Sunday, September 27, 2015

BƯỚU



Bướu vú.
Bướu vú hay ung thư vú, khi đo nhiệt kế trên vú có nơi trên 38 độ C là thực chứng, đang sưng to, còn có điểm trên 38 độ, có điểm dưới 36 độ, hay cả một vùng dưới 36.0 độ là do thiếu khí huyết tuần hoàn nuôi tế bào vú gây ra bướu.
Điểm có nhiệt độ cao thì châm nặn máu, điểm có nhiệt độ thấp, dùng mai hoa châm đặt vào điểm thấp độ, bàn tay bệnh nhân đè lên, nghe nhói đau, và nghe khí huyết chạy dưới huyệt lâu 5-10 phút cho mỗi điểm sờ thấy có đầu ngòi ngạnh của bướu, 
một tay mình dùng ngón tay ấn vào huyệt Thượng Quản và huyệt Trung Quản nghe được khí, nước sữa, nước máu trong bướu vú chảy xuống bụng, và bệnh nhân sẽ thấy bướu nhỏ dần lại.
Theo đông y, vú là bao tử cung cấp sữa nuôi hài nhi, còn bao tử cung cấp chất bổ nuôi người mẹ, nên cùng thuộc chức năng bao tử, có đường thông tuyến vú lên và xuống, do đó, khi bệnh nhân ấn đè vú tạo áp lực bơm đẩy khí huyết trong vú thoát ra trong lúc tập thở ra làm thư giãn các ống dẫn chảy về Trung Quản xuống ruột, tống độc tố ra ngoài.
Nếu áp huyết thấp cần phải uống thuốc bổ máu như chích B12, hay thuốc đông y Bổ Hư Thang, tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng để thông trung tiêu rồi tập Nạp Khí Trung Tiêu đưa khí huyết vào vú để phục hồi lại các tế bào, được nuôi dưỡng thêm máu và oxy, tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực và bài Vỗ Tâm Thận để khai mở kinh mạch thông tuyến vú, thở thiền ở Đan Điền Thần.
Những bệnh nhân tây phương đến tôi chữa bệnh, thấy bướu nhỏ dần từ hơn 20 năm nay vẫn sống vui khỏe, còn những người bạn của họ đã chết sau khi chữa theo tây y, hoặc kéo dài được vài năm bị tái phát do áp huyết thấp thiếu máu làm tế bào ung thư phát triển gọi là di căn, rồi cũng đã chết.
Cho nên máy đo nhiệt độ và máy đo áp huyết là đo khí huyết trong cơ thể, rất cần để phát hiện ra bệnh nhanh, tiện lợi và biết cách chữa đúng.
Nếu khám và chữa bướu vú bằng huyệt, thì huyệt Túc Lâm Khấp thuộc kinh Đởm, đường khe rãnh giữa 2 ngón chân 4-5, nơi giao nhau của 2 khe xương ngón chân, dùng dầu trơn vuốt từ ngoài khe giữa 2 ngón chân 4-5 vuốt dọc vào theo khe rãnh đến giao điểm 2 xương ngón chân giao nhau, sẽ tìm thấy một điểm cộm cứng đau, bấm bào điểm cứng này, bảo bệnh nhân đặt bàn tay trên vú cùng bên chân nằm nhắm mắt nghe sẽ có cảm giác khi huyết từ dưới chạy vào vú rồi chạy ra, kéo theo tiếng kêu bụp bụp do nước sữa, máu ứ, khí tằc tạo thành bướu từ trong vú chảy xuống bụng, bệnh nhân lợi dụng khi thầy thuốc bấm huyệt Túc Lâm Khấp dưới chân, thì mình tự bóp đè nơi bướu vú khi mình thở ra thì các chất trong bướu sẽ chảy ra theo các tuyến vú làm bướu nhỏ lại.
Huyệt Túc Lâm Khấp
Bên chân nào có huyệt Túc Lâm Khấp đau là vú bên đó có bướu, bên huyệt không đau là vú bên đó không có buớu. Đo nhiệt kế trên huyệt Túc Lâm Khấp bên nào có độ thấp hơn hay không chỉ độ là vú bên đó bị tắc khí huyết ứ lâu ngày tạo thành bướu.
Nguyên nhân của bệnh ung thư vú do chán đời hay thở dài, thiếu máu áp huyết thấp, trầm cảm, không đủ khí huyết lưu thông ra vào vú làm ứ tắc tuyến vú.

