nhân vật Chu Xung trong Lôi vũ (tác giả: Tào Ngu, đạo diễn: Hoa Hạ) thì tôi đã kể cho bạn nghe ở chương trước rồi. Trong danh sách này làm sao thiếu ông Tư trong Dạ cổ hoài lang (tác giả: Thanh Hoàng, đạo diễn: Công Ninh). Điều thú vị là tác giả chưa đi Mỹ bao giờ. Đạo diễn thì đi học ở Nga về.
Nhưng nhờ đám chúng tôi có đông thân nhân ở nước ngoài nên đã lắng nghe, và cố truyền đạt đến khán giả tâm tình người già hoài hương, thèm về nguồn cội.
Bạn sẽ thấy danh sách vai ưa thích của tôi có cái ngộ là không có vai hài và như thế không phải vai nào cũng rần rần khán giả. Một vai có tuổi thọ vở diễn không dài là ông thầy đờn vùng Nam bộ tên Hai Giỏi trong vở Khúc nguyệt cầm (tác giả và đạo diễn: Đoàn Bá). Thầy Bá viết một trang thoại dài cho nhân vật này. Ông được một cô gái trẻ yêu, và cô gái này lại là con gái của người yêu của ông ngày xưa.
Chi tiết hạt nút áo rơi khi ông già cô đơn ấy gặp lại người xưa, thầy Bá cho biết thầy cộng hưởng từ chuyện thật của nhà văn Nga Ivan Turgenev, muốn giấu sự cô đơn nhưng hột nút áo ngẫu nhiên rơi là bằng chứng cho cuộc sống thiếu bàn tay phụ nữ.
Cuộc đời diễn viên của tôi dính nhiều các ông Tư. Một ông Tư Chơn gần đây nữa trong vở Tía ơi, má dìa (tác giả: Nguyễn Thị Minh Ngọc - Minh Phương, đạo diễn: Vũ Minh). Kỳ này tác giả soạn cho tôi 15 phút vừa đóng chồng, vừa đóng vợ để thỏa nỗi nhớ nhung giai đoạn sống hạnh phúc nhất giữa hai người là lúc cả hai yêu nhau qua những câu hò đối đáp.
Đợt Liên hoan sân khấu nhỏ lần 2, đó là nhân vật Thành Tâm trong vở Giấc mộng kê vàng (tác giả và đạo diễn: Nguyễn Thị Minh Ngọc). “Giấc Nam Kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không”, dựa theo tích giấc Nam Kha của vùng Đông Nam Á và dựa một ý tưởng mà Mishima - một nhà văn Nhật, ba lần được đề cử giải Nobel - đã hiện đại hóa một vở kịch Nô.
Tác giả đưa ra cái phù du, vô thường của một kiếp người, có thể làm nhiều người nản lòng buông xuôi, trôi thiếp đi trong trạng thái hư vô. Tuy nhiên với người nghệ sĩ, mọi thứ thăng trầm trong đời sống chỉ là chuyện nhỏ. Thử coi, anh đã chết bao nhiêu lần trên sân khấu, anh đã cưới bao nhiêu cô, đã bị thất tình, phản bội. Đêm anh làm vua, đêm khác làm giặc, bữa anh làm lão, bữa khác anh là đứa trẻ tung tăng.
Ông Thiện ở tuổi tôi bây giờ với tình yêu dành cho Hạ - cô gái hai mươi mấy tuổi nổi loạn trong vở Ngôi nhà không có đàn ông (tác giả: Ngọc Linh, đạo diễn: Hoa Hạ). Đó là một vai tuy ngắn ngủi nhưng được coi như một khuôn mẫu cho các học viên học diễn về sức sống của một vai xuất hiện rất ít so với chiều dài vở diễn.
Truân chuyên... vườn Lệ Chi
Khi làm đạo diễn vở Bí mật vườn Lệ Chi của tác giả Huỳnh Hữu Đản, nhiều người tưởng tôi sẽ chọn vai Nguyễn Trãi cho mình. Đó là những người ngoài nghề, không biết công việc nặng nhọc của một đạo diễn. Lãnh dựng vở đó mà tham, ôm luôn vai chánh là tiêu.
Lẽ ra tôi đã không đóng vai nào, nhưng khi đọc vai Tạ Thanh tôi rùng mình khi thấy vai phụ này có điểm nào đó chung với những người từng thân thiết, từng yêu tôi và từng hại tôi. Nhân vật đó không tin ai, nhất là với những người sống và làm những điều trái ý hắn ta.
