Wednesday, January 6, 2016

Kinh A Di Đà * Kinh Quán Vô Lượng Thọ * KInh Vô Lượng Thọ










1. LƯ-HƯƠNG TÁN 炉 香 赞
Lư hương xạ nhiệt 炉 香 乍 热。
Pháp giới mông huân 法 界 蒙 薰。
Chư Phật hải hội tất diêu văn 诸 佛 海 会 悉 遥 闻。
Tùy xứ kiết tường vân 随 处 结 祥 云。
Thành ý phương ân 诚 意 方 殷。
Chư Phật hiện toàn thân. 诸 佛 现 全 身。
南 无 香 云 盖 菩 萨 摩 诃 萨 (三 称)
Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát Ma-ha-tát. (3 lần)
2. QUÁN TƯỞNG
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
3. ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
4. TÁN PHẬT
阿 彌 陀 佛 身 金 色
A Di Đà Phật thân kim sắc
相 好 光 明 無 等 倫
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân
白 毫 宛 轉 五 須 彌
Bạch hào uyển chuyển ngủ tu di
紺 目 澄 清 四 大 海
Hám mục trừng thanh tứ đại hải
光 中 化 佛 無 數 億
Quang trung hóa Phật vô số ức
化 菩 薩 眾 亦 無 邊
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên
四 十 八 願 度 眾 生
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
九 品 咸 令 登 彼 岸
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
5. 開 經 偈 KHAI KINH KỆ
無 上 甚 深 微 妙 法
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
百 千 萬 劫 難 遭 遇
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
我 今 見 聞 得 受 持
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
願 解 如 來 真 實 義
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
6. PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH 佛 說 阿 彌 陀 經
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dữ đại tỳ kheo tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-la-hán, chúng sở tri thức: Trưởng-lão Xá-lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-Liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-Diên, Ma-ha Câu-hy-La, Ly-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-dà, Nan-đà, A-nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô Phả-la-đọa, Ca-lưu dà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử. Tinh chư Bồ-tát Ma-ha-tát: Văn-thù-sư-lợi Pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Kiền-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng chư đại Bồ-tát, Cập Thích-đề-hoàn-nhơn đẳng, vộ lượng chư thiên đại chúng câu.
如是我聞。一時佛在舍衛國祇樹給孤獨園。與大比丘僧千二百五十人俱。皆是大阿羅漢。眾所知識。長老舍利弗。摩訶目乾連。摩訶迦葉。摩訶迦栴延。摩訶拘絺羅。離婆多。周梨槃陀迦。難陀。阿難陀。羅睺羅。憍梵波提。賓頭盧頗羅墮。迦留陀夷。摩訶劫賓那。薄俱羅。阿樓馱。如是等諸大弟子。并諸菩薩摩訶薩。文殊師利法王子。阿逸多菩薩。乾陀訶提菩薩。常精進菩薩。與如是等諸大菩薩。及釋提桓因等。無量諸天大眾俱
Nhĩ thời Phật cáo Trưởng-lão Xá-lợi-Phất: “Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-Đà, kim hiện tại thuyết Pháp. 
爾時佛告長老舍利弗。從是西方過十萬億佛土。有世界名曰極樂。其土有佛號阿彌陀。今現在說法。
Xá-lợi-Phất: Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ quốc chúng-sinh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc.
舍利弗。彼土何故名為極樂。其國眾生無有眾苦。但受諸樂故名極樂。
Hựu Xá-lợi-Phất, Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc, danh vi Cực-lạc.
又舍利弗。極樂國土。七重欄楯七重羅網七重行樹。皆是四寶周匝圍繞。是故彼國名曰極樂。
Hựu Xá-lợi-Phất, Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung. Trì để thuần dĩ kim sa bố địa, tứ biên giai đạo, kim-ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành, thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não, nhi nghiêm sức chi; trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc, bạch quang, vi diệu hương khiết. Xá-lợi-Phất, Cực-lạc quốc độ, thành tựu như thị công-đức trang nghiêm.
又舍利弗。極樂國土有七寶池。八功德水充滿其中。池底純以金沙布地。四邊階道。金銀琉璃頗梨合成。上有樓閣。亦以金銀琉璃頗梨車磲赤珠馬瑙而嚴飾之。池中蓮花大如車輪。青色青光。黃色黃光。赤色赤光。白色白光微妙香潔。舍利弗。極樂國土成就如是功德莊嚴
Hựu Xá-lợi-Phất, bỉ Phật quốc độ, thường tấu thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn đà la hoa, kỳ độ chúng-sinh, thường dĩ thanh đán, các dĩ y kích, thịnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương, thập vạn ức Phật. Tức dĩ thực thời, hoàn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. Xá-lợi-Phất, Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
又舍利弗。彼佛國土常作天樂。黃金為地。晝夜六時天雨曼陀羅華。其國眾生常以清旦各以衣裓盛眾妙華。供養他方十萬億佛。即以食時還到本國。飯食經行。舍利弗。極樂國土成就如是功德莊嚴
Phục thứ, Xá-lợi-Phất, bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu: bạch-hạc, khổng-tước, anh-võ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già, cọng-mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm kỳ âm diễn sướng, ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng sinh, văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá-lợi-Phất, nhữ vật vị thử điểu thiệt thị tội báo sở sinh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ, vô tam ác đạo, Xá-lợi-Phất, kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt. Thị chư chúng điểu giai thị A-di-đà Phật, dục linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác.
復次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鵠孔雀鸚鵡舍利迦陵頻伽共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時出和雅音。其音演暢五根五力七菩提分八聖道分如是等法。其土眾生聞是音已。皆悉念佛念法念僧。舍利弗。汝勿謂此鳥實是罪報所生。所以者何。彼佛國土無三惡趣。舍利弗。其佛國土尚無惡道之名。何況有實。是諸眾鳥。皆是阿彌陀佛。欲令法音宣流變化所作。
Xá-lợi-Phất, bỉ Phật quốc độ, vi phong suy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc, đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sinh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chí tâm. Xá-lợi-Phất. kỳ phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
舍利弗。彼佛國土。微風吹動諸寶行樹及寶羅網出微妙音。譬如百千種樂同時俱作。聞是音者皆自然生念佛念法念僧之心。舍利弗。其佛國土成就如是功德莊嚴。
Xá-lợi-Phất, ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-di-Đà? Xá-lợi-Phất, bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-di-Đà. Hựu Xá-lợi-Phất, bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-di-Đà. Xá-lợi-Phất, A-Di-Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp.
舍利弗。於汝意云何。彼佛何故號阿彌陀。舍利弗。彼佛光明無量。照十方國無所障礙。是故號為阿彌陀。又舍利弗。彼佛壽命。及其人民無量無邊阿僧祇劫。故名阿彌陀。舍利弗。阿彌陀佛成佛已來於今十劫。
Hựu Xá-lợi-Phất, bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số, chi sở năng tri, chư Bồ-tát chúng, diệc phục như thị. Xá-lợi-Phất, bỉ Phật quốc độ, thành tựu như thị công-đức trang-nghiêm.
又舍利弗。彼佛有無量無邊聲聞弟子。皆阿羅漢。非是算數之所能知。諸諸菩薩亦復如是。舍利弗。彼佛國土成就如是功德莊嚴
Hựu Xá-lợi-Phất, Cực-lạc quốc-độ, chúng-sinh sinh giả, giai thị A-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhất sinh bổ xứ. Kỳ số thậm đa, phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thuyết.
又舍利弗。極樂國土眾生生者皆是阿鞞跋致。其中多有一生補處。其數甚多。非是算數所能知之。但可以無量無邊阿僧祇劫說。
Xá-lợi-Phất, chúng sinh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sinh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhơn, câu hội nhứt xứ
舍利弗。眾生聞者。應當發願願生彼國。所以者何。得與如是諸上善人俱會一處。
Xá-lợi-Phất, bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên đắc sinh bỉ quốc.
舍利弗。不可以少善根福德因緣得生彼國。
Xá-lợi-Phất, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, văn thuyết A-Di-Đà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Đà Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền. Thị nhơn chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A-Di-Đà Phật Cực-lạc quốc độ.
舍利弗。若有善男子善女人。聞說阿彌陀佛。執持名號。若一日。若二日。若三日。若四日。若五日。若六日。若七日。一心不亂。其人臨命終時。阿彌陀佛與諸聖眾。現在其前。是人終時心不顛倒。即得往生阿彌陀佛極樂國土。
Xá-lợi-Phất, ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn. Nhược hữu chúng sinh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ.
舍利弗。我見是利故說此言。若有眾生聞是說者。應當發願生彼國土
Xá-lợi-Phất, như ngã kim giả, tán thán A-Di-Đà Phật, bất khả tư nghì công đức chi lợi.
舍利弗。如我今者讚歎阿彌陀佛不可思議功德之利。
Đông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, Đại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị “xưng tán bất khả tư nghì công-đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.
東方亦有阿閦鞞佛。須彌相佛。大須彌佛。須彌光佛。妙音佛。如是等恒河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相。遍覆三千大千世界說誠實言。汝等眾生當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經
Xá-lợi-Phất, Nam phương thế-giới hữu Nhật-nguyệt-đăng Phật, Danh-văn-quang Phật, Đại-diệm-kiên Phật, Tu-di-đăng Phật, Vô-lượng-tinh-tấn Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn:nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị “xưng tán bất khả tư nghì công-đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.
舍利弗。南方世界有日月燈佛。名聞光佛。大焰肩佛。須彌燈佛。無量精進佛。如是等恒河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相。遍覆三千大千世界說誠實言。汝等眾生當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經
Xá-lợi-Phất, Tây phương thế-giới hữu Vô-lượng-thọ Phật, Vô-lượng-tướng Phật, Vô-lượng-tràng Phật, Đại-quang Phật, Đại-minh Phật, Bảo-tướng phật, Tịnh-quang Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị “xưng tán bất khả tư nghì công-đức nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.
舍利弗。西方世界有無量壽佛。無量相佛。無量幢佛。大光佛。大明佛。寶相佛。淨光佛。如是等恒河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相。遍覆三千大千世界說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經
Xá-lợi-Phất, Bắc phương thế giới hữu Diệm-kiên Phật, Tối-thắng-âm Phật, Nan-trở Phật, Nhựt-sinh Phật, Võng-minh Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ-quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị “xưng tán bất khả tư nghì công-đức, nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh”.
舍利弗。北方世界有焰肩佛。最勝音佛。難沮佛。日生佛。網明佛。如是等恒河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相遍覆三千大千世界說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經
Xá-lợi-Phất, Hạ phương thế-giới, hữu Sư-tử Phật, Danh-văn Phật, Danh-quang Phật, Đạt-ma Phật, Pháp-tràng Phật, Trì-pháp Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn: nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị “xưng tán bất khả tư nghì công-đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.
舍利弗。下方世界有師子佛。名聞佛。名光佛。達摩佛。法幢佛。持法佛。如是等恒河沙數諸佛。各於其國出廣長舌相。遍覆三千大千世界說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經
Xá-lợi-Phất, Thượng phương thế-giới hữu Phạm-âm Phật, Tú-vương Phật, Hương-thượng Phật, Hương-quang Phật, Đại-diệm-kiên Phật, Tạp-sắc Bảo-hoa Nghiêm-thân Phật, Ta-la Thọ-vương Phật, Bảo-hoa-đức Phật, Kiến-nhất-thiết-nghĩa Phật, Như-tu-di-sơn Phật, Như thị đẳng hằng-hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thiệt ngôn: nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị “xưng tán bất khả tư nghì công-đức, nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”.
舍利弗。上方世界有梵音佛。宿王佛。香上佛。香光佛。大焰肩佛。雜色寶華嚴身佛。娑羅樹王佛。寶華德佛。見一切義佛。如須彌山佛。如是等恒河沙數諸佛。各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經
Xá-lợi-Phất, ư nhữ ý vân hà? hà cố danh vi “nhất thiết chư Phật, sở hộ niệm kinh?” Xá-lợi-Phất, nhược hữu thiện nam tử, thiện-nữ nhơn, văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhơn giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư A-nậu đa-la Tam miệu Tam-Bồ-đề. Thị cố Xá-lợi-Phất, nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết.
舍利弗。於汝意云何。何故名為一切諸佛所護念經。舍利弗。若有善男子善女人。聞是經受持者。及聞諸佛名者。是諸善男子善女人。皆為一切諸佛共所護念。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。是故舍利弗。汝等皆當信受我語及諸佛所說
Xá-lợi-Phất, nhựơc hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sinh A-Di-Đà Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư A-nậu đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sinh, nhược kim sinh, nhược đương sinh. Thị cố Xá-lợi-Phất, chư thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ.
舍利弗。若有人已發願。今發願。當發願。欲生阿彌陀佛國者。是諸人等。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。於彼國土若已生。若今生。若當生。是故舍利弗。諸善男子善女人。若有信者。應當發願生彼國土
Xá-lợi-Phất, như ngã kim giả, xưng tán chư Phật, bất khả tư nghì công đức; bỉ chư Phật đẳng diệc xưng tán ngã bất khả tư nghì công đức, nhi tác thị ngôn: Thích-ca Mâu-ni Phật, năng vi thậm nan hy hữu chi sự: năng ư Ta-bà quốc-độ, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược trung, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, vị chư chúng sinh, thuyết thị nhất thiết thế-gian nan tín chi pháp.
舍利弗。如我今者稱讚諸佛不可思議功德。彼諸佛等。亦稱說我不可思議功德。而作是言。釋迦牟尼佛能為甚難希有之事。能於娑婆國土五濁惡世。劫濁。見濁。煩惱濁。眾生濁。命濁中。得阿耨多羅三藐三菩提。為諸眾生。說是一切世間難信之法。
Xá-lợi-Phất, đương tri ngã ư ngũ trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, vị nhứt thiết thế gian, thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan.
