Xung khắc đôi khi lại rất tốt.
Có hai cha con rất xung khắc nhau, nhưng lại quan tâm nhau rất lạ. Gặp nhau là mắng. Nói chuyện là cãi. Điểm đặc biệt là họ không giận nhau sau khi nói, mà càng thương quý hơn. Mỗi khi cha mắng con, con nhìn cha trìu mến, những lời trách mắng ấy nghe rất hay, vì con cảm nhận được tình thương cha dành cho mình thật lớn, con chỉ nghe thôi mà không phân tích, càng thương cha nhiều hơn, cha tuyệt vời quá lúc nào cũng quan tâm mình. Cũng vậy, hoàn cảnh ngược lại, khi con cãi bướng lại cha, con tức giận nói mãi, con trút hết các u uất của mình cho cha, cha chỉ nhìn con và cảm thấy thương con bé quá, nó không có mẹ bên cạnh, buồn vui không biết nói với ai, nó cũng quan tâm mình thật hết lòng, đứa nhỏ này thật đáng thương. Thế là cha tìm thấy hạnh phúc.
Câu chuyện cha con xung khắc đều xuất phát từ một đời sống thật, rất gần với mỗi người chúng ta, nhưng sao mình cảm thấy khó hiểu nhau đến vậy. Tại sao không thể có được hòa khí trong gia đình ? Tất cả là vì chúng ta không hiểu triết lý ĐẠO NẶNG NHẸ
Khi thi hào Nguyễn Công Trứ còn sinh tiền, ông rất chánh trực ngay thẳng, ghét ác như thù nên không nhiều người thích. Ông có tài nhưng không có đất dùng. Ông đã tự than rằng: "Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo." Với tính khí này đã khiến ông dần xa cuộc sống hiện thực. Trước khi qua đời, những học trò xin ông lời dạy cuối cùng, ông nói: "Việc gì mình thấy vui là vui. Việc gì mình thấy buồn là buồn." Câu nói trí tuệ này là đạo lý nặng nhẹ.
"Một nặng một nhẹ, một nhẹ một nặng, trong lúc nặng nhẹ quy về một tâm. Tự tại biến hóa, qua lại tự nhiên. Nghĩ nhẹ liền nhẹ. Nghĩ nặng liền nặng. Nhẹ cũng là nặng. Nặng cũng là nhẹ. Nhẹ nặng, nặng nhẹ, tâm mình nghĩ suy..."
Thế nên Đức Thiền Sư Kiều Phù có bài kệ rằng:
" Mấy ai thành Phật nhờ đi tu
Khi trí thông minh bị hãm tù
Phải thấy huyền vi trong ngọc sáng
Như thấy vầng dương giữa khói mù."
Huyền vi đây, chính là lẽ đạo, là sự cảm ngộ của mình về bản chất thật của chính mình. Không phải là một nhận xét của ai về mình, cũng không phải là một quy ước nặng nhẹ của thế gian chế định. Phải thấy rõ cái mình cần, không phải cái người khác cần. Như hai cha con xung khắc của câu chuyện, thẩm sâu trong hai người là hoàn toàn hòa thuận. Họ chỉ không biết cách bộc lộ điều đó ra, nhưng họ luôn nhìn thấy "Huyền vi" của nhau, họ đã thể hiện hạnh phúc bằng sự khắc khẩu kỳ lạ.
Hãy luôn nhìn thấy sự nghiêm trọng nguy hiểm của mình.
Đừng nghiêm trọng vấn đề
Đừng nghiêm trọng sở thích
Đừng nghiêm trọng công việc
Đừng nghiêm trọng chính mình
Tất cả đều sẽ trở nên dễ dàng. Tất cả đều là chuyện nhỏ phải không?
Chúc chư hiền tinh tấn. Adidaphat!.
MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Dù đã xem đi xem lại nhiều lần mẫu chuyện này, nhưng vẫn không thể không cảm phục tuyệt đối.
Mẹ không thích con kêu khó..."
Đây là câu chuyện cảm động có thật do một tiến sĩ của ĐH Harvard kể lại. Anh là An Kim Bằng. - Tiến sĩ An Kim Bằng (Jinpeng An), người Trung Quốc, tốt nghiệp toán học tại Đại học Harvard.
