Thursday, June 18, 2015

"Án Ma Ni Bát Di Xanh":)


Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
Cuối cùng thì bà được một người hành hương tốt bụng truyền cho một câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú gồm có sáu chữ Án Ma Ni Bát Di Hồng.. có thể dùng để giải trừ những nghiệp chướng.
Tội nghiệp cho bà già thôn dã, không biết chữ, nên trên đường về nhà bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng đã nhớ lôn cách phát âm trở thành Án Ma Ni Bát Di Xanh.
Để khích lệ cho việc đọc câu kinh sám hối này bà bày ra hai cái chén, một cái chén không, còn một cái thì để đầy những hạt đậu nành. Mỗi khi đọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt đậu từ trong chén đầy bỏ sang cái chén không, đến khi cái chén không đã chứa đầy đậu thì bà làm ngược trở lại.
Bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt 30 năm.
Lòng thành kính của bà đã ứng hiện cho nên sau này những hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, cứ một câu thần chú vừa được phát ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh.
Bà lão thấy những hạt đậu tự động nhảy nhót, cộng hưởng với âm điệu của câu thần chú thì biết rằng sự tu hành đã đúng đường và giai đoạn sám hối sắp sửa chấm dứt cho nên bà càng phấn khởi tụng niệm hăng say hơn.
Hôm nọ có một vị cao tăng từ Tây Tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh lụp xụp của bà, nhà sư thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ.
Vị cao tăng này lấy làm kinh ngạc, ông nghĩ rằng bên trong chiếc lều tranh thế nào cũng có một vị chân tu đắc đạo. Ông vội vã ghé vào thăm hỏi.
Bà lão lấy làm vui mừng khi thấy vị cao tăng đến thăm, bà quỳ xuống đảnh lễ, mà miệng thì vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh.
Vị cao tăng lấy làm ngạc nhiên vì không hiểu ánh hào quang rực rỡ mà ông thấy phía bên ngoài phát xuất từ nơi đâu ?
Ông lần lần hỏi thăm :
- Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi và ở đây còn có ai khác nữa hay không ?
- Thưa ngài, ở đây chỉ có một mình tôi sống cô độc hơn ba mươi năm nay.
- Thật tội nghiệp, bà ở một mình chắc hẵn rất buồn ?
- Không đâu, tuy chỉ ở một mình nhưng hàng ngày tôi tu hành và tụng kinh sám hối để kiếp sau có thể hưởng được nhiều phúc đức của kiếp này, nhờ vậy mà tôi không cảm thấy buồn khổ. Nhất là từ lúc được một người hảo tâm chỉ cho cách tu luyện thì tôi càng có nhiều can đảm để sống hơn.
- Bà đang tu luyện kinh sách nào vậy ?
- Thưa ngài , tôi không biết chữ, cho nên chỉ tụng niệm duy nhất một câu thần chú Án Ma Ni Bát Di Xanh.
Nhà sư thở dài tiếc nuối :
- Bà lão ơi, bà đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát Âm là Án Ma Ni Bát Di Hồng mới đúng.
Đến lúc này thì bà lão mới biết là đã đọc sai câu thần chú hơn ba mươi năm.
Bà rất đau buồn vì sự nhầm lẫn trọng đại này, như vậy thì công trình 30 năm tụng niệm coi như xe cát biển đông. Tuy nhiên bà cũng cảm ơn sự cải chính của nhà sư.
- Dù sao thì ngài cũng đã đính chính kịp lúc, bằng không thì tôi còn tiếp tục sai mà không biết cho đến bao giờ mới điều chỉnh cho đúng được.
Nhà sư từ giã bà lão để tiếp tục con đường truyền đạo của ông.
Bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm của bà mà lần này với câu thần chú mới Án Ma Ni Bát Di Hồng.
Thế nhưng tâm tư của bà còn hỗn độn vì sự việc vừa rồi cho nên ý chí của bà không được tập trung.
Mỗi câu thần chú của bà đã không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy sang cái chén bên cạnh như lúc trước. Bà lão vừa tụng niệm mà nước mắt cứ tuôn rơi, bà thầm tiếc cho công trình tu luyện hơn ba mươi năm như trôi theo dòng nước vì đã đọc sai câu thần chú.
Nhà sư đi được một đỗi xa, ông ngoái đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. Bây giờ túp lều tranh hiện hình dột nát mà lại âm u buồn bã. Nhà sư giật mình và nghĩ rằng chính ông đã làm hại người Phật tử này không còn tập trung được tư tưởng như lúc trước. Ông vội vã trở lại túp lều tranh và nói với bà lão rằng :
- Lúc nãy ta chỉ đùa với bà thôi, câu thần chú của bà tụng mới thật là đúng.
- Nhưng tại sao sư phụ lại dối gạt tôi như vậy ?
- Ta muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với Tam Bảo như thế nào vậy thôi. Từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là phải phép rồi.
- Xin tạ ơn Đức Phật, vậy mà con cứ tưởng rằng công lao 30 năm tụng niệm đã trôi theo dòng nước, xin đa tạ sư phụ chỉ bày.
Sau khi nhà sư ra đi, bà lão lại tiếp tục công việc tụng niệm, mỗi một câu Án Ma Ni Bát Di Xanh được niệm ra thì tâm hồn bà rộn rã tươi vui và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh.
Nhà sư đi lên đến đỉnh núi, ông ngoái đầu nhìn trở lại thì thấy hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão đã làm sáng rực cả một góc trời. 



Thân Giáo
Thuở xưa có một nhà sư sống ẩn dật tại một triền núi, được mọi người xem là đạo cao đức trọng.
Một hôm nhà sư tiếp một bà lão cùng cậu con trai của bà.
Bà lão thưa:
- Bạch sư thằng bé này mắc phải cái tật là ưa sưu tầm hoa kiểng. Nó đã làm cho tôi tốn hao không biết bao nhiêu là tiền của trong cái thời củi quế gạo châu này... Xin sư làm ơn chữa trị hoặc răn dạy giùm kẻo tội nghiệp cho tôi cùng vợ con nó.
Nhà sư ngẫm nghĩ giây lâu nói:
- Bà hãy dắt nó về khoảng nửa tháng sau trở lại tôi sẽ giúp cho.
Bà lão y lời. Ðến ngày hạn nhà sư chỉ thốt một câu đơn giản:
- Ðó là một thú vui hao tài tốn của con hãy bỏ đi, để tiền mà thờ mẹ nuôi con.
Bà lão bất bình:
- Tưởng thầy có phương cách gì té ra chỉ có bao nhiêu lời đó. Thế sao thầy không làm ơn nói giùm ngay bữa trước mà còn hẹn đến hôm nay? Ðường xá xa xôi biết là bao!
Nhà sư mỉm cười:
- Chẳng giấu gì bà... tôi cũng mắc phải cái tật như cậu nhà đây. Nửa tháng gia hạn là thời gian để tôi bỏ cái cố tật đó. Nay mọi việc đã xong tôi mới dám mở miệng khuyên can cậu em này.
Chàng trai từ đó ăn ở rất vừa lòng mẹ.
Em thân mến!
Trong một quyển kinh A Hàm, Ðức Phật đã giải thích vì sao Ngài được gọi là Như Lai. “Như Lai là làm sao thì nói vậy, lời nói và việc làm đi đôi với nhau nên gọi là Như Lai.” Và chúng ta có thể gọi vị sư này là Như Lai theo nghĩa ấy.
Người xưa có thể chỉ với một câu nói giản dị mà cảm hóa được lòng người là do thân giáo. Còn chúng ta, nói ra rả suốt ngày mà chẳng ai chịu nghe là vì miệng nói một đàng mà hành động một nẻo, chứ không phải tại chúng sanh đời mạt pháp cang cường khó dạy đâu nghe!
(Hư hư lục - Như Thủy).


*** Sợi Chuỗi Của Phật Tổ
--------
Có một ngôi chùa, nhân vì thờ một sợi chuỗi Phật Tổ từng đeo mà nổi tiếng. Nơi thờ phụng sợi chuỗi chỉ có thầy trụ trì và 7 đệ tử biết.
7 người đệ tử đều rất có ngộ tính, thầy trụ trì cảm thấy tương lai đem y bát truyền cho bất kỳ người nào trong bọn họ, đều có thể làm rạng rỡ Phật Pháp. Không ngờ, sợi chuỗi đột nhiên biến mất.
Thầy trụ trì bèn hỏi 7 đệ tử: “Các ngươi ai đã lấy sợi chuỗi, chỉ cần trả về vị trí cũ, ta sẽ không truy cứu, Phật tổ cũng không trách tội.” Các đệ tử đều lắc đầu.
7 ngày trôi qua, sợi chuỗi vẫn không được trả về. Thầy trụ trì lại nói: ”Chỉ cần ai đó thừa nhận, sợi chuỗi sẽ thuộc về người đó.“ Lại trải qua 7 ngày, vẫn không ai thừa nhận.
Thầy trụ trì nói với vẻ mặt rất thất vọng: “Ngày mai các người hãy rời khỏi chùa xuống núi hết đi, vì Sợi chuỗi rất quan trọng nên riêng kẻ đã lấy sợi chuỗi ta cho phép ở lại đây.“
Qua ngày hôm sau, 6 đệ tử thu dọn xong hành lý, thở nhẹ một hơi dài, nhẹ nhàng ra đi. Chỉ có một người ở lại.
Thầy trụ trì hỏi đệ tử ở lại :
– Sợi chuỗi đâu ?
– Con không lấy.
– Vậy tại sao chịu mang lấy tiếng trộm cắp?
– Mấy ngày nay các huynh đệ đều nghi ngờ lẫn nhau, nếu có người đứng ra, mới giải thoát cho chuyện này.
Lại nói:
– Sợi chuỗi tuy mất , Phật vẫn còn đây.
Thầy trụ trì cười, lấy sợi chuỗi từ tay áo mình ra, đeo vào tay người đệ tử.
Đây là câu chuyện làm tôi cảm ngộ rất lâu.
*** Không phải mọi việc đều cần nói rõ ràng, cái quan trọng hơn nói rõ ràng đó là: có thể gánh vác, có thể hành động, có thể hóa giải, có thể sắp xếp, có thể thay đổi, nghĩ về mình, càng phải nghĩ cho người khác, đây chính là Pháp.
Có câu: Người hiểu bạn, không cần phải giải thích, người không hiểu bạn, giải thích cũng vô ích. Đây không chỉ là một loại cảnh giới mà hơn hết là một loại đại trí huệ.

Một quả quýt có thể khiến tên tội phạm giết người quay về thiện lương.

(Ảnh: Getty Image)
(Ảnh: Getty Image)





Chỉ một quả quýt, mà lại khiến cho tên tội phạm giết người đang lẩn trốn này quay trở về với thiện lương. Một câu chuyện có thật ở Trung Quốc.
Một tên tội phạm giết người đã liều mạng bỏ trốn suốt một năm, hắn đi vào một thị trấn nhỏ, lúc này hắn đã toàn thân bẩn thỉu, quần áo rách tả tơi. Tên tội phạm vô cùng đói khát đứng trước một sạp bán trái cây thật lâu mà không muốn rời đi. Trên sạp trái cây có những quả quýt vô cùng hấp dẫn hắn. Nhưng số tiền hắn mang theo đã dùng hết rồi, hắn không biết nên làm sao: Là ăn xin hay lại vẫn là ăn cướp đây? Tên tội phạm cầm mũi đao nhọn vẫn đeo bên mình từ từ hướng về phía sạp trái cây.
Đúng lúc này, một quả quýt vừa to vừa căng tròn bỗng nhiên xuất hiện trước mặt tên tội phạm làm hắn mềm lòng. Tên tội phạm quá bất ngờ với điều này, tay cầm đao không tự chủ được mà buông ra. Hóa ra là người chủ sạp trái cây đã chú ý đến hắn từ rất lâu rồi và suy đoán rằng hắn muốn ăn quýt nhưng không có tiền. Thế là chủ quán cầm lấy một quả quýt và đưa cho hắn, nói: “Anh ăn đi, không cần đưa tiền đâu”. Tên tội phạm do dự một chút rồi nhận lấy quả quýt và há miệng bắt đầu ăn. Sau đó không nói một lời nào mà rời đi.
Ba ngày sau, tên tội phạm lại quay lại sạp trái cây kia. Lần này, không đợi đến hắn ta mở miệng, chủ quán đã cầm mấy quả quýt mà kín đáo đưa cho hắn ta, tên tội phạm muốn nói gì đó nhưng lại thôi. Cũng giống như lần trước, tên tội phạm ăn quả quýt xong liền vội vã rời đi. Buổi tối, lúc chủ quán thu dọn quán để chuẩn bị về nhà, phát hiện một tờ báo không biết của khách hàng nào để quên ở đó, liền mở ra xem và kinh hãi. Hóa ra, một khoảng to trên tờ báo là đăng lệnh truy nã tên tội phạm. Treo giải thưởng ba vạn đồng cho người nào cung cấp manh mối về tên tội phạm đó, mà bức ảnh đăng trên báo giống hệt với người mà lúc nãy chủ quán đã cho quýt. Người chủ quán do dự một lát, bởi vì nếu như báo cảnh sát, thì có lẽ cũng đồng nghĩa với việc tên tội phạm kia sẽ biến mất khỏi thế giới này. Nhưng cuối cùng lý trí cũng thắng sự thương cảm, người chủ quán bấm số điện thoại gọi cho cơ quan công an.
Mấy ngày sau, cảnh sát liên tục mai phục xung quanh sạp trái cây. Ba ngày sau đó, tên tội phạm quả nhiên lại xuất hiện, lần này hắn ăn mặc giống hệt như người trong bức ảnh truy nã trên báo. Có điều, xem ra hắn đã cảm nhận được một cái gì đó, không tiến vào vòng vây của cảnh sát, chỉ đứng ở đó cẩn thận nhìn bốn phía. Người chủ quán cùng với cảnh sát chăm chú quan sát nhất cử nhất động của hắn, hồi hộp dâng trào đến nghẹt thở. Bởi vì trên đường đông người đi qua đi lại, một khi tên tội phạm phát hiện có cảnh sát thì sẽ rất nhanh chóng biến mất trong biển người mênh mông này. Hơn nữa, trên người hắn lại có đao, có khi còn cưỡng ép con tin thì hậu quả không thể lường trước được.
Cuối cùng, tên tội phạm đứng giữa cả đám người và đột nhiên có một hành động ngoài dự đoán của mọi người. Hắn rút đao trên người ra và ném xuống đất rồi giơ hai tay lên thản nhiên đi vào vòng mai phục. Cảnh sát ùa lên, không mất một chút sức lực nào chế ngự tên tội phạm, lập tức muốn đem hắn đến ngục giam. Tên tội phạm đã bị đeo còng tay, đột nhiên nói: “Xin đợi một chút, cho tôi nói với ông chủ sạp trái cây một câu”. Cảnh sát có chút chần chừ, tên tội phạm liền nói “Trên người ta không còn bất kỳ hung khí nào cả”.
Dưới sự áp giải của cảnh sát, tên tội phạm không hề sợ hãi chỉ ấp úng trước mặt người chủ quán mà nói một câu: “Tờ báo kia là do tôi để ở đó”. Sau đó, tên tội phạm mỉm cười mãn nguyện đi lên xe cảnh sát. Người chủ quán vội vàng tìm thấy phần tờ báo kia, bất ngờ phát hiện ở mặt sau thấy ghi mấy dòng chữ nhỏ: “Tôi đã chán ngán cảnh sống lưu vong trốn đông trốn tây rồi, cảm ơn quả quýt của ông, khi tôi còn do dự lựa chọn chấm dứt tính mạng của mình như thế này, chính là tấm lòng lương thiện của ông đã khiến tôi cảm động. Ba vạn tiền coi như là của tôi báo đáp ông, tôi tạo cho mình cơ hội giúp ông mà cảm thấy thoải mái, vui vẻ…”

Mỗi con người đều mang trong mình bản tính lương thiện nhưng không phải là không có những ý nghĩ ác tính. Có rất nhiều ý nguyện lương thiện bị phủ bụi dưới đáy lòng mỗi người mà không được biết đến. Để ngăn cản sự hình thành ý nghĩ ác tính là rất khó, nhưng tìm cho người thiện lương một lý do để phủi sạch những hạt bụi đó đi thì thông thường lại rất đơn giản, chỉ là cho họ sự giúp đỡ đúng lúc họ đang cần, thì cho dù là một quả quýt, một ngụm nước, một ánh mắt… thôi cũng đủ.

Đây là một câu chuyện có thật, nó xảy ra vào ngày 23 tháng 3 năm 2006 tại một thị trấn nhỏ ở phía Bắc của Trung Quốc.
Biên dịch: Mai Trà.