舍利弗當知。我於五濁惡世。行此難事。得阿耨多羅三藐三菩提。為一切世間。說此難信之法。是為甚難。
Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá-lợi-Phất, cập chư Tỳ-kheo, nhất thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
佛說此經已。舍利弗及諸比丘。一切世間天人阿修羅等。聞佛所說歡喜信受。作禮而去

7. 懺 悔 文 SÁM HỐI VĂN
往 昔 所 造 諸 惡 業
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
皆 由 無 始 貪 嗔 痴
Giai do vô thủy tham sân si
從 身 語 意 之 所 生
Tùng thân ngử ý chi sở sanh
一 切 我 今 皆 懺 悔
Nhất thiết ngã kim giai sám hối
8. TAM TỰ QUY Y
Tự quy y Phật. Đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp. Đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y Tăng. Đương nguyện chúng sanh thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
9. PHÁT NGUYỆN
願 生 西 方 淨 土 中,
Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung,
九 品 蓮 花 為 父 母。
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
花 開 見 佛 悟 無 生,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
不 退 菩 薩 為 伴 侶。
Bất thối bồ tát vi bạn lữ.
10. 回 向 HỒI HƯỚNG
願 以 此 功 德。
Nguyện dĩ thử công đức,
莊 嚴 佛 淨 土。
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ,
上 報 四 重 恩。
Thượng báo tứ trọng ân,
下 濟 三 途 苦。
Hạ tế tam đồ khổ,
若 有 見 聞 者。
Nhược hữu kiến văn giả,
悉 發 菩 提 心。
Tức phát bồ đề tâm,
盡 此 一 報 身。
Tận thử nhất báo thân,
同 生 極 樂 國。
Đồng sanh Cực Lạc Quốc.
南 無 阿 彌 陀 佛 Nam Mô A Di Đà Phật

Nghi Thức Tụng Kinh A Di Đà – Phiên Bản Tiếng Viêt PDF
Phật Thuyết A Di Đà Kinh – Phim Hoạt Hình Phật Giáo 2014


KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Hán dịch : Lưu Tống, Tam Cương Lương Gia Xá
Việt dịch : Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
(Pháp Hội Quán Vô Lượng Thọ Phật Thứ 62 Kinh Đại Bảo Tích)
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Chúng Bồ Tát có ba vạn hai ngàn, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử đại Bồ Tát làm thượng thủ.
Lúc bấy giờ thành Vương Xá có một Thái Tử tên là A Xà Thế thuận theo lời bảo của ác hữu Điều Đạt bắt vua cha Tần Bà Sa La nhốt trong nhà tối bảy từng cửa, cấm các quan không một ai được vào.
Quốc Thái phu nhơn tên là Vi Đề Hi cung kính Đại Vương, tắm gội sạch sẽ, lấy tô và mật nhồi mì sợi rồi trét lên thân, trong hột chuỗi ngọc đeo đựng nước nho, đi vào ngục thăm Đại Vương kín đáo dân lên.
Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì uống nước nho rồi xin nước súc miệng. Súc miệng xong. Đại Vương chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ Xà Quật vói đãnh lễ Thế Tôn mà bạch rằng : “Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên là thân hữu của tôi, nguyện hưng từ bi truyền thọ giới Bát Quan Trai cho tôi”.
Liền đó Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên như chim ưng bay mau đến chỗ vua, truyền giới bát Quan Trai cho vua.
Ngày ngày đều như vậy, đến truyền giới cho vua.
Đức Thế Tôn cũng sai Tôn gỉa Phú Lâu Na đến vì vua mà thuyết pháp.
Thời gian như vậy trải qua hai mươi mốt ngày, Đại Vương Tần Bà Sa La ăn mì mật, uống nước nho, lại được thọ giới Bát Quan Trai, được nghe thuyết pháp nên nhan sắc vua hòa vui.
A Xà Thế hỏi người giữ cửa ngục rằng : “Hôm nay Phụ Vương ta vẫn còn sống ư ?”.
Người giữ cửa ngục tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Quốc Thái phu nhơn trên thân trét mì mật, trong chuỗi ngọc đựng nước nho đem dâng lên vua. Còn có Sa Môn Đại Mục Kiền Liên và Phú Lâu Na đi từ trên hư không đến vì vua thuyết pháp chẳng thể cấm cản được”.
A Xà Thế nghe lời ấy giận mẹ mình rằng : “Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc. Sa Môn ác nhơn huyễn hoặc chú thuật khiến ác vương ấy nhiều ngày mà chẳng chết”.
A Xà Thế liền cầm gươm bén muốn giết mẹ.
Lúc ấy có một đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh nhiều trí cùng với Kỳ Bà đến lễ vua A Xà Thế mà tâu rằng : “Tâu Đại Vương ! Chúng thần nghe Tỳ Đà Luận kinh nói từ kiếp sơ đến nay có các ác vương vì tham ngôi vua mà giết hại cha mình đến số một vạn tám ngàn. Chưa từng nghe nói có kẻ vô đạo hại mẹ. Nay Đại Vương làm sự sát nghịch nầy ô uế dòng Sát Đế Lợi. Chúng thần chẳng nỡ nghe. Đây là Chiên Đà La. Chúng tôi chẳng nên còn ở lại nơi đây”.
Hai vị đại thần tâu rồi lấy tay vỗ lên gươm đeo lui mà ra.
A Xà Thế kinh sợ hãi hùng bảo Kỳ Bà rằng : “Còn anh cũng chẳng vì ta chăng ?”.
Kỳ Bà tâu rằng : “Đại Vương cẩn thận chớ có hại mẹ”.
A Xà Thế nghe lời ấy sám hối cầu cứu liền bỏ gươm thôi không hại mẹ, truyền lịnh cho nội quan nhốt mẹ vào thâm cung chẳng cho ra nữa.
Vi Đề Hi bị giam nhốt rồi sầu lo tiều tụy vói hướng về núi Kỳ Xà Quật lạy Phật mà nói rằng : “Ngày trước đức Như Lai Thế Tôn thường sai Tôn gỉa A Nan đến thăm hỏi tôi. Nay tôi sấu lo, đức Thế Tôn oai trọng không sao được thấy. Duy nguyện đức Thế Tôn sai các Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên và A Nan đến cho tôi được thấy”.
Nói xong, Vi Đề Hi buồn khóc lệ rơi như mưa vói hướng lạy Phật, trong khoảng thời gian chưa cất đầu lên.
Đức Thế Tôn ở núi Kỳ Xà Quật biết tâm niệm của Vi Đề Hi liền bảo Đại Mục Kiền Liên và A Nan đi trên hư không. Đức Phật từ núi Kỳ Xà Quật ẩn mất hiện ra nơi vương cung.
Vi Đề hi lạy rồi ngước đầu lên thấy Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật thân màu tử kim ngồi trên hoa sen trăm báu. Tôn gỉa Đại Mục Kiền Liên hầu bên tả, Tôn gỉa A Nan hầu bên hữu. Trong hư không hàng Phạm Vương, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Vương mua hoa trời khắp nơi để cúng dường.
Vi Đề Hi thấy Phật Thế Tôn liền tự bứt chuỗi ngọc cả thân mình giao xuống đất kêu khóc hướng Phật mà chạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Xưa tôi tội gì mà sanh đứa ác tử ấy. Đức Thế Tôn lại có nhơn duyên gì mà cùng làm quyến thuộc với Đề Bà Đạt Đa. Duy nguyện đức Thế Tôn vì tôi mà nói rộng những xứ không có lo khổ tôi sẽ vãng sanh, tôi không còn thích cõi Diêm Phù Đề trược ác thế nầy. Xứ trược ác nầy đầy những địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhiều khối bất thiện. Nguyện tôi đời vị lai chẳng nghe danh từ ác, chẳng thấy người ác. Nay tôi hướng về Thế Tôn năm vóc gieo xuống đất cầu thương cho tôi sám hối. Duy nguyện Phật Nhựt dạy tôi quán nơi xứ nghiệp hành thanh tịnh”.
Đức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh sáng ấy màu chơn kim chiếu khắp mười phương vô lượng thế giới trở về trụ tại đỉnh đầu Phật hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy. Hoặc có quốc độ thất bữu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung. Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp khiến Vi Đề Hi được thấy.
Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Dầu các Phật độ ấy đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích sanh về Cực Lạc thế giới chỗ của đức Phật A Di Đà.
Duy nguyện dức Thế Tôn dạy tôi tu duy, dạy tôi chánh thọ”.
Đức Thế Tôn liền mĩm cười có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La.
Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại xa thấy đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật tự nhiên tăng tiến đạo lực thành bực A Na Hàm.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Nay Thái phu nhơn có biết chăng ?
Phật A Di Đà cách đây chẳng xa, bà nên nhiếp niện quán kỹ cõi nước ấy thì tịnh nghiệp được thành.
Nay ta sẽ vì bà mà nói rộng pháp quán, cùng khiến đời vị lai tất cả hàng phàm phu, những người muốn tu tịnh nghiệp được thọ sanh Tây phương Cực Lạc quốc độ.
Nầy Vi Đề Hi ! Người muốn sang nước Cực Lạc ấy nên tu ba phước:
Một là hiếu nuôi cha mẹ, kính thờ bực Sư trưởng, có tâm nhơn từ chẳng giết hại và tu tập mười nghiệp lành.
Hai là thọ trì tam quy y đầy đủ các cấm giới và chẳng phạm oai nghi.
Ba là phát tâm Bồ đề sâu kín nhơn quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa và khuyên dạy sách tiến người tu hành.
Ba sự như vậy gọi là tịnh nghiệp.
Nầy Vi Đề Hi ! Nay bà có biết chăng ? Ba tịnh nghiệp ấy là chánh nhơn tịnh nghiệp của tam thế chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi rằng : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ. Nay Như Lai vì tất cả chúng sanh đời vị lai, những kẻ bị giặc phiền não nhiễu hại mà nói nghiệp thanh tịnh.
Lành thay cho Vi Đề Hi khéo hỏi được việc ấy.
Nầy A Nan ! Ông nên thọ trì rộng vì đại chúng mà tuyên nói lời Phật.
Hôm nay Phật vì Vi Đề Hi và vị lai tất cả chúng sanh quán nơi Tây phương Cực Lạc quốc độ, do nguyện lực Phật nên sẽ được quốc độ thanh tịnh ấy như cầm gương sáng tự thấy hình tượng mặt mình. Thấy những sự vui cùng cực vi diệu của quốc độ ấy nên tâm vui mừng liền được Vô sanh pháp nhẫn”.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Bà là phàm phu tâm tưởng yếu kém chưa được thiên nhãn chẳng thể thấy được xa. Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến bà được thấy”.
Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Như hôm nay tôi nhờ oai lực của đức Phật Thế Tôn mà được thấy quốc độ Cực Lạc ấy. Nếu sau khi đức Phật Thế Tôn diệt độ, các chúng sanh trược ác bất thiện bị ngũ khổ bức ngặt, họ làm thế nào có thể được thấy A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới ?”.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Bà và chúng sanh nên phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ tưởng nơi phương Tây.
Tưởng niệm thế nào ?
Tất cả chúng sanh những người có mắt sáng mà chẳng phải là kẻ sanh manh thì đầu thấy mặt nhựt lặn cả.
Phàm người tu tập quán tưởng nên phát khởi tưởng niệm, ngồi ngay thẳng hướng về phía Tây quán kỹ chỗ mặt nhựt sắp lặn khiến tâm niệm trụ vững chuyên tưởng nhớ chẳng đời. Thấy mặt nhựt sắp lặn đang như mặt trống đồng treo. Đã thấy mặt nhựt rồi, nhắm mắt mở mắt đều khiến phải sáng tỏ. Đây là nhựt tưởng, gọi là pháp quán ban đầu.
Kế đó quán tưởng nước. Thấy nước đứng trong, cũng khiến phải sáng tỏ, ý tưởng không phân tán, đã thấy nước rồi nên quán tưởng băng, thấy băng chói suốt tưởng làm lưu ly. Tưởng nầy thành rồi thấy đất lưu ly trong ngoài suốt chói, phía dưới có trăng vàng kim cương thất bữu bưng chống đất lưu ly. Kim tràng ấy tám phương đầy đủ tám cạnh. Mỗi mỗi phương diện do trăm châu báu làm thành. Mỗi mỗi bửu châu có ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu chói đất lưu ly sáng như ức ngàn mặt nhựt chẳng thể thấy đủ hết được.
Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen kết lẫn lộn với thất bữu giăng phân ranh giới chừng ngằn ngang rộng phân minh. Trong mỗi mỗi thất bữu ấy có ánh sáng ngũ sắc. Anh sáng ấy như đoá hoa lại có như sao như trăng lững lờ trên hư không tụ thành đài ánh sáng. Có ngàn vạn lầu các do trăm báu hiệp thành. Hai bên đài đều riêng có trăm ức hoa tràng với vô lượng nhạc khí dùng làm trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng phát ra xao động các nhạc khí ấy vang ra tiếng diễn nói khổ không, vô thường, vô ngã.
Đây là thủy tưởng gọi là pháp quán thứ hai.
Lúc quán tưởng nầy đã thành phải mỗi mỗi sự quán thấy thiệt rất rõ ràng. Lúc nhắm mắt lúc mở mắt chớ để tan mất, chỉ trừ lúc ăn, thường nhớ sự ấy. Như tưởng quán ấy gọi là thô thấy đất Cực Lạc quốc độ. Nếu được tam muội thì thấy đất cõi nước Cực Lạc tỏ rõ phân minh chẳng thể nói đủ hết. Đây là địa tưởng gọi là pháp quán thứ ba.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan !Ông thọ trì lời Phật vì đời vị lai tất cả đại chúng những người muốn thoát khổ mà nói pháp quán địa ấy. Nếu người quán địa ấy thì trừ được tội sanh tử trong tám mươi ức kiếp, bỏ thân hiện tại, đời khác quyết định thọ sanh quốc độ thanh tịnh, tâm được không nghi.
Quán tưởng đây gọi là chánh quán. Nếu quán tưởng khác thỉ gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi : “Địa quán thành rồi, kế tưởng bửu thọ.
Người quán cây báu phải quán mỗi mỗi cây. Tưởng bảy lớp hàng cây báu. Mỗi cây báu cao tám ngàn do tuần. các cây báu ấu đều đầy đủ bông lá bảy báu. Mỗi mỗi bông lá tưởng màu khác lạ. Trong màu lưu ly phóng ánh sáng màu hoàng kim. Trong màu pha lê phóng ánh sáng màu hồng. Trong màu mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Trong màu xa cừ phóng ánh sáng màu lục chơn châu. San hô hổ phách tất cả các báu dùng làm chói đẹp. Màn lưới diệu chơn châu giăng che trên cây báu. Trên mỗi mỗi cây báu có bảy lớp màn lưới. Khoảng mỗi mỗi lưới có năm trăm ức cung điện xinh đẹp vi diệu như cung Trời Phạm Vương, có các thiên đồng tử tự nhiên ở trong ấy. Mỗi mỗi đồng tử có năm trăm ức châu ma ni Thích ca tỳ lăng già dùng là chuỗi đeo. Anh sáng mỗi châu ma ni ấy chiếu trăm ức do tuần, dường như hòa hiệp ánh sáng của trăm ức nhựt nguyệt chẳng thể kể hết. Các báu xen lẫn màu sắc sáng đẹp nhứt trong các màu sắc.