Máy đo đường và nhiệt kế tìm ra được bệnh ung thư.
Tây y cho rằng đường là nguyên nhân gây ra ung thư, điều đó đúng trong quá trình xét nghiệm máu, nhưng không đúng hoàn toàn, nếu biết phương pháp tập khí công để tăng tính hấp thụ và chuyển hóa đường.
Các vị bác sĩ thường quan niệm khi thử đường trong máu thì thử bất kỳ vị trí nào thì đường trong máu cũng có kết qủa giống nhau, hoặc khi đo áp huyết là khí lực đẩy máu trong cơ thể chỗ nào cũng giống nhau. Trên lý thuyết chỉ đúng đối với người khỏe mạnh không bệnh tật, vì khí huyết lưu thông tốt khắp nơi khắp chỗ.
Trên thực tế, khi có những ống máu bị tắc nghẽn, giống như sông lạch bị tắc nghẽn thì dòng chảy bị chậm lại, thành ao tù nước đọng. Khi thử độ Ph của nước ở dòng nước trong sẽ khác với dòng nước đục, khác với nơi ao tù nước đọng.
Cũng như thế, dùng kim thử tiểu đường châm nặn máu ở những nơi da cứng, da mềm, da tốt, vùng da có mụn lở lói, kết qủa lượng đường trong máu ở những nơi đó khác nhau. Đó là thử đường trên da, ngược lại thử đường vào các huyệt đầu đường kinh, thì máu chạy trên mỗi đường kinh có lượng đường giống nhau thì cơ thể không bệnh tật, còn khi tạng phủ bệnh thì máu ở các đường kinh có lượng đường khác nhau, nếu mọi người không tin thì cứ thử sẽ biết.
Nếu giải thích bằng đường kinh thì tây y không tin, nhưng gỉa sử trong lúc giải phẫu một bệnh nhân, nếu lấy máu từ ống động mạch từ tim đi ra và lấy máu từ ống tĩnh mạch là máu tuần hoàn về tim, đem thử nồng độ CO2 sẽ thấy khác giữa máu đỏ và máu đen, thử nồng độ CO2 ở những tế bào ung thư cũng sẽ khác hơn những tế bào lành...
Do đó, có một bệnh nhân Québecoise đang là y tá trong một bệnh viện, bị ung thư vú cách đây hơn 10 năm theo cách chữa của khí công, không uống thuốc, không hóa trị, xạ trị, không mổ, bà vẫn khỏe mạnh, sống vui vẻ. Tôi giải thích khối u là cục thịt bị ứ đọng khí huyết không lưu thông như ao tù nước đọng, nếu nói theo môi trường, thì chính ao tù nước đọng sẽ làm ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sinh sống cư ngụ trong vùng, nếu biết dọn dẹp khai thông dòng nước lưu thông không bị ứ đọng thì dòng nước trở nên trong sạch. Nhưng cục thịt thối ứ đọng trong con người, tây y không biết khai thông bằng khí huyết thì phải cắt bỏ. Còn biết cách khai thông theo khí công, cục thịt ấy sẽ được khí huyết đưa oxy đến sẽ giảm dần nồng độ CO2, nồng độ máu ở nơi đó sẽ chênh lệch rất cao so với nơi cạnh đó 1-2cm. Chính bà y tá cũng chưa tin lời giải thích của tôi khi tôi chưa thử nghiệm cho bà xem. .
Nơi vú bên phải của bà nổi lên một khối u bầm tím dưới da, tôi dùng máy bắn nhiệt kế quanh khối u đó trong khoảng 5cm vuông, có chỗ nhiệt kế chỉ 36.2, 36.5, 37,5, 38.8. 40.2, chỗ nào nhiệt kế chỉ trên 38 độ máy kêu lên tít tít tít, đo nhiệt bên ngoài vùng bướu là 36.2, như vậy ở trung tâm bướu nhiệt độ là 40.2 C