Ngày 5/9/1997, là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở Đại học Bắc Kinh, khoa Toán. Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc. Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất...
Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà. Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm. Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác. Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu. Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu. Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa.Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi. Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi:
- Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
- Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học...
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển. Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên.
Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch. Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to...Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc...
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu...".
Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường. Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ, thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa. Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn.
Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo:
"Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa".
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì. Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp. Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
"Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!" Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi. Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống. Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng.
Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng. Tháng 1 năm 1997, tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường. Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
"Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?"
Tôi chả biết nói sao, vội đáp:
"Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng".
Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc. Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi. Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!"
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học Trung Quốc tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ... Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt...
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng. Ngày 12/8, trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
"Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh-Trung" để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi. Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 8 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa. Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo:"Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ".
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh. Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa...Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi".
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn...
(St)
Anh hùng thật sự, mạnh mẽ thật sự, thành công thật sự, chính là chinh phục tuyệt đối những giới hạn của mình. Không gì có thể ngăn cản một ước nguyện chân chính.
Một thế giới hiện thực và một thế giới hư cấu đều lưu xuất từ tâm. Thế giới hư cấu dễ dẫn mình đến tưởng uẩn, càng tưởng càng loạn. Đây là sinh khởi không có điểm dừng khi mình bị cảm xúc cuốn đi. Thế giới này sinh động như thật. Câu chuyện về cuộc đời cũng thế. Một nhân cách tốt sẽ hình thành cảnh giới vui. Sống tích cực sự hứng khởi càng bừng sáng, rực ý chí và niềm tin, sự yêu thương và hiểu biết. Ngược lại, bi quan là hố sâu, mỗi lần nghĩ nhớ, tuột dốc càng nhanh, ảo tưởng khổ đau liền có mặt.
Có người thật xúc động khi xem một tấm gương đẹp tuyệt vời của người mẹ, khao khát vươn lên khỏi hố sâu tủi cực, chinh phục chính mình, chinh phục cuộc sống. Một ý chí đã thành. Chúng ta không chỉ ngưởng mộ hình ảnh đẹp ấy, vì đó là khả năng có thể, mình cũng làm được trọn vẹn như thế. Đức Phật đã từng chinh phục và chiến thắng vận mệnh của mình, Ngài đã bước đến đỉnh cao nhất của nhân loại, như Hùng Sư nhìn về muôn thú, tự tin tuyệt đối, trầm tỉnh tuyệt đối, nắm chắc vận mệnh trong bàn tay, phá vỡ những áp đặt ý tưởng, học lại tiếng nói chân thật của mình.
Người đời thường lấy hữu sản lạc làm sự thành công, tài sản càng nhiều tài năng càng lớn, nhưng từ đó họ cũng mất luôn hào khí, không dám đối mặt sự thật, chỉ thích được vinh danh và ca ngợi về sự giàu sang của mình. Nếu xét kỷ thì tất cả hạnh phúc đều lưu xuất từ sự thỏa mãn của tinh thần, đó là Vô Sản Lạc. Hào khí càng mạnh thì vận mệnh càng tươi sáng. Một thiền sư đã tuyên bố rằng: "Sống chẳng cầu thiên đường. Chết đâu ngán địa ngục." Đó là vì Ngài đã thấu triệt bản chất của cuộc đời, đều từ không mà có, rồi từ có về không, thiên đường là tưởng, thì địa ngục cũng là tưởng. Vậy sao phải tự trói mình với niệm tưởng vô thường, lo sợ ảo giác qua nhanh.
Khi đức Thế Tôn xuất thế, Ngài từng nói hai câu: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn." (Tức là lên thiên đường hay xuống địa ngục chính tâm mình dẫn dắt)
Vậy bao nhiêu sướng khổ, thành bại, được mất có khác gì một giấc mộng xuân, một trò đùa mình là tác giả.
Ngày xưa Tam Tạng Pháp Sư Trần Huyền Trang khi du phương học Phật tại Thiên Trúc, chuyến đi ròng rã 18 năm, ông đã phát một lời thệ: "Không thành công không quay về."
Đại trượng phu ý chí ngút trời
Ngòi rãnh tầm thường há phải nơi
Siêng tu thật học bền ý chí
Rõ suốt mê tâm, ấy chính mình.