HÀNH TRÌNH GIÁC NGỘ
qua một cái nhìn sáng


LẶNG IM NHƯ HOA CÚC
Nguyễn Duy Nhiên
vuon xoaiThầy Ajahn Brahm có lần chia sẻ khi ông mới đến ở tu viện Wat Pah Pong của ngài Ajahn Chah, ông thường được nghe Ngài Ajahn Chah kể một câu truyện về làm thế nào để hái một trái xoài.
Tu viện Wat Pah Pong là một vườn xoài. Và theo người ta kể thì những cây xoài ở đây được lấy hạt giống từ chính cây xoài được trồng bởi đức Phật. Vườn xoài lúc nào cũng đầy trái thơm chín chỉ chờ người hái. Nhưng theo lời Phật dạy thì chúng ta không nên leo lên cây hái trái. Và ta cũng không cần phải lấy cây sào vói hái, hay là rung lắc cho trái rụng xuống. Chúng ta chỉ cần ngồi yên dưới cây, với hai bàn tay mở rộng, và rồi trái xoài chín sẽ rơi vào trong lòng bàn tay mình. Ajahn Chah nói đó là một lời dạy đầy tuệ giác và tình thương của đức Phật.
Và ngài Ajahn Chah cứ kể đi kể lại câu truyện ấy rất nhiều lần cho các thiền sinh. Thầy Ajahn Brahm nói là ông không thể nào chấp nhận được câu truyện ấy, ông cho rằng lời dạy ấy rất là vô lý và không thực tế. Nếu như ta cứ ngồi yên dưới một cây xoài chín trái, thì có lẽ ta phải chờ rất lâu mới có trái rụng, Có thể những con chim cũng sẽ ăn hết trước ta. Và nếu như có trái chín nào rụng xuống đi chăng nữa, thì dễ gì mà nó sẽ rơi đúng vào trong tay mình.
Nhưng sau một thời gian dài tu tập, thầy Ajahn Brahm chợt nhận ra rằng câu truyện ấy là một ví dụ rất chính xác và sâu sắc về vấn đề giải thoát, giác ngộ. Ông hiểu được rằng bấy lâu nay ông mới chính là kẻ ngu khờ, không hiểu được lời dạy ấy. Trên con đường tu học, ta sẽ không bao giờ đạt được bất cứ một điều gì bằng những sự cố gắng “công phu” hay “rèn luyện” theo một ý đồ nào đó. Ta không thể nào “trèo lên cây” hay “lấy cây sào vói hái” hay “rung lắc cây”, để khiến cho một việc gì đó xảy ra theo ý mình muốn. Nhưng khi ta biết ngồi yên, bỏ hết sự mong cầu, và mở rộng lòng ra tiếp nhận những gì đang xảy ra với một tình thương, thì quả trái giác ngộ sẽ nhẹ nhàng rơi vào trong bàn tay ta.
Trọn vẹn với nơi này
Tôi nghĩ, câu truyện ấy muốn nhắc nhở chúng ta rằng quả trái của tu tập chỉ đến với một tâm không mong cầu. Nếu như ta đừng tìm kiếm và tạo tác thêm, biết có mặt trọn vẹn với những gì đang xảy ra, thì ta sẽ thấy rõ được những gì mình cần làm mà không bị ảnh hưởng bởi một sự mong muốn nào hết.
Vì thật ra những gì đang có mặt, mưa hay nắng, thành công hay thất bại, an vui hay khổ đau… chúng đều cần thiết cho một hành trình chuyển hóa của ta. Nếu như ta thấy rõ được sư thực ấy, và hiểu rằng tất cả đều là những giai đoạn khác nhau cho sự chín tới của hoa trái tuệ giác, thay vì cứ lăng xăng tìm cầu một cái gì khác…
Tại nhà thờ Chartres Cathedral ở Pháp, được xây vào khoảng thế kỷ 12, có một kiến trúc gọi là labyrinth. Labyrinth là một kiến trúc cổ trong huyền thoại Hy Lạp, nó gồm có một con đường vòng vo như một mê đồ. Nhưng trong labyrinth thì chúng ta chỉ đi trên một con đường duy nhất, tuy lối đi vòng vo và quanh co, nhưng cuối cùng con đường ấy sẽ dẫn ta vào đến trung tâm của kiến trúc.
Khi đi, có nhiều lúc ta tưởng như mình sắp sửa vào đến trung tâm, thì con đường ấy lại dẫn ta đi ra tận ngoài bìa, như là mình đã lạc lối. Rồi có khi đang ở bên ngoài, qua một khúc quanh, nó lại dẫn ta vào ngay bên trong. Và cuối cùng thì ta cũng bước vào được ở nơi trung tâm. Con đường ấy tượng trưng cho một hành trình tâm linh, mà bất cứ nơi nào ta đang có mặt cũng là một giai đoạn hoàn hảo và cần thiết. Nó nhắc nhở ta hãy có mặt trọn vẹn và tiếp nhận những gì xảy ra với một tâm rộng mở.
Có thể bao dung được
Trong kinh có ví dụ về một chén nước nhỏ. Nếu trong một chén nước mà người ta thả vào một nắm muối thì nước sẽ trở thành mặn và không uống được. Nhưng nếu có một người đứng trên thuyền mà đổ một bát muối xuống dưới sông, thì nước sông ấy vẫn không hề bị mặn. Nước sông không mặn, không phải tại vì trong ấy không có muối, nhưng tại vì lòng sông quá lớn, nó có thể bao dung được tất cả.
Cũng vậy, khi ta tiếp xúc với những điều bất như ý với một tâm rộng mở, trong sáng, thì chúng sẽ không đủ sức để trở thành nỗi khổ niềm đau cho ta. Ta cũng không cần tránh né hay mong cầu cho nó được khác hơn. Giữa một đại dương bao la sóng gió, có những chiếc tàu chở hàng nặng cả trăm ngàn tấn, nhưng vẫn nhẹ nhàng nổi được trên mặt nước, đó là nhờ ở cái rỗng không trong lòng tàu.
Thật ra thái độ ấy không phải là một sự tiêu cực, mà nó chỉ có nghĩa là ta cho phép ngày nắng được nắng, ngày mưa được mưa, và không bắt sự việc phải xảy ra theo ý riêng của mình. Sóng gió có đó chứ không phải là không có, nhưng như một chiếc thuyền lớn giữa đại dương, ta vẫn có thể an ổn đi tới. Sự rộng mở và có mặt trọn vẹn là một thái độ rất tích cực, nó giúp ta thấy rõ được những gì ta cần làm và có thể làm được, chứ không phải chỉ nỗ lực cho một sự thành đạt nào đó.
Hãy buông xả tự nhiên
Thiền sư Suzuki có lời dạy như vầy cho các thiền sinh của ông, “Đôi khi phương pháp hữu hiệu nhất để điều khiển một việc gì là để cho nó được tự nhiên. Và lúc ấy sự việc sẽ nằm dưới sự kiểm soát của ta, theo một nghĩa rộng. Cũng như muốn kiểm soát một con cừu hay một con bò, bạn hãy thả nó vào một cánh đồng cỏ rộng bao la. Làm ngơ không biết đến là một phương pháp tệ hại nhất, và kế đến là cố gắng điều khiển chúng. Chỉ có phương cách hữu hiệu nhất là thấy biết chúng, ta chỉ cần thấy biết thôi, và không cần phải điều khiển một việc gì hết.”
Và thiền sư Suzuki cũng khuyên chúng ta nên áp dụng thái độ ấy vào việc ngồi thiền của mình. Nếu lần tới trong giờ thiền tập, thay vì cố gắng công phu “làm” một cái gì đó, hoặc “điều khiển” tâm ý theo một phương cách nào đó, bạn hãy thử ngồi yên thư giãn và buông xả. Hãy ngồi trọn vẹn tỉnh thức và cảm nhận rõ hết tất cả, toàn thân như thế nào thì thấy như vậy. Cảm nhận một cách tự nhiên, không cố gắng, không mong cầu gì khác.
Ta cũng không cần tìm kiếm một phương cách nhất định nào, chỉ trở về với sự thấy biết tự nhiên của mình. Ta ngồi với một sơ tâm trong sáng, những gì xảy ra thì xảy ra. Vì thiền tập không phải để ta “quán chiếu” một vấn đề nào, mà là để yên và thấy rõ được sự đến và đi tự nhiên của những gì đang có mặt.
Lặng im như hoa cúc
Hoa Cuc TrangTôi thấy, trong cuộc sống hằng ngày, nếu muốn thành tựu một việc gì đó, thì người ta cảm thấy cần phải toan tính, tìm phương án, lập kế hoạch, để đạt đến những gì mình mong muốn. Và nhiều khi ta đạt được những gì mình muốn, nhưng trong quá trình ấy ta lại đánh mất đi chính mình.
Trên con đường tu học thì như thầy Ajahn Brahm chia sẻ, thật ra ta không cần phải “trèo lên cây” hay “lấy cây sào vói hái” hay “rung lắc cây” cho được trái chín rụng. Ta chỉ cần trở về với sự tĩnh lặng trong sáng sẵn có, buông bỏ những mong cầu của mình, và mở rộng lòng ra tiếp nhận những gì xảy ra với một tình thương. Rồi thì một ngày quả trái giác ngộ sẽ nhẹ nhàng rơi xuống trong tay.
Buổi sớm mai này trên con đường đi đến sở làm tôi thấy một vầng trăng tròn sáng trên cao, tĩnh lặng giữa một bầu trời vắng không, chợt nhớ đến tách trà của thiền sư Basho …
Uống trà sáng
Nhà sư
Lặng im như hoa cúc.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Thế nào là sống an vui?
Có ba vị tín đồ vẻ mặt đầy buồn rầu, đi thỉnh giáo thiền sư Vô Đức làm thế nào để khiến cho mình có được đời sống an vui.
Thiền sư Vô Đức liền hỏi họ cần được những gì mới an vui.
Tín đồ thứ nhất nói: "Thưa, có tiền là có an vui".
Tín đồ thứ hai nói: "Có tình yêu chơn chánh là có an vui".
Tín đồ thứ ba nói: "Có danh dự thì mới có an vui".
Thiền sư mỉm cười lắc đầu khuyên bảo họ: "Các vị có hoài bảo như thế đương nhiên là không được chơn chánh an vui. Sự thật mà nói thì, ngay cả sau khi các vị có tiền, có tình yêu, có danh dự thì phiền não bao vây quấy nhiễu làm mê mờ rồi".
Ba vị tín đồ rất bất ngờ: "Thế thì chúng con phải làm sao?"
Thiền sư Vô Đức: "Biện pháp thì có, trước hết các vị phải thay đổi quan niệm. Vàng bạc cho đi bố thí giúp đỡ người mới có an vui. Tình yêu cần hiến tặng mới có an vui. Danh dự phải dùng để phục vụ mọi người, các vị mới thật sự được an vui".
Ba vị tín đồ đôi mắt rực sáng hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
(St)
Ba vị ấy đã trực ngộ điều gì từ lời dạy thiền sư?
An vui chính là sự thỏa mãn của tinh thần. Khi mình cảm thấy thỏa mãn thì an vui có mặt.
Cảm xúc con người thường hay thay đổi, dù là khi đã đạt được mục đích. Thế nên đức Phật dạy: "Những điều không đạt được mới chính thật là tốt". Như triết thuyết ĐẲNG TAM LUÂN KHÔNG TỊCH: khi làm việc thiện gì, sau khi hoàn tất, phải triệt để quên sạch,
Không thấy việc mình làm
Không thấy người được giúp
Không thấy vật phẩm được hiến tặng.
Tinh thần này chính là VÔ DUYÊN TỪ, tức lòng từ vô lượng nhưng không dính mắc vào nhân duyên vay trả, tức không truy cầu nhân duyên, người làm không dính mắc vào công việc làm, không dính vào đối tượng làm, không dính vào hiện vật làm sau khi đã hoàn tất. Việc không truy cầu này mới chính là an vui, vì mọi gánh nặng đều được đặt xuống, muôn sự mà vô sự là ý này.
Tại sao phiền não thường có mặt trong đời sống? Vì chúng ta thích nhận về hơn là cho đi, mà không biết rằng cho đi chính là phá vỡ tâm thái hạn hẹp của mình.
Càng phức tạp, càng thêm phiền, người đời cố muốn sự hoàn hảo nhưng không biết càng đơn giản thì càng hoàn hảo. Lớp phấn son điểm tô trên khuôn mặt đâu thể hiện được nét đẹp của tâm hồn, khung cảnh tinh xảo thoáng mát đâu thể hiện được sự giàu sang, người nói vanh vách mọi vấn đề của khắp thế gian đâu hẳn là trí thức, tình yêu cũng vậy: đạt được nó không phải là chiếm hữu nó.
Mọi sự trong cuộc đời đều là nước chảy hoa trôi, hoa rơi vô ý, nước chảy vô tình, vậy mà tạo thành cảnh hữu tình. Thế cuộc sống biết cho đi không phải là thiếu thốn, biết hi sinh không phải là ngu ngốc, biết phục vụ không phải là thiệt mình, biết chịu khổ không phải là chấp nhận số phận. Chính những việc này như đá mài ngọc, ngọc càng mài sẽ càng sáng.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Đạo nặng nhẹ
Xung khắc đôi khi lại rất tốt.
Có hai cha con rất xung khắc nhau, nhưng lại quan tâm nhau rất lạ. Gặp nhau là mắng. Nói chuyện là cãi. Điểm đặc biệt là họ không giận nhau sau khi nói, mà càng thương quý hơn. Mỗi khi cha mắng con, con nhìn cha trìu mến, những lời trách mắng ấy nghe rất hay, vì con cảm nhận được tình thương cha dành cho mình thật lớn, con chỉ nghe thôi mà không phân tích, càng thương cha nhiều hơn, cha tuyệt vời quá lúc nào cũng quan tâm mình. Cũng vậy, hoàn cảnh ngược lại, khi con cãi bướng lại cha, con tức giận nói mãi, con trút hết các u uất của mình cho cha, cha chỉ nhìn con và cảm thấy thương con bé quá, nó không có mẹ bên cạnh, buồn vui không biết nói với ai, nó cũng quan tâm mình thật hết lòng, đứa nhỏ này thật đáng thương. Thế là cha tìm thấy hạnh phúc.
Câu chuyện cha con xung khắc đều xuất phát từ một đời sống thật, rất gần với mỗi người chúng ta, nhưng sao mình cảm thấy khó hiểu nhau đến vậy. Tại sao không thể có được hòa khí trong gia đình ? Tất cả là vì chúng ta không hiểu triết lý ĐẠO NẶNG NHẸ
Khi thi hào Nguyễn Công Trứ còn sinh tiền, ông rất chánh trực ngay thẳng, ghét ác như thù nên không nhiều người thích. Ông có tài nhưng không có đất dùng. Ông đã tự than rằng: "Kiếp sau xin chớ làm người. Làm cây thông đứng giữa trời mà reo." Với tính khí này đã khiến ông dần xa cuộc sống hiện thực. Trước khi qua đời, những học trò xin ông lời dạy cuối cùng, ông nói: "Việc gì mình thấy vui là vui. Việc gì mình thấy buồn là buồn." Câu nói trí tuệ này là đạo lý nặng nhẹ.
"Một nặng một nhẹ, một nhẹ một nặng, trong lúc nặng nhẹ quy về một tâm. Tự tại biến hóa, qua lại tự nhiên. Nghĩ nhẹ liền nhẹ. Nghĩ nặng liền nặng. Nhẹ cũng là nặng. Nặng cũng là nhẹ. Nhẹ nặng, nặng nhẹ, tâm mình nghĩ suy..."
Thế nên Đức Thiền Sư Kiều Phù có bài kệ rằng:
" Mấy ai thành Phật nhờ đi tu
Khi trí thông minh bị hãm tù
Phải thấy huyền vi trong ngọc sáng
Như thấy vầng dương giữa khói mù."
Huyền vi đây, chính là lẽ đạo, là sự cảm ngộ của mình về bản chất thật của chính mình. Không phải là một nhận xét của ai về mình, cũng không phải là một quy ước nặng nhẹ của thế gian chế định. Phải thấy rõ cái mình cần, không phải cái người khác cần. Như hai cha con xung khắc của câu chuyện, thẩm sâu trong hai người là hoàn toàn hòa thuận. Họ chỉ không biết cách bộc lộ điều đó ra, nhưng họ luôn nhìn thấy "Huyền vi" của nhau, họ đã thể hiện hạnh phúc bằng sự khắc khẩu kỳ lạ.
Hãy luôn nhìn thấy sự nghiêm trọng nguy hiểm của mình.
Đừng nghiêm trọng vấn đề
Đừng nghiêm trọng sở thích
Đừng nghiêm trọng công việc
Đừng nghiêm trọng chính mình
Tất cả đều sẽ trở nên dễ dàng. Tất cả đều là chuyện nhỏ phải không?
Chúc chư hiền tinh tấn. Adidaphat!.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Dù đã xem đi xem lại nhiều lần mẫu chuyện này, nhưng vẫn không thể không cảm phục tuyệt đối.
Mẹ không thích con kêu khó..."
Đây là câu chuyện cảm động có thật do một tiến sĩ của ĐH Harvard kể lại. Anh là An Kim Bằng. - Tiến sĩ An Kim Bằng (Jinpeng An), người Trung Quốc, tốt nghiệp toán học tại Đại học Harvard.
Ngày 5/9/1997, là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở Đại học Bắc Kinh, khoa Toán. Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc. Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất...
Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà. Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm. Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác. Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu. Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu. Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa.Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi. Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi:
- Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?
Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
- Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học...
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển. Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên.
Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch. Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to...Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc...
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu...".
Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường. Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ, thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa. Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn.
Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo:
"Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa".
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì. Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp. Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
"Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!" Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi. Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống. Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng.
Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng. Tháng 1 năm 1997, tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường. Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
"Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?"
Tôi chả biết nói sao, vội đáp:
"Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng".
Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc. Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi. Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!"
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học Trung Quốc tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ... Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt...
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng. Ngày 12/8, trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
"Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh-Trung" để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi. Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 8 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa. Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo:"Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ".
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh. Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa...Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi".
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn...
(St)
Anh hùng thật sự, mạnh mẽ thật sự, thành công thật sự, chính là chinh phục tuyệt đối những giới hạn của mình. Không gì có thể ngăn cản một ước nguyện chân chính.
Một thế giới hiện thực và một thế giới hư cấu đều lưu xuất từ tâm. Thế giới hư cấu dễ dẫn mình đến tưởng uẩn, càng tưởng càng loạn. Đây là sinh khởi không có điểm dừng khi mình bị cảm xúc cuốn đi. Thế giới này sinh động như thật. Câu chuyện về cuộc đời cũng thế. Một nhân cách tốt sẽ hình thành cảnh giới vui. Sống tích cực sự hứng khởi càng bừng sáng, rực ý chí và niềm tin, sự yêu thương và hiểu biết. Ngược lại, bi quan là hố sâu, mỗi lần nghĩ nhớ, tuột dốc càng nhanh, ảo tưởng khổ đau liền có mặt.
Có người thật xúc động khi xem một tấm gương đẹp tuyệt vời của người mẹ, khao khát vươn lên khỏi hố sâu tủi cực, chinh phục chính mình, chinh phục cuộc sống. Một ý chí đã thành. Chúng ta không chỉ ngưởng mộ hình ảnh đẹp ấy, vì đó là khả năng có thể, mình cũng làm được trọn vẹn như thế. Đức Phật đã từng chinh phục và chiến thắng vận mệnh của mình, Ngài đã bước đến đỉnh cao nhất của nhân loại, như Hùng Sư nhìn về muôn thú, tự tin tuyệt đối, trầm tỉnh tuyệt đối, nắm chắc vận mệnh trong bàn tay, phá vỡ những áp đặt ý tưởng, học lại tiếng nói chân thật của mình.
Người đời thường lấy hữu sản lạc làm sự thành công, tài sản càng nhiều tài năng càng lớn, nhưng từ đó họ cũng mất luôn hào khí, không dám đối mặt sự thật, chỉ thích được vinh danh và ca ngợi về sự giàu sang của mình. Nếu xét kỷ thì tất cả hạnh phúc đều lưu xuất từ sự thỏa mãn của tinh thần, đó là Vô Sản Lạc. Hào khí càng mạnh thì vận mệnh càng tươi sáng. Một thiền sư đã tuyên bố rằng: "Sống chẳng cầu thiên đường. Chết đâu ngán địa ngục." Đó là vì Ngài đã thấu triệt bản chất của cuộc đời, đều từ không mà có, rồi từ có về không, thiên đường là tưởng, thì địa ngục cũng là tưởng. Vậy sao phải tự trói mình với niệm tưởng vô thường, lo sợ ảo giác qua nhanh.
Khi đức Thế Tôn xuất thế, Ngài từng nói hai câu: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn." (Tức là lên thiên đường hay xuống địa ngục chính tâm mình dẫn dắt)
Vậy bao nhiêu sướng khổ, thành bại, được mất có khác gì một giấc mộng xuân, một trò đùa mình là tác giả.
Ngày xưa Tam Tạng Pháp Sư Trần Huyền Trang khi du phương học Phật tại Thiên Trúc, chuyến đi ròng rã 18 năm, ông đã phát một lời thệ: "Không thành công không quay về."
Đại trượng phu ý chí ngút trời
Ngòi rãnh tầm thường há phải nơi
Siêng tu thật học bền ý chí
Rõ suốt mê tâm, ấy chính mình.
Xuôi ngược dặm trường tìm cát bụi
Nào hay rỗng lặng vốn trung trinh
Đến đi, thành bại, cùng được mất
Có khác gì nhau một tức thì.
MỘT TỨC THÌ ấy làm chủ được là sự thành công tuyệt đối. Trong câu chuyện người mẹ đã làm được, bà biết lấy khó khăn tủi cực làm cơ hội, nắm lấy vận mệnh để xoay chuyển vận mệnh. Người con, người học trò tuyệt vời, đã biết lấy đam mê học tập và hoàn cảnh ngặc nghèo, tình thương mẹ vô hạn làm sự phấn đấu đến cùng. Và trong đó, có những sự hi sinh âm thầm của người cha bệnh tật và các em còm cõi, đã bửa đói bửa no, chấp nhận số phận bỏ đi để dành lấy một cơ hội tuyệt đối cho con, cho anh của mình. Bài học lớn này còn là sự góp sức của các bậc thầy cô tận tụy đã tạo nên một học trò thiên tài. Đây là tính chất duyên sinh vô ngã (Cùng thổi gạo nấu cơm, cùng chung hưởng thành tựu. Không có duyên sinh thì không thành tựu, vì duyên sinh nên không có cái tôi ích kỷ, vô ngã. Duyên sinh vô ngã là chủng tử của đạo, một yếu tốt tạo thành vận mệnh hoặc thay đổi vận mệnh).
Đây là tiến trình nhân quả.
Nếu không chấp nhận một hạt lúa bỏ xuống thì sao có cây lúa ra đời. Không có cây lúa ra đời thì sao có mùa gặt bội thu. Tiến trình này là một sự tác động qua lại của đất, nước, lửa, khí, bàn tay chăm sóc, sâu rầy, phân bón, ánh nắng mặt trời, sương gió thời gian,... duyên tốt và duyên xấu đều rất tuyệt vời, cộng sinh ra những bông lúa chín thơm, tạo thành một nồi cơm trắng ngọt. Đây là một quá trình chiêu cảm tuyệt đối.
Cho nên, dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng đừng bỏ cuộc. Hãy cho mình một cơ hội, một sự chinh phục tuyệt vời.
Như đứng đầu đỉnh núi
Nhìn đồng xanh mênh mông
Đâu có gì là chấm dứt
Khi cuộc sống đổi thay
Đâu có gì là trở ngại
Khi có thể làm lại từ đầu
Đâu có gì là khó khăn
Khi đó chính là một cơ hội
Phải không chư hiền.
Chúc chư hiền cuối tuần tốt đẹp. Adidaphat !