Các cây báu ấy hàng hàng ngay nhau, lá lá kế nhau. Giữa khoảng các lá sanh những hoa vi diệu. Trên hoa tự nhiên có quả thất bửu. Mỗi mỗi lá cây ngang rộng đều hai mươi lăm do tuần. Lá ấy có ngàn màu trăm thứ lằn vẽ như chuỗi ngọc Trời. Có những hoa vi diệu màu diêm phù đàn kim như vòng lửa xoay chói sáng uyển chuyển khoảng giữa lá, vọt sanh những quả như bình báu của Thiên Đế Thích, phóng đại quang minh hóa thành tràng phan và vô lượng lọng báu. Trong lọng báu ấy chói hiện tất cả Phật sự trong toàn cõi thế giới, thập phương thế giới chư Phật cũng hiện bóng trong lọng báu ấy.
Thấy bửu thọ ấy rồi cũng phải mỗi mỗi quán sát thấy thân cây nhánh lá bông trái đều phải phân minh.
Đây là thọ tưởng gọi là pháp quán thứ tư.
Kế nên tưởng nước.
Người muốn tưởng nước nên biết Cực Lạc thế giới có ao nước bát công đức. Mỗi mỗi ao nước bảy báu làm thành. Báu ấy như nhuyến từ như ý châu vương sanh chia làm mười bốn chi, mỗi mỗi chi làm sắc đẹp bảy báu. Hoàng kim làm lòng ao. Dưới lòng ao có kim cương nhiều màu làm cát trắng đáy.
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần. nước ma ni chảy rót trong khoảng lá theo thân cây sen mà lên xuống phát ra âm thanh vi diệu diễn nói khổ, không, vô thượng, vô ngã, các Ba la mật, còn có tiếng tán thán tướng hảo của chư Phật.
Như ý châu vương phóng ra ánh sáng vi diệu màu hoàng kim. Ánh sáng ấy hóa ra các giống chim màu trăm báu hòa hót êm nhã thường tán thán niệm Phật, niệm Phật, niệm Tăng.
Đây là tưởng nước bát công đức gọi là pháp quán thứ năm.
Trong quốc độ Cực Lạc diệu bửu ấy, mỗi mỗi khu vực có năm trăm ức lầu báu. Trong lầu các ấy có vô lượng chư Thiên trỗi thiên kỹ nhạc. Còn có nhạc khí treo ở hư không như bửu tràng cõi Trời chẳng đánh tự kêu. Trong các âm thanh ấy đều diễn nói niệm Phật, niệm Phật, niệm Tỳ Kheo Tăng.
Pháp tưởng nầy thành rồi gọi là thô thấy Cực Lạc thế giới bửu thọ, bửu địa và bửu trì đây là tổng quán tưởng gọi là pháp quán thứ sáu.
Nếu thấy như vậy thì trừ vô lượng ức kiếp cực trọng ác nghiệp, sau khi mạng chung quyết định sanh nước Cực Lạc.
Quán đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo A nan và Vi Đề Hi : “Lắng nghe lắng nghe, khéo suy nghĩ nhớ kỹ đó. Ta sẽ vì các người phân biệt giải thuyết pháp trừ khổ não. Các người ghi nhớ thọ trì rộng vì đại chúng phân biệt giải thuyết”.
Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn nói lời ấy, Phật Vô Lượng Thọ hiện đứng trên hư không, Quan Thế Âm Bồ Tát đứng hầu bên tả, Đại Thế Chí Bồ Tát đứng hầu bên hữu, ánh sáng chói rực chẳng thể thấy rõ hết, trăm ngàn lần màu vàng diêm phù đàn kim chẳng thể sánh được.
Vi Đề Hi thấy Phật Vô Lượng Thọ rồi tiếp túc lễ lạy.
Lễ lạy xong, Vi Đề Hi bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi nhơn oai lực Phật mà được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai cùng hai Đại Sĩ Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Đời vị lai các chúng sanh sẽ phải thế nào quán thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai Bồ Tát ấy ?”.
Đức Phật bảo Vi Đề Hi : “Người muốn quán Phật Vô Lượng Thọ thì nên hởi tưởng niệm : ở trên mặt đất thất bửu tưởng có hoa sen, trên mỗi mỗi cánh hoa tưởng màu bá bửu có tám vạn bốn ngàn đường gân dường như bức họa cõi Trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng tỏ rõ rành rẽ đều được thấy cả. Cánh hoa nhỏ nhứt ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, toàn hoa sen ấy có đủ tám vạn bốn ngàn cánh. Khoảng mỗi cánh hoa có trăm ức ma ni vương ấy phóng ra ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy như lọng bảy báu hiệp thành che khắp mặt đất. Đài hoa sen ấy bằng báu thích ca tỳ lăng gìa, có tám vạm kim cương chân thúc ca bửu, phạm ma ni bửu và lưới diệu chơn châu dùng để nghiêm sức. Ơ trên đài ấy tự nhiên có bốn trụ bửu tràng, mỗi mỗi bửu tràng cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên bửu tràng có màn báu như Dạ Ma Thiên cung còn có năm trăm ức bửu châu vi diệu để làm sáng đẹp. Mỗi mỗi bửu châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng làm tám vạn bốn ngàn kim sắc nhiều loại lạ khác nhau. Mỗi mỗi kim sắc khắp cả cõi nước Cực Lạc nơi nơi biến hóa đều riêng làm những tướng hình khác lạ : hoặc làm đài kim cương, hoặc làm lưới chơn châu, hoặc làm mây nhiều loại hoa, nơi mười phương diện tùy ý biến hiện ra làm Phật sự.
Đây là tưởng toà ngồi hoa sen, gọi là pháp quán thứ bảy.
Nầy A Nan ! Hoa sen vi diệu như vậy là do bổn nguyện lực của Pháp Tạng Tỳ Kheo, tiền thân Phật Vô Lượng Thọ cảm thành. Nếu người muốn niện đức Phật ấy thì phải trước tưởng hoa tòa ấy. Lúc quán tưởng chẳng được tạp quán. Đều phải quán mỗi mỗi chi tiết, mỗi mỗi cánh hoa, mỗi mỗi bửu châu, mỗi mỗi ánh sáng, mỗi mỗi đài, mỗi mỗi tràng đều phải phân minh, như thấy tượng mặt mình hiện trong gương. Pháp tưởng nầy thành diệt trừ trăm muôn ức kiếp tội sanh tử, tất định sẽ sa Cực Lạc thế giới. Quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Thấy hoa tòa rồi kế nên tưởng Phật. Tại sao vậy ? Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, nên lúc các người tâm tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tám mươi tùy hình hảo, tâm ấy làm Phật tâm ấy là Phật. Chư Phật Chánh Biến Tri hải từ tâm tưởng sanh, vì vậy nên nhứt tâm buộc niệm quán kỹ đức Phật ấy, đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Người muốn tưởng đức Phật ấy trước nên tưởng hình tượng. Thấy một bửu tượng màu như vàng diêm phù đàn ngồi trên hoa tòa kia. Thấy tượng Phật ngồi rồi tâm nhãn được khai thông, tỏ rõ phân minh thấy quốc độ Cực Lạc thất bửu trang nghiêm, đất báu, ao báu, cây báu bày hàng. Màn lưới báu cõi Trời giăng che phía trên, các màn lưới báu đầy khắp hư không, thấy sự như vậy khiến rất rõ ràng như thấy trong lòng bàn tay. Thấy sự ấy rồi lại nên tưởng một hoa sen lớn ở bên tả tượng Phật như trước không khác. Rồi lại tưởng một hoa sen lớn như trước ở bên hữu tượng Phật. Rồi tưởng một tượng Quan Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên tả cũng kim sắc như trước. Rồi tưởng một tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên hữu. Lúc pháp tưởng nầy thành rồi tượng Phật và tượng Bồ Tát đều phóng ánh sáng. Anh sáng ấy kim sắc chiếu những bửu thọ. Dưới mỗi mỗi bửu thọ đều có ba tòa hoa sen, tượng Phật và tượng hai Bồ Tát ngồi trên ấy, như vậy khắp cả quốc độ Cực Lạc.
Lúc pháp tưởng nầy đã thành, hành gỉa nên nghe nước chảy, ánh sáng, các bửu thọ, những chim cưu nhạn uyên ương đều diễn nói diệu pháp, lúc xuất định lúc nhập định luôn nghe diệu pháp. Pháp được nghe trong định lúc xuất định nhớ giữ chẳng bỏ phải khế hiệp với lời trong kinh. Nếu chẳng hiệp thì gọi là vọng tưởng. Nếu hiệp thì gọi là thô tưởng thấy Cực Lạc thế giới.
Đây là tượng tưởng gọi là pháp quán thứ tám. Quán pháp nầy trừ được vô lượng ức kiếp tội sanh tử. Nơi thân hiện tại được niệm Phật tam muội”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Kế lại nên quán Phật Vô Lượng Thọ thân tướng quang minh. A Nan phải biết Phật Vô Lượng Thọ thân như trăm ngàn muôn ức sắc vàng diêm phù đàn Trời Dạ Ma, thân Phật cao sáu mươi muôm ức na do tha hàng hà sa do tuần, bạch hòa giữa hai mày xoay bên hữu uyển chuyển như năm tòa núi Tu Di, mắt Phật như bốn đại hải xanh biếc và trắng phân minh. Các lỗ lông nơi thân Phật phóng ánh sáng ra như núi Tu Di. Viên quang của Phật ấy như trăm ức Đại Thiên thế giới. Trong viên quang ấy có trăm vạn ức na do tha hàng hà sa Hóa Phật. Mỗi mỗi Hoá Phật cũng có đông nhiều vô số Hóa Bồ Tát làm thị gỉa. Thân Phật Vô Lượng Thọ có tám vạn bốn ngàn tướng. Trong mỗi mỗi tướng đều riêng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi mỗi hình hảo còn có tám vạn bốn ngàn quang minh, mỗi mỗi quang minh chiếu khắp thập phương thế giới nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ sót. Quang minh tướng hảo và Hóa Phật ấy chẳng thể nói đủ hết, chỉ nên nhớ tưởng khiến tâm nhãn được thấy. Thấy sự ấy liền thấy thập phương tất cả chư Phật. Vì thấy chư Phật nên gọi là niệm Phật tam muội.
Quán tưởng đây gọi là quán thân tất cả Phật, vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật . Phật tâm là đại từ bi tâm, dùng từ vô duyên nhiếp thọ các chúng sanh.
Người tu quán nầy, bỏ thân đới khác sanh trước chư Phật được vô sanh nhẫn. Vì vậy nên người trí phải buộc niệm quán kỹ Vô Lượng Thọ Phật. Người quán Vô Lượng Thọ Phật từ một tướng hảo mà vào, chỉ quán lông trắng giữa hai mày khiến tất tỏ rõ. Được thấy lông trắng rồi thì tâm vạn bốn ngàn tướng hảo tự nhiên sẽ hiện. Thấy Phật Vô Lượng Thọ liền thấy vô lượng chư Phật mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.
Đây là khắp quán tưởng tất cả các sắc thân Phật gọi là pháp quán thứ chín. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Đã thấy Vô Lượng Thọ Phật tỏ rõ phân minh rồi kế cũng nên quán Quán Thế Âm Bồ Tát.
Bồ Tát nầy thân cao tám mươi vạn ức na do tha do tuần, thân màu tử kim, đỉnh có nhục kế, cổ có viên quang mỗi phương diện đều trăm ngàn do tuần. trong viên quang có năm trăm Hoá Phật như Thích Ca Mâu Ni. Mỗi mỗi Hoá Phật có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư Thiên làm thị giả. Trong ánh sáng toàn thân hiện tất cả sắc tướng của chúng sanh trong ngũ đạo. Trên đỉnh có thiên quang bằng tỳ lăng gìa ma ni bửu. Trong thiên quang có một Hóa Phật đứng cao hai mươi lăm do tuần. mặt cúa Quan Thế Âm Bồ Tát như màu vàng diêm phù đàn. Lông trắng giữa hai mày đủ màu thất bửu chiếu ra tám vạn bốn ngàn thứ ánh sáng. Mỗi mỗi ánh sáng có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật có vô số hóa Bồ Tát làm thị giả biến hiện tự tại khắp thập phương thế giới. Cánh tay màu như hoa sen hồng có tám mươi ức ánh sáng vi diệu làm chuỗi đeo. Trong chuỗi đeo ánh sáng ấy khắp hiện tất cả trang nghiêm. Bàn tay màu năm trăm ức hoa sen đẹp. Bàn tay mười đầu ngón mỗi mỗi đầu ngón có tám vạn bốn ngàn lằn dường như ấn văn. Mỗi mỗi lằn có tám vạn bốn ngàn màu, mỗi mỗi màu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng, ánh sáng ấy mềm dịu chiếu khắp tất cả. Bồ Tát dùng tay báu nầy tiếp dẫn chúng sanh. Lúv Bồ Tát cất chưn lên, dưới lòng bàn chưn có tướng thiên bức luân tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài quang minh. Lúc để chưn xuống có hoa kim cương ma ni rải rác tất cả không chỗ nào là chẳng đầy khắp. Các tướng khác nơi thân Bồ Tát đầy đủ những hình hảo như thân Phật không khác, chỉ có nhục kế trên đỉnh và vô kiến đảnh tướng chẳng bằng Thế Tôn. Đây là tướng sắc thân chơn thiệt của Quan Thế Âm Bồ Tát gọi là quán pháp thứ mười. Nếu người muốn thấy Quan Thế Âm Bồ Tát nên tu quán ấy. Tu quán ấy thì chẳng gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng, trừ tội sanh tử trong vô số kiếp. Quan Thế Âm Bồ Tát ấy chỉ nghe danh hiệu còn được phước vô lượng huống là quán kỹ. Nếu người muốn quán Quan Thế Âm Bồ Tát thì trước quán nhục kế sau quán thiên quang. Các tướng khác cũng theo thứ tự mà quán kỹ đều phải tỏ rõ như nhìn trong bàn tay. Quán như đây gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán.