Vở này, thật ra thoạt đầu chưa có ai ác, toàn những nhân vật đầy tính người hiền lành như bao người. Nhưng một ngày khi thấy quyền lợi bị đụng chạm, họ biến thành một con người khác.
Tôi đã đẩy mạnh cho nhân vật Nguyễn Thị Anh khóc hu hu, thương cho Nguyễn Trãi vì ông bị hại dưới âm mưu của mình. Giết đi những người tài đức, muôn người có một như thế, quả là đáng tiếc, nhưng phải giết thôi vì để họ sống thì cái sáng của họ sẽ hủy hoại cái tối của ta.
Khi để dàn đồng ca lùng nhùng trong đống vải như hồn của đất, hồn của nhân loại cố làm như không biết, không thấy, không nghe... chẳng phải là tôi không biết đau. Một khán giả là một nhà sư bên Pháp về nói với tôi đã nhìn ra dàn đồng ca đó tuy là chứng nhân lịch sử, nhưng không thể nói ra những sự thật kinh hoàng mà mình vừa chứng kiến.
Vở này gặp nhiều truân chuyên. Khi vở bị ngưng, với người sản xuất là một nỗi buồn khác, nhưng với người làm nghề cần khán giả tri âm tiếp hơi, chỉ cần vài khán giả nhìn thấu được như vậy tôi thấy cũng gọi là đủ.
Cho tới bây giờ, việc tạm ngưng vở vẫn là lệnh miệng. Chúng tôi nghe là cấm vì có người kiện, yêu cầu không được khẳng định Ban Cơ là đứa con ngoại tình. Có một sự thật phi lý là khi duyệt lại để có thể xóa cái lệnh miệng kia, ngoài việc chỉnh chút đỉnh cho vở hay hơn, gần như về ý tưởng chúng tôi không sửa chút nào...
Khi nói về những cái bóng của mình, có dịp ngó lại những vở mình dựng, như những đứa con hiếm hoi của tôi, bỗng tự hỏi phải chăng mình đã bị làm việc trong một môi trường không lý tưởng để sáng tạo. Mà sống kiểu đó thì rõ ràng là một kiểu chết.
Tôi đã chọn nghề này, đã được đào tạo chuyên nghiệp. Giờ nghề thì yên, sống thì được, lẽ ra phải thấy mình hạnh phúc nhưng cớ sao không vui nổi. Phải chăng mình đang đãi cát tìm vàng, mà cái môi trường tôi đang tìm này sao bùn nhiều quá, chẳng biết khi xong trận sống này, tôi lọc được bao nhiêu bụi vàng.
Một kiểu nào đó, Công ty Thái Dương của chúng tôi vẫn không thể tự tạo được một môi trường lý tưởng để làm nghề. Có phải là tội lỗi không khi tôi thèm vô cùng việc có một nhà hát riêng cho mình để tôi được toàn tâm toàn ý sáng tạo các vai diễn, những tôi ảo của tôi, như cái thời còn trong trường học, không phải sợ bốn tên mafia trong văn hóa văn nghệ như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gọi tên: quyền lực, đồng tiền, tôn giáo và... tình yêu.
Tận hưởng nỗi đau
Có lần tôi vướng bệnh, tây y gần như đầu hàng, phải níu tới đông y. Người trị bệnh bấm huyệt cho tôi cho biết một nguyên lý, khi bị bấm vào chỗ đau, bệnh nhân không nên gồng lên, vì càng chống trả căn bệnh sẽ còn hoài, chi bằng cứ buông lỏng, tận hưởng nỗi đau xuyên thấm vào từng tế bào mình, sau đó nó mới chịu trôi qua luôn.
“Hãy tận hưởng nỗi đau như một ân huệ trời cho để cảm nhận và thấu hiểu nó!”. Hiểu được và cộng tác với người gây đau cho mình xong, tôi chợt rùng mình như được chuyển sang một kiếp khác lần nữa. Nên từ đó tôi đối xử với nỗi đau và niềm vui cũng ngang nhau: tôi tận hưởng chúng. Thậm chí tôi còn làm luật sư biện hộ giùm những ai hại mình... Nhờ vậy, sống tới giờ này dường như tôi chẳng thấy ghét ai, và càng không thể ghét những nhân vật của mình.
|
_________
“Những tâm tình chơn chất của một gã mang danh là phù thủy trên sân khấu, nhưng cũng mang tiếng dại các loại gái, trai, và cả chẳng trai, không gái ở đời thường”.