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Bông hoa thật
Câu chuyện của người Ả-rập này sẽ chỉ cho bạn thấy được rằng, bằng cách nào mà sự thật vẫn có thể được tìm thấy trong một thế giới của sự gian dối và ảo tưởng.
Khi nữ hoàng của xứ Sheba được vị vua nổi tiếng là Solomon viếng thăm, vị vua mà nữ hoàng thật sự muốn vượt trội hơn ông ta về sự thông thái. Nữ hoàng đã đưa ra cho vua một lời thách đố.
Nữ hoàng dẫn vua đến một khu vực trong cung điện của bà, nơi mà những nghệ nhân kiệt xuất đã bài trí một không gian nhân tạo vô cùng hấp dẫn với đầy những bông hoa giả. Biển hoa sặc sỡ gợn sóng nhẹ nhàng trong làn gió nhẹ và làn gió ấy cũng là làn gió nhân tạo.
Những màu sắc, hương thơm và gió ấy chúng ta không thể nào phân biệt được với những thứ thật.
Nữ hoàng nói:
– Một trong tất cả những bông hoa ở đây là hoa thật, thưa đức vua Solomon. Đức vua có thể giúp tôi tìm ra nó được không?
Đức vua nhìn xung quanh một cách tỉ mỉ. Vua đã dùng tất cả các giác quan của mình và tập trung cao độ, nhưng đã không thể nào lấy ra được bông hoa thật. Ông ta bắt đầu toát mồ hôi đầm đìa và nói với nữ hoàng xứ Sheba rằng:
– Ở đây hơi nóng. Nữ hoàng có thể bảo người hầu cận của mình mở một cánh cửa sổ được không?
Nữ hoàng ra lệnh cho người đi mở cửa sổ.
– Đấy là bông hoa thật.
Chỉ một lát sau, vua Solomon tìm được câu trả lời. Ông ta đã chỉ ra được bông hoa thật, không thể nhầm lẫn. Một con ong đã bay vào cửa sổ và đến đậu ngay trên bông hoa thật duy nhất ấy.
Mặc dù rất khó để có được sự thông thái như vua Solomon, nhưng nội dung câu chuyện này muốn nói lên rằng, để là một con ong còn khó hơn nhiều. Và điều khó khăn nhất ở đây là để làm một bông hoa thật.
(St) Khuyết danh
Nguồn: nassjay.activebb.net
Có một câu nói rất hay: "Dù rằng một cánh cũng hoa. Dù rằng một nữa vẫn là trái tim." Câu nói này có cách giải thích riêng, nhưng với tôi, câu nói này rất hợp với câu chuyện trên khi nữ hoàng yêu cầu vua Solomon tìm giúp bà một bông hoa thật duy nhất trong vườn hoa giả như thật. Khi vua mở được cánh cửa để ánh nắng thật rọi vào, không khí tự nhiên thổi vào, con ong tìm mật cũng tìm ra sự ảo diệu của thế giới ngàn hoa, một bông hoa duy nhất đang nở tuyệt đẹp chứa đầy sinh lực. Đây là ảnh tượng của pháp giới nhất chơn. "Dù rằng một cánh cũng hoa", nhưng đó là hoa thật, cũng đủ sức chiêu cảm cả thế giới cộng sinh.
Thế giới chỉ nằm trong một bông hoa. Một bông hoa chứa đủ cả thế giới. Trong thế giới có đất nước lửa khí, một bông hoa cũng có đầy đủ như thế. Thế giới hằng chuyển, bông hoa cũng hằng chuyển.
Để thể nghiệm THIỀN trong cuộc sống, chúng ta đâu cần phải lên núi cao hay vào rừng sâu, cũng đâu cần tréo chân ngồi bất động rồi tưởng tượng đông tây, ngay nơi phiên chợ, nơi giao lộ, nơi công trình, nơi nhà máy, nơi trường học, nơi nhà vệ sinh, v.v... Tất cả những hiện cảnh ấy đều diễn tấu THIỀN rõ nét. Thiền là cuộc sống. Tất cả sự biến động, lưu chuyển của thân và tâm của mình và của mọi người, rất thật, rất gần, là lúc Thiền: học cách sắp xếp cho gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp thân tâm, học cách nhận diện đúng sai, học cách ứng xử nhẹ nhàng với từng trường hợp. Đừng bị cột trói bởi chính công việc mình vẽ ra. Bước vào được thì phải bước ra được. Nâng lên được thì hạ xuống được. Nắm được thì bỏ được. Phải đi vào tất cả công việc để ngộ đạo. Ngộ điều gì? Ngộ ra bản tính thật sự của chúng là do mình vẽ ra, mình chế tác chúng, chúng là hợp duyên cộng sinh, sinh ra từ mình, nên chúng không thể làm chủ mình. Lúc cần buông, mình sẽ buông dễ dàng. Đức Phật gọi đây là NHƯ LÝ TÁC Ý - VÔ SỰ TÙY DUYÊN. Trong đôi mắt người tu, có trăm ngàn việc như không có việc gì, tùy duyên mà làm, hết duyên vô sự. Đời sống thiền là đời sống thật, đời sống Phật, rất con người, không phải vô tâm không cảm xúc, nên gọi là Như lý tác ý - tác ý có trái tim có lý trí, hợp tình người, hợp lẽ phải.
HÃY SỐNG THẬT sẽ hiểu cuộc sống dễ dàng. Đừng chạy trốn hay lãng tránh. Mình tự vẽ ra cuộc sống thì sao lại trốn chạy chúng.
Và những điều sau đây tôi nghĩ là có thể:
Một giọt nước làm đầy chung trà nhỏ
Một đám mây che khắp cả bầu trời
Một chiếc lá gói trọn cả rừng cây
Một bông hoa thật vẫn tốt hơn
một vườn hoa giả.
Chúc chư hiền an vui tinh tấn. Adidaphat !

Cảm ngộ
Học trò của tôi đã viết về một cảm ngộ của mình rất hay:
"Nếu như tâm là Phật, thì thiền là thầy, thiền là vị thầy soi đường cho chúng ta tìm về Phật."
Câu kết luận của bài viết rất hàm xúc, lóe lên một tia sáng, một nguyện ước sẽ hoàn thành.
Để tiếp thêm năng lượng cho câu nói trên, ta nên đi thêm chút nữa, thoát ra ngoài trạng thái "Tâm là Phật" và "Thiền là thầy", ta sẽ thoát ra luôn cả lý luận tạo thành chúng, thoát ra cái biểu tượng chói lóa này để nhìn chúng bình dị hơn. Đó chỉ là tưởng uẩn, một trạng thái vận hành của tâm, được đặt tên là Phật, là Thiền. Gở bỏ tên này tính chất ấy vẫn không đổi, nhưng cũng không trở thành một sở chấp mới.
Như các dòng sông chảy về biển lớn, thể của chúng là nước, dù mình đặt bao nhiêu tên khác, chúng cũng không thay đổi bản chất này.
Như một con người sanh ra trong cuộc đời, mình đâu biết gì về Phật hay thiền, nhưng ai cũng có đủ tánh biết: biết hạnh phúc sẽ sinh ra hạnh phúc, biết tổn thương sẽ tạo thành tổn thương, biết chân thật sẽ không lo lắng, biết nhân quả sẽ rất công bằng, ... Tính chất lương thiện này vẫn luôn hiện hữu. Gặp người cùng khổ lòng trắc ẩn vẫn quan hoài, xót xa. Tánh biết này là Phật, cảm niệm này là Thiền. Nhưng chúng ta lại không tin tưởng. Tâm niệm hoài nghi đã dẫn chúng ta sống xa rời những điều tốt đẹp này, chúng ta cũng xa rời luôn sự thật. Nên đã học cách nói tránh, che dấu tâm trạng, khỏa lấp những trạng thái xáo động, bất an bằng nhiều công cụ như Phim ảnh, âm nhạc, họa vẽ, thư pháp, tham cứu sách báo, luận giải kinh luân, truy tầm hoan lạc. Đến khi phát hiện ra, dù mình cố bóp méo hay vo tròn, tánh biết vẫn không mất, niệm tưởng tự nhiên vẫn đến đi ảnh hiện trong tâm gương của mình. Những điều đi qua tâm đều được lưu giữ rõ ràng, khởi tưởng liền có mặt. Ta gọi chúng là phiền não, vốn thật sự chúng không làm phiền mình, mà do mình tự nghĩ rồi sanh não loạn. Hiểu rõ được vậy gọi là thiền. Thiền tập càng thuần thì tánh biết càng chân thật không lầm, ta gọi là Phật. Vậy có thiền thì có Phật. "Thiền là vị thầy soi đường để chúng ta tìm về Phật."
Đây chưa phải là điểm dừng. Vì Thiền không thể giải thích, mà phải sống thật trong từng hơi thở.
Chúc chư hiền an vui tinh tấn.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Câu chuyện hôm nay
Chuyện thứ nhất
Trong chuyến hành trình hoằng pháp sáng nay, trên tuyến đường Tp. Hải Dương đi Vinh. Chúng tôi rất ấn tượng cách hành xử của bác tài xế và bác phụ xế. Đặc biệt Bác tài bình dị dễ mến.
Bác tài xế khoảng hơn 40 tuổi, rất nam tính, trầm tỉnh, tình cảm, vui vẻ, và hào hiệp. Bác có 3 con, gái lớn lớp 9, gái nhỏ và bé trai út lớp mẫu giáo. Bác luôn hòa nhã vui tính nhưng rất chuyên nghiệp, không phàn nàn khi gặp khó khăn. Dù bị hành khách hoạch họe phải quay đầu xe liên tục bác vẫn không nói gì, trong khi khách trên xe thì phàn nàn hộ mình. Gặp những hành khách nhiều chuyện nói thao thao chuyện đông tây hiểu biết, ai cũng khó chịu, bác thì mỉm cười.
Buổi sáng của bác chỉ là một ổ bánh mì con, ăn không vậy thôi, uống nước trắng. Rất đơn giản, nhưng mặt bác vẫn tươi tỉnh, mạnh mẽ. Lái xe đúng luật, không vội vã, xe chạy rất êm. Đó là lần ấn tượng đầu tiên của chúng tôi trên chuyến Vinh về Hải Dương của tháng trước. Lần này chuyến thứ hai, đi ngược lại, Hải Dương đến Vinh, cũng Bác tài ấy, phong cách không đổi, áo thun, quần tây bạc màu, mặt rất tươi, trầm tỉnh, dí dỏm, luôn quan tâm đến hành khách, tâm lý khi có bé nhỏ bị ói, bố đi cùng mở cửa sổ cho thoáng, một lúc đóng lại. Bé bảo: "Con muốn mở cửa". Bác cười: "không được cháu ạ, phải đóng cửa, để hơi nóng không vào."
Khi bị công an tuýt còi vì đón trả khách không đúng quy định, bác mất 400 nghìn đóng phạt, âm hết 130 nghìn, bác vẫn cười thôi, vì để hài lòng khách. Mỗi khi xong việc công thì bác điện thoại hỏi thăm con, lo cho con lắm. Hỏi thăm bé út đã đến trường chưa. Một lúc thì hỏi thăm chổ ở cho gái lớn chuẩn bị thi, vì bạn ấy không quen đi xe buýt, hay bị ói. Một lúc hỏi sức khỏe bé út sao rồi. Đến trường chưa. Em nó đang bệnh nên chìu em. Gái lớn nói em muốn uống nước mía. "Thì con lấy 5000 nghìn bố để trên tủ áo mua cho em. Nên đến chơi động viên em." Bác bày cách dỗ em.
Ra tay nghĩa hiệp: Khi thấy hai học sinh đi xe đạp rất cũ kỷ quẹt xe với một cô đi xe đạp điện ngược chiều ngay trước đầu ô tô, cô muốn ăn vạ, không cho các cháu đi học, các cháu có vẻ rất sợ, và xin lỗi, nhưng cô không cho đi. Bác im lặng quan sát. Sau đó, thấy việc không giải quyết được, Bác bóp còi, mở cửa kính, quát: "Địch mẹ! Này, đã đi sai còn ăn vạ hả bà kia, vẫy tay bảo các cháu học sinh đi trước. Cô đi ngược chiều chắc đau lắm, tay đang chảy máu, nhưng không dám nói gì, tiếp tục đạp xe đi. Sư thầy đi trên xe hỏi bác: "Không phải việc mình bác cũng tham gia à?". Bác trả lời: " Bực quá thầy ạ, đi sai còn muốn ăn vạ người khác, thật là..." Có lẽ cô bé ấy cũng như hình ảnh con gái bác, cũng tuổi trung học, rất ngây thơ. Một người cha như vậy thật đáng quý biết bao.
Cảnh giới của bác tài này, rất thiền phải không chư hiền ? Nhớ lời dạy của Ngài Lục Tổ Huệ năng: "Lòng bình đẳng chẳng đợi giữ giới. Lòng thẳng ngay chẳng đợi tu thiền. Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên. Nghĩa huynh đệ dưới trên tương ái..." Tâm bác ấy rất gần với tâm đạo người tu. Với một tâm lượng tốt như thế chắc chắn bác có một đời sống rất phong phú. Một tài xế Phật.
Cám ơn bác đã cho chúng tôi một bài học nhỏ mà triết lý không cùng.
Chuyện thứ hai
Cũng một khung cảnh khác, trong một ngôi chùa, khi kết thúc thời kinh khuya, các già ra quét sân. Thấy các thầy khách Tăng chuẩn bị đi đến một nơi khác hoằng pháp, một nhóm Phật tử mời gọi nhau bê giúp thầy vì đồ khá nặng, những pháp phục dành cho khóa tu mùa hè của các cháu nhỏ. Nghe Bác chúng trưởng kêu gọi, một người lại giúp, còn hai bác khác thì phản ứng: "Không thấy tôi bận quét sân à. Hồi ai quét hộ tôi. Ai xách thì xách, tôi không xách." Bác chúng trưởng tức lắm: "Các bà là nhất rồi, không ai dám nhờ nữa." Chỉ hai bác hậm hực bưng bê. Sau đó các thầy ra xe, chào tạm biệt cả chùa và tiếp tục hành trình mới. Hai bác quét sân ấy cặm cụi quét, có lẽ thấy có lỗi, cũng chào theo "Adidaphat! Xin chào các thầy!"
Thật tội nghiệp những người tu hành với trái tim chưa trưởng thành, dù tuổi đã cao nhưng tình thương thật thấp.
Cũng là một cuộc sống, mà hai tâm trạng, hai cách nhìn, hai cách ứng xử thật khác, đã tạo ra vòng nhân quả như tâm cảnh của mình. Người tâm tốt thì mặt sáng ngời tươi tỉnh, điều gì xảy ra cũng là may mắn của họ. Người tâm nhỏ hẹp, tuy biết tu hành tinh tấn vẫn phải sống trong khổ cảnh trầm luân. Nếu các bác ấy biết mở tâm thêm chút nữa chắc hẳn sẽ rất tuyệt vời.
Vậy thì thế giới tu hành đâu phải là Tăng hay tục, mà là tâm tu chân thật, chân thành của mình.
Tu tập đâu hình tướng
Tâm tu hiện tướng tu
Tướng đẹp tâm không đẹp
Khổ đau mãi theo cùng.
Chúc chư hiền một ngày tinh tấn.
Ba bài thi kệ cho hành giả tu thiền
Kệ điều thân
Dáng ngồi trông tượng đá
Nhìn kỷ sang tợ vua
Tư thế ngồi thong thả
Lưng thẳng hai mông vừa.
Kệ điều tức
Hít hơi vào chầm chậm
Hơi dưới rốn thật sâu
Đưa hơi vòng ra sau
Nhanh hơi lên bách hội
Ngưng hơi ngoài thơ thới
Rồi lại hít hơi vào.
Tác giả: Cố HT. Thích Thông Bửu
Kệ điều tâm
Ngồi yên trong thảnh thơi
Tiếp xúc với mây trời
Buông cái tôi nhỏ bé
Thấy mình hiện muôn nơi.
Tác giả: ĐĐ. Thích Minh Niệm.