Tôi châm nặn máu đo đường ở vùng 36.2 độ C, đường trong máu là 6.8mmol/l, đo ở vùng 40.2 độ C, đường trong máu là 17.8mmol/l. Bà ngạc nhiên la lên Ah? Bà hỏi bây giờ phải làm sao ?
Trong vùng bướu có sẵn áp lực khí dồn ép trong bướu nên mới làm máu ứ tắc tuần hoàn, có chỗ xì máu thoát ra, chỗ thoát ra máu đỏ lẫn mầu máu tím đen. Cùng lúc cho bà tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần, vùng da bị bướu dần dần tươi hồng lên, máu ra màu đỏ và từ từ khí huyết thông điều hòa thì máu ngưng không rịn ra nữa.
Lúc đó tất cả các vùng bướu đều có nhiệt độ xấp xỉ đều nhau từ 36.6 đến 37.1, đường các nơi chênh lệch ít từ 6.1-7.4mmol/l.
Tôi giải thích cho bà nghe, bướu chỉ là miếng thịt thừa nó vẫn sống chung với mình, miễn sao mình kiểm soát nó bằng cách tập luyện khí công để thông khí huyết chuyển hóa oxy, tránh cho nó ứ tụ máu độc làm tăng nhiệt tăng đường thì nó không làm hại mình. Bà kể những bệnh nhân bị ung thư vú chữa trong bệnh viện đã có nhiều người chết, nên bà sợ không trị liệu theo tây y.
Nhiều người muốn phỏng vấn bà để đưa phương pháp chữa bằng khí công của bà cho mọi người biết áp dụng, nhưng tôi khuyên không nên, vì sẽ bị giới tây y phản đối, họ không khen, họ không có tâm cởi mở để nghiên cứu, mà sẽ có phản ứng ngược lại....
Máy đo đường và nhiệt kế tìm ra được bệnh ung thư. Cách chữa ung thư vú
2-Cơ thể thiếu oxy, tức là áp huyết số thứ nhất phải từ 80 lên đến 120-130, ở cả hai tay, trong khi tay trái là bao tử ăn không đủ, ăn iqt, ăn không tiêu thì số thứ hai chỉ có chỉ có dưới 80. Nếu cơ thể có đủ oxy thì chất sắt Fer mới trở thành máu là Fe2O3, cho nên muốn có oxy thì phải tập bài Kéo Ép Gối Sát vào Bụng cho hơi cũ trong bao tử là hơi đôc nhiều CO2 ở trong bao tử ythoát ra và nhận hơi mới là oxy vào bụng, vừa làm co bóp bao tử tống thức ăn cũ đóng hòn cục bướu nhỏ sẽ mềm lại trôi theo xuống ruột ra ngoài thành phân, và thức ăn mới cũng được bao tử bóp nhuyễn thành chất bổ máu, và cần phải tập kéo ép gối từ 1200 lần đến 2000 lần 1 ngày, để tống khứ gấp những tế bào ung bướu trong cơ thể, và thu nhận thức ăn mới thành chất bổ phục hồi lại những tế bào bệnh. Sau khi tập Kéo Ép Gối làm mau tiêu, tăng oxy thì tế bào ung thư tự tiêu diệt, kiểm chứng lại bằng máy đo áp huyết sẽ thấy áp huyết số thứ nhất tăng dần lên mỗi ngày, tăng đến 125 thì khỏi bệnh.