Kỳ tới: Yêu
NSƯT Thành Lộc: “Dễ gì tìm được lần nữa những Hát và những Biển của mình một thời tràn đầy nhựa nóng thanh xuân...”- Ảnh: NVCC |
Như một câu hát, “vì anh, tấm gương soi, đối mặt em đó, vỡ một lần cho xong”.
Chỉ mong ai đó nếu thấy chương này có ít nhiều làm tổn thương nhau thì hãy hiểu cho đây là những tâm tình chơn chất của một gã mang danh là phù thủy trên sân khấu, nhưng cũng mang tiếng dại các loại gái, trai, và cả chẳng trai, không gái ở đời thường.
Cuộc tình chưa hết trên đầu ngón tay
Là người của công chúng, tôi luôn bị đồn (oan) là cặp bồ với bất cứ người nào mà họ thấy đi cùng, từ con gái đến con trai. Phải chăng đó là hậu quả của cuộc sống tình cảm quá kín đáo của tôi nên mình cũng dễ trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ tò mò, thèm thuồng khai thác đời tư người của công chúng để làm trò mua vui cho thập phương bá tánh, và cho những ai ghét mình nữa chớ (ai lại không có, huống hồ Thành Lộc?!).
Dĩ nhiên đây cũng là một chương khó khăn để kể ra với tôi. Với số tuổi của tôi bây giờ, với nghề nghiệp của tôi đã và đang theo, với những trải nghiệm tôi đã có, bạn có tin không nếu biết con số những cuộc tình của tôi chưa đếm được hết mười đầu ngón tay. Thiệt tình mà nói để gọi là trọn vẹn, gần như chưa cuộc tình nào đạt tới hai chữ đó, chỉ là những khoảnh khắc hạnh phúc, có khi cho cả hai hoặc cả ba.
Tại sao lại cả ba? Có những lúc ba đứa thân thiết với nhau, tôi cùng một cô bé và một chàng trai nữa. Cả ba cùng trẻ, đẹp và tài năng. Cô gái tên Biển. (Ngó lại những tình yêu của mình, hình như tôi đắm chìm trong cũng có tới vài cái Bể).
Chàng trai kia cũng là bạn thân của mình. Tôi lúc đó đang ở trong đội múa. Nàng ở cùng đội với tôi. Còn chàng dính líu đến âm nhạc, là một nghệ thuật mà hốt nhiên bỗng thấy réo rắt hơn mình, vương giả hơn mình. Hình thể chàng cũng cao ráo hơn mình, nên tự thấy nếu cần một người để che chở nàng chắc chàng xứng đáng hơn. Thế là tôi rút lui.
Tưởng sao, giờ thì trong ba đứa, chỉ mình tôi còn sống độc thân. Chàng nay là nhạc trưởng kiêm giám đốc một nhà hát, Biển nay là bác sĩ, cả hai đều có hai gia đình riêng và chắc là họ đều hạnh phúc.
Trước khi kể thêm một cặp ba nữa, xin trở lại một rung động đầu đời của tôi. Đó là một cô giáo khi tôi học lớp 6 Trường Nguyễn Thái Học. Cô dạy văn, tên Mỹ, và cô đẹp. Tiếng cô đọc những áng văn thơ nghe êm như nhạc, chữ viết cô rải trên bảng mà độ đậm nhạt như viết bút mực trên giấy. Phải ghi tên cô ở đây, dù chỉ là rung động thời vỡ lòng yêu, ở cái tuổi 12-14.
Thời đó, tôi giỏi văn nổi tiếng. Đọc đề xong tôi viết một mạch, chưa bao giờ viết nháp. Điểm thi văn trong các kỳ thi học kỳ của tôi luôn cao nhất lớp. Thừa thắng xông lên, tôi còn mộng mơ mai mốt mình sẽ phải trở thành một ông thầy dạy văn.
Có lẽ tôi giỏi văn nhờ yêu cô và muốn đẹp lòng cô. Nhờ cô siêng năng sắm áo dài mới mà cũng hình thành trong tôi một nỗi vấn vương với chiếc áo dài, loại áo dài đơn giản, rất Việt, và rất thơ.
