Thứ Hai, ngày 12 tháng 8 năm 2013
BỆNH HỆ TIÊU HÓA
shared http://taminhdienchan.blogspot.com.au/2013/08/benh-he-tieu-hoa.html
3.1. NUỐT NGHẸN
Nuốt vào khó khăn, thậm chí không nuốt thức ăn thức uống xuống được. Đây là có trở ngại vùng từ cổ họng đến cuối thực quản. Thường gặp do có một đoạn thực quản bị co thắt (do lạnh, do kích xúc thần kinh, do có tổn thương, do thiếu dinh dưỡng cục bộ, có thể do hỗn hợp), cũng có thể do có khối u trong hay ngoài thực quản chèn ép. Cũng có thể do val Tâm vị không mở, nguyên nhân cũng có nhiều. Khi chẩn đoán cần tìm cho ra nguyên nhân cụ thể, kết hợp với nội soi càng tốt. Điều trị: điều chỉnh tổng trạng, trị theo cơ chế, phản chiếu nơi có bệnh (cần dò sinh huyệt dọc từ 312 đến 61 -).
3.2. ĂN VÀO ÓI RA
Thường do hàn tà ở Vị, điều trị: làm ấm dạ dày. Cũng có khi do dạ dày bị viêm loét, thức ăn cọ xát kích thích làm ói, điều trị: theo cơ chế. Cần kết hợp với Tây y. Triệu chứng này cũng thường gặp trong bệnh viêm họng ở trẻ em. Khác nhau ở chỗ viêm họng thì ăn vào là ói ngay không hoàn tất được bữa ăn, còn nếu do Vị hàn thì ăn xong một lúc sau mới ói.
3.3. ĂN KHÔNG TIÊU
Có nhiều cơ chế:
- Do dạ dày không co bóp hay co bóp yếu: thức ăn bị lên men chua nên sẽ có ợ chua, vừa đau vừa tức vùng thượng vị. Điều trị: day dầu Bổ trung, phản chiếu dạ dày.
- Do dạ dày không tiết dịch vị: đau tức và xót xa bào bọt trong dạ dày càng lúc càng tăng; điều trị: dùng bộ Bổ Âm huyết và phản chiếu dạ dày, hoặc uống nước dừa tươi một cách chậm rãi cho đến khi thấy hết xót xa thì ngưng, thường chỉ cần chừng ½ ly lớn. Do dịch vị dạ dày không đủ thành phần: chỉ đau tức mà không xót xa bào bọt; điều trị: dùng bộ Bổ Âm huyết, phản chiếu dạ dày.
- Do Tiểu trường bị lạnh: dạ dày tức nhiều hơn đau, nhịn ăn thì giảm tức, không ợ hoặc ợ hôi. Còn hai trường hợp trên thì dù nhịn ăn vẫn không giảm đau tức có khi còn tăng lên. Điều trị: làm ấm Tiểu trường.
LƯU Ý: nếu dùng các giải pháp nêu trên mà không hiệu quả thì có thể có tổn thương thực thể như viêm loét, u bướu.
3.4. ĐAU BAO TỬ
Có hai dạng chính thường gặp là viêm và loét hoặc viêm lẫn loét. Phương pháp chẩn đoán chính xác nhất là nội soi. Dựa vào lâm sàng, có các bệnh sau:
- Viêm bao tử do lạnh: thường lên cơn đau về đêm khoảng 23g đến 3 giờ, khi đau hay ứa nước miếng (nước giải) lạt hoặc hơi mặn. Hơ xức dầu phản chiếu dạ dày. Cữ ăn uống lạnh.
- Loét dạ dày: đau tăng khi đói, cũng có lúc ăn xong đau hơn có thể gây ói. Cắt cơn đau bằng vaseline hay nước đá. Nên trị theo Tây y công thức của Úc. Cữ chua tuyệt đối đến suốt đời thì mới không tái phát, tuy nhiên, thỉnh thoảng có thể dùng một lần với nồng độ thấp. Hoặc tốt nhất là dùng vitamin C loại tan trong ruột để bổ sung vit. C cho cơ thể có thể bị thiếu do cữ chua. Nhưng theo tôi ở Việt Nam và các xứ nhiệt đới rất dồi dào rau quả nên khó thiếu vitamin C khi ta ăn uống với một chế độ hợp lý: không ăn uống thức gì lâu dài mà nên luôn thay đổi món ăn từng ngày, tránh trùng lắp.