Kế đó quán Đại Thế Chí Bồ Tát.bt nầy thân tượng lớn nhỏ đều đồng như Quan Thế Âm Bồ Tát. Viên quang mỗi mặt đều một trăm hai mươi lăm do tuần chiếu hai trăm năm mươi do tuần. Ánh sáng toàn thân chiếu thập phương quốc độ màu tử kim. Chúng sanh có duyên thảy đều được thấy. Chỉ thấy ánh sáng một lỗ lông của Bồ Tát nầy liền thấy quang minh tịnh diệu vô lượng chư Phật mười phương, vì vậy nên đặt hiệu Bồ Tát nầy là Vô Biên Quang. Dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp tất cả khiến lìa tam đồ được vô thượng lực nên Bồ Tát nầy có tên là Đại Thế Chí.
Thiên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm hoa báu, mỗi mỗi hoa báu có năm trăm đài báu, trong mỗi mỗi đài, tướng dài ngắn của quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật mười phương đều hiện rõ. Nhục kế trên đỉnh như hoa bát đấu ma, trên nhục kế có một bình báu đựng các ánh sáng khắp hiện Phật sự. Các thân tướng khác như Quan Thế Âm không khác.
Lúc Đại Thế Chí Bồ Tát đi, thập phương thế giới tất cả chấn động. Đương lúc đất động có năm trăm ức hoa báu, mỗi mỗi hoa báu trang nghiêm cao rõ như Cực Lạc thế giới. Lúc Bồ Tát nầy ngồi, quốc độ thất bửu đồng thời dao động. Từ hạ phương Kim Quang Phật thế giới nhẫn đến thượng phương Quang Minh Vương Phật thế giới, trong khoảng giữa ấy vô lượng vô số phân thân Vô Lượng Thọ Phật, phân thân Quan Thế Âm Bồ Tát, phân thân Đại Thế Chí Bồ Tát thảy đều vân tập Cực Lạc thế giới chật đầy hư không ngồi tòa liên hoa diễn nói diệu pháp độ khổ chúng sanh. Tu pháp quán nầy gọi là quán thấy Đại Thế Chí Bồ Tát. Đây là quán thấy tướng sắc thân thiệt Đại Thế Chí gọi là pháp quán thứ mười một. Quán Đại Thế Chí Bồ Tát trừ vô số kiếp vô số tội sanh tử. Người tu quán nầy chẳng còn ở bào thai thường du hành quốc độ thanh tịnh vi diệu chư Phật.
Pháp quán nầy thành rồi gọi là đầy đủ quán Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
Lúc thấy sư ấy rồi nên khởi tư tâm sanh nơi Tây phương Cực Lạc thế giới trong hoa sen ngồi kiết già, tưởng hoa sen búp lại, tưởng hoa sen nở ra. Lúc hoa sen nở có ánh sáng năm trăm màu chiếu đến thân. Tưởng mắt mở ra thấy Phật và Bồ Tát đầy cả hư không, nước chim cây rừng cùng chư Phật phát ra âm thanh đều diễn nói diệu pháp hiệp với mười hai bộ kinh. Lúc xuất định nhớ giữ không mất. Thấy sự nầy rồi gọi là thấy Vô Lượng Thọ Phật. Cực Lạc thế giới. Đây là phổ quán tưởng gọi là pháp quán thứ mười hai. Vô Lượng Thọ Phật hoá thân vô số cùng Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Thế Chí Bồ Tát thường đến chỗ hành nhơn ấy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người muốn chí tâm sanh Cực Lạc thế giới trước nên quán tượng Phật Vô Lượng Thọ cao một trượng sáu xích ở trên mặt nước ao báu.
Như trước đã nói Vô Lượng Thọ Phật thân lượng vô biên chẳng phải tâm lực của phàm phu kịp được. Nhưng do nguyện lực đời trước của đức Như Lai ấy nên ai có tâm nhớ tưởng thì ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật được phước vô lượng, huống là quán đủ thân tướng của Phật.
A Di Đà Phật thần thông như ý nơi mười phương quốc độ biến hiện tự tại. Hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không, hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu xích. Thân hình Phật hiện ra đều màu chơn kim, viên quang Hoá Phật và hoa sen báu như đã nói ở trên. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát ở tất cả xứ thân đồng với chúng sanh. Chỉ quán tướng trên đầu biết là là Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai đại Bồ Tát ấy trợ Phật A Di Đà khắp hóa độ tất cả. Đây là tạp tưởng quán gọi là pháp quán thứ mười ba”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người sanh Cực Lạc thế giới, bực thượng phẩm thượng sanh ấy. Nếu có chúng sanh nguyện sanh Cực Lạc thế giới phát ba thứ tâm liền được vãng sanh.
Những gì là ba tâm ?
Một là chí thành tâm. Hai là thâm tâm và ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Người đủ ba tâm này ắt sanh Cực Lạc thế giới.
Còn có ba hạng chúng sanh sẽ được vãng sanh.
Những gì là ba hạng ?
Một là từ tâm bất sát đủ các giới hạnh. Hai là đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Ba là tu hành lực niệm hồi hướng phát nguyện nguyện sanh Cực Lạc.
Người đủ các công đức nầy từ một ngày đến bảy ngày liền được vãng sanh.
Lúc sanh về nước ấy, vì người nầy tinh tiến dũng mãnh nên A Di Đà Như Lai cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Tỳ Kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư Thiên, cung điện bảy báu. Quan Thế Âm Bồ Tát cầm đài kim cương cùng Đại Thế Chí Bồ Tát đến trước hành nhơn. A Di Đà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả cùng các Bồ Tát trao tay nghinh tiếp. Quan Thế Âm, Đại Thế Chí cùng vô số Bồ Tát tán thán hành giả khuyến khích sách tiến tâm hành giả thấy rồi hoan hỷ dũng dước tự thấy thân mình ngồi đài kim cương đi theo sau Phật. Như khoảng khảy ngón tay vãng sanh nước Cực Lạc. Sanh nước Cực Lạc rồi thấy sắc thân Phật A Di Đà đầy đủ các tướng. Thấy chu Bồ Tát sắc tướng đầy đủ. Quang minh cây rừng báu diễn nói diệu p. nghe rồi liền ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Trong thời gian giây lát đi khắp thập phương thế giới kính thờ chư Phật. Ở trước chư Phật thứ đệ thọ ký. Trở về bổn quốc được vô lượng trăm ngàn đà la ni. Đây gọi là người thượng phẩm thượng sanh.
Người thượng phẩm trung sanh ấy. Người nầy bất tất thọ trì đọc tụng kinh điển phương đẳng Đại thừa. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Người có công hạnh như vậy, lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí , vô lượng đại chúng vây quanh cầm đài tử kim đến trước hành giả khen rằng : Nầy Pháp tử ! Ngươi hành Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa nên nay ta đến nghinh tiếp ngươi. Đức Phật A Di Đà cùng ngàn Hóa Phật đồng thời trao tay. Hành giả ấy tự thấy mình ngồi đài tử kim, chắp tay xếp cánh tán thán chư Phật. Như khoảng một niệm liền sanh nước Cực Lạc trong ao thất bửu,. Đài tử kim ấy như hoa sen lớn qua một đêm liền nở. Thân hành giả màu vàng tử ma, dưới chưn cũng có hoa sen bảy báu.
Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang chiếu thân hành giả mắt liền mở sáng. Nhơn túc tập trước nên khắp nghe ác âm thanh thuần nói thậm thâm đệ nhứt nghĩa đế. Hành giả ấy liền xuống kim đài lạy Phật chắp tay tán thán Thế Tôn, qua bảy ngày liền được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, liền có thể bay đi khắp mười phương kính thờ chư Phật, ở trước chư Phật tu các tam muội, qua một tiểu kiếp được Vô sanh nhẫn hiện tiến thọ ký. Đây gọi là người thượng phẩm trung sanh vậy.
Người thượng phẩm hạ sanh ấy. Người nầy cũng tin nhơn quả chẳng hủy báng Đại thừa, chỉ phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đem công đức ấy hồi hướng nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới.
Hành giả ấy lúc lâm chung, A Di Đà Phật cùng Quan Thế Âm, Đại Thế Chí và chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa làm năm trăm Phật đến rước. Năm trăm Hóa Phật đồng thời trao tay khen rằng : Nầy Pháp tử. Nay ngươi thanh tịnh phát tâm Vô thượng Bồ đề, ta đến rước ngươi. Hành giả lúc thấy sự ấy liền tự thấy thân mình ngồi kim liên hoa. Ngồi rồi hoa búp lại theo sau Phật liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới trong ao thất bửu. Qua một ngày một đêm kim liên hoa mới nở. Qua bảy ngày mới được thấy Phật. Dầu thấy thân Phật mà chẳng thấy tỏ rõ các tướng hảo. Sau hai mươi mốt ngày mới thấy rõ hết. Nghe các âm thanh đều diễn diệu pháp, đi khắp mười phương cúng dường chư Phật. Ở trước chư Phật nghe thậm thâm pháp. Qua ba tiểu kiếp được bá pháp minh môn trụ bực Hoan hỉ địa. Đây gọi là người thượng phẩm hạ sanh vậy.
Đây gọi là pháp tưởng hàng thượng phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười bốn”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người trung phẩm thượng sanh ấy.
Nếu có chúng sanh thọ trì ngũ giới, trì bát giới trai, tu hành các giới chẳng tạo ngũ nghịch không có các tội lỗi. Đem thiện căn nầy nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới. Hành giả lúc lâm chung, A Nan Di Đà Phật cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vây quanh phóng ánh sáng kim sắc đến chỗ hành giả diễn nói khổ không vô thường vô ngã tán thán xuất gia được lìa các sự khổ. Hành giả thấy rồi lòng rất vui mừng tự thấy thân mình ngồi đài liên hoa quỳ dài chắp tay đảnh lễ Phật, lúc chưa cất đầu lên liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới, liên hoa liền nở. Lúc hoa sen nở nghe các âm thanh tán thán tứ đế liền được A La Hán đạo tam minh, lục thông, đủ bát giải thoát. Đây gọi là người trung phẩm thượng sanh vậy.
Người trung phẩm trung sanh ấy.
Nếu có chúng sanh hoặc một ngày một đêm trì bát giới trai, hoặc một ngày một đêm trì giới Sa di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới oai nghi không kém thiếu. Đem công đức nầy hồi hướng nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới.
Do giới hương huân tu, hành giả nầy lúc lâm chung thấy A Di Đà Phật cùng các quyến thuộc phóng kim sắc quang cầm bửu liên hoa đến trước hành giả. Hành giả tự nghe hư không có tiếng khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Như ngươi hàng thiện nhơn tùy thuận lời dạy tam thế chư Phật nên ta đến rước. Hành giả tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen, hoa sen liền búp lại sanh trong ao báu Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày liên hoa mới nở. Hoa nở rồi mở mắt chắp tay tán thán Thế Tôn, nghe pháp hoan hỉ được quả Tu Đà Hoàn. Qua nửa kiếp thành bực A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm trung sanh vậy.
Trung phẩm hạ sanh ấy.
Nếu có thiện nam thiện nữ hiếu dưỡng cha mẹ làm việc nhơn từ thế gian. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói rộng những sự vui nơi quốc độ Phật A Di Đà cũng nói bốn mươi tám nguyện của Pháp Tạng Tỳ Kheo, nghe rồi liền chết. Ví như khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền được vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Qua bảy ngày gặp Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát, nghe pháp hoan hỷ được quả Tu Đà Hoàn. Qua một tiểu kiếp thành A La Hán. Đây gọi là người trung phẩm hạ sanh vậy.
Đây gọi là pháp tưởng hạng trung phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười lăm”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm thượng sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo những nghiệp ác. Người ngu như vậy dầu chẳng hủy báng kinh điển Phương đẳng Đại thừa mà tạo nhiều việc ác không có tàm quí. Người nầy lúc lâm chung gặp thiện tri thức vì họ mà nói mười hai bộ kinh Đại thừa danh tự đầu đề. Do nghe tên các kinh như vậy dứt trừ ngàn kiếp ác nghiệp cực trọng. Trí giả lại bảo chắp tay xếp cánh xưng Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trù năm mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc ấy Phật A Di Đà liền sai Hóa Phật, hóa Quan Thế Âm, hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả khen rằng : Nầy thiện nam tử ! Vì ngươi xưng danh hiệu Phật các tội tiêu diệt ta đến rước ngươi. Nghe nói lời ấy rồi, hành giả liền thấy quang minh của Hóa Phật chiếu sáng cả nhà. Thấy rồi hoan hỉ mang chung ngồi bửu liên hoa theo sau Hoá Phật sanh trong ao báu Cực Lạc thế giới. Qua bốn mươi chín ngày hoa sen báu mới nở. Đương lúc hoa nở, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát phóng đại quang minh đứng trước người ấy, vì người ấy nói thậm thâm Thập nhị bộ kinh. Người ấy nghe rồi tin hiểu phát vô thượng đạo tâm. Qua mưo82i tiểu kiếp đủ bá pháp minh môn được nhập bực Sơ địa. Đây gọi là người hạ phẩm thượng sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm trung sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh hủy phạm ngũ giới bát giới và cụ túc giới. Người ngu nầy trộm của vật Tăng kỳ, trộm của vật hiện tiền Tăng, bất tịnh thuyết pháp, không có tâm quý, dùng các ác nghiệp để tụ trang nghiêm. Người tộu như đây do nghiệp ác phải đọa địa ngục, lúc lâm chung các lửa địa ngục đồng thời hiện đến. Gặp thiện tri thức vì lòng đại từ bi vì người ấy mà khen nói thập lục oai đức của đức Phật A Di Đà, rộng khen quang minh thần lực của đức Phật A Di Đà, cũng tán dương giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Người ấy nghe rồi trừ tám mươi ức kiếp tội sanh từ. Lửa mạnh địa ngục biến thành gió mát thổi các thiên hoa bay đến. Trên hoa đều có Hoá Phật, Hóa Bồ Tát tiếp rước người ấy. Trong khoảng mộ niệm liền được sanh trong hoa sen nơi ao báu Cực Lạc thế giới. Hoa sáu kiếp hoa sen mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phạm âm thanh an úy người ấy, vì người ấy mà nói kinh điển Đại thừa thậm thâm. Nghe pháp ấy rồi, người ấy liền phát tâm vô thượng đạo. Đây gọi là người hạ phẩm trung sanh vậy”.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hi : “Người hạ phẩm hạ sanh ấy.
Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch, thập ác đủ các bất thiện. Người ngu như vậy, do ác nghiệp phải đọa ác đạo trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Người ngu ấy lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủy vì nói diệu pháp dạy bảo niệm Phật. Ngươi ấy bị khổ bức không rãnh niệm được. Thiện hữu bảo rằng nếu ngươi chẳng thể niệm Phật kia được thì ngươi nên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, như vậy chí tâm khiến tiếng xưng danh chẳng dứt đủ mười niệm. Nên xưng như vầy : Nam mô A Di Đà Phật. Do xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp tội sanh tử. Lúc mạng chung thấy kim liên hoa dường như mặt nhựt trụ trứơc người ấy. Như khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp hoa sen ấy mới nở. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát dùng âm thanh đại bi vì người ấy diễn nói thiệt tướng các pháp, nói pháp trừ diệt tội. Người ấy nghe pháp rồi rất vui mừng liền phát tâm Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là người hạ phẩm hạ sanh.
Đây gọi là pháp tưởng hạng hạ phẩm vãng sanh, gọi là pháp quán thứ mười sáu vậy”.
về mười sáu pháp quán ấy, liền lúc đó thấy tướng rộng lớn Cực Lạc thế giới. Được thấy sắc thân Phật A Di Đà và hai Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, lòng rất hoan hỷ khen chưa từng có. Vi Đề Hi hoát nhiên đại ngộ được Vô sanh nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô thượng Bồ đề nguyện sanh Cực Lạc thế giới. Đức Thế Tôn thọ ký đều sẽ vãng sanh. Sanh nước Cực Lạc rồi được chư Phật hiện tiền tam muội. Còn có vô lượng chư Thiên phát tâm vô thượng đạo.
Lúc bấy giờ Tôn gỉa A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Kinh nầy sẽ gọi tên là gì ? Pháp yếu nầy sẽ thọ trì như thế nào ?”.
Đức Phật nói : “Nầy A Nan ! kinh nầy tên là Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Cũng có tên là Tịnh trừ nghiệp chướng sanh chư Phật tiền.
Ông nên thọ trì như vậy chớ để quên mất.
Người hành tam muội nầy thì thân hiện đời được thấy Vô Lượng Thọ Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nếu thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu Phật A Di Đà, nghe danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, nghe danh hiệu Đại Thế Chí Bồ Tát thì trừ vô lượng kiếp tội sanh từ, huống là nhớ niệm.
Nếu là người niệm Phật, nên biết người ấy là hoa phân đà lợi trong loài người. Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là thắng hữu của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo tràng sanh vào nhà chư Phật”.
Đức Phật bảo Tôn giả A Nan : “Nầy A Nan ! Ngươi phải trì lời nầy cho tốt. Người trì lời nầy tức là trì danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật”.
Phật nói kinh nầy rồi, Tôn giả Mục Kiền Liên, Tôn giả A Nan và Vi Đề Hi cùng thị nữ quyến thuộc nghe lời đức Phật dạy tất cả đều rồi vui mừng.
Bấy giờ đức Thế Tôn chân đi trên hư không trở về núi Kỳ Xà Quật.
Tôn giả A Nan vì đại chúng nói rộng sự ấy. Vô lượng chư Thiên, Bát Bộ nghe lời Phật nói đều rất vui mừng lạy Phật lui ra.
HẾT


Kinh Vô Lượng Thọ

PHẬT THUYẾT ÐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ÐẲNG GIÁC KINH
PHẨM MỘT: PHÁP HỘI THÁNH CHÚNG
Tôi nghe như vầy: Một thời Ðức Phật, tại thành Vương Xá, trong núi Linh Thứu, cùng mười hai ngàn vị Ðại Tỳ Kheo cùng nhau có mặt tất cả đều là những bậc Ðại Thánh thần thông đã đạt.
Tên các Ngài là Tôn giả Kiều Trần Như, Tôn giả Xá Lợi Phất,Tôn giả Ðại Mục Kiền Liên, Tôn giả Ca Diếp, Tôn giả A Nan…đều là thượng thủ.
Còn có các vị, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Di Lặc, tất cả Bồ Tát, trong Hiền Kiếp nầy, cùng tới tập hội.
PHẨM HAI: ÐỨC TÔN PHỔ HIỀN
Lại còn có Ngài Hiền Hộ vân vân … mười sáu chánh sĩ, đó là: Bồ Tát Thiện Tư Duy, Bồ Tát Huệ Biện Tài, Bồ Tát Quán vô Trụ, Bồ Tát Thần Thông Hoa, Bồ Tát Quang Anh, Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Trí Thượng, Bồ Tát Tịch Căn, Bồ Tát Tín Huệ, Bồ Tát Nguyện Huệ, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Bảo Anh, Bồ Tát Trung Trụ, Bồ Tát Chế Hạnh, Bồ Tát Giải Thoát, đều là thượng thủ.
Cùng nhau tu theo Ðức hạnh của Ngài Phổ Hiền Ðại sĩ, đầy đủ vô số, vô lượng hạnh nguyện, trú trong tất cả các pháp công đức, dạo khắp mười phương, hành quyền phương tiện, khiến cho chúng sanh, vào Phật Pháp Tạng, rốt ráo bờ giác.
Nguyện trong vô lượng thế giới thành Ðẳng Chánh Giác.
Lìa cung Ðâu Suất, giáng sanh cung vua, bỏ ngôi xuất gia, khổ hạnh học đạo, thị hiện như thế, thuận theo thế gian, lấy sức định huệ, hàng phục ma oán, được Pháp Vi Diệu, thành Tối Chánh Giác.
Người trời quy ngưỡng, thỉnh Chuyển Pháp Luân, thường dùng Pháp Âm, giác ngộ thế gian.
Phá thành phiền não, lấp hố dục vọng, tẩy sạch cấu ô, sáng sạch thanh tịnh.
Ðộ tận chúng sinh, tuyên nói diệu lý, tích trữ công đức, chỉ thị phước điền, lấy các thuốc pháp chữa trị ba khổ.
Thăng bậc quán đảnh, thọ ký Bồ Ðề, vì dạy Bồ Tát, làm A Xà Lê, thường tập tương ưng, vô biên các hạnh, thành thục vô số, căn lành Bồ Tát, được vô lượng Phật, đồng nhau hộ niệm.
Trong các cõi Phật, đều hay thị hiện, Như ảo sư giỏi, hiện các tướng lạ, trong mỗi tướng đó, thật chẳng thể được, các Bồ Tát nầy, cũng lại như thế.
Thông các Pháp tánh, rõ tướng chúng sanh, cúng dường Chư Phật, khai đạo quần sanh, hóa hiện thân kia, giống như điện chớp, xé lưới ma kiến, cởi dây triền phược, siêu vượt Thanh Văn và Bích Chi Phật, nhập pháp môn Không, Vô Tướng Vô Nguyện, khéo bày phương tiện, hiển rõ ba Thừa.
Với căn trung hạ , thị hiện diệt độ.
Ðắc vô sanh diệt, các Tam Ma Ðịa, các Môn Tổng Trì, tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm Tam Muội, đầy đủ tổng trì, trăm ngàn tam muội, trụ sâu thiền định, thấy hết tất cả vô lượng chư Phật. Trong một khoảnh niệm, vòng các cõi Phật.
Ðược Phật biện tài, trụ hạnh Phổ Hiền, khéo hay phân biệt ngôn ngữ chúng sanh, khai hóa chỉ bày, bờ mé chân thật, vượt hơn các pháp, sở hữu thế gian.
Tâm thường chân thật, trong đạo độ đời, đối tất cả pháp, tùy ý tự tại, vì chúng hữu tình, tình nguyện làm bạn, thọ trì sâu rộng, Tạng Pháp Như Lai, gìn giữ giống Phật, thường khiến không đoạn.
Phát tâm đại bi, thương xót chúng sinh, diễn nói đại từ, trao truyền Mắt Pháp, đóng bít đường ác, mở toang cửa lành, đối với chúng sinh, xem như chính mình, đảm trách cứu giúp, độ qua bờ giác.
Thảy được chư Phật, vô lượng công đức, trí huệ sáng suốt, không thể nghĩ bàn, các Bồ Tát lớn, đồng như thế đó, vô lượng vô biên, cùng thời tới hợp.
Lại có năm trăm vị Tỳ Kheo Ni, bảy ngàn thiện nam, năm trăm thiện nữ, chư Thiên Dục Giới và trời Sắc Giới, các vị Phạm Chúng, đều dự đại hội.
PHẨM BA: DUYÊN KHỞI ÐẠI GIÁO.
Khi ấy Thế Tôn, oai quang rạng rỡ, như ánh vàng rực, lại như gương sáng, ảnh thông ra ngoài, hiện ánh sáng lớn, biến trăm ngàn lần.
Tôn giả A Nan, tức thời tự nghĩ, hôm nay Thế Tôn, thân sắc vui nhuận, các căn thanh tịnh, nét mặt lộng lẫy, cõi báo trang nghiêm, từ xưa tới nay, chưa từng trông thấy, hoan hỷ chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu, tại chỗ đứng dậy, trịch bày vai phải, quỳ gối chấp tay. Bạch với Phật rằng:
“Hôm nay Thế Tôn vào Ðại Tịch Ðịnh, trụ Pháp Kỳ Ðặc, trụ Hạnh Ðạo sư, chỗ chư Phật trú, là đạo tối thắng, quá hiện vị lai, Phật Phật nhớ nhau. Thế Tôn vì nhớ, chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, hay nhớ chư Phật hiện tại phương khác? Cớ sao oai thần, hiển bày chiếu diệu, đoan tướng sáng ngời, thù diệu như thế! Nguyện Thế Tôn vì chúng con tuyên nói”.
Bấy giờ Thế Tôn, bảo A Nan rằng, Lành thay! Lành thay! Ông vì thương xót, muốn làm lợi lạc, cho chúng hữu tình, hay hỏi nghĩa lý, vi diệu như thế. Nay lời ông hỏi, công đức thù thắng, hơn việc cúng dường, chư vị La Hán, và Bích Chi Phật trong một Thiên Hạ; công đức hơn cả, trăm ngàn vạn lần, bố thí nhiều kiếp, cho Trời và Người, cho cả các loài, bò bay cựa động. Tại vì sao thế ? Vì trong tương lai, dân các cõi trời, tất cả hàm linh, nhân lời ông hỏi mà đặng độ thoát.
Nầy ông A Nan ! Như Lai đem lòng Ðại Bi vô tận, thương xót ba cõi, thị hiện ra đời, mở sáng Ðạo Giáo, muốn cứu quần sanh, ban lợi chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa Ưu đàm, hy hữu xuất hiện, nay lời ông hỏi, đặng nhiều lợi ích.
A Nan nên biết, Như Lai Chánh Giác, trí ấy khó lường, không có chướng ngại, trong một khoảnh niệm, có thể trú vào, vô lượng ức kiếp. Thân cùng các căn, không tăng không giảm, tại vì sao thế ? Ðịnh huệ Như Lai, thông suốt rốt ráo, đối tất cả pháp, có thể đắc được, tự tại tối thắng.
A Nan hãy nghe, kỹ càng suy nghĩ, ta đang vì ông, phân biệt giải nói.
PHẨM BỐN: NHÂN ÐỊA PHÁP TẠNG.
Phật bảo A Nan, quá khứ vô lượng, chẳng thể nghĩ bàn, nhiều kiếp lâu xa, có Phật ra đời, tên Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, ở đời giảng dạy, bốn mươi hai kiếp, lúc đó Ngài vì, chư Thiên nhân dân, nói kinh giảng đạo.
Có Ðại Quốc chủ, tên Thế Nhiêu Vương, nghe Phật nói pháp, vui mừng khai giải, tìm phát đạo ý, Vô Thượng chân chính, bỏ nước từ ngôi, hành hạnh Sa Môn, hiệu là Pháp Tạng, tu Bồ Tát đạo, tài cao chí xuất, với đời vượt khác. Tin hiểu ghi nhớ, đều là bậc nhất.
Lại nữa còn có, hạnh nguyện thù thắng, cùng sức niệm huệ, tăng thượng tâm kia, vững chắt bất động, tu hành tinh tấn, khó ai sánh kịp. Liền tới chỗ Phật, quỳ gối chấp tay, hướng Phật đảnh lễ, nói kệ tán Phật, phát nguyện rộng lớn:
Sắc Như Lai đoan trang vi diệu,
Tất cả thế gian chẳng sánh bằng.
Hào quang vô lượng mười phương chiếu
Nhật, nguyệt, hỏa, châu thảy ẩn mờ.
Thế Tôn hay diễn một âm thinh,
hữu tình mỗi mỗi tùy loài giải.
Lại hay thị hiện diệu sắc thân,
khắp khiến chúng sinh tùy loài thấy.
Nguyện con đắc tiếng Phật thanh tịnh,
Pháp âm vang khắp vô biên cõi,
Rộng truyền cửa Giới, Ðịnh, Tinh Tấn.
Thông đạt thâm sâu pháp nhiệm mầu.
Trí huệ lớn rộng sâu như biển,
Nội tâm thanh tịnh, sạch trần lao,
Siêu vượt vô biên đường ác thú,
Nhanh đến bờ rốt ráo Bồ Ðề.
Vô minh tham giận vĩnh hằng không,
Sức Chánh định, Tội tiêu Hoặc tận.
Cũng như vô lượng Phật quá khứ,
Làm Ðạo sư lớn của quần sanh,
Hay cứu hàm linh chư thế gian,
Sinh, già, bệnh, chết, chúng khổ não.
Thường hành bố thí, trì giới, nhẫn,
Tinh tấn, định, huệ sáu Ba La,
Hữu tình chưa độ làm được độ,
Kẻ được độ rồi khiến thành Phật.
Ví như cúng dường hằng sa Thánh,
chẳng bằng vững mạnh cầu Chánh Giác.