Tiếc là cô giáo đã mất sau 1975, không cho tôi có cơ hội được mời cô xem mình diễn, để cô hiểu có phần cô góp trong những vai diễn của tôi.
Ông anh của... Hát
Có một thời gian, trong giới thích gắn tên tôi với một nữ diễn viên. Tạm kêu cô gái này là Hát. Đầu tiên, Hát coi tôi như ông anh của khóa trước, vở tivi đầu tiên của Hát khi cô còn đang học năm thứ hai trong trường, đạo diễn mạnh dạn mời hai đứa tôi làm cặp nam nữ chính trong đó.
Hồi đó mặt hai đứa trong vắt. Nhưng tôi được mời đóng nhiều loại vai hơn là Hát chỉ chết một vai đào đẹp, hiền ngoan. Khi tôi về sân khấu 5B, Hát và tôi có làm vợ chồng và tình nhân trong vài vở như Giấc mộng kê vàng, Ngôi nhà không có đàn ông.
Vở trước chúng tôi được một tờ báo bình chọn là cặp đôi được yêu thích trong năm. Vở sau có một câu thoại nhiều người thích, khi tôi đến từ biệt Hạ để ra đi, tôi trong vai ông Thiện đã nói: “Cái mà Hạ cần, tôi không có, và tôi lại có những thứ mà Hạ không cần”. Ngoài đời có lẽ cũng vậy. Hát có những điểm khá giống tôi, thông minh, hài hước, ít nhiều có máu nổi loạn.
Nhưng đúng là cái Hát cần, như cần một sắc vóc để có thể làm đôi tiên đồng ngọc nữ, thì tôi bị thiếu ít nhiều, cái tôi dư thừa là sự cô đơn thì có nữ nghệ sĩ nào rước vào cái của nợ đó về chi cho nặng đời.
Có một thời gian Hát lụy vì những nam nhơn có vóc dáng đẹp mã. Giữa tôi và một nam nhơn nổi tiếng sát gái, bạn dễ nhận ra Hát thà phiêu lưu với người ấy hơn an toàn với sự lãng mạn nhẹ nhàng như mây như khói của tôi...
Giai đoạn đó tôi không hề thấy buồn hay lo mất Hát dù quanh Hát lúc nào cũng dìu dập kẻ đón người đưa, những Việt kiều, nghệ sĩ. Không phải tôi A.Q. hay tử tế gì. Tinh thần tôi lúc ấy cũng có một điểm tựa vững chắc vào một người mà tôi vẫn chưa biết gọi danh xưng gì mới xứng: huynh đệ, bạn bè, hay một “hồng nam tri kỷ” với mình.
Mà ngẫm kỹ, có lẽ tên chính xác của tình cảm này là tình bằng hữu, một loại tình bằng hữu cao đẹp hơn cả tình yêu vì nó đã giúp nhau lớn lên về nhiều mặt thuộc về tâm hồn và cách sống.
Hồng nam tri kỷ
Anh cũng tên Biển. Bạn đã bao giờ có được một người bạn mà bạn quý từng giây phút gặp nhau, tiếc rẻ vô cùng khi con đường cùng đi với nhau sao chỉ có từng đó để câu chuyện đang khơi trào, tim bạn như đâu đó có một nguồn suối hạnh phúc phun chảy, thì bạn phải chia tay.
Tôi và Biển có thời gian như vậy. Nhiều đêm đi diễn về chúng tôi tâm sự với nhau về chuyện đời, chuyện nghề, cách thế con người sống với nhau, kiến thức về những tác phẩm chúng tôi xem... Mải chuyện, có khi Biển đưa tôi về, bị lố một khúc và ngược lại.
Biển là một người sống có lý tưởng, đã từng suýt hiến thân mình cho một tôn giáo. Anh cho tôi nhiều hơn là ngược lại, và đôi lúc tôi nghĩ mình may mắn khi có một người bạn lớn kiêm luôn cả làm người thầy, hướng dẫn tinh thần cho mình.
Phải nói nhiều về nam nhơn tên Biển này của tôi bởi vì đùng một cái, tôi biết được Biển tỏ tình với Hát. Mà Hát thì đã có bao giờ là của tôi đâu, ngoài những giây phút phù du trên sàn diễn, màn hình? Bạn là tôi thì bạn sẽ xử sự như thế nào trong tình huống này? Đành lập lại lối cũ thôi, “ta đi theo lối nhỏ, là lối an toàn”. Tôi còn có thể làm gì khác chớ? Cả hai đẹp đôi, tài năng, cần nhau. Phải, lúc đó họ là những điểm tựa chắc chắn cho nhau.