- Viêm dạ dày:
Ø Viêm phù nề: thường do lạnh, đau tăng khi ăn uống thức ướp lạnh hay các thức ăn quá mát, thường có những cơn đau về đêm kèm với hiện tượng ứa nước miếng hơi mặn hay nhạt. Điều trị: làm ấm dạ dày bằng xoa dầu, dán cao hay hơ ngải cứu phản chiếu dạ dày, day dầu tiêu viêm, 290, 7, 347.
Ø Viêm xung huyết: cơn đau không có quy luật. Day vaseline Bổ Âm huyết, Tiêu viêm, lăn gai phản chiếu dạ dày.
- Sa dạ dày: ăn vào thì cảm thấy nặng nề vùng dạ dày và mệt mỏi toàn thân tay chân như không có sức, nằm nghỉ một lúc thì hết, ngồi dậy hoặc đi đứng một lúc thì nặng nề và mệt mỏi lại (khi còn no bụng). Điều trị: lần đầu nên hơ xoa dầu bộ Thăng, phản chiếu dạ dày và vùng trên dạ dày. Các lần sau có thể day cào bằng dầu. Nặng thì có thể hơ xoa dầu tại vùng bụng theo nguyên tắc phóng chiếu. LƯU Ý: có một số bệnh nhân có thói quen uống thật nhiều nước vào sáng sớm, đây là một nguyên nhân thường gặp trong bệnh sa dạ dày. Uống nước nhiều vào sáng sớm mới thức dậy là theo một lý thuyết xuất phát từ Nhật nhằm mục đích dễ đại tiện, tuy nhiên có nhiều hậu quả xấu như to tim, sa giãn phúc mạc khiến sa nội tạng trong đó dạ dày dễ bị nhất, phù không rõ nguyên nhân…
3.5. SôI RUỘT
Tiểu trường giảm chức năng, có thủy ẩm trong ruột, thường đi cầu phân nhão hoặc lỏng lẫn đặc. Điều trị: làm ấm Tiểu trường bằng hơ xoa dầu hay dán cao, 290, 7, 347.
3.6. TIÊU CHẢY
- Do nhiễm trùng: đau bụng trước một thời gian từ 30 phút đến 1 giờ rồi mới bị đi cầu, khi đi cầu hậu môn có cảm giác bị nóng, phân rất hôi thối, lần đi cầu đầu tiên thường chỉ nhão chứ không lỏng. Diễn biến từ nhẹ tới nặng dần. Ấn vùng bụng thấy đau: đau vùng quanh rốn là viêm Tiểu trường, đau vùng hai bên hông là viêm Đại trường. Điều trị: Tiêu viêm, phản chiếu. Nên dùng nước đá áp lạnh, nên kết hợp với bác sĩ để dùng kháng sinh ngay, không nên để lâu có hại cho niêm mạc ruột biến thành rối loạn mạn tính khó trị về sau.
- Do nhiệt tà: đau bụng rồi tiêu chảy ngay một cách đột ngột. Hậu môn nóng, phân lỏng ngay từ lần đi cầu đầu tiên và hôi thối. Đặc điểm là vừa đi cầu vừa đánh rắm, có khi bắn tung tóe như phun vòi sen!! Điều trị: áp lạnh 124, 34, 106, 26, 143, phản chiếu Tiểu và Đại trường.
- Do hàn tà: đau bụng rồi đi cầu đột ngột, phân lỏng chảy như rót nước không đánh rắm, không hôi mà tanh, không nóng hậu môn. Điều trị: hơ xoa dầu sau đó dán cao bộ Thăng.
- Do nhiễm độc thực phẩm: triệu chứng không rõ rệt về mặt hàn hay nhiệt, có thể xuất hiện thêm những triệu chứng của nhiễm độc như chóng mặt, nhức đầu, buồn nôn, nôn. Đặc biệt là không đáp ứng rõ rệt với những liệu pháp điều trị nêu trên. Điều trị: bộ Tiêu viêm giải độc.
3.7. ĐI TIÊU RA MÁU
- Phân đen: tổn thương vùng dạ dày hoặc Tiểu trường.
- Ra máu bầm: tổn thương vùng kết tràng lên hoặc kết tràng ngang.
- Ra máu tươi: có tổn thương ở vùng kết tràng xuống, xuống đến vùng hậu môn. Có thể do viêm cấp, do u nhọt bị vở miệng, do loét, do trĩ.
Phác đồ chung: 26, 61 - +, 38 - +, 156 - +, 16 - +,0 - +. Phản chiếu vùng bị tổn thương.