Đối diện với mỗi việc lớn cần phải “tĩnh khí””, đây là câu nói mà thầy giáo của hai vị Hoàng đế cuối đời nhà Thanh đã dạy bảo học trò của mình.
Ông cho rằng: Từ xưa đến nay, các bậc thánh nhân, càng gặp phải những việc lớn kinh thiên động địa, việc nguy hiểm thì càng có thể tĩnh tâm như nước, không hề sợ hãi. Từ xưa đến nay, phàm là người làm được việc lớn nhất định phải là người có “tĩnh khí”.
(St)
Tĩnh khí hay trầm tỉnh là cảnh giới cao nhất của tâm vì nó luôn tùy thuận chúng sinh, siêu việt mọi sự suy lường, đứng bên ngoài mọi tranh chấp, tinh thần sáng trong như bạch ngọc, "Tâm bình như thủy" nên "Lạc tại kỳ trung".
Chúc chư hiền ngày mới an vui tinh tấn. Adidaphat.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Mẹ tôi đã ra một câu đố: "Con yêu, phần nào là quan trọng nhất trên cơ thể
hả con?"
Ngày nhỏ, tôi đã nói với mẹ rằng âm thanh là quan trọng đối với con người
nên tai là bộ phận quan trọng nhất. Mẹ lắc đầu: "không phải đâu con. Có rất
nhiều người trên thế giới này không nghe được đâu, con yêu ạ. Con tiếp tục
suy nghĩ về câu đố đó đi nhé, sau này mẹ sẽ hỏi lại con."
Vài năm sau, tôi đã nói với mẹ rằng hình ảnh là quan trọng nhất, vì thế đôi
mắt là bộ phận mà mẹ muốn đố tôi. Mẹ lại nhìn tôi âu yếm nói: "Con đã học
được nhiều điều rồi đấy, nhưng câu trả lời của con chưa đúng bởi vì vẫn còn
nhiều người trên thế gian này chẳng nhìn thấy gì."
Đã bao lần tôi muốn mẹ nói ra đáp án, và vì thế tôi toàn đoán lung tung. Mẹ
chỉ trả lời tôi: "Không đúng. Nhưng con đang tiến bộ rất nhanh, con yêu của
mẹ."
Rồi đến năm 1991, bà nội yêu quý của tôi qua đời. Mọi người đều khóc vì
thương nhớ bà. Một mình tôi đã vừa đạp xe vừa khóc trên suốt chặng
đường 26 km từ thị xã về quê trong đêm mưa rào ngày 4/5 âm lịch của năm
đó. Tôi đạp thật nhanh về bệnh viện huyện để mong được gặp bà lần cuối.
Nhưng tôi đến nơi thì đã muộn mất rồi.
Tôi đã thấy bố tôi gục đầu vào vai mẹ tôi và khóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố
khóc như tôi.
Lúc liệm bà xong, mẹ đến cạnh tôi thì thầm: "Con đã tìm ra câu trả lời
chưa?" Tôi như bị sốc khi thấy mẹ đem chuyện đó ra hỏi tôi lúc này. Tôi chỉ
nghĩ đó là một trò chơi giữa hai mẹ con thôi.
Nhìn vẻ sững sờ trên khuôn mặt tôi, mẹ liền bảo cho tôi đáp án: "Con trai ạ,
phần quan trọng nhất trên cơ thể con chính là cái vai."
Tôi hỏi lại: "Có phải vì nó đỡ cái đầu con không hả mẹ?"
Mẹ lắc đầu: "Không phải thế, bởi vì đó là nơi người thân của con có thể dựa
vào khi họ khóc. Mỗi người đều cần có một cái vai để nương tựa trong cuộc
sống. Mẹ chỉ mong con có nhiều bạn bè và nhận được nhiều tình thương để
mỗi khi con khóc lại có một cái vai cho con có thể ngả đầu vào."
Từ lúc đó, tôi hiểu rằng phần quan trọng nhất của con người không phải
là "phần ích kỷ", mà là phần biết cảm thông với nỗi đau của người khác.
(St)
Câu chuyện trên có lẽ mọi người cũng từng nghe đâu đó hoặc đã xem qua. Nơi đây, chúng ta không nói đến một bờ vai cần thiết. Chúng ta cùng nhận diện lại giá trị chân thật của cuộc sống, điều quan trọng nhất trong cuộc đời mình là những gì?
Sự quan tâm là điều quan trọng nhất. Nó lưu xuất từ lòng chân thành và tình thương đồng loại. "Tự tánh thanh tịnh trụ thực tế", mỗi người tu hành đều nên sống thực tế, không thể ảo tưởng. Mỗi một hành động đều có sự hiểu biết.
Nếu chúng ta chỉ sống vì lợi ích, có lợi ích mới có chân tình thì mình chính là một vật phẩm trao đổi của chính mình mà thôi. Trong đôi mắt của đức Phật nhìn cuộc đời là huyễn ảo, là không thật, là vay mượn, nhưng Ngài luôn sống chân tình, luôn quan tâm thực tế của những người bạn tu của mình.
Với tâm lượng bao dung chúng ta sẽ có đủ chổ cho mọi người. Sống độc lập, mạnh mẽ nhưng không phải sống ích kỷ, bất cần đời. Cuộc đời như tiếng vỗ của đôi bàn tay. "Đông tay thì vỗ nên kêu". Càng nhiều bàn tay thì tiếng vang càng lớn. Hãy làm cho cuộc sống thú vị hơn khi biết quan tâm đến người khác, nhất là người mình yêu thương chân thật. Đừng trở nên khó khăn khi cuộc sống còn nhiều gian khó. Đừng trở nên bi quan khi mọi người đều đang cố gắng khắc phục.
Với một tâm lượng lớn thì điểm quan trọng không chỉ là bờ vai, mà là tất cả: Lời nói, việc làm và mỗi ý niệm đẹp của mình đều là chổ nương tựa quan trọng vô cùng. Tại sao các câu chuyện tấm lòng cao thượng của First News hay Chicken Soup for the soul lại được đón nhận nồng nhiệt của các độc giả trên thế giới ? Vì nó đã tạo được cảm hứng ấm áp rất con người. Càng đọc những câu chuyện về tình người cuộc sống càng trở nên tươi đẹp hơn, ấm áp hơn, bình yên hơn. Vì những phút giây ấy rất thật, rất gần gũi.
Chúc chư hiền an vui tinh tấn. Adidaphat !

PHÁP HỌC ỨNG DỤNG
Người Tây Tạng nghĩ về cái chết
Bảy ngày sau khi chết
a. Ngày thứ nhất
Luận vãng sanh chỉ rõ, bốn ngày sau khi chết thì bắt đầu ngày thứ nhất của thân trung ấm. Thần thức đột nhiên tỉnh giấc, lưu trú trong chân tâm sáng suốt, hiểu được rằng mình đang ở trong giai đoạn thân trung ấm và sắp lưu chuyển trở lại trong cõi Ta-bà. Cảm nhận trong giai đoạn này đều là ánh sáng và hình ảnh, chưa thấy vật chất và sắc thể.
Ngũ uẩn của thần thức một khi bắt đầu hoạt động trở lại, thức uẩn liền lập tức biến thành không gian, là yếu tố chứa đựng tứ đại.
Trong trạng thái lúc này, thần thức sẽ cảm nhận một không gian có sắc xanh, và đó là cảnh giới của Phật Đại Nhật.[38] Phật Đại Nhật được mô tả là đức Phật có hào quang sắc trắng. Ngài có bốn mặt, cùng một lúc nhìn ra bốn hướng. Ngài cầm trên tay bánh xe có tám nhánh, tượng trưng cho không gian và thời gian. Biểu tượng của Phật Đại Nhật là tính chất mênh mông linh hoạt của thức, tượng trưng cho thức uẩn.
Cảnh giới này cũng chứa đựng những yếu tố của cõi trời, thuộc về lục đạo. Không gian có hào quang xanh biếc, không biên giới, không cùng tận. Trong không gian đó, cõi trời của lục đạo tỏa một sắc trắng nhạt như một luồng sáng nhỏ trong đêm. Thần thức thường có khuynh hướng đi về ánh sáng trắng đó, ánh sáng của cõi trời. Cõi trời là một dạng của cõi Ta-bà được nhìn thấy lúc này.
Cảnh tượng này cũng có thể xảy ra trong đời sống hằng ngày. Mỗi một khi ta có niềm hoan hỷ sâu lắng của thiên giới, lúc đó ta cũng có thể cảm thấy dấu vết của cõi Phật Đại Nhật. Thông thường, cảm nhận được cõi Phật Đại Nhật là tiếp cận cái vô cùng, cái không biên giới, cái vô ngã, và vì thế không phải đơn giản và dễ chịu đối với những người thường.
Đi vào cõi trời chính là rời bỏ cõi Phật Đại Nhật, rời bỏ chân như tịch tịnh vắng lặng để đi vào lục đạo. Dù rằng cõi trời, theo như thông thường mà nói, là cõi an lạc nhất của thế giới Ta-bà, nhưng nơi đây vẫn còn chịu mọi trầm luân sanh tử vô thường. Chính do nơi ác nghiệp mà thần thức đột nhiên sợ hãi hào quang rực rỡ chói lòa của cõi Phật Đại Nhật, và muốn trốn chạy ra khỏi cõi Phật này.
b. Ngày thứ hai
Trong ngày thứ hai, thần thức sẽ cảm nhận một hào quang sắc trắng, khi yếu tố nước hiện ra dưới dạng của pháp thân. Kinh chỉ rõ cõi này nằm về phía đông, là cõi của Phật Bất Động. Đức Phật Bất Động ngồi trên voi trắng, tay cầm chày kim cương (Vajra) biểu tượng cho vật thể bất hoại.
Nếu cảnh giới Phật Đại Nhật là do thức uẩn biến hiện, thì cảnh giới Phật Bất Động là do sắc uẩn biến hiện trong thể tánh chân như. Cảnh giới này tràn ngập hào quang màu trắng, và biểu hiện của sắc uẩn trong cõi Ta-bà là địa ngục, phát ra một ánh sáng xám đục. Bị ác nghiệp chiêu cảm, thần thức có thể sanh tâm sợ hãi với hào quang sắc trắng chói lòa, và do đó hướng về ánh sáng xám đục của địa ngục. Cảnh giới Phật Bất Động là cảnh giới của tri kiến vững chắc bất hoại, nên nếu thần thức kiên tâm giữ vững chính kiến thì có khả năng an trú được trong cảnh giới này.
c. Ngày thứ ba
Trong ngày thứ ba, thần thức sẽ cảm thấy một hào quang sắc vàng, biểu hiện yếu tố đất trong thể tánh chân như. Cõi này nằm ở phía nam, là cảnh giới của Phật Bảo Sanh.[39] Phật Bảo Sanh tay cầm báu vật, tượng trưng cho sự sung mãn, tăng trưởng. Cảnh giới này do thọ uẩn biến hiện.
Yếu tố của thế giới Ta-bà trong cảnh giới này là cõi người. Trong hào quang sắc vàng của cảnh giới Phật Bảo Sanh, cõi người xuất hiện dưới dạng của một thứ ánh sáng màu xanh nhạt. Thần thức tái sanh làm người thường sợ hãi hào quang sắc vàng của cõi Phật Bảo Sanh và thấy ánh sáng xanh nhạt của loài người là êm dịu thích hợp với mình.
d. Ngày thứ tư
Qua ngày thứ tư, yếu tố lửa xuất hiện thành một cảnh giới ở phương tây, là cảnh giới của Phật A-di-đà.[40] Phật A-di-đà tay cầm một đóa hoa sen tượng trưng cho lòng từ bi. Dù trong mọi cảnh bùn lầy nhơ nhớp, hoa sen vẫn mọc lên thơm tho trong sạch.
Cảnh giới Phật A-di-đà do tưởng uẩn biến hiện, có hào quang sắc đỏ, tượng trưng cho chánh tri kiến trong từ bi. Thế giới Ta-bà hiện ra trong cảnh giới này bằng cõi ngạ quỷ, phát ra một ánh sáng vàng nhạt trong hào quang sắc đỏ mênh mông của đức Phật.
e. Ngày thứ năm
Qua ngày thứ năm, yếu tố gió xuất hiện thành một cảnh giới ở phương bắc, cảnh giới của Phật Bất Không Thành Tựu,[41] tay cầm chày kim cương, ngồi trên chim thần Ca-lâu-la.[42]
Cảnh giới này do hành uẩn biến hiện, tràn ngập hào quang màu xanh lục. Thế giới Ta-bà xuất hiện trong cõi này bằng cõi a-tu-la, phát ra một ánh sáng màu đỏ nhạt. Hãy nhớ rằng giác ngộ là Niết-bàn, mê lầm là thế gian. Ở đây Niết-bàn là cõi Phật Bất Không Thành Tựu, và thế gian là cõi a-tu-la.
f. Ngày thứ sáu
Đến ngày thứ sáu một cảnh tượng mới mẻ xuất hiện: bốn mươi hai vị thiện thần, bốn vị thiên tướng, năm vị Phật và sáu cõi của thế giới Ta-bà cùng lúc hiện ra. Thần thức choáng váng sợ hãi, toàn thể vũ trụ như choáng ngợp, đầy hình ảnh.
Các vị thiên tướng lần đầu xuất hiện, bốn vị ở bốn cửa thành, thần thức có cảm giác như bị vây phủ bốn phía. Nghiệp báo làm thần thức thêm sợ hãi, đây là lúc thần thức thấy cõi lục đạo có vẻ như an toàn và thu hút mình. Tất cả cảnh tượng này đều do tâm thức biến hiện, tùy thuộc vào những xúc cảm, sự thèm khát của chính tâm thức.
g. Ngày thứ bảy
Tất cả cảnh tượng của những ngày qua xuất phát từ trong thần thức, biến hiện thành thiện thần. Qua ngày thứ bảy những biến hiện bắt đầu có tính vô ký, nghĩa là không thiện không ác. Đây là cảnh giới của Phật Minh Trì,[43] chủ về trí huệ, hay chánh kiến. Trong cảnh giới này, thế giới Ta-bà xuất hiện bằng cõi súc sanh, biểu hiện của sự vô minh, thiếu ý thức.
(St) Mật Tông Tây Tạng
Từ những lý giải trên ta có thể nhận diện một vấn đề cốt lõi: Phật giới và chúng sanh giới đều nằm trong Ngũ uẩn: SẮC - THỌ - TƯỞNG - HÀNH - THỨC. Ta bà hay Tịnh độ chỉ một khởi niệm mà thành. Chướng hay thuận, phàm hay thánh đều từ một niệm tưởng tạo thành. Như trong không gian đã đầy đủ tất cả những thể tính, khi đủ duyên hợp lại là thành. Hết duyên thì tự phân tán.
Cho nên, người tu phải thẩm nghiệm liên tục yếu tố hằng chuyển này, từ sinh đến tử, từ tử đến sinh, bước ra họa cảnh do chính mình vẽ. Đó là chân trời tự do. Tùy ý tiêu dao.