Hơn nữa, tôi yêu cả hai. Hơn cả tình yêu, tôi quý cả hai. Khi họ hạnh phúc có nghĩa là tôi được tới hai lần hạnh phúc. Dĩ nhiên, nói như vậy không có nghĩa là tôi không chút nào đau đớn, mà phải nói chính xác là nỗi đau cũng tăng đến bốn lần. Bởi vì dễ gì tìm được lần nữa những Hát và những Biển của mình một thời tràn đầy nhựa nóng thanh xuân của yêu và sống.
Kết cục của cặp ba này thì không chỉ mình tôi độc thân. Biển sau nhiều cái đám cưới hụt với một số mỹ nhơn, hiện vẫn một mình. Hát thì xuất cảnh theo gia đình, gặp lại và kết hôn với người yêu đầu, thỉnh thoảng có về lại Việt Nam. Cô vẫn thu xếp ghé thăm tôi, đúng hơn là thăm sân khấu chúng tôi với lối trò chuyện hài hước khiến ai gặp cô cũng thấy tràn ngập niềm vui.
Cùng lúc quen với Hát và Biển, tôi còn quen thân với một đạo diễn tên Biển nữa. Chàng Biển này với tôi cũng khá thân, nhưng quan hệ của chúng tôi chỉ là những trao đổi về nghề.
Nhiều người cho là tôi “lụy” Biển này hơn. Nhưng nếu quả thật như vậy thì với tôi, tình cảm càng “lụy” nhau thì bộc phát, bộc tàn.
Chỉ lâu bền hơn nếu bên cạnh tình yêu còn những việc làm chung, cần sự nể trọng nhau, sự chăm sóc nâng niu nhau. Và điều quan trọng nhất, phải là cùng chủng loại mới cùng ngôn ngữ mà hiểu những lời nói của nhau. Để nhận ra nhau không thể dùng mắt thường, mà chỉ bằng cảm nhận vô hình.
|
____________
Những câu chuyện ân tình, những tâm hồn đồng điệu đã ngang qua một đời nghệ sĩ.
Kỳ cuối: Những nữ nhơn trong đời
TT - Tôi muốn kể ở chương này (chương Yêu - TS) một người bạn lớn nữa, một người chị, đội trưởng đội múa của tôi ở Nhà văn hóa Thiếu nhi thành phố.
Hai diễn viên tài năng của sân khấu kịch miền Nam và miền Bắc - Thành Lộc và Lê Khanh - tại Sài Gòn năm 1992 - Ảnh tư liệu |
Đó là chị Phan Tiết Hồng Hà. Tôi ghi hẳn tên của chị nơi đây vì ngoài chuyện cho tôi đắm say trong thế giới múa, chị Hà còn là người góp một phần lớn trong việc giáo dục nhân cách tôi, từ văn hóa ứng xử giao tiếp, dạy cho tôi biết cách đối nhân xử thế không phải với tư cách người thầy mà còn kèm thêm những tâm tình đời riêng như một người bạn thân thiết.
Người thầy lớn về thẩm mỹ
Ngẫm cho cùng, tôi là một kẻ hiếu học, hiếu nghĩa, hiếu tình. Nên tôi vẫn cho là mình may mắn, bởi lắng sâu trong các mối quan hệ bè bạn, tôi luôn phát hiện và xem mỗi người mình đã gắn vào chữ bạn, đều hàm nghĩa trong đó là một người thầy của mình ở một khía cạnh kiến thức nào đó. Thế nên dù cuộc sống biến thiên, có phải chia tay, thậm chí không nhìn nhau nữa hay vì hoàn cảnh không còn cơ hội gặp nhau, nhưng tôi vẫn luôn biết ơn họ, cũng như biết ơn quá khứ.
Để đóng lại chương này, tôi muốn ghi lại câu trả lời của tôi vào năm 2008 cho báo Tiền Phong:
* Thất bại lớn nhất trong cuộc đời anh, tính đến thời điểm này?