Cần chẩn đoán hàn hay nhiệt chứng. Dò sinh huyệt, có thể kết hợp ấn vùng bụng tìm nơi đau tức.
- Trĩ, thực chất là một loại u nhọt trong trực tràng. Dân gian thường gọi là trĩ nội vì không thấy, không sờ được, nhưng có một số trường hợp mụn trĩ mọc sát bờ hậu môn nên cũng thấy và sờ được. Nếu là trĩ thì ngọn có thể có nhiệt nhưng gốc luôn là hàn. Do đó ban đầu trị theo hàn chứng, giai đoạn sau trị theo nhiệt chứng. Hàn chứng thì dùng hơ xức dầu hoặc day cào với dầu, nhiệt chứng thì dùng day cào với vaseline (không dùng nước đá, áp lạnh chỉ thích hợp với các bệnh cấp tính, trĩ là bệnh mạn tính). Trong thực tế có thể phức tạp hơn là phải biến đổi hàn – nhiệt như thế mấy lần mới xong. Đừng quên điều chỉnh tổng trạng.
3.8. SA TRỰC TRÀNG (phụ: Sa nội tạng)
Dân gian thường gọi là trĩ ngoại vì thấy và sờ được. Nói chung về các chứng sa nội tạng đều cần Bộ Thăng. Tùy thể trạng mà hơ xức dầu hay chỉ day ấn, luôn cần phản chiếu nội tạng bị sa và hệ thống mạc treo nội tạng đó. Có thể tác động theo hệ phóng chiếu.
3.9. BÓN
Hoặc vài ngày mới đi cầu một lần hoặc là đi cầu khó khăn. Phân có thể khô: bón táo, phân có thể nhão: bón ướt. Phân có thể to bình thường hay phân cũng có thể nhỏ chừng bằng ngón tay út. Các tình trạng phân thường gặp:
- Đầu cứng sau mềm, phân to bình thường: nhu động ruột kém, có thấp thủy nhẹ: day dầu Bổ trung, cào dọc theo phản chiếu khung Đại tràng.
- Cứng từ đầu đến cuối, phân to bình thường: nhu động ruột kém, không có thấp thủy. Điều trị như trên nhưng không dùng dầu mà dùng vaseline.
- Từ mềm tới nhão, hình dáng bình thường: có thủy ẩm. Day dầu Bổ trung, 290 - +, 7 - +, 347 - +, 87.
- Từ mềm tới nhão, phân nhỏ như ngón tay út: có thủy ẩm và phù nề niêm mạc đại tràng. Day dầu hoặc hơ xức dầu Bổ trung, 290 - +, 7 - +, 347 - +, phản chiếu khung Đại tràng.
- Phân nhỏ cứng như phân dê: có co thắt hoặc khối u chèn ép vùng kết tràng ngang hoặc xuống hoặc vùng Sigma. Lâm sàng: đau cố định tại một điểm ở các vùng nêu trên trước khi mót cầu và đi cầu. Cận lâm sàng: phim cản quang hay nội soi. Điều trị: day vaseline Bổ Âm Huyết, phản chiếu nếu do co thắt. Tiêu viêm, phản chiếu nếu do khối u. LƯU Ý: Trường hợp này nếu đau nhiều hoặc có máu và trị không dứt được thì nên nghĩ đến ung thư.
3.10. VIÊM ĐẠI TRÀNG MẠN
Có hai loại với hai triệu chứng khác nhau.
- Loại thứ nhất: tiêu chảy thường xuyên khi ăn uống phải thức ăn mát như rau quả tươi sống hay nấu chín hoặc một số loại thức ăn uống không thích hợp với cơ thể. Điều trị: day dầu và dán Bổ trung, tiêu viêm, phản chiếu khung Đại tràng, Tiểu tràng.
- Loại thứ hai: xen kẽ với những ngày bón không đi cầu là có ít nhất một ngày tiêu chảy. Chẩn đoán hàn nhiệt cục bộ vùng bẹn phải, dưới và bên phải rốn. Day tiêu viêm, vùng huyệt 104 +. Cần chẩn đoán hàn nhiệt để có kỹ thuật tương ứng.
3.11. ĐAU VÙNG BỤNG
Đây là loại triệu chứng thường gặp với hiện tượng đau cả vùng bụng, đôi khi không xác định được nơi đau chính xác cụ thể. Có khi điểm đau chạy lòng vòng, có khi đau lan tỏa cả vùng bụng, có khi lan ra tới lưng hay từ lưng lan ra trước bụng nhưng không gây đi cầu lỏng, nếu có thì chỉ một lần rồi thôi. Đặc điểm của nó là luôn có sốt, có thể cao. Đây là một triệu chứng của một cơ quan nào đó trong vùng bụng bị viêm cấp hoặc bế tắc như tắc mật, sỏi niệu.