Còn cần phải chữa nghiệp bệnh, đem 1 quyển kinh có Chú Đại Bi, nằm hay ngồi đọc Chú Đại Bi suốt ngày, nó là chú của Bồ Tát Quán Thế Âm, hễ ai đọc tụng nó hay nghe được nó. thì tâm thù hận, ích kỷ, bỏn sẻn sẽ trở thành tâm biết thương yêu mọi người, do đó khi mình đọc tụng là để sửa tâm tánh mình, thứ hai, những tế bào ung thư trong người mình là những oan gia trái chủ có thù hận mình muốn trả thù cho mình chết, nhưng vì mình đọc tụng mỗi ngày 108 lần, nó mở tâm từ bi hoan hỷ, vì mình đọc tụng nó được nghe và đọc theo, nên nó giác ngộ, và tha thứ cho mình, không còn hại mình, nó bỏ đi, thì những tế bào ung thư khi còn linh hồn chúng nó ở trong đó nó sẽ cào cắn cho mình đau đớn thì nay nhờ mình đọc, nó được thoát khỏi si mê sân hận, nó được giải thoát, nên linh hồn chúng bỏ đi đầu thai, lúc đó tây y xét nghiệm máu thấy những tế bào ung thư này trở thành ung thư lành tính không phát triển, nên sẽ không cần dùng thuốc chữa nữa.
a-Nhịp tim đập nhanh hay chậm, nếu tính theo bắt mạch của đông y là mạch sác (nhanh là nhiệt) và mạch trì (chậm là hàn). Ở những bệnh nan y, thầy thuốc không biết bắt mạch, dễ bị lừa, vì nếu mạch sác là nhiệt nhưng cơ thể và chân tay bệnh nhân lại lạnh, khiến thầy thuốc chưa kinh nghiệm lầm lẫn chữa lạnh bằng cách thêm nóng làm bệnh thực càng thêm thực, nóng càng thêm nóng. Ngược lại mạch trì là hàn, nhưng cơ thể và chân tay bệnh nhân lại nóng, thầy thuốc lại chữa lầm cho mát khiến bệnh hư càng thêm hư, lạnh càng thêm lạnh. Những bệnh nan y như thế, đông y gọi là nhiệt giả hàn hay hàn giả nhiệt, đó là do huyết.
Trường hợp 1 : Áp huyết thấp, nhịp tim nhanh, người nóng, bàn tay nóng :
Trường hợp 2 : Áp huyết thấp, nhịp tim nhanh, người lạnh, bàn tay lạnh.
Trường hợp 3 : Áp huyết thấp, nhịp tim chậm, người nóng, bàn tay nóng.
Trường hợp 4 : Áp huyết thấp, nhịp tim chậm, người lạnh, bàn tay lạnh.
Trường hợp 5 : Áp huyết cao, nhịp tim nhanh, người nóng, bàn tay nóng.
Trường hợp 6 : Áp huyết cao, nhịp tim nhanh, người lạnh, bàn tay lạnh.
Trường hợp 7 : Áp huyết cao, nhịp tim chậm, người nóng, bàn tay nóng.
Trường hợp 8 : Áp huyết cao, nhịp tim chậm, người lạnh, bàn tay lạnh.
Trường hợp 9 : Áp huyết đúng tiêu chuẩn bình thường, nhịp tim nhanh, người không nóng không lạnh.
Trường hợp10: Áp huyết đúng tiêu chuẩn bình thường, nhịp tim chậm, người không nóng không lạnh.
Trường hợp 6 : Áp huyết cao, nhịp tim nhanh, người lạnh, bàn tay lạnh.
Thí dụ áp huyết đo được 140/90mmHg mạch 120, mạch cao thay vì sốt nhưng người lạnh bàn tay lạnh là trường hợp ung thư máu cấp tính, vì ung thư máu do thiếu máu, thiếu hồng cầu, người lạnh, nhưng áo huyết cao là áp huyết giả xảy ra trong trường hợp cấp tính để giúp cho tim còn hoạt động. Áp huyết thực theo mạch tim đập bình thường 75, thì mạch đã phải đập nhanh thêm 45 lần đưa áp huyết tăng lên, áp huyết thực còn 95mmHg.