Cô độc là một điều cần thiết
Tập sống không nương tựa là một bài học lớn. Bài học này cần một sức mạnh tinh thần, không dựa dẫm vào một ai khác ngoài mình. Như cây mượn chút hơi ẩm nẩy mầm vươn cao trước ánh mặt trời, tự nó quyết định cuộc đời của nó. Đôi lúc may mắn được người chăm bón. Đôi lúc nghịch duyên bị gió bão lung lay, côn trùng gậm nhấm. Nhưng nó vẫn tìm mọi cách để tồn tại, mạnh mẽ mỗi ngày vươn thẳng lên trời cao, mặc cho cuộc sống thịnh suy, dù cao dù thấp vẫn là chính nó.
Có một người cha trí tuệ, ông biết mình không còn nhiều thời gian nữa. Trên giường bệnh ông bảo các con: "Nay ta sắp xa các con rồi. Thương lắm những đứa con hiếu thảo của ta. Tổ tiên chúng ta có cất một kho tàng châu báu đủ cho các con sống cả đời, chúng được ghi lại trong kho sách vô giá này của ta, không biết là ở quyển nào, các con hãy giúp ta tìm lại nó nhé. Ta ra đi cũng an tâm." Các con đều vâng lời. Người cha đã ra đi mãn nguyện.
Sau bao nhiêu năm tháng đọc hết kho sách, đọc đi đọc lại từng quyển một, các người con không tìm thấy bất kỳ dấu vết gì của kho báu. Nhưng bù lại, những triết lý sống cao siêu đã đi thẳng vào lòng, mỗi ngày tri thức về cuộc sống cứ lớn thêm lên. Tuy không tìm thấy kho báu vật chất, nhưng họ đã tìm được kho báu của tinh thần. Tia sáng tri thức làm họ bừng tỉnh: " Điều trân quý nhất trong cuộc đời là sự thỏa mãn của tinh thần. Tính chất thỏa mãn này là đạo." Các người con đều vui mừng hiểu được ý cha.
Cũng vậy, muốn tìm thấy cảnh giới của đạo, nhưng chúng ta không bao giờ thỏa mãn, chỉ luôn truy tìm cái không tưởng, cái không tồn tại, thì chỉ mãi là bất mãn thôi. Đó là tâm ma, là nghiệp chướng.
Và chỉ có mình tìm thấy con đường thuộc về mình.
Sống cô độc không phải là tách mình riêng biệt, cô độc nhưng không cô đơn. Là tìm thấy sự tồn tại khác biệt trong muôn người. Trực nhận ra giá trị cao tuyệt của mình. Chịu trách nhiệm trước cuộc đời mình.
Có một người bạn của tôi, cô rất đau khổ vì chị gái của mình. Người chị ấy chỉ biết nương tựa vào em gái mình thôi. Dù sống tại Mỹ, một đất nước giàu có văn minh, nhưng mỗi người đều phải tự nỗ lực để kiếm sống, rất vất vã để lo cho gia đình, gia đình tại Mỹ và gia đình tại quê hương. Người chị thì không hề quan tâm đến em mình sống như thế nào, chỉ biết sống dựa nương, sa ngả, phóng túng. Đến một ngày, nợ nần chồng chất, không trả nổi, chị lại nhờ em. Khoản tiền ấy rất lớn, vượt quá khả năng của em. Em không thể giúp. Chị đòi tự tử. Chị và em đều đau khổ.
Điều gì đã dẫn đến hoàn cảnh tồi tệ như thế ? Tại trời hay tại đất? Là nghiệp chướng của quá khứ ư?
Hay tại chính mình. Mình quá tham lam và quá ích kỷ mà thôi.
Nhìn về đúng sai là vậy, nhưng có một cách để giải quyết tốt hơn. Hãy làm lại từ đầu. Dù sự nghiệp tan vỡ, trắng tay, nhưng phải còn chí khí, chí khí của một con người. Đó là tâm đạo. Chúng ta tạo ra nghiệp thì chúng ta phải tìm cách hóa giải nó. Hóa giải theo cách riêng, từng chút một. Khi còn một hơn thở chúng ta vẫn còn có cơ hội. Bi quan hay lạc quan chỉ là một trò đùa. Khổ vui cũng vậy, một chớp mắt. Nên tự đứng lên là tốt nhất.
"Nợ một giọt nước ân tình, thì nên biết trả lại một dòng sông tương báo." Lý tưởng kiểu mẫu Phật.
Đến bao giờ tìm thấy được nguyên nhân của đau khổ, thì mới chấm dứt được đau khổ. Lời Phật dạy
Thế nên, trong tám điều giác ngộ của bậc đại nhơn, đức Phật khuyên rằng: "Đa dục vi khổ. Sanh tử bì lao. Tùng tham dục khởi. Thiểu dục vô vi. Thân tâm tự tại." Đa dục nơi đây, chính là truy cầu thái quá, không biết tự điều phục, không làm chủ được mình, là nguyên nhân của đau khổ. Thiểu dục, ngược lại, chính là biết vừa đủ, tùy thuận cuộc sống, ở hoàn cảnh nào tâm cũng tìm thấy an vui. Như câu nói của tổ Ấn Quang:
" Cơm rau đỡ dạ đói
Nhà cỏ che gió sương
Người đời nếu biết đủ
Phiền não chẳng còn vương."
Lời kết, "Mỗi hành giả nên tìm một con đường thuộc về mình. Phải đứng trên đôi chân của mình. Nói bằng tiếng nói của mình. Suy nghĩ bằng suy nghĩ của mình. Mạnh mẽ đối diện với nghiệp duyên của mình, chinh phục nó, phá vỡ nó.
Mời chư hiền cùng suy ngẫm câu thiền ngữ:
" Lòng bình đẳng chẳng đợi giữ giới
Lòng thẳng ngay chẳng đợi tu thiền
Ân song thân hiếu dưỡng cần chuyên
Nghĩa huynh đệ dưới trên tương ái
Nhượng hòa mục tôn ti đối đãi
Nhẫn muôn điều ác nghiệp tất tan."
Huệ Năng Tổ Sư.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Một đệ tử nhiệt tâm tỏ bày ý muốn đi truyền bá Chân Lý cho người khác và hỏi nhà hiền triết nghĩ thế nào? Nhà hiền triết đáp: "Con hãy đợi."
Hằng năm, đệ tử cứ thỉnh nguyện lại như thế và lần nào, Nhà hiền triết cũng trả lời như nhau: "Con hãy đợi."
Ngày kia, đệ tử thưa với nhà hiền triết: "Chừng nào con mới sẵn sàng thuyết giảng?"
Nhà hiền triết đáp: "Khi nào con quên đi sự hăng say thái quá đối với việc thuyết giảng”
(St)
Đệ tử hỏi: "Chừng nào con mới sẳn sàng thuyết giảng?" - Thầy dạy: "Khi nào con quên đi sự hăng say thái quá đối với việc thuyết giảng" chính là lúc tốt nhất để lên đường. Câu nói của nhà hiền triết nên hiểu thế nào? Hăng say với điều mình yêu thích sao lại không tốt?
Ngày trước tôi cũng có một người huynh đệ rất thích thuyết giảng. Nếu trong một ngày không được chia sẻ những kiến giải với mọi người thì đầu huynh ấy như muốn nổ tung ra. Điều này như là một cơn nghiện, nghiện được nói.
Để trao truyền một bài học giá trị không thể chỉ bằng một cảm hứng, mà bằng tất cả sự trải nghiệm chân thật của người nói.
Khi mình không thể thấu suốt bản chất của sự việc, không thể làm chủ được lời nói và cảm xúc của mình thì việc hướng dẫn cho người nghe là điều rất nguy hiểm. Đôi lúc chân lý của mình sẽ trở thành độc dược.
Mỗi một việc muốn trọn vẹn phải xuyên qua cái nhìn bình đẳng. Những gì mình cho là tuyệt vời chưa hẳn người khác sẽ thích. Đôi khi im lặng tự biết mới là tốt nhất.
Tâm hăng hái truyền bá chân lý rất hay, nhưng còn phải chờ đúng cơ duyên. Một việc tốt cũng vậy, nếu làm không đúng chổ sẽ trở nên vô nghĩa.
"Chỉ một suy niệm
Đi suốt ngàn năm
Hoằng pháp lợi sanh
Đầu môi chót lưỡi."
Thận trọng !
Cảm ngộ
Trong muôn vàn cái khó. Cái khó nhất là khó chịu.
Khi đã khó chịu rồi thì cái khó càng thêm khó. Ấy vậy mà mấy ai thức tỉnh. Chúng ta cứ lao vào rắc rối để tìm thêm rắc rối.
Cũng như bi quan, càng hướng về nó tâm càng buồn lo mệt mỏi, đã biết vậy thì nên chấm dứt ngay. Sao phải rã rượi đau khổ muốn chết. Thật là vô lý đúng không. Cũng chính là một thói quen vô lý của mình.
Thế nên Đức Phật hay gọi cuộc đời là lửa dữ "Tam giới bất an du như hỏa trạch." Lửa này là do chính mình đốt mình, không phải ai khác. Muốn chấp dứt nó, cũng phải tự mình chấm dứt.
Tâm tưởng sự thành là vậy.
" Hơn thua chỉ với chính mình.
Hôm nay mình phải hơn mình hôm qua." (Khuyết danh)
Đạo Pháp không dạy mình phải cố gắng chiến thắng ai mà là, chiến thắng chính mình, làm cho mình khá hơn, tiến bộ hơn, không dừng lại giữa đường. Hãy nhìn thấy mình là một phàm phu tục tử có hai tính chất: Phàm và Bất phàm. Chúng ta sẽ dễ sống hơn. Đừng bao giờ dùng ĐẠO ĐỨC để đả kích nhau, làm khổ cho nhau. Đạo đức không phải là một khuông mẫu hay là hình chụp để mình bêu xấu, tổn thương người khác, thể hiện tính nhỏ hẹp ra ngoài. Đạo đức là một tâm lượng tuyệt vời, mang chân tình làm đẹp cuộc sống, rất ấm áp như vòng tay của mẹ, rất nghĩa tình của tri kỷ tri âm.
Đến khi nhận diện ra hạnh phúc của người cũng chính là hạnh phúc của mình. Cái khó tính ấy đã không còn chổ gởi. Nó đã tan biến vào tâm lượng lớn bao la.
Đừng tự tách mình ra khỏi cuộc sống này. Cũng giống như nước không thể rời khỏi đại dương. Bản tính của đại dương là nước. Bản tính của nước là đại dương. Nên mình và cuộc sống đâu có khác. Mình chính là cuộc sống. Cuộc sống chính là mình. Sao mình không thể làm tốt cuộc sống mà lại làm cho nó xấu đi ?
" Anh nếu biết, cuộc đời là thế ấy
Còn gì đâu vướng bận ở lòng anh
...dòng đời cứ trôi, trôi qua mãi
Năm tháng mang đi một kiếp người
...hồ thu nước trong vắt
Vầng trăng hiện sáng ngời
Trẻ thơ đua nhau vớt
Vớt mấy vẫn tay không
..."
Thơ : Đức Hòa Thượng Thanh Từ
Mời chư hiền cùng suy ngẫm thêm. Adidaphat !

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Nếu có một ngày bạn thất bại...
Một người phụ nữ kể, cô ấy luôn luôn đọc những mẩu chuyện về thất bại. Không phải để soi mói lỗi lầm của người viết mà để nhìn lại bản thân. Cô ấy là người phụ nữ trung niên, nhưng cô cũng giống như người khác, cũng vấp phải thất bại, và cô đọc để xem người khác đối diện với nó như thế nào, để tiếp tục đứng lên.
Thất bại thật sự không dễ thở chút nào. Nhất là trong kinh doanh hay tình cảm. Thất bại trong kinh doanh làm mất một số tiền lớn, đẩy cuộc sống tới bế tắc. Thất bại trong tình cảm khiến con người như vô hồn, mất tinh thần, lãnh đạm, thờ ơ...
Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln thuở nhỏ không có điều kiện đi học. Năm 1816, gia đình ông bị đuổi khỏi căn nhà đang ở, ông phải đi làm thuê. 1818, mẹ ông qua đời. 13 năm sau, ông kinh doanh nhưng thất bại. 1 năm sau đó ông tranh cử vào cơ quan lập pháp nhưng thua. Tiếp theo ông mất việc. Ông đã từng mượn tiền để làm ăn kinh doanh nhưng phá sản. Ông tranh cử cho vị trí phát ngôn viên, ứng cử viên quốc hội liên bang, chạy đua vào quốc hội, xin làm cán bộ sở đất, chạy đua vào thượng viện...tất cả đều THUA.
Ông thua 8 lần bầu cử, 2 lần kinh doanh, ông từng đính hôn với 1 người con gái, nhưng cô ấy mất và trái tim ông vỡ vụn...
Nhà bác học Thomas Edison thất bại từ 10.000 đến 14.000 lần để tạo ra được chiếc bóng đèn điện. Có người hỏi liệu ông có mệt mỏi và chán nản không khi thất bại nhiều lần như vậy. Ông cười: Không, tôi tìm ra cách làm khác từ những thất bại như vậy. Và ông cứ làm, cứ làm...
Abraham Lincoln và Thomas Edison luôn thất bại nhưng chưa bao giờ bỏ cuộc, còn bạn thì sao ?
Ta nhớ lại bài học về Nhút Nhát và Liều Lĩnh. Nhút Nhát và Liều Lĩnh là 2 người bạn thân. Nhút nhát học rất giỏi, nhưng không có bạn. Cậu thích chơi đùa, nhưng không dám chơi bất kỳ trò chơi nào của tập thể. Nhút Nhát thích vẽ, nhưng lại từ bỏ bởi sợ thất bại. Cậu ấy vào đại học Y, sống một cuộc sống sinh viên nhàm chán và khi không chịu nổi, cậu ta tìm đến Liều Lĩnh. Nhút Nhát hỏi:
- Tại sao cậu có nhiều bạn thế?
- Vì tớ chủ động kết bạn với mọi người - Liều Lĩnh trả lời
- Nhưng cậu sẽ gặp những người bạn xấu ?
- Nhưng nhờ những người bạn xấu mà tớ mới biết quý những người bạn tốt thật sự.
- Cậu dám mở một shop kinh doanh mà không sợ rằng mình sẽ lỗ vốn sao?
- Nếu điều đó xảy ra thì tớ vẫn sẽ lời to khi thu về những kinh nghiệm cho mình.
- Tại sao cậu lại yêu thương một người hết lòng khi biết rằng sẽ chẳng có gì là mãi mãi?
- Vì tớ là con người, chứ không phải một cỗ máy, như cậu!
Và... Nhút Nhát lặng im, cậu chưa bao giờ thất bại trong kinh doanh - vì cậu không dám nghĩ đến những ý tưởng quá táo bạo, chưa bao giờ cậu bị những người bạn xấu lừa lọc mình - vì cậu không có một người bạn nào bên cạnh, chưa bao giờ cậu phải đau khổ trong tình yêu - Nhút Nhát không dám mở trái tim mình ra vì sợ nó trầy xước.
(St)
" Ai chiến thắng mà chưa từng chiến bại
Ai nên khôn mà không dại một lần."
Câu nói truyền khẩu này rất đúng, có bại mới thành, có dại mới khôn. Cuộc sống luôn dạy ta những điều chân thật nhất. Không có gì bất chiến tự thành, không trải qua vấp ngã thì không thể trưởng thành được. Như những loài thú hoang dã: hươu nai, những động vật ăn cỏ, chúng phải học một bài học đầu tiên khi mới sanh ra là phải đứng lên và chạy để bảo vệ mình; Còn những loài phi điểu thì phải tập bay, tập đập cánh, tập nhảy cao, dù khó khăn đến mấy cũng phải bay được để sinh tồn. Thế giới con người cũng không gì khác: "Học đi, học đứng, học ngồi. Học ăn, học nói, học thôi giận hờn." (Đạo tràng mai thôn)
Học để biết. Biết để bỏ. Trong quá trình học ấy làm sao không phạm phải sai lầm. Khi biết rồi những gánh nặng mới có thể bỏ xuống. Nên thất bại không phải là chướng, mà là những thách thức cần thiết cho bậc trí.
Những xung đột khổ đau trong ý niệm của mình đều do sợ hãi mà ra. Sợ hãi không dám đối diện sự thật, không dám chấp nhận thất bại, không dám phá vỡ để làm mới.
Chúng ta luôn nghi ngờ và đoán mò nên hay sanh ra vướng mắc không cần thiết, đều là tâm tưởng thất bại.
Tại sao phải cứ lo khi việc chưa đến. Đó là nguyên nhân của thất bại.
Việc gì đến sẽ đến. Nước cao thì đắp đê. Thoải mái vô tư tiến thẳng về phía trước với lòng tin tuyệt đối vào khả năng của mình "Không gì là không làm được". Chính sự khao khát và quyết tâm ấy đã là thành công dù công việc chưa hoàn thành.
Lặng yên như hồ thu
Sáng soi ngàn cảnh sắc
Trong ngoài luôn tươi mới
Lo chi việc không thành.
Chúc chư hiền ngày mới an vui tinh tấn. Adidaphat !