Đối với triệu chứng này muốn chẩn đoán tương đối đúng cần ấn vùng bụng tìm điểm trung tâm của vùng đau. Khi tìm được trung tâm điểm đau thì dựa vào cơ thể học mà đoán cơ quan có vấn đề. Có thể kết hợp với những triệu chứng chi tiết kèm theo thì chẩn đoán gần với chính xác hơn. Thí dụ: khi viêm cơ thẳng bụng thì không thể tự ngồi dậy được vì trong khi cố ngồi dậy thì cơn đau tăng dữ dội; khi viêm tụy hay ống mật thì không thể ăn uống gì vì ăn vào là nôn ói ngay……v.v.. Triệu chứng rất phong phú, cần kinh nghiệm nhiều. Điều trị: nên đưa ngay đến bệnh viện gần nhất vì đây thuộc loại cấp cứu, cần nhiều phương tiện kỹ thuật của bệnh viện.
Các bạn cần ghi nhớ: an toàn cho bệnh nhân là trên hết. Cho nên không được giữ bệnh trong những trường hợp thuộc loại cấp cứu.
- Điều quan trọng nhất trong chẩn đoán là phải tìm cho ra bệnh thuộc âm-dương, khí huyết, hàn-nhiệt, hư thực, … trong Bát Cương.
hứ Sáu, ngày 09 tháng 8 năm 2013
CHƯƠNG III: 3. HƯỚNG DẪN VỀ KIÊNG CỮ
Lương y Tạ Minh.
Kiêng cữ thực ra chỉ là tránh né những nguyên nhân gây bệnh do bên ngoài đưa tới như thức ăn uống, khí hậu thời tiết, sinh hoạt hằng ngày. Mỗi một ngày khi thức giấc, cơ thể chúng ta bắt đầu đón nhận những yếu tố mới tác động vào như nắng - mưa - gió - bão - bụi bặm - mùi hôi - khí thải……v.v.. Khi bắt đầu ăn sáng là ta đưa một số chất mới vào. Chua có, cay có, đắng - mặn - ngọt có; cái nào hạp cái nào không hạp với ta?
Điều trị bệnh mà không kiêng cữ thì hiệu quả điều trị rất kém, nếu không muốn nói là sẽ không có kết quả. Chúng ta thấy hiện nay xu hướng của Tây y cũng đã bắt đầu chú ý đến việc khuyên bệnh nhân kiêng cữ trong khi trị bệnh. Trước đây vài mươi năm, hễ hỏi đến kiêng cữ là y như rằng bệnh nhân sẽ bị bác sĩ cự nự cho một hồi. Nào là phải ăn cho đủ dinh dưỡng, nào là đã bệnh mà còn cữ ăn thì làm sao khỏe mà trị bệnh được…vv..!!! Quả thật thì Đông y bắt bệnh nhân cữ ăn hơi nhiều. Có nơi thấy bảng dặn dò kiêng cữ ăn uống của bệnh nhân có đến vài chục món. Có lẽ việc này xảy ra là do bệnh nhân uống thuốc Đông y, luôn có sự tương tác qua lại giữa thuốc và thức ăn. Vì thực chất thuốc Đông y đều có nguồn gốc thực vật hay động vật, là một dạng thức ăn hơi đặc biệt vậy thôi.
Nếu chỉ dùng huyệt để trị bệnh thì chúng ta không sợ những tương tác như đã nói mà chỉ cần kiêng cữ những tác nhân gây bệnh mà thôi. Đó là một trong những ưu điểm của phương pháp trị bệnh không dùng thuốc. Vừa an toàn vừa đơn giản.
Trong quá trình hành nghề và nghiên cứu chọn lọc tôi nhận thấy chỉ cần kiêng cữ theo các nguyên tắc:
1) Điều kiện môi trường không thích hợp: nóng - lạnh, ẩm - khô, trong sạch hay bụi bặm.
2) Điều kiện làm việc: thay đổi công việc hay ít ra cũng cải thiện thói quen trong làm việc đối với các bệnh do nghề nghiệp gây ra.