- Đến bây giờ mà vẫn không có người yêu. Những mối tình chợt đến rồi chợt đi như những cơn “áp thấp nhiệt đới”. Người tôi yêu thì không yêu tôi, người yêu tôi thì không hề làm tôi rung động. Có sự thất bại nào thảm hại như vậy chưa? Trong sự nghiệp nghệ thuật tôi thành công bao nhiêu thì trong tình yêu tôi thê thảm bấy nhiêu.
|
Xin cho tôi ghi thêm nơi chương này, một nữ nhơn mà những tác phẩm của tôi đã được ảnh hưởng sâu đậm từ các tác phẩm của chị, dù tôi rất muốn đưa chị sang chương tôi nói về và tri ân những người thầy.
Chị là Nguyễn Thủy Ea Sola, một biên đạo múa tài năng (của các vở Hạn hán và cơn mưa, Ngày xửa ngày xưa...) mang hai dòng máu Việt - Pháp, tên chị được ghi trong mục những phụ nữ tài ba của thế kỷ 20.
Ai cũng biết để chỉnh gu - khiếu thẩm mỹ - của ai đó là một công việc cực kỳ gian nan. Sola là người thầy lớn cho tôi về thẩm mỹ.
Duyên phần đưa đến, tôi được xem vài tác phẩm của chị, ở ngoài và trong nước, ở sàn diễn chính thức lẫn được kiến tập. Với một người làm việc nghiêm chỉnh, khó khăn với chính mình và cộng sự, được chị cho xem tác phẩm khi chưa hoàn chỉnh là một may mắn lớn.
Những tác phẩm của Sola ở nước ngoài được ủng hộ nhiệt liệt. Khi biểu diễn trong nước thì có dư luận trái chiều. Được biết có lần một người bạn mời Sola xem tôi diễn một vở kịch ở sân khấu Idecaf, bước vào khu thiệp mời thấy toàn báo chí, hình như trong đó vài người đã viết lên án tác phẩm của mình, Sola xin được đổi sang ngồi khu khác ngay, nếu không nể nhau thì đã ra về rồi.
Người phụ nữ này được trong giới xem như một người có thần kinh bằng thép. Không bằng thép sao chịu nổi khi chỉ mười lăm phút trước khi bay, Sola mới lấy được giấy phép mang cả đoàn rời nước, trong đó đa số là các bà nông dân có hai ngón chân cái khoằm và giao nhau như dấu hiệu của những người Giao Chỉ gốc. Vậy mà tôi đã từng chứng kiến người phụ nữ thép ấy ngồi khóc lẻ loi một mình.
Sola là người cực đoan, thấy ai liệng mình vào một trang web nào đó thường yêu cầu phải lấy ra, thấy ai đưa máy lên chụp mình đều lấy tay che mặt vì sợ bị lấy mất một chút nào đó, linh hồn của mình. Mong là những ghi chép dính líu về Sola ở chương này sẽ không nằm trong số phận đó.
Còn những ân tình nào nữa nên đưa vào chương này. Có những quan hệ với tôi tuy không thường xuyên nhưng cũng khá quý giá, từng cho tôi những kiến thức, thông tin, và cũng là một phần hồn của họ để giúp nhau làm nghề.
Có thể một vài tên ở đây như tác giả, đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc, nhà thơ Đỗ Trung Quân, nhà thiết kế Kim B. và chồng chị - nhà báo Nhã Bình (đã mất).
Đồng nghiệp quá nhiều, bạn bè thì càng vô thiên lủng! Trong phạm vi những trang viết có giới hạn này chỉ xin đặc biệt nhắc đến những cái tên mà họ thật sự có sức ảnh hưởng đến mình, cả tình cảm lẫn chuyên môn, với những đồng nghiệp tôi muốn nhắc đến là những người mà hoạt động nghệ thuật của họ thật sự đã chinh phục và có tác động tích cực đến chuyên môn của tôi, tôi thừa nhận trong phương thức sáng tạo nghệ thuật của mình, có ít nhiều tôi đã chịu ảnh hưởng từ họ.Và thật là thiếu sót nếu tôi không nhắc đến nàng.
Tôi gọi nàng là nàng
Vì trong mắt tôi nàng hội đủ mọi điều để tôi ngưỡng mộ: sắc vóc thanh nhã, vẻ đẹp hồn hậu, phong cách quý phái, sang trọng lại đằm thắm, và tài năng thì thuộc hàng xuất sắc. Lần đầu tiên nhìn thấy nàng hóa thân thành tiểu thư Juliette của William Shakespeare là tôi biết mình sẽ “chết”vì người nữ diễn viên này và đúng là từ đó tôi đã lụy với những vai diễn của nàng sau đó luôn!