Hạnh phúc đến từ những việc làm và lời nói có ích cho người khác.
Gotama Buddha
Mỗi ngày đi qua như những đóa hoa hàm tiếu nở khắp núi rừng. Trong vòng tròn luân chuyển của nhân duyên có thủy có chung, có nhân có ngã, nhưng vượt ra ngoài lẽ thường ấy là tinh thần vô sự, không cần thêm bớt một điều gì, vô sự vô lự, nhẹ khỏe thân tâm, như hoa tươi giữa đại ngàn, nở rồi tàn, tàn rồi nở, không chút bó buộc của không gian, thời gian.
..

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Cô bé đi giật lùi.

Sau bốn năm du học ở Mỹ, tôi về nước, làm việc ở một quỹ đầu tư quốc tế. Công việc hết sức bận rộn. Các buổi chiều tối, tôi nhận đứng lớp, dạy kèm tiếng Anh kế toán hiện đại cho các nhân viên trẻ.
Cứ đúng sáu giờ chiều, một cô bé gầy nhỏ, mặc đồng phục học sinh cũ sờn và oi chua mồ hôi rón rén bước vào, đặt lên bàn tôi ly cà phê đá. Khi quay ra, cô bé đi giật lùi, nấn ná thêm vài phút nữa trong phòng, mắt vẫn dán lên tấm bảng trắng chi chít các thuật ngữ thương mại.
***
Công việc của văn phòng nhiều lên, tôi bắt đầu thường xuyên ở lại văn phòng muộn. Một lần, khi bà lao công tất bật dọn dẹp, người chạy vào giúp là Sang, cô bé mặc đồng phục. Tôi nhờ dọn giúp đống tạp chí cũ trên bàn làm việc. Hai má con họ hết sức vui mừng. Xong việc ra về, tôi lại đụng mặt Sang. Ôm xấp tạp chí cũ, cô bé lật đật chạy theo tôi:
– Cám ơn anh nhiều lắm! Sáng mai, má em sẽ đem bán xấp báo này cho tiệm sách cũ. Toàn là tạp chí ngoại quốc. Em tính nhẩm rồi, nếu cân ký chỉ được hai chục ngàn thôi. Nhưng nếu bán từng quyển, kiếm ít nhất cũng hơn một trăm rưỡi ngàn đó!
Tôi cũng thấy vui lây. Cô bé giỏi tính toán vẫn lẽo đẽo đi cạnh tôi:
– Anh ở lại làm trễ hoài, chắc đói bụng lắm hén?
– Thật sự là có việc gì vậy? – Tôi tò mò.
Sang toét miệng cười, nói luôn một hơi:
– Em sẽ đi mua cà phê và đồ ăn giùm anh nha. Em cũng rửa chén đĩa luôn. Đổi lại, anh dạy kèm tiếng Anh cho em được không?
Nhìn vào đôi mắt trợn lên giả bộ hài hước mà cũng thật can đảm của cô bé, tôi không thể làm gì khác là gật đầu.
***
Ba mất sớm vì tai nạn lao động, hai má con Sang sống dựa vào khoản lương lao công ít ỏi. Bà mẹ nghĩ rằng tốt nhất, con gái nên nghỉ học, phụ việc để bà có thể nhận dọn dẹp thêm vài văn phòng nữa cùng trong toà nhà. Tuy nhiên, Sang là một con bé không chỉ cứng đầu mà còn có cách suy nghĩ và hành xử kỳ cục! Không có tiền theo các lớp luyện thi, cô bé vẫn nhất định đến trường. Không những thế, lại còn muốn nói được tiếng Anh như các nhân viên văn phòng cao cấp. Bất kể má khóc lóc van vỉ, Sang vẫn khăng khăng ráng thêm xong lớp 12, rồi sẽ tính tiếp. “Tính gì nữa đây? Làm sao mà vô đại học nổi. Nó nghỉ luôn bây giờ cho rồi!” – Bà lao công than thở khi gặp riêng tôi. “Có kiến thức thì vẫn hơn, cô ạ!” – Tôi gắng trấn an bà mẹ tội nghiệp.
Giúp Sang học Anh văn chẳng tốn nhiều thời gian. Cô bé tự học là chính. Tôi tìm lại cho Sang quyển từ điển bỏ túi, tập giáo trình đàm thoại thời sinh viên. Hàng ngày, tôi lấy trên net các bài dịch bổ sung từ vựng, in ra giấy và bảo cô bé làm bài tập. Trong khi tôi ăn tối, cô bé mượn máy tính, tranh thủ vào các trang web tiếng Anh, đọc ngấu nghiến. Tận dụng các cơ hội, Sang hào hứng nói tiếng Anh với mọi người. Mỗi khi tôi sửa cách phát âm từ khó hay chỉnh giọng cho đúng ngữ điệu, cô bé tập đi tập lại, chăm chú đến mức trợn cả mắt lên.
David, ông sếp lạnh lùng chính hiệu dân New York của tôi, cũng tò mò chuyện con gái bà lao công đang nỗ lực dữ dội. Ông nhún vai: “Khi tôi hỏi học tiếng Anh để làm gì, cô ta hết sức bí mật!”. Tôi nói rằng mai này, có lẽ cô bé muốn tìm một chân bán hàng hay tiếp tân nào đó. David cười, đầy vẻ hồ nghi.
Mọi phỏng đoán của tôi đều sai. Cái hôm tôi hỏi có định thi đại học không, Sang dừng máy hút bụi: “Em muốn du học!”. Trước vẻ ngạc nhiên của tôi, cô bé giải thích: “Em tìm trên net, tự làm hồ sơ và viết thư xin học bổng. Một trường ở Chicago hứa sẽ cấp học bổng toàn phần cho em năm đầu tiên, chuyên ngành kế toán”. “Khi nào em lên đường?” – Tôi chưa hết bàng hoàng. Cô bé lắc đầu, giọng buồn thiu: “Má em đâu có tài sản thế chấp. Ngoài ra, họ còn đòi hỏi thư giới thiệu của một nhân vật uy tín!”. Những hạt nước mắt tiếc nuối chầm chậm lăn ra từ đôi mắt can đảm của Sang.
Tôi nói chuyện với David. Không chút băn khoăn, ông quyết định viết thư giới thiệu tới trường đại học. Uy tín của giám đốc quỹ đầu tư là quá đủ. Đồng thời, ông sẽ mở một tài khoản bảo đảm cho Sang. Chừng như hơi xấu hổ về lòng nhiệt tình thái quá của mình, ông sếp bảo: “Cuối cùng thì tôi đã biết bí mật của cô bé. Bất ngờ, nhưng rất hợp lý. Tôi thích điều đó!”.
David và tôi vẫn thường nhận e-mail ảnh của Sang. Cô sinh viên nhỏ nhắn, giản dị và hết sức năng động. Một lần, cô viết cho tôi: “Hồi đó anh mà không giúp em học, sẽ chẳng bao giờ em chạm được vào ước mơ. Cám ơn anh nhiều lắm!”. Hình ảnh cô bé đi giật lùi ngày nào bỗng hiện ra trước mắt tôi.
Nhưng tôi phải cám ơn em mới đúng, Sang ạ. Từ em, tôi đã hiểu thế nào là niềm ham học đích thực. Và tôi còn thấy cả bao nhiêu biến chuyển bất ngờ mà sức mạnh ấy toả ra.
(St) Theo Quốc Vinh, Hoa học trò
Vận mệnh không thể trói buộc được người có tâm khao khát cầu tiến. Chính niềm khao khát này là sức bậc để chúng ta tỏa sáng. Một người học trò nhỏ của tôi nói rằng: "Con đường ngắn nhất đi qua một vòng tròn chính là đường bán kính. Là con đường đi qua trái tim. Là con đường thuộc về mình." Câu nói rất hay, bao hàm một nguyện ước "phải hoàn thành". Không có việc gì làm không được, chỉ do mình có muốn hay không. Mỗi một cuộc đời là một con đường. Chúng ta có lúc đồng hành, có lúc phải tìm một lối đi riêng. Sự đột phá khỏi những chuẩn tắc được đặt định là một can đảm vô cùng lớn, cần nhiều quyết tâm và cố gắng. Như cô bé Sang trong câu chuyện, chính khi cố gắng hết sức thì đã tạo ra một cơ hội, cơ hội ấy thay đổi hoàn toàn số mệnh của mình. Ngày trước khi có người hỏi Thiền sư Bankei: "Bạch thầy, làm sao để có thể đạt được giác ngộ nhanh nhất? Con thấy mọi người cũng cố gắng tu hành nhưng ít ai đạt đạo. Không biết có phải chúng con tu sai hay còn một kỹ thuật nào khác?" Thiền sư khuyến tấn: " Các con không tu sai, nhưng các con bị thiếu một điều quan trọng duy nhất, đó là tâm khao khát đạt giác ngộ, nên các con chỉ mãi là kẻ tầm thường thôi, không thể đạt đến phi thường vĩ đại."
Thế nên, làm mới cuộc đời mình là điều không phải xa xôi, mà mỗi chúng ta đều có khả năng thực hiện. Muốn đạt được những điều phi thường, phải can đảm làm được những việc phi thường. Chính là tạo ra con đường thuộc về mình. Một lời khuyên chân thành của đức Phật: " Các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hãy tự mình nỗ lực. Như Lai chỉ là một vị thầy mà thôi." Đây là câu nói nền tảng cho Phật pháp khai hoa. Cảm ngộ mỗi người tuy có khác, có thể sâu rộng hay thiển cận khác nhau, nhưng đó vẫn là ý sáng của mình. Đây chính là đường thẳng đi qua tâm điểm, con đường bán kính ngắn nhất qua tâm cuộc đời.
Trong sâu thẳm nhân duyên
Là nghiệp hay là nguyện
Nghiệp, nhân sinh đau khổ
Nguyện, sứ mệnh hoàn thành.
Chúc chư hiền tinh tấn an vui. Adidaphat !

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Con cá chết đuối
Có một người chuyên thuần hóa, nuôi dậy thú hoang, thú dữ…biết hành động, làm trò vui khi nghe tiếng người sai khiến,. Ông ta là một bậc thầy trong việc nuôi, dạy thú làm xiệc, nhưng ông ta có vẻ như chưa hài lòng với những thành công nuôi dậy thú của ông. Ông nghĩ phải làm thế nào để đưa một con cá lên sống trên cạn và phải đi được như động vật hai chân. 
Ông bắt đầu thực hiện bằng cách “mỗi ngày ông đổ bùn vào hồ nước nuôi cá.”
Hồ nước bị đặc dần dần theo ngày tháng, con cá ông nuôi cũng mỗi ngày dần dần bị đẩy lên sống trong vũng bùn loãng, lúc nào đầu cá cũng ngẩng cao trên mặt bùn để thở. Mỗi lần cho cá ăn, ông ta thường tìm cách làm cho cá phải cất mình cao khỏi mặt bùn, ngóc đầu lên đớp mồi như những lần ông cho mèo hay chó ăn, chúng cũng phải chồm lên vồ mồi. Bùn càng ngày càng khô dần, con cá ông nuôi cũng đã quen dần với môi trường sống thay đổi chậm chạp.
Và ông đã thành công. Con cá ông nuôi từ bùn loãng, sệt, qua đặc, rồi sau cùng bùn đã trở nên khô cứng, cũng qua cách tập luyện kiên nhẫn của ông, đến nay, cá đã nghe được những tiếng gọi của ông, làm theo những gì ông chỉ dậy, và kỳ công hơn cả là con cá ấy đã đi được trên hai cánh đuôi như lòai động vật hai chân. Ông có thể dẫn con cá của ông đi chơi như người ta dẫn chó, mèo đi rạo mát mỗi chiều.
Rồi có một buổi chiều, như nhiều buổi chiều ông vẫn dẫn cá đi chơi, ai thấy cũng dòm ngó, trầm trồ thích thú vì quá lạ. Không lạ sao được ! Cá sống trên cạn, lại biết đi nữa ! Bất chợt, trời đổ cơn mưa . Ông chạy tìm nơi trú mưa. Đến khi trời ngớt mưa, ông nhìn lại, thấy con cá của ông không còn cột ở đầu dây. Chợt một hình ảnh làm ông choáng váng, khi ông nhìn thấy con cá ông nuôi dạy trong bao năm tháng nay đã chết. Nó chết thật rồi. Nó nằm trương bụng trong một vũng nước chỉ sâu hơn chiều cao của nó.
Cá đã chết, chết trong chính môi trường sống nguyên thủy của nó, chỉ vì nó không còn bơi được nữa, không còn thích hợp với chính môi trường sống của nó. Con cá chết đuối!
(St) Vườn thiền
Chư hiền có suy nghĩ thế nào ? Chim bay trên trời. Cá bơi dưới nước. Việc này rất tự nhiên. Như khi thay đổi một thói quen vốn có thì tính chất cuộc sống liền thay đổi. "Con cá chết đuối", điều này thật hi hữu, nhưng đôi khi là sự thật. Hàng ngày chúng ta hay tạo một vỏ bọc hoàn hảo cho mình, cố gắng chứng minh mình vượt trội, rồi dần dần mình cũng không biết mình là ai ? Tại sao mình lại sống giả tạo như vậy? Bản chất nguyên thủy của con người rất trong sáng, tự nhiên và bình dị, như cá sống dưới nước, vô ưu vô phiền. Bây giờ môi trường đã khác rồi, nơi nơi đều là chốn lao xao, vậy mình cần biết tùy duyên đồng thuận, rõ biết mọi hành động của mình, nhưng phải có khác biệt, không đánh mất bản chất thuần thiện ban đầu. Vì cá không thể chết đuối.
Chúc chư hiền tinh tấn. Adidaphat !

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Hạnh Phúc Của Bạn Nơi Nào ?
Có một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay.
Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
Sau 5 phút không ai tìm được quả bóng có tên của họ. Nhóm người đó lại được yêu cầu làm một nhiệm vụ khác, nhặt lên bất kỳ một quả bóng và đưa cho người có tên trên quả bóng đó. Trong vòng một phút, tất cả mọi người đều có quả bóng viết tên của chính họ.
Diễn giả bắt đầu nói :
- Đây chính là những gì đang xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Ai ai cũng điên cuồng lùng sục hạnh phúc ở khắp mọi nơi mà không biết nó nằm ở đâu. Hạnh phúc của mỗi chúng ta chỉ có được dựa trên hạnh phúc của người khác. Hãy cho đi niềm hạnh phúc, và bạn sẽ nhận lại phần của mình.
(St) Vườn Thiền
"Tâm rộng mở làm tròn câu nhân nghĩa
Bước chân yên trên dòng chảy thời gian
Đến hay đi cuộc sống vẫn bình an
Không đứng lại trên đường tìm hạnh phúc."
Tìm hạnh phúc là một quá trình, nhưng không phải là quá trình của một người. Trên hành trình ấy mỗi người đều có trách nhiệm như nhau. Không thể nào có được hạnh phúc trên khổ đau của người khác. Tất cả đều do con người, và cũng chỉ có con người mới chế tác ra hạnh phúc hay đau thương.
Khi ngẫm sâu cuộc sống này là một vòng tròn khép kín, nhân quả tuần hoàn, đến đi theo cách mà con người đã tạo.
Cho đi thật dễ hơn là nhận về. Dù một đóa hoa nở xong sẽ tàn, nhưng khoảnh khắc tuyệt đẹp ấy sẽ vĩnh hằng cùng thời gian lưu chuyển. Con người cũng vậy, một nụ cười hạnh phúc cũng là một món quà quý giá để tặng nhau. Dù đi qua trong cuộc đời này rất ngắn, nhưng nếu có lòng, hạnh phúc vẫn có mặt trên từng bước chân đi.
Chúc chư hiền luôn an vui tinh tấn. Adidaphat !

Làm Bồ Tát
Có một kẻ lang thang, đi vào chùa, thấy Bồ Tát ngồi trên Đài Sen nhận cúng bái của mọi người, anh ta vô cùng ngưỡng mộ.
Kẻ lang thang nói: “Tôi có thể đổi chỗ ngồi với Người một lát không?”
Bồ Tát trả lời: “Chỉ cần anh không mở miệng.”
Kẻ lang thang ngồi lên Đài Sen. Trước mắt của anh là cả ngày hỗn loạn ầm ĩ, người đến phần lớn là cầu điều này điều kia. Anh vẫn cố gắng chịu đựng trước sau không mở miệng. Một ngày, một phú ông đến. Phú ông: “Cầu Bồ Tát ban cho con một đức tính tốt.” Nói xong ông dập đầu, đứng dậy, ví tiền lại bị rớt xuống mặt đất. Kẻ lang thang vừa muốn mở miệng nhắc nhở, nhưng kịp nhớ đến điều kiện của Bồ Tát.
Sau khi phú ông đi ra, thì có một người nghèo bước vào. Người nghèo nói: “Cầu Bồ Tát ban cho con ít tiền. Người nhà con lâm bệnh nặng, đang rất cần tiền ạ.” Cầu xong ông dập đầu, đứng dậy, nhìn thấy một túi tiền rơi trên mặt đất. Người nghèo thốt lên: “Bồ Tát quả thật hiển linh rồi.” Ông cầm túi tiền ra đi. Kẻ lang thang muốn mở miệng nói không phải hiển linh, đó là đồ người ta đánh rơi, nhưng anh lại nhớ đến điều kiện của Bồ Tát.
Lúc này, một người ngư dân đi vào. Ngư dân cầu xin: “Cầu Bồ Tát ban cho con bình an, ra biển không gặp sóng gió.” Đoạn dập đầu, đứng dậy, ông vừa muốn đi, lại bị phú ông túm chặt. Vì túi tiền, hai người đánh nhau túi bụi. Phú ông cho rằng người ngư dân đã lấy túi tiền, mà ngư dân thì cảm thấy bị oan uổng không cách nào chịu đựng nổi. Kẻ lang thang không thể nhịn được nữa, anh ta liền hô to: “Dừng tay!” Rồi đem chân tướng nói ra cho họ. Tranh chấp nhờ đó mà đã yên.
Lúc này Bồ Tát mới nói: “Ngươi cảm thấy làm vậy là đúng chăng? Ngươi hãy tiếp tục đi làm kẻ lang thang đi! Ngươi mở miệng tự cho mình rất công bằng, nhưng, người nghèo vì vậy mà không có tiền cứu chữa người thân; người giàu không có cơ hội tu đức hạnh; người ngư dân ra biển gặp sóng gió chôn thân dưới đáy biển. Nếu ngươi không mở miệng, mạng sống người nhà kẻ nghèo kia được cứu; người giàu tốn chút tiền nhưng giúp người khác mà tích được đức; ngư dân cũng vì dây dưa không cách nào lên thuyền, tránh được mưa gió, có thể còn sống sót.”
Kẻ lang thang im lặng ra khỏi chùa…
Rất nhiều sự tình, nó thế nào, chính là như thế đó. Để nó tiến triển theo tự nhiên, kết quả sẽ tốt hơn. Khi đối mặt với sự việc, ai có thể biết rõ kết quả gì sẽ xảy ra chứ?
Yên lặng theo dõi diễn biến, chính là một loại năng lực!
Thuận theo tự nhiên, là một loại hạnh phúc!