3) Thức ăn, uống: nếu kiêng cữ như Đông y lâu nay tuân theo ta sẽ có một danh sách rất dài, thậm chí hầu như không còn gì để ăn ngoài mễ cốc (gạo, lúa mì…)!! Bệnh nhân sẽ dễ rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng. Do đó tôi chỉ chú trọng vào những món trực tiếp gây bệnh một cách mạnh mẽ cho cơ thể mà thôi. Gồm các nhóm chính.
· Nhóm gây lạnh cho cơ thể trong những bệnh do lạnh: thức ăn uống ướp lạnh, các món có vị đắng mạnh như khổ qua, rau má, tim sen, rau ngổ, rau đắng…… Các món quá mát như cam, dừa, thanh long, rau đay, bồ ngót……
· Nhóm gây nóng ráo cho cơ thể: các món ăn chiên, các thức có vị cay nồng như tiêu, ớt, tỏi, gừng…… Các món cung cấp năng lượng nhiều như chocolate, cacao, các loại kẹo bánh có dùng đường……
· Nhóm gây co cân - cơ: các chất có vị chua đậm như chanh, cam, thơm (dứa)…… các chất làm lạnh cơ thể.
· Nhóm gây trì trệ: hầu hết các món có chất nhờn đều gây trì trệ ứ đọng cho cơ thể như đậu bắp, rau đay, mồng tơi, khoai mỡ…… và các chất làm hạ nhiệt.
· Nhóm gây viêm: hiện nay tôi chỉ phát hiện ra hai món gây viêm rất mạnh (trên cơ thể vốn bị viêm): thịt gà và các loại mắm như mắm tôm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm thái… (nước mắm thì vô hại, có lẽ vì độ mặn cao và quá trình lên men đã hoàn chỉnh nên không có độc - hay ít độc??).
· Nhóm có chất hóa học phát sinh: tất cả các món trải qua quá trình lên men sinh học (khác với lên men công nghiệp như xì dầu, magie): như chao, tương, bánh mì, rượu, bia…… LƯU Ý: các loại này đôi khi đã nấu chín vẫn không phân hóa được các hóa chất trong nó nên vẫn gây bệnh cho cơ thể khi dùng.
Nói chung khi bệnh có liên quan tới gan (Can) và tụy (Tỳ) thì cần kiêng cữ khá nhiều, nghiêng về hướng chất gây viêm và chất có hóa chất lạ, vì gan và tụy là bộ máy chính trong xử lý hóa chất của cơ thể (Can chủ sơ tiết, mưu lự – Tỳ chủ hóa), dĩ nhiên ở tế bào cũng có những quy trình xử lý hóa chất nhỏ riêng. Với Gan ta còn cần kiêng cữ thêm thịt bò, cá biển độc như cá ngừ, cá chuồn, cá nhám, cá nục… còn các loại cá hiền thì dùng được như cá chim, cá thu, cá bạc má… Với Tụy ta còn cần kiêng cữ thêm các chất gây lạnh.
Còn các loại bệnh chứng liên quan ta cứ theo bảng hướng dẫn nêu trên mà khuyên bệnh nhân kiêng cữ.
Theo triệu chứng ta có:
· Chứng đau nhức: cữ nhóm gây lạnh, gây co cân cơ.
· Chứng viêm (sưng + nóng + đỏ + đau), chấn thương: cữ nhóm gây viêm và nhóm gây co cân cơ, nhóm gây lạnh (nếu bệnh thuộc hàn), nếu là bệnh thuộc nhiệt thì ngược lại cần cữ nhóm gây nóng.
· Chứng ứ trệ, sưng nề (không nóng đỏ): cữ nhóm gây trì trệ, nhóm gây co cân cơ, nhóm gây lạnh (vì lạnh cũng là một nguyên nhân gây trì trệ cho cơ thể).
· Chứng có nhiễm trùng hay viêm do nhiệt: viêm do nhiễm trùng hay do nhiệt đều gây ra triệu chứng đau nhức. Thật ra trong Đông y thì phân chia khá rõ: đau thì do nhiệt, nhức là do hàn, nhưng hầu hết bệnh nhân không thể phân biệt được hai triệu chứng này mà họ thường gộp chung hoặc nói lẫn lộn. Loại này cần cữ các món gây nóng ráo, nhóm gây viêm.
· Các chứng có tính dị ứng, các loại bệnh ngoài da: nhóm có hóa chất phát sinh.
Như vậy ta có một đường lối kiêng cữ khá linh động vì theo gốc bệnh chứ không theo tên bệnh. Đo đó dễ nhớ để dặn dò bệnh nhân.
TP. Hồ Chí Minh, 12 – 6 – 2002.
No comments:
Post a Comment