Nguyện khi an trú trong Tam Muội,
Thường phóng hào quang chiếu chúng sinh,
Cảm ứng sâu xa chỗ thanh tịnh,
Trang nghiêm thù thắng chẳng đâu bằng
Luân hồi sáu nẻo khắp quần sanh,
chóng sanh cõi con thọ an lạc,
Thường đem lòng từ cứu hữu tình
Ðộ tận vô biên khổ chúng sinh.
Hạnh của con quyết định, vững bền,
Duy Trí huệ Phật hay chứng tri,
Ví dù thân đoạn lìa chư khổ,
Tâm nguyện con hằng chẳng thối lui.
PHẨM NĂM: CHÍ TÂM TINH TẤN.
Tỳ Kheo Pháp Tạng, nói xong kệ nầy, bạch Phật rằng con vì đạo Bồ Tát, nay chí tâm phát, Vô Thượng Chánh Giác, chọn nguyện làm Phật, ắt khiến như Phật, nguyện Phật vì con, rộng nói kinh pháp, con sẽ phụng trì, như pháp tu hành. Cần khổ dứt trừ cội rễ sinh tử, chóng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Muốn khiến cho con, đến lúc thành Phật, trí huệ sáng suốt, chỗ ở cõi nước, danh từ giáo thọ, mười phương đều nghe. Chư thiên nhân dân, các loài giun trùng, sanh về nước con, đều làm Bồ Tát. Con lập nguyện nầy, đều thù thắng hơn vô số cõi Phật, được không Thế Tôn ?”
Phật Thế Gian Tự Tại Vương liền vì Pháp Tạng Tỳ Kheo, mà diễn nói kinh: “ Ví như biển lớn, có người đong lường, trải vô số kiếp, vét cùng tận đáy. Như thể một người, chí thành cầu đạo, tinh tấn không ngừng, tất nhiên đặng quả, nguyện nào chẳng thành? Ông tự suy nghĩ, tu phương tiện nào, có thể thành tựu, cõi Phật trang nghiêm. Theo đó mà tu, ông nên tự biết, thanh tịnh cõi Phật, ông nên tự nhiếp”
Pháp Tạng bạch Phật: “ Nghĩa ấy sâu rộng, chẳng phải cảnh giới, chỗ con chứng được. Chỉ nguyện Như Lai, Ứng Chánh Biến Tri, rộng nói vô lượng, cõi Phật vi diệu, nếu con được nghe, các Pháp như vầy, suy nghĩ tu tập, thệ nguyện viên mãn”.
Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết Pháp Tạng cao minh, chí nguyện sâu rộng, liền vì tuyên nói, hai trăm mười ức, các cõi Phật độ, Ðức Tướng nghiêm tịnh, rộng lớn viên mãn, ứng hợp tâm nguyện, đều hiện rõ ràng, nói thời pháp nầy, trải ngàn ức năm.
Bấy giờ Pháp Tạng, nghe Phật nói rồi, nghiệm thấy tỏ tường, phát khởi các nguyện, thù thắng vô thượng. Ðối các chư thiên, con người thiện ác, cõi nước thô diệu, tư duy rốt ráo, liền được nhất tâm, chọn các điều muốn, kết thành nguyện lớn. Siêng năng cầu tiến, cung kính thận trọng, hết lòng gìn giữ, tu tập công đức, đầy đủ năm kiếp. Trong hai mươi mốt Câu Chi cõi Phật, các việc công đức, trang nghiêm thù thắng, thông đạt rõ ràng, như một cõi Phật, chỗ nhiếp nước Phật, siêu hơn cõi khác. Nhiếp thọ đắc rồi, Pháp Tạng tới chỗ, Thế Tự Tại Vương, cúi đầu dưới chân, nhiễu Phật ba vòng, đứng lại chấp tay. Bạch Thế Tôn rằng : “ Con đã thành tựu, trang nghiêm nước Phật, các hạnh thanh tịnh”.
Phật bảo: “ Lành thay ! Nay thật phải lúc, ông nên nói đủ, khiến đại chúng vui. Cũng khiến đại chúng, nghe xong pháp nầy, được thiện lợi lớn, hay đến cõi Phật, tu tập nhiếp thọ, đầy đủ viên mãn, vô lượng nguyện lớn.
PHẨM SÁU: PHÁT ÐẠI THỆ NGUYỆN.
Pháp Tạng bạch rằng: “Cúi mong Thế Tôn, Ðại từ nghe xét, nếu con chứng đặng, Vô Thượng Bồ Ðề, thành bậc Chánh Giác, cõi Phật của con, đầy đủ vô lượng, chẳng thể nghĩ bàn, công đức trang nghiêm, không có địa ngục, ngạ quỷ cầm thú, bò bay máy động, hết thảy chúng sanh, từ Diệm Ma La, trong ba đường ác, sanh vào cõi con. Thọ giáo pháp con, thảy đều đắc đặng, quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chẳng còn đọa lạc, vào ba đường ác, được như nguyện nầy, con mới thành Phật, bằng không như nguyện, chẳng thành Chánh Giác.
[1- Nguyện trong nước không có ác đạo. 2- Nguyện không đọa ba đường ác]
Lúc con làm Phật, thế giới mười phương, hết thảy chúng sinh, khiến sanh nước con, đầy đủ thân sắc, chân kim vàng tía, băm hai vẻ đẹp, tướng đại trượng phu, đoan trang nghiêm chánh, tinh khiết thanh tịnh, đều đồng một loại. Hình mạo nếu khác, có tốt có xấu, con thề quyết không ở ngôi Chánh Giác.
[3- Nguyện thân có sắc vàng ròng. 4- Nguyện có ba mươi hai tướng tốt. 5- Nguyện thân không sai biệt]
Khi con làm Phật, tất cả chúng sinh, sanh vào nước con, đều tự biết thấu, thiện ác đã làm, vô lượng đời trước, có thể nhìn suốt, nghe thông biết tận, sự việc ở trong mười phương ba đời, không đặng nguyện nầy, không thành Chánh Giác.
[6- Nguyện có túc mạng thông. 7- Nguyện có thiên nhãn thông. 8- Nguyện có thiên nhĩ thông]
Lúc con làm Phật, tất cả chúng sinh, sanh về nước con, thảy đều chứng được, trí tha tâm thông. Nếu chẳng biết được, tâm nguyện chúng sinh, ức na do tha, trăm ngàn cõi Phật, con thề quyết không ở ngôi Chánh Giác.
[9- Nguyện tha tâm thông]
Lúc con làm Phật, tất cả chúng sinh, sanh về nước con, thảy đều đắc được, Thần Thông tự tại, Ba La Mật Ða. Nếu trong khoảnh niệm, không thể siêu vượt, ức na do tha, trăm ngàn cõi Phật, đi giáp khắp nơi, cúng dường chư Phật, con thề quyết không, ở ngôi Chánh Giác.
[10- Nguyện được thần túc thông. 11-Nguyện giáp khắp cúng dường chư Phật]
Lúc con làm Phật, tất cả chúng sinh, sanh về nước con, xa lìa phân biệt, sáu căn tịch tịnh, nếu chẳng quyết định thành bậc Chánh Giác, chứng đại Niết Bàn, con thề quyết không, ở ngôi Chánh Giác
[12- Nguyện quyết định thành bậc Chánh Giác]
Khi con làm Phật, quang minh vô lượng, chiếu khắp mười phương, vượt hơn quang minh, của thảy chư Phật, vượt hơn ánh sáng, mặt trời mặt trăng, ngàn vạn ức lần. Nếu có chúng sinh, thấy được Quang- Minh, chiếu chạm thân mình, đều được an lạc, tâm từ hành thiện, sanh về nước con. Nếu không như nguyện, không thành Chánh Giác.
[13- Nguyện ánh sáng vô lượng. 14- Nguyện chạm Quang minh được an lạc]
Khi con làm Phật, thọ mạng vô lượng, nước con vô số, Thanh Văn Trời Người, thọ mạng chư vị cũng đều vô lượng. Giả sử như có, ba ngàn đại thiên, thế giới chúng sanh, đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp, cùng nhau tính đếm, nếu biết số lượng, không thành Chánh Giác.
[15- Nguyện thọ mạng vô lượng. 16- Nguyện Thanh Văn vô số]
Lúc con làm Phật, mười phương thế giới, trong vô lượng cõi, vô số chư Phật, nếu không xưng tán, danh hiệu của con, và nói công đức, cõi nước thuần thiện, con thề không trụ ở ngôi Chánh Giác.
[17- Nguyến được chư Phật xưng tán]
Lúc con làm Phật, chúng sinh mười phương, nghe danh hiệu con, chí tâm tin vui, có được căn lành, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh nước con, cho đến mười niệm, nếu không được sanh, con thề quyết không giữ ngôi Chánh Giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
[18- Nguyện mười niệm tất vãng sanh]
Lúc con làm Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu con, phát tâm Bồ Ðề, tu các công đức, cung kính thực hành, sáu Ba La Mật, kiên cố bất thoái, lại lấy tất cả thiện căn hồi hướng, nguyện sanh nước con, nhất tâm niệm con, ngày đêm không dứt, đến khi lâm chung, con và Bồ Tát, hiện tiền nghinh tiếp, trải qua khoảnh khắc, liền sanh cõi con, thành tựu A Duy Việt Trí Bồ Tát, nếu không như vậy, không thành Chánh Giác.
[19- Nguyện nghe danh phát tâm. 20- Nguyện lâm chung tiếp dẫn]
Lúc con làm Phật, mười phương chúng sinh, nghe danh hiệu con, hằng nhớ nước con, phát tâm Bồ Ðề, kiên cố bất thối, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh Cực Lạc, thảy đều toại nguyện. Nếu các đời trước vốn tạo ác nghiệp, nghe danh hiệu con, liền tự sám hối, vì đạo làm lành, thọ trì kinh giới, nguyện sanh cõi con, đến khi mạng chung, không còn đọa lạc, vào ba đường ác, liền sanh nước con, nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[21- Nguyện sám hối được vãng sanh]
Lúc con làm Phật, cõi nước của con, không có người nữ. Nếu người nữ nào, nghe danh hiệu con, được tin thanh tịnh, phát tâm Bồ Ðề, nhàm chán thân nữ, nguyện sanh nước con. Sau khi mạng chung, hóa thành thân nam, tới cõi nước con. Mười phương thế giới, các loài chúng sinh, sanh vào nước con, hoa sen hóa sanh, trong ao Bảy Báu. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[22- Nguyện trong nước không có người nữ. 23 – Nguyện nhàm chán thân nư,õ chuyển thân nam. 24- Nguyện Liên hoa hóa sanh]
Lúc con làm Phật, chúng sanh mười phương, nghe danh hiệu con, hoan hỷ tin vui, lễ bái cung kính, đem tâm thanh tịnh, tu hạnh Bồ Tát, Chư Thiên nhân dân, thảy đều chí kính. Nếu nghe danh con, sau khi mạng chung, sanh nhà tôn quý, đầy đủ các căn, huân tu đều đặn, phạm hạnh thù thắng, nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[25- NguyệnThiên Nhân lễ kính. 26- Nguyện văn danh đác phước. 27- Nguyện tu thù thắng hạnh].
Lúc con làm Phật, trong cõi nước con, không tên “Bất Thiện”. Tất cả chúng sinh, sanh về cõi con, đều đồng nhất tâm, trụ chánh định tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm được mát mẻ, thọ hưởng vui sướng,ï cũng như Tỳ Kheo, sạch tận các lậu. Nếu còn khởi nghĩ, tham thân chấp ngã, con thề quyết không ở ngôi Chánh Giác.
[28-Nguyện nước không có tên “Bất thiện”. 29- Nguyện trụ Chánh định tụ.30- Nguyện vui như Tỳ kheo dứt sạch các lậu. 31- Nguyện không tham chất thân]
Lúc con làm Phật, sanh vào nước con, căn lành vô lượng, đều được Kim Cang, Na La Diên thân, có sức vững chắc, thân đảnh đều có, quang minh chiếu diệu, được sự thành tựu tất cả trí huệ. Thu hoạch vô biên biện tài vô ngại. Khéo nói các pháp, thâm mật bí yếu. Thuyết kinh hành đạo, tiếng như chuông ngân. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[32- Nguyện được na la diên thân. 33- Nguyện Quang minh trí huệ biện tài. 34- Nguyện khéo nói pháp yếu]
Lúc con làm Phật, tất cả chúng sinh, sanh về nước con, ắt đến rốt ráo, nhất sanh bổ xứ, trừ bản nguyện kia, vì chúng sinh nên, mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa tất cả, các chúng hữu tình. Ðều phát tín tâm. Tu hạnh Bồ Ðề. Hành đạo Phổ Hiền. Mặc dù sanh ở, thế giới phương khác, vĩnh ly đường ác, hoặc vui nói pháp, hoặc vui nghe pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập, đều được viên mãn. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[35- Nguyện nhất sanh bổ xứ. 36- Nguyện giáo hóa tùy ý].
Lúc con làm Phật, sanh về nước con, thức ăn, y phục, các loại cúng dường, theo ý liền đến, đều được viên mãn. Mười phương chư Phật. ứng niệm thọ nhận, các thứ cúng dường. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[37- Nguyện y thực tự đến. 38- Nguyện ứng niệm thọ cúng].
Lúc con làm Phật, vạn vật trong nước, nghiêm tịnh sáng đẹp, hình sắc thù đặc, vi diệu cùng cực. Không thể xứng lượng, các chúng sanh kia, tuy đủ thiên nhãn, nếu hay nói ra: các hình sắc kia, quang tướng danh số, tuyên nói tất cả, con thề quyết không ở ngôi Chánh Giác.
[39- Nguyện trang nghiêm vô tận].
Lúc con làm Phật. Trong nước vô lượng cây sắc báu cao trăm ngàn do tuần. Cây cao Ðạo tràng bốn trăm vạn dặm. Trong chúng Bồ Tát, căn lành dẫu khuyết, cũng hay rõ biết. Muốn thấy chư Phật, cõi nước nghiêm tịnh. Thảy đều được thấy, nơi hàng cây báu, như đài gương sáng, soi thấy khuôn mặt. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[40- Nguyện có vô lượng cây sắc báu. 41- Nguyện cây hiện cõi Phật].
Lúc con làm Phật. Cõi Phật chỗ ở, rộng rãi nghiêm tịnh. Sáng sạch như gương. Chiếu suốt mười phương, vô lượng vô số, không thể nghĩ bàn, thế giới chư Phật. Chúng sinh thấy được, sanh tâm hy hữu. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[42- Nguyện chiếu suốt mười phương].