(St) Ngọc Lan Nguyễn FB
Muốn làm Bồ Tát cũng không phải dễ phải không chư hiền ? Câu chuyện này có nhiều cách luận giải khác nhau, muốn đúng thì nó sẽ đúng, muốn sai thì nó sẽ sai. Nhưng đúng hay sai không phải là điểm quan trọng. Điểm nhấn là tính chất TÙY THUẬN TỰ NHIÊN. Cái sai lại là đúng. Đúng quá lại thành sai. Đây là lời giải thích cho câu nói của Phật: "Oan ức không cần bày tỏ, vì bày tỏ là hèn nhát, mà trả thù thì oán đối kéo dài." (Một trong mười điều tâm niệm trong luận Bảo Vương Tam Muội). Xét ra chữ tình và lý phải đi đôi. Thuận tình hợp lí mới là nhân đạo. Trong cuộc đời mình không biết bao nhiêu lần mình tìm chữ lý, nhưng đều không thể vẹn toàn, vì còn phải xét theo chữ tình nữa. Ý niệm giác ngộ này mời chư hiền suy ngẫm thêm.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Ngày xửa ngày xưa, ở một ngôi làng xa xôi có một ngôi nhà lớn với 1.000 chiếc gương.
Một con chó nhỏ tính tình vui vẻ biết được điều đó và quyết định đi thăm ngôi nhà. Nó bước vào cửa với guơng mặt vui vẻ hạnh phúc, đuôi vẫy nhanh và tai dỏng lên.
Con chó nhỏ hết sức ngạc nhiên vì có tới 1.000 người bạn khác cũng đang nhìn và vẫy đuôi y như mình. Nó mỉm cười, và 1.000 con chó kia cũng mỉm cười thân ái đáp lại. Khi rời ngôi nhà, con chó nghĩ: “Thật là một nơi tuyệt vời. Mình sẽ còn quay lại nhiều lần nữa”.
Ở cùng một ngôi làng cũng có một con chó khác, không vui vẻ hạnh phúc lắm. Nó cũng quyết định đi thăm ngôi nhà gương.
Nó chậm chạp trèo lên những bậc thang, đầu cúi gằm và nhìn vào phía trong. Khi nó thấy 1.000 gương mặt không thân thiện đang nhìn mình, con chó sủa và lấy làm khiếp sợ khi thấy 1.000 con chó kia cũng sủa lại. Và khi đi khỏi ngôi nhà gương, nó nghĩ thầm: “Thật là một nơi kinh khủng, mình sẽ không bao giờ trở lại đây nữa”.
Cuộc sống là dòng chảy
Dòng chảy có đục trong
Đục con sông vẫn chảy
Trong vẫn thuận xuôi dòng.
Nhìn vào thực tế khi mình yêu quý cuộc sống, mình sẽ sống tốt hơn. Ngược lại, càng chán ghét cuộc sống, thì tự hủy mình càng nhanh. Đạo lý thật đơn giản phải không? Chúng ta muốn người khác tặng mình điều gì, mình hãy tặng cho người như vậy. Đây gọi là Nhân Quả đồng thời: trong nhân có quả, trong quả có nhân. Cho nên mỗi niệm cảm của con người là một thế giới thăng trầm. Chúng ta rất dễ bị cuốn trôi bởi những: buồn thương giận ghét... Từ những cảm niệm này hình thành nhân cách sống bi quan và lạc quan, chân thật và giả dối, yếu đuối và mạnh mẽ của mình. Có nhiều câu nói rất hay được tạo thành bài học cuộc sống như:
- Cô ấy cười không có nghĩa là cô ấy hạnh phúc. Cô ấy cười vì cô ấy đang tràn ngập hy vọng, niềm tin và sự mạnh mẽ.
- Hãy để chúng ta gặp nhau với nụ cười rạng rỡ trên môi, nụ cười là sự khởi đầu của tình yêu - Mother Teresa
- Hãy bắt đầu một ngày mới với nụ cười, ít ra nó cũng là một sự khởi đầu tốt đẹp
- Nụ cười là chiếc chìa khóa duy nhất mở được trái tim của người khác.
- Đôi khi bạn phải luôn phải mỉm cười, hãy nghĩ rằng: mọi thứ rồi sẽ ổn, gạt đi nước mắt và hãy tiếp tục bước đi.
- Mỉm cười và hãy cho mọi người thấy rằng bạn đã trở thành một người mạnh mẽ hơn bạn của ngày hôm qua.
- Hãy luôn hạnh phúc bởi bạn sẽ không bao giờ biết rằng có những người đã yêu nụ cười của bạn mất rồi!
- Đôi khi nụ cười được bắt nguồn từ những niềm vui, nhưng có lúc niềm vui có được là nhờ nụ cười - Thích Nhất Hạnh
Tất cả những nụ cười góp nhặt trên đều xuất phát từ chính sức mạnh của tinh thần. Chỉ có người mạnh mẽ mới có những nụ cười vô tư chân thật. Thế nên hãy dùng cách của mình để thay đổi thế giới. Và dùng thế giới để phục vụ cho mình. Sự tương tác này rất quan trọng. Mỗi người chúng ta cũng giống tấm gương soi. Nên làm cho hình ảnh trong tấm gương này tràn đầy sức sống, tạo thêm niềm cảm hứng sâu xa cho nhau. Đó mới chính là giá trị của đời người.

