Tổ sư nói ba món tư lương cần có để vãng sanh Tây Phương là ‘tín, nguyện, và hạnh’. Nguyện là chán ghét muốn thoát ly cõi Sa Bà và ưa thích cõi Cực Lạc. (Sa Bà là từ ‘tự tâm ác’ và ‘tâm uế’ (dơ) tạo ra, Cực Lạc là do ‘tự tâm thanh tịnh’ hiện ra). Tuyết Công lão ân sư cũng nhấn mạnh cái tâm ‘hân’ (ưa thích) và tâm ‘yếm’ (chán ghét) là pháp môn ‘tổng an tâm Tịnh độ’.
Phàm phu chúng ta trong cảnh thuận rất khó phát ra tâm chán ghét Sa Bà, bất đắc dĩ nên lão hòa thượng cho đến chư Phật Bồ Tát đều ‘ban’ cho chúng ta những cảnh nghịch, để cho chúng ta ‘dùng khổ làm thầy’, dũng mãnh phát tâm chán ghét Sa Bà ưa thích Cực Lạc mà niệm Phật, liễu sanh thoát tử, dùng sự tinh tấn cần khổ trong đời này đổi lấy sự tự tại hạnh phúc vĩnh viễn; thật ra đây là ân huệ không có gì quý hơn mà các ngài ‘ban’ cho chúng ta. Ngặt vì chúng ta ưa thích những ‘mìn nổ chậm được bao bọc đẹp đẽ bên ngoài’, theo đuổi sự khoái lạc và danh lợi nhất thời mà đánh mất sự an lạc vĩnh cửu. Chư Phật Bồ Tát thường rơi lệ vì những sự tổn thất lớn lao của chúng ta.
Có lần lão hòa thượng nghiêm nghị nói:
“Trong thế giới Sa Bà này, chỉ cần tham ái một ngọn cỏ thì sẽ đi vào luân hồi trở lại”
“Trong thế giới Sa Bà này, chỉ cần tham ái một ngọn cỏ thì sẽ đi vào luân hồi trở lại”
Cho nên mặc cho mọi người đối với ngài vô cùng cung kính cúng dường, ngài vẫn buông xả một cách rất là siêu thoát; ngôi chùa có một kiến trúc vô cùng hùng vĩ trên núi đối với ngài chỉ là ‘một công cụ dạy học nhất thời mà thôi’, ngài mượn những nhân duyên và cảnh giới này để giảng dạy cho những chúng sanh có duyên. Những người buông xả hoàn toàn và thành thật niệm Phật vãng sanh mới là đệ tử chân chánh của ngài. Không lâu trước khi vãng sanh, ngài cứ lặp đi lặp lại và nói:
“Sự khổ nạn càng ngày càng nhiều, hãy tu mau lên, phải tu mau mau; tu một phần được một phần công đức, tu một ngàn phần được một ngàn phần công đức, tu một vạn phần được một vạn phần công đức!”.
Ngài rất nhẫn nại nhắc đi nhắc lại hoài, đây là sự khuyên nhủ vô cùng khẩn thiết; tin lời ngài nói thì hãy thật thà niệm Phật, một môn thâm nhập không nên đổi tới đổi lui hoài!
Có một vị đạo hữu kể lại khi ông đi thăm và hỏi lão hòa thượng:
“Phải niệm Phật cách nào?”.
Ngài nghe xong liền hỏi lại: “Ông niệm như thế nào?”.
Ông trả lời: “Khi tôi rảnh rang thì liền niệm Phật”.
Lão hòa thượng đáp: “Ông ‘rảnh’ thì niệm, không rảnh thì không niệm, như vậy chắc ông có ‘quen biết lớn’ (điểm đầu chi giao) với Phật phải không? Niệm như vậy thì làm sao kỳ vọng Phật đến cứu ông trong giờ phút sanh tử. Lại đây, mọi người đưa chân ra, chân nào là chân Phật? Nhận ra chân của Phật không? Nếu muốn ôm chân Phật, chân Phật là chân nào cũng không nhận ra, thì làm sao ôm được. Ông đích thật là có nhận biết được Phật không?” (ôm chân Phật nghĩa là cầu cứu đức Phật).