Khi con làm Phật, dưới từ lòng đất, trên đến hư không, cung điện lầu các, ao nước hoa cây, cõi nước có được, tất cả vạn vật, đều do vô số, hương báu hợp thành, hương ấy xông khắp, thế giới mười phương. Chúng sanh ngửi đặng, đều tu hạnh Phật. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[43- Nguyện hương báu xông khắp]
Lúc con làm Phật, cõi Phật mười phương, các chúng Bồ Tát, nghe danh hiệu con, tức khắc đạt được, thanh tịnh, giải thoát, phổ đẳng tam muội. Các thâm tổng trì, trụ trong chánh định, đến khi thành Phật. Trong định thường cúng, vô lượng vô biên, tất cả chư Phật, không mất định ý. Nếu không được vậy, không thành Chánh Giác.
[44- Nguyện phổ đẳng tam muội. 45- Nguyện trong định cúng Phật].
Lúc con thành Phật, thế giới phương khác, các chúng Bồ Tát, nghe danh hiệu con, chứng pháp ly sanh, được Môn Tổng Trì, hoan hỷ thanh tịnh, được bình đẳng trụ, tu hạnh Bồ Tát, đầy đủ gốc đức. Ứng thời không được, nhất nhị tam nhẫn. Ðối với Phật pháp, nếu không hiện chứng, quả bất thối chuyển, con thề quyết không ở ngôi Chánh Giác.
[46- Nguyện được môn Tổng trì ( Ðà la ni) 47- Nguyện nghe danh đặng pháp nhẫn. 48- Nguyện hiện chúng quả bất thối chuyển].
PHẨM BẢY: QUYẾT THÀNH CHÁNH GIÁC
Phật bảo A Nan, lúc ấy Pháp Tạng, nói xong các nguyện, dùng kệ tụng rằng:
Ta lập chí vượt đời,
Quyết đạt đạo vô thượng,
Nguyện nầy không đầy đủ,
Thề không thành Chánh Giác.
Lại làm đại thí chủ,
Khắp cứu kẻ cùng khổ,
Khiến chư quần sanh kia,
Ðêm dài không ưu não,
Sinh ra các căn lành,
Thành tựu quả Bồ Ðề.
Nếu ta thành Chánh Giác,
Lập danh Vô Lượng Thọ.
Chúng sanh nghe hiệu nầy,
Ðều đến trong cõi ta.
Như Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt đều đầy đủ,
Cũng đem tâm đại bi,
Lợi ích các quần phẩm:
Ly dục sâu chánh niệm,
Tịnh huệ tu phạm hạnh.
Nguyện ta trí huệ sáng,
Khắp chiếu mười phương cõi,
Ðoạn ba độc, vô minh,
Sáng giúp chúng ách nạn,
Xả ly ba đường khổ,
Diệt các phiền não chướng,
Mở mắt trí huệ kia,
Ðạt được thân quang minh,
Ðóng bít các đường ác,
Thông đạt cửa hướng thiện,
Vì chúng khai pháp tạng,
Ban khắp công đức báu.
Như Phật trí vô ngại,
Thực hành hạnh từ mẫn,
Thường làm thầy Trời, Người,
Ðặng bậc hùng ba cõi,
Nói pháp sư tử hống,
Rộng độ các hữu tình,
Viên mãn lời nguyện xưa,
Tất cả đều thành Phật.
Nguyện nầy nếu đặng quả,
Ðại thiên liền cảm động,
Hư không các thiên thần,
Sẽ rải hoa trân diệu.
Phật bảo A Nan: Pháp Tạng Tỳ Kheo, nói kệ nầy xong. Ứng lúc khắp cả, mặt đất thảy đều, chấn động sáu cách. Trời mưa hoa đẹp, rải đầy trên đất, tự nhiên hư không, trổi lên tiếng nhạc, cùng lời tán thán “Quyết định tất thành Vô Thượng Chánh Giác”.
PHẨM TÁM: TÍCH CÔNG DỒN ÐỨC
Nầy ông A Nan! Tỳ Kheo Pháp Tạng, ở trước Như Lai Thế Tự Tại Vương và các đại chúng, trong hàng trời người, hoằng thệ nguyện kia, đã phát xong rồi. Trụ huệ chân thật, dũng mãnh tinh tấn. Nhất hướng chuyên chí, trang nghiêm cõi diệu. Sở tu cõi Phật, khai mở rộng lớn. Vượt thắng tuyệt đẹp, dựng lập thường nhiên, không suy không biến. Ở vô lượng kiếp, vun chứa đức hạnh, chẳng khởi vọng tưởng, tham muốn sân si, không dính sắc thanh, hương vị xúc pháp. Chỉ thích nhớ niệm, chư Phật quá khứ, tu các căn lành, hành hạnh tịch tịnh, xa lìa hư vọng, nương cửa chân đế, trồng các cội đức, chẳng nề gian khổ, ít muốn biết đủ, chuyên cầu pháp lành, ban bố lợi ích, đến các quần sanh. Chí nguyện không mỏi, thành tựu sức nhẫn. Ðối các hữu tình, thường nhớ từ nhẫn. Nét mặt ôn hòa, nói lời dễ thương, khuyên lơn sách tấn. Cung kính tam bảo, phụng sự sư trưởng, tâm không dối trá, nịnh bợ cong queo. Các hạnh trang nghiêm, đầy đủ khuôn phép. Quán pháp như hóa, Tam Muội thường tịch. Khéo gìn khẩu nghiệp, không chê lỗi người. Khéo gìn thân nghiệp, không mất luật nghi. Khéo gìn ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm. Ở chốn đô thị, thôn quê họ hàng, cùng các trân bảo, đều không chắp trước. Thường hành sáu độ, bố thí trì giới, nhẫn nhục tinh tấn, thiền định trí huệä. Ðem pháp giáo hóa, an lập chúng sanh, an trụ trong đạo, chân chánh vô thượng. Do thành tựu đặng, thiện căn như thế, chỗ nào sanh cũng, vô lượng kho báu, tự nhiên ứng phát. Hiện thân Trưởng-giả hoặc làm Cư-sĩ, Hào- tộc tôn quý, hoặc làm Quốc-vương, dòng Sát Ðế Lợi, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc vua của sáu “cõi trời Dục- giới”, cho đến Phạm Vương. Nơi các chư Phật, cung kính cúng dường, chưa từng gián đoạn. Công đức như thế, nói chẳng thể cùng. Thân miệng thường phát, vô lượng diệu hương, giống như Chiên Ðàn, hoa Ưu Bát La, mùi hương tỏa khắp, vô lượng thế giới. Tùy chỗ sanh ra, sắc tướng đoan nghiêm, băm hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thảy đều đầy đủ. Trong tay thường phát, của báu vô tận, vật dụng trang nghiêm. Thảy các thứ cần, đều là tối thượng, lợi lạc hữu tình. Do nhân duyên nầy, có thể khiến cho, vô lượng chúng sinh, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
PHẨM CHÍN: THÀNH TỰU VIỄN MÃN
Phật bảo A Nan: Tỳ Kheo Pháp Tạng, tu hạnh Bồ Tát, tích công dồn đức, vô lượng vô biên. Ðối tất cả pháp, thường được tự tại, ở chỗ “hay biết”, đều không phải do, ngôn ngữ phân biệt. Lời thệ nguyện phát, thành tựu viên mãn, như thật an trụ, trang nghiêm đầy đủ, oai đức rộng lớn, thanh tịnh cõi Phật.
A Nan nghe xong, lời Thế Tôn nói, liền bạch Phật rằng: Bồ Tát Pháp Tạng, thành bậc giác ngộ, là Phật quá khứ, là Phật tương lai, hay Phật hiện tại, thế giới phương khác ?
Thế Tôn dạy rằng: Phật Như Lai kia, không từ đâu tới, không đi về đâu, không sanh không diệt, không phải quá khứ, hiện tại vị lai. Chỉ vì thực hiện, hạnh nguyện độ sanh, hiện tại Phương Tây, cách Diêm Phù Ðề trăm ngàn câu chi na do tha cõi, có một thế giới, tên là Cực Lạc. Pháp Tạng thành Phật, hiệu A Di Ðà, thành Phật đến nay, trải qua mười kiếp. Hiện tại nói pháp, vô lượng vô số, Bồ Tát Thanh Văn, cung kính vây quanh.
PHẨM MƯỜI : ÐỀU NGUYỆN LÀM PHẬT
Ðức Thế Tôn nói : Phật A Di Ðà, lúc làm Bồ Tát, cầu đắc nguyện nầy. Vương tử A Xà, cùng với năm trăm vị đại trưởng giả, nghe đặng lời nầy, phát lòng vui lớn, mỗi vị trên tay, nâng lọng hoa vàng, tới lễ trước Phật. Dâng lọng hoa rồi, ngồi sang một phía, nghe Phật giảng kinh. Thâm tâm nguyện rằng: “Khiến cho chúng con, tới khi thành Phật, đều được giống như Phật A Di Ðà”.
Phật liền biết ý, bảo các Tỳ Kheo: Các Vương tử nầy, sau sẽ thành Phật, họ trong đời trước, trú đạo Bồ Tát, từ vô số kiếp, đã từng cúng dường, bốn trăm ức Phật. Thời Phật Ca Diếp, các vị ấy đều làm đệ tử ta, nay cùng gặp lại, đồng cúng dường ta. Lúc chư Tỳ Kheo, nghe Phật nói thế, vô cùng vui mừng.
PHẨM MƯỜI MỘT: CÕI NƯỚC NGHIÊM TỊNH
Phật bảo A Nan, cõi Cực Lạc kia, đầy đủ vô lượng, công đức trang nghiêm, vĩnh viễn không có, danh từ các khổ, các nạn ác thú, các thứ ma não. Cũng lại không có, bốn mùa nóng lạnh, mưa gió sai khác. Lại không có cả, sông biển lớn nhỏ, gò nổng hầm hố, chong gai cát sạn, Thiết Vi Tu Di, các núi đất đá, chỉ là tự nhiên làm bằng bảy báu, đất bằng vàng ròng, rộng rãi bằng phẳng, không thể hạn lượng, vi diệu đẹp đẽ, thanh tịnh trang nghiêm, siêu vượt mười phương, tất cả thế giới. A Nan nghe xong, bạch Thế Tôn rằng: Nếu cõi nước đó, không núi Tu Di, thì Tứ Thiên Vương, cùng Trời Ðao Lợi nương đâu mà trụ?
Phật hỏi A Nan: Dạ Ma Ðâu Suất, cho đến cõi Sắc, cõi Vô Sắc Giới, tất cả cõi Trời, nương đâu mà trụ?
A Nan bạch Phật: Nương Sức Nghiệp Ðịnh, không thể nghĩ bàn.
Phật bảo A Nan: Nghiệp không nghĩ bàn, ông có biết không? Quả báo thân ông, không thể nghĩ bàn, nghiệp báo chúng sanh, cũng không nghĩ bàn, căn lành chúng sinh, không thể nghĩ bàn, thánh lực Chư Phật, thế giới Chư Phật, cũng chẳng nghĩ bàn. Chúng sanh nước đó, sức công đức lành, trụ chỗ hành nghiệp, cùng thần lực Phật, cho nên như vậy.
A Nan bạch Phật: Nghiệp nhân quả báo, không thể nghĩ bàn, con đối pháp nầy, thật không chỗ nghi, chỉ vì phá trừ lưới nghi chúng sanh, trong đời vị lai, nên hỏi lời nầy.
PHẨM MƯỜI HAI: ÁNH SÁNG CHIẾU KHẮP
Phật bảo A Nan: Oai thần quang minh Phật A Di Ðà, tối tôn bậc nhất, Chư Phật mười phương, chẳng thể sánh kịp, biến chiếu phương Ðông, hằng sa cõi Phật, phương Nam Tây Bắc, cùng bốn phương phụ, ïhai phương trên dưới, cũng lại như thế. Nếu trên đảnh Phật, hóa hiện tròn sáng, hoặc chiếu một hai, ba bốn do tuần, hoặc là trăm ngàn vạn ức do tuần. Quang minh chư Phật, hoặc chiếu sáng đặng một hai cõi phật, hoặc chiếu sáng đặng trăm ngàn cõi Phật. Chỉ Phật Di Ðà, quang minh chiếu khắp, vô lượng vô biên, vô số cõi Phật. Quang minh Chư Phật, chiếu sáng xa gần, vốn do chỗ cầu đạo trong đời trước, sở nguyện công đức, lớn nhỏ chẳng đồng, đến khi thành Phật, mỗi vị tự được, chỗ làm tự tại, chẳng cần dự tính. Phật A Di Ðà, quang minh ánh rực, thắng vượt hơn ánh, mặt trời mặt trăng, ngàn ức vạn lần, quang minh tối tôn, vua trong Chư Phật. Vì thế cho nên, Phật Vô Lượng Thọ, cũng có hiệu là Phật Vô Lượng Quang, cũng có hiệu là, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Ðẳng Quang, là Trí Huệ Quang, là Thường Chiếu Quang, là Thanh Tịnh Quang, là Hoan Hỷ Quang, là Giải Thoát Quang, là An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghì Quang. Quang Minh như thế, khắp chiếu mười phương, tất cả thế giới, nếu chúng sinh nào, chạm Quang Minh nầy, cấu diệt thiện sanh, thân ý nhu nhuyến, nếu trong tam đồ, chỗ vô cùng khổ, thấy Quang Minh nầy, đều được dừng dứt, đến khi mạng chung, đều đặng giải thoát. Nếu chúng sanh nào, chạm Quang Minh kia, oai thần công đức, đêm ngày xưng nói, chí tâm chẳng dừng, chỗ nguyện tùy ý, đặng sanh nước đó.
PHẨM MƯỜI BA: THỌ MẠNG ÐẠI CHÚNG VÔ LƯỢNG
Phật bảo A Nan: Phật Vô Lượng Thọ, mạng sống dài lâu, không thể tính kể, lại có vô số các chúng Thanh Văn, thần trí thông triệt, oai lực tự tại, lòng tay nắm trọn, tất cả thế giới. Trong đệ tử ta, Ðại Mục Kiền Liên, thần thông đệ nhất, ở trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả tinh tú, cùng các chúng sinh, trong một ngày đêm, đều đếm biết số. Giả sử chúng sanh ở trong mười phương, đều thành Duyên Giác, mỗi một Duyên Giác, thọ vạn ức tuổi, thần thông đều như Ðại Mục Kiền Liên, dùng hết Thọ mạng, vận hết trí lực, cùng đem so tính, với số Thanh Văn, trong hội Phật kia, trong ngàn vạn phần, chưa được một phần.