- Đem áp huyết giả trở về áp huyết thật trước khi định bệnh và chữa bệnh :
Đo áp huyết trước khi tập khí công là áp huyết giả. Sau khi tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần rồi 5 phút sau đo lại áp huyết mới là áp huyết thật của người bệnh, lúc đó sẽ điều chỉnh áp huyết của bên bao tử tay trái hay của bên gan bên tay phải bằng những bài tập khí công.

^^^

PHẦN 2 : NHỊP TIM ĐẬP NHANH theo tây y và cách chữa của KCYĐ.

Tim đập nhanh tây y phân biệt 4 loại : ở xoang, ở nhĩ, ở bộ nối và ở thất.

1-Nhịp tim nhanh xoang (nhanh hơn 90):
Nhịp tim nhanh thông thường ở người dễ cảm xúc, không do nguyên nhân từ bệnh khác, nhịp tim chỉ biến đổi thoáng qua rồi trở lại bình thường thì không phải là bệnh.
Còn bệnh nhịp tim nhanh do những nguyên nhân 
sau đây :

a-Nguyên nhân :
-Do tăng năng tuyến giáp, sốt nhiệt do vi khuẩn, nhiễm trùng,( trừ bệnh sốt thương hàn hay viêm màng não), do thiếu máu, do đường trong máu hạ, do cà phê, trà, do thuốc atropin, thuốc chống trầm cảm.
Thêo đông y, tăng năng tuyến giáp và sốt nhiệt, do bao tử thực nhiệt, ăn không tiêu làm tăng calci-huyết, hay do uống thuốc calci để bổ xương, calci không được hấp thụ và chuyển hóa trở 3 thành dư thừa calci trong máu làm tăng calci-huyết gây ra bệnh tăng năng tuyến giáp không do iode, trong khi đó xương vẫn bị xốp, loãng xương, bệnh thuộc thực chứng.
Cách chữa nguyên nhân do bao tử thực nhiệt, sau khi ăn xuất mồ hôi, tim đập nhanh :
Tả vị nhiệt ở huyệt Lệ Đoài trái 5 phút, tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 200 lần sau khi ăn 30 phút để tăng tính hấp thụ và chuyển hóa, làm hạ nhiệt và áp huyết.
Còn do đường trong máu hạ, dưới 5.5mmol/l, do thiếu máu khi đo áp huyết thấp dưới 105mmHg, thuộc hư chứng do gan không đủ máu đủ đường, thân nhiệt lạnh.
Cách chữa :
Uống thuốc bổ máu cho đến khi áp huyết lên 120mmHg thì nhịp tim tự nhiên giảm, còn thiếu đường trong máu cần ăn chè tăng lượng đường trong máu lên 6.0mmol/l thì nhịp tim được giảm xuống. Tập bài Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực, làm tăng tâm thu, làm hạ tâm trương số thứ hai, tập bài Nạp Khí Trung Tiêu, thở ở huyệt Thần Khuyết để điều chỉnh tĩnh mạch bụng làm ấm gan tỳ điều hòa đường trong máu.

b-Dấu hiệu lâm sàng :
Đo áp huyết, nhịp tim nhanh hơn 90, nếu cao hơn làm rối loạn tâm trương số thứ hai của máy đo áp huyết. Nếu đo điện tâm đồ thấy sóng P và phức hợp QRS bất bình thường hoặc hẹp do nhĩ hoặc trên thất, hay QRS rộng trên thất với bloc nhánh.
Theo đông y, nếu nhịp tim 90 là nhiệt, mà cơ thể nhiệt là thực chứng từ bao tử không tiêu hóa. Còn thân nhiệt lạnh là hư chứng do gan thiếu máu, thiếu đường huyết, dưới 5.5mmol/l.

2-Nhịp tim đập nhanh nhĩ :
Có hai dấu hiệu khác nhau là : Loạn nhịp nhanh và cuồng động tâm nhĩ .

A-Loạn nhịp nhanh (nhịp tim từ 100-140):

a-Nguyên nhân :
Loạn nhịp nhanh là tim đập nhanh cộng với loạn nhịp hoàn toàn do rung nhĩ, thường gặp trong bệnh hẹp lỗ van hai lá, tăng năng tuyến giáp, bệnh cơ tim, và loạn nhịp tự phát ở tuổi già trên 60.
Theo đông y, bệnh thuộc chính kinh tâm do tim thòng, chức năng co bóp trao đổi chất điện giải Na, Kali thiếu do chế độ ăn kiêng hay do chức năng hấp thụ và chuyển hóa của bao tử suy kém.

Cách chữa :
Tăng tính hấp thụ và chuyển hóa ở tâm tỳ, tập thở ở 3 huyệt Thượng, Trung Quản và Kiến Lý. Nếu do bao tử thòng, bấm Trung Quản cùng lúc bấm huyệt Giải Khê chân trái, lâu 15 phút. Áp dụng hằng ngày, sau mỗi bữa ăn 30 phút.

Huyệt Kiến Lý
 Kiến = xây dựng. Lý = làng, ở đây chỉ dạ dầy.huyệt ở dưới trung quản (dạ dầy), có tác dụng làm yên vẫn điều hòa dạ dầy

Chữa van tim hẹp bằng bài tập Đứng Hát Kéo Gối Lên Ngực 100 lần mục đích làm mở rộng van tim, nhưng không muốn làm tăng áp huyết thì sau khi tập xong thở hơi ra bằng miệng đều đều để tránh thở dốc và hơi được thoát ra miệng sẽ làm hạ áp huyết và nhịp tim chậm lại.

b-Dấu hiệu :
Có thể gặp cơn kịch phát loạn nhịp nhanh kéo dài từ 1 đến 24 tiếng đồng hồ và biến mất nhưng trở thành loạn nhịp hoàn toàn và liên tục, đo áp huyết nhịp tim thường từ 100-140, kiểm chứng bằng điện tâm đồ có hình rung nhĩ.

Cách chữa :
Dùng đầu bút bi châm vào đỉnh nhọn đầu mũi, huyệt TốLiêu 1 phút, làm hạ nhịp tim, bấm huyệt Chiên Trung để cơ thể tự nhiên thở bằng bụng trong 30 phút, sẽ không làm rối loạn nhịp.