Ngài nói như vậy là để thức tỉnh người ta. Vị đạo hữu này kể tiếp, ngài hớp một ngụm trà rồi ngước đầu lên hỏi: “Ông thấy tôi có ‘xướng’ ra tiếng không?”. Ông đáp: “Không có”. Ngài hỏi: “Tôi niệm Phật ông biết không?” Lão hòa thượng dạy một cách rất sống động và biểu diễn niệm Phật trong khi uống trà, ăn cơm, đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả mọi thời đều phải niệm Phật. Nửa đêm không vặn đèn khi nghe hai tiếng ho ‘ách xì’ thì bạn biết là cha bạn đã về. Như vậy lúc nửa đêm nếu đức Phật A Di Ðà đến thì bạn biết là Phật đến hay không? Chúng ta hãy thử hỏi mình đã niệm đến mức nhận biết Phật và cùng Phật rất quen thuộc hay không? Lão hòa thượng đã niệm đến mức đó rồi. Có một lần ngài nói với một vị bác sĩ đến thăm: “Tiếng chim hót, xe chạy, âm thanh tạp loạn đều là tiếng niệm Phật”. Ông này hỏi ngài có thể niệm như vậy được bao lâu, ngài đáp: ‘trú dạ lục thời’ (nghĩa là 24 giờ mỗi ngày, bất kỳ lúc nào cũng niệm như vậy).
Mười năm trước lão hòa thượng đã nói với đệ tử của ngài: “Tương lai lúc tôi vãng sanh sẽ hiện ra tướng có bịnh” và còn nói ba người trong nhóm đệ tử của ngài sẽ không tiễn ngài ra đi (hiện diện lúc ngài ra đi). Ba người đệ tử này đều không tin, tại vì [họ nghĩ] một trong ba người thế nào cũng có một người luôn ở bên cạnh ngài. Làm sao có thể nói là họ không thể ‘tiễn ngài ra đi’ được. Quả nhiên không sai, lúc ngài ra đi vì một lý do đặc biệt gì đó cả ba người tạm thời đi khỏi thì ngài thiệt đã vãng sanh rồi.
Trước lúc ra đi ngài khuyến khích đại chúng:
“Thế giới Sa Bà rất khổ! Ðại chúng mau mau niệm Phật để đi về tây phương Cực Lạc thế giới”.
Cuối cùng ngài nói: “Không đến, không đi, không có chuyện gì!” rồi an nhiên niệm Phật và vãng sanh. Thật là đẹp, thật là siêu phàm!
Chúng ta thì ngược lại: “Ðến đến, đi đi, quá nhiều chuyện!”, không có ngày nào, không có giờ phút nào mà không có chuyện để lo lắng và bận tâm đến. Chữ ‘sự tình’ (chuyện xấu ) trong tiếng địa phương ở Ðài Loan hàm ý không kiết tường, đúng như người ta thường nói:
‘Bất thị nhàn nhân nhàn bất đắc, nhàn nhân bất thị đẳng nhàn nhân’
(Nếu không phải người nhàn hạ thì nhàn không được, người nhàn hạ không phải là người tầm thường).
Trong tâm chúng ta nếu thiệt là không có ‘chuyện gì’ hết, thiệt là ‘nhàn hạ’ thì phải cần công phu tập luyện chứ không phải dễ!
Khoảng một tuần trước lúc ngài vãng sanh, cả ngày lẫn đêm ngài đều to tiếng niệm Phật, cách niệm của ngài là ‘dùng hết sức mình rất thành khẩn mà niệm A Di Ðà Phật’, không phải người nào cũng có thể niệm như vậy được. Ðại chúng luân phiên nhau niệm lớn tiếng theo ngài mà còn khan tiếng, đau ngực, chịu không nổi huống chi ngài đã 95 tuổi ! Ða số người ta lúc gần ra đi thì hô hấp rất yếu ớt, không thể làm chủ được, còn ngài thì mạnh như ‘tướng quân đột phá vòng vây thoát ra khỏi ngũ trược ác thế’. Mấy người đệ tử sợ ngài yếu sức chịu không nổi vì cả tháng ngài đã không ăn gì hết nên nói:
“Ðể chúng con niệm, xin sư phụ đừng niệm, chỉ nghe theo mà thôi!”.