Xuôi ngược dặm trường tìm cát bụi
Nào hay rỗng lặng vốn trung trinh
Đến đi, thành bại, cùng được mất
Có khác gì nhau một tức thì.
MỘT TỨC THÌ ấy làm chủ được là sự thành công tuyệt đối. Trong câu chuyện người mẹ đã làm được, bà biết lấy khó khăn tủi cực làm cơ hội, nắm lấy vận mệnh để xoay chuyển vận mệnh. Người con, người học trò tuyệt vời, đã biết lấy đam mê học tập và hoàn cảnh ngặc nghèo, tình thương mẹ vô hạn làm sự phấn đấu đến cùng. Và trong đó, có những sự hi sinh âm thầm của người cha bệnh tật và các em còm cõi, đã bửa đói bửa no, chấp nhận số phận bỏ đi để dành lấy một cơ hội tuyệt đối cho con, cho anh của mình. Bài học lớn này còn là sự góp sức của các bậc thầy cô tận tụy đã tạo nên một học trò thiên tài. Đây là tính chất duyên sinh vô ngã (Cùng thổi gạo nấu cơm, cùng chung hưởng thành tựu. Không có duyên sinh thì không thành tựu, vì duyên sinh nên không có cái tôi ích kỷ, vô ngã. Duyên sinh vô ngã là chủng tử của đạo, một yếu tốt tạo thành vận mệnh hoặc thay đổi vận mệnh).
Đây là tiến trình nhân quả.
Nếu không chấp nhận một hạt lúa bỏ xuống thì sao có cây lúa ra đời. Không có cây lúa ra đời thì sao có mùa gặt bội thu. Tiến trình này là một sự tác động qua lại của đất, nước, lửa, khí, bàn tay chăm sóc, sâu rầy, phân bón, ánh nắng mặt trời, sương gió thời gian,... duyên tốt và duyên xấu đều rất tuyệt vời, cộng sinh ra những bông lúa chín thơm, tạo thành một nồi cơm trắng ngọt. Đây là một quá trình chiêu cảm tuyệt đối.
Cho nên, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng đừng bỏ cuộc. Hãy cho mình một cơ hội, một sự chinh phục tuyệt vời.
Như đứng đầu đỉnh núi
Nhìn đồng xanh mênh mông
Đâu có gì là chấm dứt
Khi cuộc sống đổi thay
Đâu có gì là trở ngại
Khi có thể làm lại từ đầu
Đâu có gì là khó khăn
Khi đó chính là một cơ hội
Phải không chư hiền.
Chúc chư hiền cuối tuần tốt đẹp. Adidaphat !
MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Bông hoa thật
Câu chuyện của người Ả-rập này sẽ chỉ cho bạn thấy được rằng, bằng cách nào mà sự thật vẫn có thể được tìm thấy trong một thế giới của sự gian dối và ảo tưởng.
Khi nữ hoàng của xứ Sheba được vị vua nổi tiếng là Solomon viếng thăm, vị vua mà nữ hoàng thật sự muốn vượt trội hơn ông ta về sự thông thái. Nữ hoàng đã đưa ra cho vua một lời thách đố.
Nữ hoàng dẫn vua đến một khu vực trong cung điện của bà, nơi mà những nghệ nhân kiệt xuất đã bài trí một không gian nhân tạo vô cùng hấp dẫn với đầy những bông hoa giả. Biển hoa sặc sỡ gợn sóng nhẹ nhàng trong làn gió nhẹ và làn gió ấy cũng là làn gió nhân tạo.
Những màu sắc, hương thơm và gió ấy chúng ta không thể nào phân biệt được với những thứ thật.
Nữ hoàng nói:
– Một trong tất cả những bông hoa ở đây là hoa thật, thưa đức vua Solomon. Đức vua có thể giúp tôi tìm ra nó được không?
Đức vua nhìn xung quanh một cách tỉ mỉ. Vua đã dùng tất cả các giác quan của mình và tập trung cao độ, nhưng đã không thể nào lấy ra được bông hoa thật. Ông ta bắt đầu toát mồ hôi đầm đìa và nói với nữ hoàng xứ Sheba rằng:
– Ở đây hơi nóng. Nữ hoàng có thể bảo người hầu cận của mình mở một cánh cửa sổ được không?