B-Cuồng động tâm nhĩ :(nhịp tim 100-120/phút)

a-Nguyên nhân :
Tim đập nhanh đều với bloc-nhĩ thất chức năng, thường gặp trong bệnh hẹp lỗ van 2 lá, hoặc bệnh tim to động mạch, nghẽn mạch phổi, cao áp huyết, tăng năng tuyến giáp. Bệnh cuồng động nhĩ là dấu hiệu báo trước của bệnh loạn nhịp hoàn toàn.
Nhịp tâm thu nhanh nhĩ kèm với bloc giống như cuồng động tâm nhĩ, nhịp tim từ 100 đến 120/phút, mạch ở tĩnh mạch cảnh nhanh hơn.

Cách chữa :
·       Ấn đè hai bên hõm vai huyệt Trung Phủ lâu 30 phút làm khai thông mạch phổi thông xuống bao tử, khai thông đàm ứ nghẽn mạch phổi.

·       Châm huyệt Chiên Trung nặn máu và

·       châm nặn máu hai huyệt Thương Dương tĩnh huyệt Đại Trường ở hai ngón tay trỏ, để thông tâm-phế do ứ tắc cholesterol đóng quanh màng bao tim.



3-Nhịp tim nhanh bộ nối : (nhịp tim nhanh 100-150 hoặc 180-200):

a-Nguyên nhân :
Thường gặp trong bệnh Bouveret có bệnh nhịp tim nhanh 180-200 kịch phát đột ngột ở người trẻ tuổi kéo dài vài phút hoặc vài giờ hoặc vài ngày, rồi bệnh chấm dứt đột ngột do ảnh hưởng của một sự kích thích.
Trong bệnh Parkinson, hội chứng Wolff thường là bẩm sinh, do nhồi máu cơ hoành, hội chứng kích thích trước tâm thất do đường nhánh của bó Kent.

Cách chữa :
Châm nặn máu huyệt Tố Liêu và Chiên Trung rồi nằm thở ấn đè huyệt Thần Khuyết ở rốn lâu 30 phút, điều chỉnh ống tĩnh mạch cửa điều hòa lượng máu cho gan tỳ hoạt động đồng bộ, không làm rối loạn nhịp tim.

b-Dấu hiệu :
Điểm khởi phát do một trung tâm nhĩ lạc chỗ (180-200) hoặc ở nút (100-150), sóng P không nằm đúng chỗ, sóng phức hợp bất bình thường, có khả năng suy tim nếu tình trạng kéo dài.
Dấu hiệu kích thích trước tâm thất sẽ có cơn tim đập nhanh kịch phát. Điện tâm đồ PR dưới 0,12 giây, sóng phức hợp QRS bị nhòe ra sóng delta, T. âm

4-Tim đập nhanh thất : (nhịp tim 150-250/phút)

a-Nguyên nhân :
Ổ tâm thất sai vị trí, thường xảy ra do ngoại tâm thu thất, có nguy cơ rung thất. Thường gặp trong bệnh tim nặng như nhồi máu cơ tim, nhối máu vách, phình mạch vành, suy động mạch vành, nặng hơn là bloc nhĩ-thất không tuần hoàn, hoặc do ngộ độc thuốc, đôi khi trong gây mê và thông tim.

Cách chữa :
Châm nặn máu Tố Liêu (đỉnh nhọn đầu mũi), Chiên Trung (giữa ngực cách đều 2 núm vú), Trung Xung (tĩnh huyệt ở hai ngón tay giữa hay thập tuyên, đầu ngón tay giữa).

Nấu nước Sơn Tra (20 miếng Sơn Tra nấu với 1 lít nưóc cạn còn ½ lít, uống từng ngụm dần dần hết trong ngày, để tiêu mỡ, cholesterol quanh tim và làm co mạch vành.

Bấm huyệt Thần Khuyết sâu 3cm nằm tập nghe huyệt Thần Khuyết chuyển động khí huyết cung cấp cho gan tỳ, để điều hòa lượng khí huyết cho tim hoạt động đều.

Nếu do ngộ độc thuốc, giải độc bằng Trà Phan Tả Diệp có bán ở tiệm thuốc tây tên Senna Laxatif, tối uống 5 viên để xổ ra phân mầu đen, mỗi tuần uống 2 tối, cho đến khi ra phân vàng thì gan hết nhiễm độc..

Trà Phan Tả Diệp
b-Dấu hiệu :
Nhịp tim cao 150-250, vã mồ hôi, mặt tái xanh, áp huyết tụt thấp, mạch của tĩnh mạch cảnh ít nhanh hơn nhịp tim. Điện tâm đồ có dạng nối tiếp nhau đều của sóng phức hợp biến dạng rộng, sóng P cách nhau xa hoặc sóng P ngược.