Ngài mở to mắt ra nói một cách rất dứt khoát: “Mỗi người niệm theo mỗi người, sanh tử của ai thì tự người đó đoạn dứt.”
Nói xong liền lớn tiếng và thành khẩn mà niệm tiếp. Vào ngày thứ sáu trong tuần đó, đột nhiên ngài ‘biểu diễn’ một màn kịch, tôi nghĩ thật là đáng để mọi người chiêm nghiệm. Hôm đó đột nhiên ngài không khuyên mọi người niệm A Di Ðà Phật như lúc trước mà lại ra lịnh cho đại chúng mau đem Ðại Tạng Kinh ra tụng. Ðại Tạng Kinh quá dài ai cũng không biết bắt đầu từ đâu mà tụng nên hỏi lão hòa thượng phải tụng quyển nào?
Ngài đáp: “Tổng tụng” (tụng hết).
Ðại chúng mới đem từ quyển Ðại Tạng Kinh ra, nội việc khiêng ra cũng mệt đứt hơi, nhìn thấy ngài có vẻ rất quyết tâm vãng sanh, mọi người vừa mệt, vừa gấp, mà vừa buồn. Ngài nói: “Ðể coi quý vị biết quyển kinh nào, tất cả đều tụng cho tôi nghe!” Vì thế cho nên đại chúng mới tụng từng bộ từng bộ: Tâm kinh, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Ðịa Tạng, … Lúc ở trong cửa ngõ sanh tử khẩn yếu này mới biết nội hai trăm mấy chữ trong Tâm kinh cũng tụng không mạch lạc; có thể nói là miệng họ tụng nhưng tâm họ lại lo ra. Lúc mọi người tụng kinh như vậy, ngài lại cười chúm chím mà tiếp tục niệm: “Nam mô A Di Ðà Phật, Nam mô A Di Ðà Phật, ….” một tí gì cũng không bị ảnh hưởng bởi âm thanh đại chúng đang tụng kinh. Nụ cười này của ngài thiệt là một cây gậy thật to đập vào đầu của mọi người! Thử hỏi trong màn biểu diễn bất ngờ này có ai đã ‘tổng tụng’ Ðại Tạng kinh không? Duy chỉ có lão hòa thượng niệm niệm phân minh, rõ ràng, niệm niệm rất khẩn thiết mạnh mẽ niệm A Di Ðà Phật, đây mới là ‘tổng tụng’ Ðại Tạng kinh!
Chúng ta xin đừng nghi hoặc tại sao lão hòa thượng lại thay đổi tiết mục bất ngờ như vậy. Ngài thường dùng phương pháp ‘phản diện’ rất khéo léo để làm cho mọi người tỉnh giác và còn làm cho mọi người ghi nhớ vào xương vào tuỷ; ý nghĩa rốt ráo của sự tu hành là phải ‘thực hành’, không phải chỉ nghe rồi bỏ qua; trong trường Y khoa bàn luận chuyện chữa bịnh trên sách vở hiển nhiên rất khác với chuyện gặp lúc bệnh nhân máu chảy đầm đìa! Có lẽ các bạn sẽ nghĩ sự thị hiện của lão hòa thượng rất giống cách nói của Tuyết Công lão ân sư:
‘Sáu chữ hồng danh bao gồm hết tinh hoa của tất cả vạn pháp’.