Nữ hoàng ra lệnh cho người đi mở cửa sổ.
– Đấy là bông hoa thật.
Chỉ một lát sau, vua Solomon tìm được câu trả lời. Ông ta đã chỉ ra được bông hoa thật, không thể nhầm lẫn. Một con ong đã bay vào cửa sổ và đến đậu ngay trên bông hoa thật duy nhất ấy.
Mặc dù rất khó để có được sự thông thái như vua Solomon, nhưng nội dung câu chuyện này muốn nói lên rằng, để là một con ong còn khó hơn nhiều. Và điều khó khăn nhất ở đây là để làm một bông hoa thật.
Có một câu nói rất hay: "Dù rằng một cánh cũng hoa. Dù rằng một nữa vẫn là trái tim." Câu nói này có cách giải thích riêng, nhưng với tôi, câu nói này rất hợp với câu chuyện trên khi nữ hoàng yêu cầu vua Solomon tìm giúp bà một bông hoa thật duy nhất trong vườn hoa giả như thật. Khi vua mở được cánh cửa để ánh nắng thật rọi vào, không khí tự nhiên thổi vào, con ong tìm mật cũng tìm ra sự ảo diệu của thế giới ngàn hoa, một bông hoa duy nhất đang nở tuyệt đẹp chứa đầy sinh lực. Đây là ảnh tượng của pháp giới nhất chơn. "Dù rằng một cánh cũng hoa", nhưng đó là hoa thật, cũng đủ sức chiêu cảm cả thế giới cộng sinh.
Thế giới chỉ nằm trong một bông hoa. Một bông hoa chứa đủ cả thế giới. Trong thế giới có đất nước lửa khí, một bông hoa cũng có đầy đủ như thế. Thế giới hằng chuyển, bông hoa cũng hằng chuyển.
Để thể nghiệm THIỀN trong cuộc sống, chúng ta đâu cần phải lên núi cao hay vào rừng sâu, cũng đâu cần tréo chân ngồi bất động rồi tưởng tượng đông tây, ngay nơi phiên chợ, nơi giao lộ, nơi công trình, nơi nhà máy, nơi trường học, nơi nhà vệ sinh, v.v... Tất cả những hiện cảnh ấy đều diễn tấu THIỀN rõ nét. Thiền là cuộc sống. Tất cả sự biến động, lưu chuyển của thân và tâm của mình và của mọi người, rất thật, rất gần, là lúc Thiền: học cách sắp xếp cho gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp thân tâm, học cách nhận diện đúng sai, học cách ứng xử nhẹ nhàng với từng trường hợp. Đừng bị cột trói bởi chính công việc mình vẽ ra. Bước vào được thì phải bước ra được. Nâng lên được thì hạ xuống được. Nắm được thì bỏ được. Phải đi vào tất cả công việc để ngộ đạo. Ngộ điều gì? Ngộ ra bản tính thật sự của chúng là do mình vẽ ra, mình chế tác chúng, chúng là hợp duyên cộng sinh, sinh ra từ mình, nên chúng không thể làm chủ mình. Lúc cần buông, mình sẽ buông dễ dàng. Đức Phật gọi đây là NHƯ LÝ TÁC Ý - VÔ SỰ TÙY DUYÊN. Trong đôi mắt người tu, có trăm ngàn việc như không có việc gì, tùy duyên mà làm, hết duyên vô sự. Đời sống thiền là đời sống thật, đời sống Phật, rất con người, không phải vô tâm không cảm xúc, nên gọi là Như lý tác ý - tác ý có trái tim có lý trí, hợp tình người, hợp lẽ phải.
HÃY SỐNG THẬT sẽ hiểu cuộc sống dễ dàng. Đừng chạy trốn hay lãng tránh. Mình tự vẽ ra cuộc sống thì sao lại trốn chạy chúng.
Và những điều sau đây tôi nghĩ là có thể:
Một giọt nước làm đầy chung trà nhỏ
Một đám mây che khắp cả bầu trời
Một chiếc lá gói trọn cả rừng cây
Một bông hoa thật vẫn tốt hơn
một vườn hoa giả.
Chúc chư hiền an vui tinh tấn. Adidaphat !
No comments:
Post a Comment