Cách chữa :
Đề phòng nhịp tim nhanh làm vã mồ hôi và làm tụt áp huyết, uống Trà Gừng Mật Ong ngay khi vừa biết có dấu hiệu tim đập nhanh. Cắt gừng thành lát mỏng 5 lát hay băm nhỏ, bỏ vào 1 ly nước, bỏ trong microwave 1 phút, lấy ra cho 2 thìa mật ong khuấy đều uống nóng ấm, uống xong nằm nghỉ ngơi, cuốn lưỡi ngậm miệng nằm thở ở huyệt Thần Khuyết (chính giữa rốn) cầm dương giữ không cho mồ hôi thoát ra làm thoát dương.

 ^^^


Posted on June 2, 2011 by Đỗ Đức Ngọc
KINH NGHIỆM CHỮA BỆNH NAN Y MỖI NGÀY

Những bài viết trong mục này là kinh nghiệm :
·         Khám Bệnh bằng máy đo áp huyết,
·         Định Bệnh theo ngũ hành,
·         và Chữa Bệnh theo Tinh-Khí-Thần, ngay tại chỗ.
Bệnh nhân được hướng dẫn chữa tùy theo bệnh áp dụng Khí hay Thần trước, sau mới đến phần hướng dẫn Tinh để bệnh nhân áp dụng ở nhà.
Hy vọng những bài viết này sẽ giúp ích nhiều cho những thầy thuốc đang thực tập thu được nhiều kết qủa trong lâm sàng.Thân. doducngoc

Bài 40 :

Trong bụng có nhiều bướu mỡ, bướu nước, bướu khí ở ruột bao tử, buồng trứng, tử cung,
đã mổ lấy bướu ra nhiều lần, tái phát gây đau, bác sĩ đề nghị mổ nữa.

Bước vào phòng mạch, một phụ nữ người ngoại quốc khoảng 45 tuổi, tay ôm bụng dưới, mặt nhăn nhó đau, khó thở, đi đứng uể oải chậm chạp. Tôi hỏi bà bị bệnh gì, bệnh nhân khai bệnh như trên.
Đo áp huyết tay phải 129/82mmHg mạch 65, như vậy là áp huyết bình thường, cơ thể hàn do nhịp tim chậm.

Dùng thất tinh châm (dụng cụ massage của Diện Chẩn Bùi Quốc Châu) tôi đặt vào huyệt Trung Quản


, ấn đè từ từ vào huyệt, hướng dẫn bệnh nhân dùng hơi thở ra cho hơi trong bụng thoát ra để bụng xẹp xuống. Mới để thất tinh chân vào huyệt, bệnh nhân kêu đau tức trong bụng. Tôi hướng dẫn bệnh nhân cứ thở ra nhẹ nhàng để bụng thả lỏng sẽ nghe được những bướu vỡ ra và có tiếng sôi bụng do bướu khí, có tiếng nước chảy ra do bướu nước và nghe như có bọt chạy là bướu mở tan dần. Thở ở huyệt Trung Quản 5 phút, bệnh nhân hết đau ở Trung Quản. Sang huyệt Khí Hải, bệnh nhân cảm thấy đau tức bụng gồng cứng lên, tôi dặn khi đau cứ thổi hơi ra miệng từ t, cơ thể thả lỏng thư giãn, làm sao cho điểm ấn đè hạ xuống, cảm thấy bụng mền thì hết đau, bệnh nhân lại tập 5 phút cho đến khi hết đau khi ấn đè sâu xuống 4-5cm, đổi qua huyệt Quang Nguyên ngay trên tử cung, 