Phần đông người ta khi lâm chung rất khổ sở, chỉ bốn chữ ‘A Di Ðà Phật’ cũng niệm không được, huống gì là tụng kinh mà còn tụng Ðại Tạng kinh nữa! Chúng ta hãy nghe theo lời dạy bảo và hãy ‘lão thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục’ nữa. Ðừng lâm vào tình trạng ‘luyện hết mười tám thứ võ nghệ, đến lúc khổ đau quá không biết phải dùng thứ nào’. Mỗi ngày thay đổi đề mục hình như có vẻ học rộng biết nhiều và hình như cũng kết rất nhiều duyên với Phật và Bồ Tát. Ðến lúc cần thiết thì tâm rối nùi như tơ, không biết phải niệm vị nào mới được. Thiệt ra trong kinh A Di Ðà có nói: ‘Sáu phương Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán A Di Ðà Phật, khuyên chúng sanh tín thọ cầu sanh Tây phương’. Ðây là nói rõ chúng ta niệm Phật A Di Ðà thì tất cả chư Phật đều vui vẻ tán thán, đây chính là ‘tổng tụng’ vậy!
Phần đông người ta khi lâm chung rất khổ sở, chỉ bốn chữ ‘A Di Ðà Phật’ cũng niệm không được, huống gì là tụng kinh mà còn tụng Ðại Tạng kinh nữa! Chúng ta hãy nghe theo lời dạy bảo và hãy ‘lão thật niệm Phật, đừng thay đổi đề mục’ nữa. Ðừng lâm vào tình trạng ‘luyện hết mười tám thứ võ nghệ, đến lúc khổ đau quá không biết phải dùng thứ nào’. Mỗi ngày thay đổi đề mục hình như có vẻ học rộng biết nhiều và hình như cũng kết rất nhiều duyên với Phật và Bồ Tát. Ðến lúc cần thiết thì tâm rối nùi như tơ, không biết phải niệm vị nào mới được. Thiệt ra trong kinh A Di Ðà có nói: ‘Sáu phương Phật đều hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán A Di Ðà Phật, khuyên chúng sanh tín thọ cầu sanh Tây phương’. Ðây là nói rõ chúng ta niệm Phật A Di Ðà thì tất cả chư Phật đều vui vẻ tán thán, đây chính là ‘tổng tụng’ vậy!
Hai ngày trước lúc vãng sanh, lão hòa thượng đích thân gõ mõ và kêu đệ tử niệm Phật, trong đó có nhiều chuyện rất thú vị. Ngài đem câu ‘Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới’ niệm ráp vào danh hiệu của các vị Phật và Bồ Tát. Thí dụ như Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Phổ Hiền Bồ Tát , Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Di Lặc Bồ Tát ….Tôi hiểu ý của ngài là ‘có thể gặp tất cả những vị Bồ Tát này ở thế giới Cực Lạc’, chỉ cần chuyên niệm A Di Ðà Phật cầu sanh tây phương thì có thể sánh bước cùng họ khi đến tây phương!
Một hôm tôi cùng một bác sĩ lên núi để thỉnh giáo ngài. Ông bác sĩ này hỏi: “Làm thế nào tĩnh tọa mới có thể đả thông huyết mạch?”. Ngài đáp: “Không cần phải đả thông huyết mạch, nhất tâm niệm Phật chứng đến Niệm Phật Tam Muội thì tất cả huyết mạch tự nhiên đều thông!”; đây là lời dạy của người đã giác ngộ và đã được đại tự tại; chúng ta hiểu được thì không cần phải phí sức tốn công đi tìm kiếm vô ích. Mau sớm chuẩn bị tư lương như ngài đã nói:
“Tôi đã mua vé xe rồi! Đã xác nhận ghế ngồi rồi!
Quý vị có phải đã mua vé rồi hay chưa?
Ðã xác nhận ghế rồi chưa?
Hay là không cần xác nhận chỗ ngồi?
Hay là không chịu lên xe? ”
Phải nên mua vé sớm thì hơn, đừng làm giống tôi sau khi ngài vãng sanh lên núi niệm Phật, niệm hết mấy giờ đồng hồ, nước mắt cứ chảy hoài, không thể nào niệm Phật được đàng hoàng để cúng dường lão hòa thượng; cúi đầu không dám ngước lên, tại vì không làm theo đúng lời dạy và lời dặn dò của ngài, xấu hổ và sám hối đều đau khổ; xin nguyện cho các bạn đều sớm mua vé thượng hạng ở toa thứ nhất, lên đài sen vàng ở thượng phẩm thượng sanh!
No comments:
Post a Comment