MỖI NGÀY MỘT CÂU CHUYỆN
Có một điều chân thật. Mỗi cuộc đời là một giấc mơ. Mỗi giấc mơ là một hành trình. Có giấc mơ làm giàu. Có giấc mơ tình yêu. Có giấc mơ làm thầy. Có giấc mơ làm Phật... Và tất cả giấc mơ đều có một giá trị cao quý. Có một thanh niên cũng đã đi tìm giấc mơ của mình:
Có một anh chàng họa sĩ từ lâu ôm ấp ước mơ để lại cho hậu thế một tuyệt tác. Và rồi một ngày kia chàng bắt tay vào việc. Ðể tránh sự ồn ào náo nhiệt của cuộc sống thường nhật, chàng dựng một khung vẽ rộng 30 mét vuông trên sân thượng một tòa nhà cao tầng lộng gió. Người họa sĩ làm việc miệt mài suốt nửa năm. Chàng say mê bức họa tới mức quên ăn quên ngủ. Khi bức tranh hoàn thành, nó sẽ đưa tên tuổi của chàng sống mãi với thời gian.
Một buổi sáng nọ, như thường lệ, chàng họa sĩ tiếp tục hoàn chỉnh những nét cọ trước sự trầm trồ của hàng chục du khách tham quan. Tuy nhiên sự có mặt của đám đông không hề ảnh hưởng tới họa sĩ. Chìm đắm trong cơn say mê điên dại, chàng ngây người nhìn ngắm thành quả lao động sáng tạo của mình. Cứ thế, chàng từ từ lùi ra xa để chiêm ngưỡng bức tranh mà không biết rằng mình đang tiến tới mép sân thượng. Trong số hàng chục người khách tham quan đang bị bức tranh hút hồn, chỉ có vài người phát hiện ra mối nguy hiểm đang chờ đón người họa sĩ: chỉ lùi một bước nữa là chàng sẽ rơi tõm xuống khoảng trống mênh mông cao cả trăm mét. Tuy nhiên, không ai có can đảm lên tiếng vì biết rằng một lời cảnh báo có thể sẽ khiến người họa sĩ giật mình ngã xuống vực thẳm.
Một sự im lặng khủng khiếp ngự trị trong không gian. Bất chợt một người đàn ông tiến tới giá vẽ. Ông ta chộp lấy một cây cọ nhúng nó vào hộp màu và bôi nguệch ngoạc lên bức tranh. Một sự hoàn mỹ tuyệt vời đã bị phá hủy. Người họa sĩ nổi giận, anh ta gầm lên đùng đùng lao tới bức vẽ, giật cây cọ từ tay người đàn ông nọ. Chưa hả giận, người họa sĩ vung tay định đập cho người đàn ông nọ một trận. Tuy nhiên, hàng chục người xung quanh cũng đã kịp lao tới, giữ lấy người họa sĩ và giải thích cho anh ta hiểu tình thế. Rồi một vị cao niên tóc bạc phơ đến bên chàng họa sĩ và nhẹ nhàng nói: “Trong cuộc đời, chúng ta thường mải mê phác ra những bức tranh về tương lai. Tuy rằng bức tranh đó có thể rất đẹp, rất quyến rũ nhưng chính sự quyến rũ, mê hoặc về những điều sắp tới đó thường khiến chúng ta không để ý tới những mối hiểm họa gần kề, thậm chí là ngay dưới chân mình”.
Vậy nên, nếu như có ai đó bôi bẩn, làm hỏng bức tranh về tương lai mà ta dày công tô vẽ, xin bạn chớ nóng vội mà oán giận. Trước tiên hãy xem lại hoàn cảnh thực tại của chính mình. Biết đâu một vực thẳm đang há miệng chờ đón ngay dưới chân bạn.
(St) Bức tranh bị bôi bẩn
" Vẽ trời vẽ đất vẽ sông
Vẽ mây vẽ nước vẽ người vẽ ta
Vẽ ra khắp cõi ta bà
Vẽ thành tịnh độ
chẳng qua
tâm mình."
Câu chuyện trên đâu đó cũng có hình ảnh của mình. Để có danh gì với núi sông. Chúng ta đã ôm niềm cảm hứng ấy lên đường tìm đạo, tự vẽ ra một bức tranh tuyệt mỹ cho mình, rồi say đắm chính tác phẩm của mình. Chúng ta bị những lời tung hô khen tặng che mắt, rồi tiếp tục cuốn trôi vào vòng lẫn quẫn không hay, chúng ta vô tình bôi bẩn lên bức tranh cuộc sống tươi đẹp này.
Trong bài nói chuyện Đạo Phật với tuổi trẻ, thầy Tuệ Sỹ đã mở ra một tầm nhìn sâu rộng rằng:
" Tuổi trẻ thường được nhắc nhở, khuyên bảo rằng cần phải học hỏi để sống cho đáng sống. Ca dao cũng nói rằng "làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên", và các bạn trẻ hiểu rằng, ta sẽ phải làm nên sự nghiệp hiển hách nào đó kẻo không thì sẽ uổng phí cuộc đời. Rồi bạn ấy làm nên sự nghiệp lớn thật, và người đời thán phục. Chúng ta cũng hết sức thán phục. Nhưng hãy nhìn sâu vào đôi mắt của bạn ấy một chút, nếu có ai trong chúng ta đây có vinh dự được nhìn. Chúng ta thấy gì? Những phương trời cao rộng, để cho "cánh hồng bay bỗng tuyệt vời", hay một phương trời tiếc nuối, "khi ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, thà khuyên chàng đừng chịu tước phong"? Cả hai. Người đuổi bắt ảo ảnh để tìm ảnh thực vĩnh cửu của chính mình. Vị ngọt của đời ở đâu, trong cả hai?
Bây giờ chúng ta hãy tạm rời bức tranh lãng mạn ấy, để nhìn sang một hướng khác. Có hình ảnh nào đáng chiêm ngưỡng hơn hay không? Cũng còn tùy theo điểm đứng nghệ thuật của người nhìn.
Thuở xưa, có một vương tử, mà ngai vàng đã dọn sẵn, vó ngựa chinh phục cũng đã sẵn sàng yên cương. Rồi một đêm, khi cả cung đình đang ngủ say trong giấc ngủ êm đềm của uy quyền, danh vọng, giàu sang; vương tử gọi quân hầu thắng cho ngài con tuấn mã trường chinh. Nhưng vó ngựa trường chinh của ngài không tung hoành chiến trận. Thanh gươm chinh phục của ngài không đánh gục những chiến sĩ yếu hèn. Gót chân vương giả từ đó lang thang khắp chốn sơn cùng thùy tận: cô đơn bên bờ suối, dưới gốc cây. Ngài đi tìm cái gì? Ta hãy nghe Ngài nói: "Rồi thì, này các Tỳ kheo, một thời gian sau, trong tuổi thanh xuân, khi tóc còn đen mượt, với sức sống cường tráng; mặc dù cha mẹ không đồng ý với gương mặt đầm đìa nước mắt, Ta đã cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta trong khi ra đi như vậy, làm người đi tìm cái gì đó chí thiện, tìm con đường hướng thượng, tìm dấu vết của sự tịch mịch tối thượng". Ngài đi tìm và khai phát con đường dẫn về thế giới bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Rồi con đường ấy được công bố, được giới thiệu cho những ai như những đóa sen tuy sinh trưởng từ bùn sình, nước đọng, đang đã có thể vươn lên khỏi bùn sình, bản thân không bị nhiễm mùi tanh hôi của bùn sình. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu con đường vừa được khám phá và công bố ấy được tiếp nhận một cách đầy tin tưởng bởi tất cả mọi người. Số người chống đối không phải ít.
Khi đức Ðạo sư trẻ tuổi đến Magadha, vương quốc hùng mạnh nhất thời bấy giờ, nhiều thanh niên con nhà gia thế, như Yasa cùng các bạn bè, và các thanh niên trí thức hàng đầu như Sariputta và Moggallana, và nhiều thanh niên quý tộc, vương tôn công tử, tiếp nối nhau từ bỏ gia đình, từ bỏ địa vị xã hội sang cả, chọn con đường vinh quang của Chân lý. Từ một góc độ nào đó mà nhìn, sự ra đi của họ tạo thành một khoảng trống lớn cho xã hội, làm đảo lộn nếp sống đã thành thói quen của quần chúng. Dân chúng lo ngại. Họ thì thầm bàn tán, rồi phiền muộn, rồi thất vọng, và rồi giận dữ. Dư luận gần như dấy lên đợt sóng phải đối: "Sa-môn Gotama làm cho những người cha mất con, những bà vợ trẻ trở thành góa bụa. Sa-môn Gotama làm cho các gia đình có nguy cơ sụp đổ". Dư luận phản đối ấy không kéo dài đủ để gây thành làn sóng phản đối. Chẳng mấy chốc, những người cha, những bà vợ trẻ ấy nhận thấy không phải họ bị phản bội hay bị bỏ rơi cho số phận cô đơn, mà họ được chỉ cho thấy hương vị tuyệt vời của tình yêu và hạnh phúc mà trong một thời gian dài họ không tìm thấy.
Như thế, trong những ngày đầu tiên khi vừa được công bố, con đường chí thiện, con đường tối thắng và tối thượng của thế gian, dẫn đến thế giới bình an vĩnh cửu không phải bằng sức mạnh chinh phục của gươm giáo, mà bằng sức mạnh của từ bi và trí tuệ; con đường ấy được nồng nhiệt tiếp nhận bởi những con người rất trẻ, bởi tầng lớp ưu tú nhất của xã hội; tầng lớp định hướng tương lai của xã hội.
Rồi ba thế kỷ sau, một bạo chúa với đạo quân hùng mạnh bách chiến bách thắng, sau một trận tàn sát khốc liệt, chống gươm đứng nhìn hàng vạn xác chết chợt thấy rằng chiến thắng oanh liệt đẩm máu này không thể là sức mạnh tối thượng để có thể chinh phục lòng người. Dù nó mang lại cho người chiến thắng những giây phút vinh quang ngây ngất. Vị hoàng đế trẻ cảm thức sâu xa đó không phải là nguồn suối của bình an và hạnh phúc. Kể từ đó, đế quốc mênh mông không cần được bảo vệ bằng sức mạnh của gươm giáo; thần dân của đế quốc sống trong thái bình thịnh trị, được bảo vệ bằng sức mạnh của từ bi và khoan dung.
Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở đây. Hình ảnh ấy đối với nhiều người quá cao xa, nhìn lâu tất choáng ngợp. Dù vậy, tự thâm tâm của mình, không một bạn trẻ nào, dù là nam hay nữ, không cảm nhận rằng mình đang được thúc đẩy bởi một động lực không thể cưỡng, đó là khát vọng chinh phục. Chinh phục tình yêu, chinh phục danh vọng, chinh phục địa vị. Dù nhìn từ góc độ nào, dù tiến theo hướng nào; chúng ta như những trẻ nít đuổi theo cánh bướm. Khi đã nắm được xác bướm trong lòng tay, ít ai tự hỏi: chinh phục và chiến thắng này có ý nghĩa gì? Và ta vẫn mãi miết đuổi theo những cánh bướm này rồi đến cánh bướm khác. Trong lịch sử loài người, có bao nhiêu nhà chinh phục vĩ đại, sau chiến thắng, lại cảm thấy ta cũng chỉ là một con đường yếu đuối trước sức mạnh bao dung của tình yêu nhân loại?
Vó ngựa của Thành-cát-tư Hãn không chùn bước trước bất cứ kẻ thù nào, nhưng tâm tư của Ðại Hãn cảm thấy bất an khi nhìn sâu vào cuối con đường chinh phục một bóng dáng đang thấp thoáng đợi chờ. Ðó là kẻ thù cần phải chinh phục sau cùng. Ðại Hãn cũng biết rằng dẫu cho tập hợp sức mạnh của trăm vạn hùng binh cũng không thể đánh bại kẻ thù ấy, chinh phục vương quốc ấy. Ông cho đi tìm một người trợ thủ, tìm cố vấn thông thái nhất và khôn ngoan nhất để tập hợp được sức mạnh siêu nhiên. Sứ giả của Ðại Hãn đi vào núi Chung nam thỉnh cầu Ðạo trưởng Khưu Xử Cơ. Ðạo trưởng khởi hành, băng sa mạc, đến tận đại bản doanh của Ðại Hãn, để giảng giải cho Ðại Hãn ý nghĩa trường sinh bất tử, những ẩn nghĩa huyền vi từ quyển thiên thư năm nghìn chữ của Thái thượng Lão quân. Cuối quyển thiên thư, khi tất cả ẩn ngữ coi như đã phơi bày ý nghĩa thâm sâu. Khả hãn chỉ xác nhận được một điều: ta sẽ là người chiến bại trong cuộc chiến cuối cùng ấy.
Vậy, ý nghĩa của chinh phục là gì?
Mỗi người trong chúng ta sống và đi tìm một cái gì đó, một ý nghĩa nào đó, cho sự sống hay lẽ sống của mình. Với tuyệt đại đa số, tình yêu và hạnh phúc là lẽ sống, hoặc là tài sản, hoặc danh vọng, hoặc quyền lực, là lẽ sống. Người ta tự đày đọa tâm trí mình, làm khổ nhọc hình hài mình, để đuổi bắt những gì được coi là tinh hoa của đời sống. Người ta cũng biết rằng ngoài những cái lẽ sống phù du, ảo ảnh của hạnh phúc, còn có những phương trời cao rộng, còn có con đường chí thiện; nhưng chỉ một số rất ít người bước theo hướng đó, và lại rất ít người đến đích. Vì sao thế?
Có một nhà nghiên cứu văn học, khi viết về nhà thơ Lý Bạch, không tiếc lời ca ngợi con người tài và đời sống phóng khoáng ấy. Rồi nhà nghiên cứu kết luận: nhưng chúng ta không sốnh như Lý Bạch được, vì chúng ta còn có gia đình vợ con, và nhiều thứ ràng buộc khác. Phải chăng tất cả chúng ta đều sinh ra với một dây thòng lọng treo sẵn nơi cổ, còn Lý Bạch thì không? Phải chăng chúng ta chỉ được phép chiêm ngưỡng, thán phục những cuộc đời và những nhân cách cao thượng, như người hành khất đói rách chỉ được phép từ xa đứng nhìn một cách them thuồng những ngọc ngà châu báu trên thân thể một công nương mỹ miều? Lý Bạch không thể sống như ta, và ta cũng chẳng cần phải trở thành người như Lý Bạch để được người đời thán phục. Mỗi người ẩn chứa trong tự thân một kho báu vô tận. Cần gì phải vay mượn hay ăn cắp giá tri của tha nhân. Không nên tự đánh giá mình quá thấp kém.
Trong số những người bạn trẻ của tôi, không ít người cố vươn lên, tự khẳng định giá trị bản thân; tự cho rằng khi cần và nếu muốn thì có thể khoác lên mình phẩm phục sang nhất, ngồi ở địa vị cao nhất trong xã hội không phải là khó; và khi không cần thiết thì cũng có thể "vứt bỏ ngai vàng như đôi dép rách". Những người bạn ấy, sau một thời gian vật lộn với đời để tự khẳng định giá trị của mình, có bạn "may mắn" leo lên được chiếc ghế cao, bỗng chợt thấy tất cả ý nghĩa và giá trị của đời sống đều được vẽ vời, được khắc chạm lên chiếc ghế này. Từ đó, họ cố buộc chặt mình vào đó, và quyết tâm bảo vệ nó "với bất cứ giá nào".
Cũng có người bạn, sau cuộc tình đổ vỡ, chợt thấy hạnh phúc trong vòng tay chỉ là ảo ảnh. Anh tìm đến tôi sau những ngày lang thang, đau khổ. Không phải anh đến tìm nơi tôi một nguồn an ủi, mà đến để giảng cho tôi một bài pháp rất hay về nghĩa của tình yêu và vĩnh cửu; hạnh phúc chân thật và lẽ sống cao cả, chí thiện. Trong khi lặng lẽ nghe anh nói, cảm thấy như mình đang uống từng giọt nước cam lồ ngưng tụ từ những giọt nước mắt nóng bỏng; và thầm tự hỏi: bạn mình đã "chứng ngộ Niết bàn" rồi chăng? Phải thú nhận rằng, bây giờ, đã ba mươi năm sau, tôi vẫn không quên được "bài thuyết pháp" tuyệt vời ấy. Nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi; anh lại lao mình chạy theo những cuộc tình mới. Tôi hỏi. Anh nói, hương vị ngọt ngào của mối tình đầu ấy không nhạt mờ theo năm tháng được. Nó vĩnh viễn ẩn kín ở một góc tối nào đó trong trái tim anh. Anh đuổi theo những mối tình hời hợt, thoáng chốc; chạy theo danh vọng phù hoa; tất cả chỉ muốn quên đi những gì đã đi và đi mất mà không bao giờ níu kéo lại được. Thỉnh thoảng, nhớ lại anh, tôi tự hỏi, bây giờ thực tế anh đang gặt hái những thành công trên đường đời; nếu nghĩ lại những năm tháng của tuổi trẻ ấy, anh có thấy mình dại dột chăng? Là đuổi bắt ảo ảnh chăng? Và giữa hai quãng đời ấy, thật sự đâu là ảo ảnh?
Người ta nói, tuổi trẻ các bạn đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời; vậy hãy chuẩn bị hành trang mà vào đời. Tôi muốn nói cách khác. Bằng tuổi trẻ của mình đã đì qua, tôi muốn nói rằng, tuổi trẻ các bạn đang được đặt trước hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, hay trước hai ngả đường cần phải lựa chọn không lưỡng lự: tình yêu và sự nghiệp. Trước mặt các bạn là con đường thăm thẳm, đang ẩn hiện mơ hồ dưới ánh sao mai. Chưa phải là buổi bình minh để các bạn thấy rõ mình đang đứng đâu và con đường mình sẽ đi đang dẫn về đâu. Và trước mắt có thật sự là hai ngả đường phải lựa chọn, hay thực tế chỉ một mà thôi? Các bạn sẽ tiến tới theo hướng nào? Học tiến lên theo con đường công danh sự nghiệp, bởi vì "đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông"? Hay săn đuổi bóng dáng một mùa xuân vĩnh cửu? Cả hai ý nghĩa, các bạn trẻ đều hiểu rõ. Chúng ta không cần biện giải dài dòng. Có điều, sự hiểu biết của các bạn về con đường trước mắt không phải do chính mình đã nhìn thấy, như thấy rõ con đường mình đang đi, khi ánh bình minh xuất hiện; mà do dấu vết của nhiều thế hệ đì trước. Dễ có mấy ai tự vạch cho mình một lối đi riêng biệt, không dẫm theo bất cứ lối mòn nào.
Lần bước theo những vết mờ của người đi trước, tuổi trẻ định hướng cho tương lai của mình. Trong số họ, rất ít người bước ra khỏi bóng đêm của rừng rậm, để bằng chính đôi mắt của mình, nhìn thấy rõ con đường đang đi đang chạy theo hướng nào, dưới mặt trời rực sáng của ban mai.
Chúng ta hãy đi tìm một người trong số rất ít người ấy. Người không xa lạ với chúng ta. Tôi muốn nhắc các ban vua Trần Nhân Tông. Tuổi trẻ, lớn lên giữa cung đình xa hoa, đầy lạc thú, nhưng người thiếu niên vương giả lại sống như một ẩn sỹ ngay giữa hoàng thành. Trường trai, khổ hạnh; không biết người ta có nhìn thấy phong độ hào hoa nơi thiếu niên vương giả này hay không. Nhưng vua cha nhìn thân thể gầy còm của người kế vị ngai vàng mà khóc: Biết con có đủ nghị lực để giữ vững giền mối giang sơn chăng? Tuy vậy, con người ấy, về sau, khi ngự trị trên ngai vàng, làm chủ một đất nước, không chỉ đã tự khẳng định giá trị bản thân, mà còn khẳng định ý nghĩa sinh tồn của một dân tộc. Dù ngồi trên bệ rồng cao vời vợi; dù xông pha chiến trận; hay dù trên vó ngựa khải hoàn, từ những chiến thắng oanh liệt; mà cho đến nay, trong bóng đền khuya, trong bóng đêm tịch mịch của lịch sử, chúng ta vẫn mường tượng nhịp mõ công phu và giọng kinh man mác nhưng vẫn rành rọt khí phách anh hùng của bậc quân vương vốn coi ngai vàng như đôi dép bỏ: "Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh". Làm sao trong con mắt nhìn, thế giới này chỉ tồn tại như hạt sương trên đầu cỏ, lại có thể định hướng không chỉ cuộc đời của riêng mình mà cho cả vận mệnh của dân tộc? Hy vọng các bạn trẻ có thể tự mình tìm thấy câu trả lời. Bởi vì, nếu các bạn có thể trả lời được câu hỏi ấy, các bạn cũng có thể định hướng cuộc đời của mình mà không e ngại rằng sẽ có điều nhầm lẫn.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại đề tài thảo luận. Rất nhiều Anh Chị khi nghe đọc lên đề tài, nghĩ rằng diễn giả sẽ nêu lên một hình thái đạo Phật như thế nào đó, sau đó nghiệm xét xem hình thái ấy có những điểm nào phú hợp với tuổi trẻ, ích lợi thiết thực cho tuổi trẻ. Cho đến đây, chưa có hình thái nào được giới thiệu. Có Anh Chị nào cảm thấy thất vọng không? Cũng nên thất vọng một ít. Như thế để chứng tỏ rằng chúng ta đến với đề tài không phải thụ động; ai nói sao nghe vậy. Nhất định, phải có sự lựa chọn; dù không phải là lựa chọn một cách tùy tiện. Khởi đầu của nhận thức, tất phải có sự lựa chọn. Hoạt động trí năng của tuổi trẻ, trước tất cả, là khả năng lựa chọn. Tuổi trẻ học tập để biết lựa chọn. Ðịnh hướng cho tương lai của mình bằng sự lựa chọn sáng suốt.
Các bạn trẻ đang học tập để chuẩn bị cho mình xứng đáng là kẻ thừa sự. Kế thừa gia nghiệp của ông cha, cũng dòng họ. Kế thừa sự nghiệp của dân tộc. Kế thừa di sản nhân loại. Dù đặt ở vị trí nào; bản thân của các bạn trẻ trước hết phải sẽ là người thừa kế. Thành công hay thất bại trong sự nghiệp thừa kế của mình, đó là trách nhiệm của từng người, của từng cá nhân. Hãy tự đào luyện cho mình một trí tuệ, một bản lãnh, để sáng suốt lựa chọn hướng đi, và dũng cảm chịu trách nhiệm những gì ta đã lựa chọn và gây ra cho bản thân và cho cả chúng sanh."
(Nguồn trang nhà quangduc.com)
Qua bài luận, chúng ta lại có thêm một ý niệm lớn. Ý nghĩa của sự nghiệp hay tình cảm không phải để đạt, mà nâng tầm chúng lên một nét đẹp cao quý hơn. Hãy tạo ra một bức tranh tuyệt tác, nhưng cũng đừng quên chổ đứng của mình.
Mượn lời tải đạo trong một ý hướng chân thành. Chúc chư hiền an vui dũng tiến. Adidaphat!

Một câu nói vô tình mà nhiều đạo lý...
Người hỏi:
a di da phat con bach thay tai sao thoi xua ngai yasa va 4 nguoi ban than cua ngai ca cac vi khac nua chi nghe 1 thoi phap la chung qua a la han . sao lai de dang va nhanh vay . nhung ve sau tu mai tu mai, tung kinh lay phat ma tam mai ko lay chuyen. con lay lam thac mac ve su khac biet nay. kinh xin thay giai dap a . a di da phat
Người đáp:
Vì trí lực bất đồng. Tín niệm bất đồng. tâm lượng bất đồng. Chí khí bất đồng. Hành sâu bất đồng.
Người hỏi:
khi nghi ve con duong giai thoat ve viec phan dau tu tap con bi cam giac nang ne. «khi buong long tam nghi rang viec tu tap ko quan he gi den minh . coi viec di tho gioi giong nhu 1 chuyen du hanh tham quan ma thoi tu nhien con thay rat nhe nhang thoai mai» . con thay minh ko co duyen de thanh de tu phat.
Người đáp:
Adidaphat..cảnh giới VÔ SỞ ĐẮC mới là cảnh giới Phật. C đã có cơ hội đi vào rồi đó. Mọi thứ đều buông xuống, không có gì liên quan với mình, lòng nhẹ như không, mới gọi là VÔ SỞ ĐẮC.
Ngày trước cũng có một vị thầy tu chuyên cần niệm Phật nơi thâm sơn. Hơn 30 năm nhưng không thể vào đạo. Một hôm chú tiểu nhỏ mang về con chim Bát Ca (chim sáo) do bị rơi xuống tổ kiến cắn rất tội nghiệp, chú xin thầy được nuôi chim. Bát Ca lớn dần theo lời kinh tiếng mỏ của thầy. Mỗi đêm tiếng tụng kinh, niệm Phật vang khắp núi rừng, chú chim Bát Ca cũng học theo: Nam mô A Di Đà Phật...cóc, cóc,...boong. Nhiều đêm nhà sư bệnh không lên thời khóa Bát Ca vẫn tu tập đúng giờ: Nam mô A Di Đà Phật, cóc, cóc,...boong. Bảy năm sau, Bát Ca cũng về với Phật. Nhà sư thương lắm, lập một ngôi mộ sau vườn chùa. Thấm thoát đã qua một năm từ ngày Bát Ca mất. Mưa nhiều, cỏ mọc rất nhanh, nhà sư ra sau vườn nhặt cỏ, chợt thấy trên đầu mộ, trên miệng Bát Ca có hoa sen mộc. Vị sư già vừa vui vừa buồn, vui vì Bát Ca đã vãng sanh, buồn vì chính mình còn mê muội. Ông ngộ ra: tâm vô cầu mới vào đạo. Trong đêm u tịch nhà sư đã ngâm nga bài kệ:
"Có một con chim gọi Bát Ca
Tối tối theo sư niệm Di Đà
Chết rồi trên mộ hoa sen mọc
Chẳng tu, đắc đạo, lại hơn ta."

Bát Ca đã đánh thức nhà sư việc tu tập thật đơn giản vô cùng, dễ dàng vô cùng, chỉ cần buông xuống, buông mọi tham niệm sẽ vào được đạo. Đây là cảnh giới của VÔ SỞ ĐẮC, của nhân gian tịnh độ.

Diệt cỏ bằng cách trồng hoa lên cỏ" tttt
Rất nhiều tâm bệnh được sinh ra từ một biến cố rất nhỏ trong cuộc đời. Từ khi sanh ra chúng ta như một tờ giấy trắng không chút tì vết, khi lớn lên sự hiểu biết tăng dần cũng thêm nhiều suy nghĩ hơn. Mỗi một suy nghĩ được sinh ra, tiếp nối một suy nghĩ khác tạo thành niệm cảm. Niệm cảm càng lớn ý thức càng nhiều, tốt có, xấu có, và vòng tròn đúng sai bắt đầu có mặt, chúng ta cũng trầm luân theo nó...
Đến khi biết đạo, khởi tâm trừ vọng tưởng, tức những niệm cảm đã qua. Càng cố trừ lại càng cố nhớ. Càng cố quên lại không thể nào quên. Như câu chuyện của một nhà hiền triết, ông biết mình sắp mất nên dạy một bài học cuối cùng: " Này các con, làm cách nào để diệt sạch đám cỏ trước mắt? Các con hãy suy ngẫm thật kỷ rồi trả lời." Mỗi học trò đều có cách riêng: " Thưa thầy, nên lấy cuốc, cuốc sạch từ gốc rễ." " Thưa thầy, nên dùng thuốc diệt cỏ phun." " Thưa thầy, nên lấy đá đè lên." "Thưa thầy, cỏ lên đến đâu thì nhổ sạch đến đó."... Nhà hiền triết mỉm cười không nói gì. Đến một năm sau từ ngày ông mất, các học trò mở quyển sổ nhỏ của thầy lưu lại, có đoạn viết: " Phương pháp dọn sạch cỏ tốt nhất, không lo cỏ mọc lại là trồng hoa trên đó."
Cũng vậy, ký ức là những cái đã qua, đã khắc sâu vào tâm hồn, làm sao để trừ ? Hãy gieo những hạt giống tốt đẹp mới vào đó, vậy thôi.








Mắt nhìn qua song cửa chỉ có thể nhìn thấy cảnh vật trong tầm mắt, sao có thể thấy được những gốc khuất ngoài xa, sao có thể cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp bao la của đất trời.
Ý niệm của mình cũng vậy, đừng bị nó lừa dối chỉ vì một cảm xúc bất ngờ, một cảm xúc tự ái dẫn đến tiêu cực, làm tổn thương đến tình bạn lâu dài.
Nếu mình luôn nhìn nhau bằng thiện chí dù rằng ở nơi gốc khuất ấy mình vẫn cảm nhận sâu sắc thế giới xinh đẹp ngoài kia.

No comments:

Post a Comment