Huyệt Quan Nguyên

bệnh nhân tập thở tiếp 5 phút, nghe bọt thoát ra khỏi bướu kêu pịch, pịch, pịch, cùng lúc tôi day tả huyệt Tam Âm Giao 36 lần dưới cổ chân, 
khi ấn đè huyệt Quan Nguyên hết đau, tôi để thất tinh châm đổi sang huyệt Khí Xung giữa háng, là nơi bệnh nhân cảm thấy đau nhất, ấn đè và thở tiếp 5 phút, chuyển sang huyệt Thiên Xu hai bên rốn, mỗi huyệt 5 phút, nghe tiếng nước chảy, khí vỡ nghe pọc, pọc, pọc…
Cuối cùng tôi hướng dẫn bệnh nhân tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng 60 lần, cùng lúc tôi dùng tay ấn đè lại các huyệt vừa chữa, ấn sâu đến 5cm khi bệnh nhân kéo gối vào sát bụng vả thả lỏng cơ bụng mền, mà không đau, giúp thông khí toàn thân.
Sau khi chữa, tôi yêu cầu bệnh nhân tự ấn đè mạnh tìm xem còn điểm đau nào ở khắp bụng hay không, bệnh nhân kiểm soát những đìẻm thường bị đau nhưng tìm không thấy một khối u bướu nào cả, bệnh nhân cười vui vẻ, bước xuống bàn khám, đi đứng nhanh nhẹn, mặt hồng hào.
Bệnh nhân kể rằng tôi đã mổ 4 lần, lần này bác sĩ đề nghị mổ nữa, tôi sợ không muốn mổ,vì kết qủa vẫn như vậy, bác sĩ của tôi đã nói rằng tôi bị fibrom, nên mổ fibrom, và bà hỏi tôi tại sao tôi lại bị fibrom. Tôi cầm bàn tay của bà và bảo bà theo dõi hơi thở trên bụng của tôi, khi tôi thở ra nhẹ nhàng thì bụng mền, nhưng khi tôi thở ra nhưng không cho hơi thoát ra miệng mà nín ép lại để trong bụng căng phình ra, các gân cơ ở bụng săn cứng lại, đó là dấu hiệu căng gân cơ, gây tắc khí, tạo thành bướu gân, nguyên nhân do stress, tạo ra tình trạng thỉnh thoảng nín thở, ngưng không thở, kéo theo rối loạn tim mạch, thần kinh căng thẳng, cộng thêm lo sợ bệnh nặng phải mổ…
Như vậy phương pháp tự chữa là để cơ thể hoàn toàn thư giãn, thả lỏng gân cơ theo dõi hơi thở ra, và khi đau nơi nào, cứ dùng ngón tay ấn đè trực tiếp vào chỗ đau làm giảm đau và làm biến mất cái đau bằng hơi thở ra 5-10 phút, khí huyết không còn bị tắc, sẽ lưu thông dễ dàng làm cái đau biến mất.
Bà trả lời : Tôi đã hiểu. Bà còn thưởng tôi tiền và nói tôi rất mừng khi ông đã cứu tôi khỏi bệnh, không còn bướu nên khỏi phải bị mổ nữa.
Như vậy môn khí công chữa bệnh đã áp dụng câu : Thông thì bất thống, thống thì bất thông. Phải tìm ra nguyên nhân gì làm tắc không thông, thì đó là hơi thở tắc, khí huyết tắc, tạo bướu đàm mỡ, bướu nước, bướu khí do cơ thể hàn làm khí huyết lưu thông chậm, thức ăn không đủ nhiệt chuyển hóa thành chất lỏng mà biến thành đàm.
Nghe bệnh nhân khai bệnh tưởng là quan trọng, khó chữa, nhưng thực ra những bệnh như vậy đối với khí công rất dễ chữa. là nhờ kết qủa khám bệnh bằng máy đo áp huyết, khi ấn đè vào mỗi huyệt vẫn bấm máy theo dõi áp huyết, có những điểm ấn đè, áp huyết trước khi thở, trên một huyệt thì cao, sau khi thở 5 phút áp huyết trên huyệt ấy xuống thấp bình thường, có những điểm trước khi thở, áp huyết thấp, sau khi thở 5 phút áp huyết lên cao bình thường.
Những bài viết về bệnh nan y là những tình huống xảy ra ngay tại phòng mạch, thầy chữa áp dụng phương pháp đối chứng trị liệu lâm sàng, khám tìm dấu hiệu bệnh tại chỗ, theo cách Khám Bệnh, Định Bệnh, bằng Máy Đo Áp Huyết và tìm ra phương pháp Chữa Bệnh có hiệu qủa. Đó là một kinh nghiệm để cho những vị thầy thuốc môn KCYĐ học hỏi kinh nghiệm để biết ứng dụng, không bị những phán đoán sai lầm do bệnh nhân khai bệnh, tránh chữa vào ngọn bệnh mà chỉ cần chữa gốc bệnh điều chỉnh khí huyết, bằng cách nhắc nhở bệnh nhân cách tự tập để chữa như mình đã hướng dẫn trong phòng mạch.
Thân

doducngoc

No comments:

Post a Comment