Nàng nhỏ hơn tôi hai tuổi, nhưng vì từ chỗ cả hai cùng ngưỡng mộ nhau nên trở thành thân nhau từ thời khắc nào tôi cũng không nhớ chính xác, gọi nhau luôn là mày tao mi tớ từ lúc nàng còn thiếu nữ đến lúc trở thành phu nhân. Phu quân của nàng nhiều tuổi hơn tôi, nhưng vì chúng tôi thân nhau quá nên có lúc tôi cũng mày tao với hắn luôn.
Cụ Đình Nghi có thổ lộ rằng trong dàn diễn viên đương đại - là vào cái thời điểm chúng tôi còn phơi phới tuổi thanh xuân lúc đó - ông chỉ đánh giá cao miền Bắc có nàng và miền Nam có tôi, cụ quý thương hai đứa tôi lắm nhưng cũng lạ là với nàng thì cụ gọi là con, trong khi với tôi thì cụ thích là anh em hơn!
Tôi học được từ cách diễn của nàng là sự bình tĩnh, điềm đạm cùng cách thể hiện cảm xúc bằng đôi mắt, ôi cái đôi mắt ấy ẩn nấp sau vành nón lá lúc đứng đợi người tình ngoài sân ga (Bến bờ xa lắc), háo hức hi vọng rồi hoài nghi, rồi lại níu kéo và cuối cùng là thẫn thờ tuyệt vọng...
Cái đôi mắt ấy nó ám ảnh tôi suốt một thời gian dài, đã có nhiều nữ diễn viên vào vai diễn đó nhưng với tôi nàng là vô địch, có nhiều nữ diễn viên khác khi vào vai đó đã sao chép lại cách diễn của nàng, có vẻ tôi ca ngợi nàng hơi nhiều nhưng quả thật nàng đáng được như thế và tôi không ngượng miệng khi dành nhiều lời có cánh cho nàng.
Có lần tôi ra Hà Nội để trình diễn vở kịch Monsieur Jourdain au Tonkin - một công trình hợp tác kịch nghệ Việt và Pháp - chúng tôi gặp lại nhau mừng lắm, nàng đưa tôi đi chơi khắp nơi ngoại thành Hà Nội từ chùa chiền đến hang động núi non. Lúc đó nàng đang mang thai đứa con đầu lòng.
Tôi thật sự lo lắng và ý thức bảo vệ nàng trong từng bước đi, xuống hang tôi là người xuống trước để đỡ tay nàng, chui lên mặt đất thì là người lên cuối để nâng tay nàng bước lên, có hang động bờ đá ẩm ướt trơn trượt, tôi luôn mồm cảnh báo để nàng ý thức đi đứng trèo leo cho an toàn.
Cuối cùng nàng leo lên mặt đất được bình an còn tôi thì trượt té cái ạch và chính nàng lại là người chìa tay ra cho tôi nắm lấy và lôi tôi lên. Xin miễn miêu tả về cái nỗi nhục của tôi lúc đó, tôi làm lơ cố để cho nàng đừng cười tôi, mà quả là nàng đã không cười và làm như chuyện đó đã không hề xảy ra, tôi biết nàng cố ý thế để tôi không ngượng. Trên sân khấu nàng diễn tinh tế như thế nào thì ngoài đời nàng cũng ứng xử tinh tế không hề kém.
Nàng có cộng tác với chúng tôi trong Sài Gòn một vở kịch cổ điển lãng mạn của Đức (Âm mưu và tình yêu - đạo diễn Trần Minh Ngọc) và đó là một kỷ niệm rất đẹp trong tình bạn, tình đồng nghiệp chúng tôi đã có được cùng nhau.
Quả thật hiếm tìm được một nữ nghệ sĩ đầy đủ tài sắc và đạo đức nghề nghiệp đáng trân trọng như Lê Khanh, người nữ kịch sĩ hiếm hoi của sân khấu Bắc thừa nhận những tinh hoa ưu thế của sân khấu kịch phía Nam, luôn là người khiêm tốn và chân thành, trung thực trong việc nhận định về giá trị nghệ thuật.
No comments:
Post a Comment