Ví như biển lớn, sâu rộng vô biên, nếu lấy sợi lông, chẻ ra trăm phần, nghiền thành bụi nhỏ, lấy mỗi bụi nhỏ, chấm giọt nước biển, nước trong bụi lông, so với nước biển, nước nào nhiều hơn?
A Nan! Các vị “Mục Kiền Liên” kia, chỗ đếm biết được, như nước bụi lông, chỗ chưa được biết, như nước biển lớn. Mạng sống Phật kia, cùng chư Bồ Tát, Thanh Văn Trời Người, thọ mạng cũng vậy. Không thể nào dùng, toán số ví dụ, mà biết được hết.
PHẨM MƯỜI BỐN: CÂY BÁU KHẮP NƯỚC
Nước Như Lai kia, nhiều loài cây báu, hoặc cây thuần vàng, hoặc cây thuần bạc, cây bằng lưu ly, cây bằng thủy tinh, cây bằng hổ phách, cây bằng mỹ ngọc, cây bằng mã não, duy chỉ do một thứ báu hợp thành, không có xen tạp. Hoặc có hai báu, hoặc có ba báu, cho đến bảy báu, chuyển hợp mà thành, gốc thân cành ngọn, do báu ấy tạo, hoa lá quả quý, làm bởi báu khác. Hoặc có cây báu, chất vàng làm gốc, chất bạc làm thân, lưu ly làm cành, thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá, mỹ ngọc làm hoa, mã não làm quả. Còn những cây khác, cũng có bảy báu, hợp làm gốc thân, cành lá hoa quả, tạo ra nhiều loại. Mỗi loại mỗi hàng, hàng hàng thẳng tắp, thân thân đối nhau, cành lá hướng nhau, hoa trái như nhau, sắc đẹp lộng lẫy, không gì hơn được. Khi gió mát thổi, phát ra ngũ âm, âm giai vi diệu, hài hòa tự nhiên. Các cây báu nầy, khắp cả nước ấy.
PHẨM MƯỜI LĂM: BỒ ÐỀ ÐẠO TRÀNG
Còn Ðạo tràng kia, cây Bồ Ðề cao, bốn trăm vạn dặm. Chu vi gốc cây, năm ngàn do tuần, cành lá tỏa ra, hai mươi vạn dặm. Do tất cả báu, tự nhiên hợp thành, hoa quả xinh tươi, lộng lẫy chiếu khắp. Lại có màu sắc, hồng lục xanh trắng, các ma ni quý, vua các món báu, đươm chuỗi Anh Lạc, mây tụ báu kết, trang sức trụ báu. Các linh các khánh, bằng vàng bằng ngọc, giăng khắp tứ phía, lưới báu trân diệu, che trùm bên trên, trăm ngàn vạn sắc, hực chiếu sáng nhau, vô lượng hào quang, vô biên chiếu diệu, tất cả trang nghiêm, tùy ứng mà hiện. Gió nhẹ len qua, cành cây kẽ lá, diễn ra pháp âm, vô cùng vi diệu, tiếng Pháp chan hòa, khắp các nước Phật, mười phương thế giới, mầu nhiệm thanh thoát, vi diệu hòa nhã, cao tột bậc nhất. Nếu có chúng sinh, thấy cây Bồ Ðề, nghe đặng âm thanh, ngửi đặng hương thơm, nếm đặng quả vị, xúc chạm hào quang, nhớ cây công đức, sáu căn thanh triệt, không có não hoạn, trụ bất thối chuyển, đến khi thành Phật. Lại nữa do thấy, cây Bồ Ðề kia, đắc đặng ba nhẫn, một âm thanh nhẫn, hai nhu thuận nhẫn, ba vô sanh pháp nhẫn.
Phật bảo A Nan, cõi Phật như thế, cây cối hoa quả, cùng các chúng sinh, đều làm Phật sự, đây thảy đều do, nơi sức oai thần, nơi sức bổn nguyện, nơi Mãn Túc nguyện, nơi Minh Liễu nguyện, Kiên Cố nguyện và Cứu Cánh nguyện của Phật Vô Lượng Thọ.
PHẨM MƯỜI SÁU: NHÀ CỬA LẦU GÁC
Lại nữa ở nơi Phật Vô Lượng Thọ, giảng đường tinh xá, lầu quán lan can, cũng do bảy báu tự nhiên hóa thành, lại thêm các loại, ngọc trắng ma ni, trùng trùng giăng bủa, sáng diệu vô thượng, các vị Bồ Tát, cung điện chỗ ở, cũng lại như thế. Trong đó có chỗ: trên đất giảng kinh, tụng kinh, thọ kinh, nghe kinh, kinh hành, quán chiếu, tọa thiền; trên không giảng tụng, thọ nghe, kinh hành, quán chiếu, tọa thiền. Hoặc là đắc đặng, quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Người chưa đắc đặng A Duy Việt Trí, thì người ấy đặng A Duy Việt Trí. Mỗi tự niệm đạo, nói đạo hành đạo, thảy đều hoan hỷ.
PHẨM MƯỜI BẢY: SUỐI AO CÔNG ÐỨC
Lại nữa hai bên, trái phải giảng đường, suối ao thông nhau, dài rộng sâu cạn, thảy đều nhất đẳng. Hoặc mười do tuần, hai mươi do tuần, thậm chí cho đến, trăm ngàn do tuần, thơm tho trong suốt, đủ tám công đức. Quanh bờ vô số, cây hương Chiên Ðàn, cây trái tươi tốt, hoa quả thơm lừng, quang minh chiếu diệu, lá chen rợp đều, phủ xòa mặt ao, tỏa muôn ngàn hương, thế gian khó bì, hương theo gió bay, nương dòng nước thoảng. Lại nữa ao đặng trang sức bảy báu, đáy trải cát vàng. Hoa Ưu Bát La, hoa Bát Ðàm Ma, hoa Câu Mâu Ðầu, hoa Phân Ðà Lợi, muôn sắc lộng lẫy, chan hòa mặt nước. Nếu có chúng sanh, tới tắm trong ao, muốn nước tới chân, muốn nước tới gối, muốn nước tới lưng, muốn nước tới cổ. Hoặc muốn rưới thân, hoặc lạnh hoặc ấm, chảy nhanh chảy chậm, nước ấy nhất nhất, thanh tịnh tinh khiết, không hình không tướng, tùy ý chúng sanh, thần thể khai vui. Cát báu chiếu khắp, cùng tận thâm sâu. Sóng lùi sóng tới, thong thả bủa văng, tiếng vang vi diệu, vô lượng âm thanh, hoặc giả nghe đặng, tiếng Phật Pháp Tăng, tiếng Ba La Mật, Chỉ Tức Tịch Tịnh, Vô Sanh Vô Diệt, Mười lực Vô Úy, hoặc tiếng Vô Tánh, Vô Tác Vô Ngã, hoặc tiếng Ðại Từ Ðại Bi Hỷ Xả, hoặc tiếng Cam Lồ Quán Ðảnh Thọ Vị. Từng thanh từng loại, nghe đặng thế rồi, tâm kia thanh tịnh, chẳng chút phân biệt, chánh trực bình đẳng, thiện căn thuần thục, tùy chỗ muốn nghe, cùng Pháp tương ưng, nguyện nghe tiếng nào, riêng nghe tiếng ấy, chỗ không muốn nghe, tuyệt nhiên chẳng nghe. Hằng bất thối tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Mười phương thế giới, chư vị vãng sanh, đều ở hoa sen trong ao bảy báu, tự nhiên hóa sanh, tất đặng thọ nhận, thanh hư làm thân, vô cực làm thể. Không còn nghe đến, tên của ba đường, ác não khổ nạn, không có giả thiết, huống chi thật khổ. Chỉ có âm thanh, vui vẻ tự nhiên, nên cõi nước kia gọi là Cực Lạc.
PHẨM MƯỜI TÁM: HIẾM CÓ, SIÊU VƯỢT THẾ GIAN
Nước Cực Lạc kia, có các chúng sanh, dung sắc vi diệu, vượt đời hiếm có, đồng cùng một loại, không tướng sai khác, chỉ vì thuận theo, phương tục nên có, các tên Trời Người.
Phật bảo A Nan, ví như thế gian, có kẻ hành khất, nghèo khổ rách rưới, đứng bên cạnh Vua, mặt mày hình trạng, đâu thể sánh bằng! Nếu Vua so với Chuyển Luân Thánh Vương, thì quả quê hèn, giống như hành khất, đứng cạnh bên Vua. Chuyển Luân Thánh Vương, oai tướng bậc nhất, nhưng nếu so với, Vua trời Ðao Lợi, lại xấu xí hơn. Ví như Ðế Thích, đem so sánh với, Vua Trời Thứ Sáu, dù gấp trăm ngàn, cũng chẳng tương đồng. Vua Trời Thứ Sáu, nếu đem so với, Bồ Tát Thanh Văn, trong nước Cực Lạc, dung nhan tươi sáng, dù vạn ức lần, cũng không bì kịp. Cung điện chỗ ở, áo quần ăn uống, cũng như cõi trời Tha Hóa Tự Tại, đến như oai đức, giai cấp phẩm vị, thần thông biến hóa, tất cả Trời Người, không thể đem sánh, trăm ngàn vạn ức, không thể tính kể. A Nan nên biết, Phật Vô Lượng Thọ, cõi nước Cực Lạc, công đức đoan trang, nghiêm tịnh như thế, không thể nghĩ bàn.
PHẨM MƯỜI CHÍN: THỌ DỤNG ÐẦY ÐỦ.
Lại nữa, thế giới Cực Lạc, có các chúng sanh, đã sanh đang sanh, hoặc sẽ được sanh, đều được sắc thân vi diệu như thế, hình mạo đoan nghiêm, vô lượng phước đức, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại. Các thứ thọ dụng, thảy đều đầy đủ, thảy đều phong phú, cung điện phục sức, hương hoa phan cái, đồ dùng trang nghiêm, chỗ cần tùy ý, đều được như ý. Nếu khi muốn ăn, chén bằng bảy báu, tự nhiên hiện trước, trăm món ăn uống, tự nhiên sung mãn. Tuy ăn như thế, nhưng thật chẳng ăn, thấy sắc ngửi hương, dùng ý để ăn. Sắc lực tăng trưởng, không có tiện uế, thân tâm nhu nhuyến, không tham đắm vị, đến lúc ăn xong, đồ dùng biến mất, khi cần lại hiện. Lại có các thứ, báu diệu làm áo, mủ đai Anh Lạc, quang minh vô lượng, trăm ngàn diệu sắc, thảy đều tự nhiên, đầy đủ trên thân. Nhà cửa chỗ ở, xứng hợp hình sắc, lưới báu giăng bủa, linh báu treo khắp, lạ lùng, trân quý, trang hoàng khắp khắp. Quang sắc lộng lẫy, vô cùng vô tận, trang nghiêm diễm lệ. Lầu các lan can, điện đường phòng gác, vuông tròn rộng hẹp, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc ở hư không, hoặc ở đất bằng, an ẩn thanh tịnh, vi diệu khoái lạc, vừa nghĩ liền hiện, thảy đều đầy đủ.
PHẨM HAI MƯƠI: GIÓ ÐỨC, MƯA HOA.
Cõi nước Phật đó, đúng vào giờ ăn, bỗng nhiên gió đức, nổi lên chầm chậm, lướt xuyên màn lưới, len hàng cây báu, phát tiếng vi diệu, diễn nói Khổ Không, Vô Thường, Vô Ngã, các Ba La Mật. Rộng truyền muôn thứ, hương đức ấm diệu, có người nghe đặng, tập khí trần lao, tự nhiên chẳng khởi. Gió chạm vào thân, an hòa điều thích, ví như Tỳ Kheo, đắc diệt tận định. Gió lại thổi vào rừng cây bảy báu, hoa rơi kết nhóm, từng sắc từng quang, đầy khắp cõi Phật. Từng màu từng sắc, không xen không tạp, uyển chuyển sáng suốt, như Ðâu La Miên. Chân bước lên hoa, lún sâu bốn lóng, theo bước chân giở, phẳng lại như củ. Qua bữa ăn xong, hoa kia tự mất, mặt đất thanh tịnh, lại giăng hoa mới. Tùy thời tùy tiết, trở lại biến khắp, như trước không khác, sáu lần như thế.
PHẨM HAI MƯƠI MỐT: SEN BÁU PHẬT QUANG
Lại hoa sen báu, đầy khắp thế giới, mỗi mỗi hoa sen, trăm ngàn ức lá, hoa đó quang minh, vô lượng màu sắc. Sắc xanh ánh xanh, sắc trắng ánh trắng, đen vàng đỏ tía, hào quang cũng hệt. Lại nữa còn có, vô lượng diệu bảo, trăm ngàn ma ni, đẹp lạ chiếu sáng, minh diệu hơn ánh mặt trời mặt trăng. Hoa sen đó độ chừng nửa do tuần, hoặc một hoặc hai, ba bốn cho đến, trăm ngàn do tuần, trong mỗi hoa sen, ánh sáng phát ra, ba mươi sáu trăm ngàn vạn ức tia. Trong mỗi một tia, hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật. Thân sắc vàng tía, tướng tốt thù đặc. Mỗi một đức Phật, cũng lại phóng ra, trăm ngàn quang minh, chiếu khắp mười phương, nói pháp vi diệu. Như chư Phật ấy, mỗi mỗi an lập, vô lượng chúng sanh, nơi Phật Chánh Ðạo.
PHẨM HAI MƯƠI HAI: QUYẾT CHỨNG QUẢ TỐI CỰC.
Lại nữa A Nan, trong cõi Phật đó thảy đều không có: Ánh lửa bóng tối, mặt trời mặt trăng, tinh tú chiếu diệu, hiện tượng ngày đêm. Cũng không có tên, tháng năm kiếp số, lại không chấp trụ vào các nhà cửa, đối tất cả nơi, không có hình thức, không có danh hiệu, thủ xả phân biệt, chỉ thọ khoái lạc, thanh tịnh tối cực. Nếu có thiện nam, nếu có thiện nữ, đã sanh sẽ sanh, thảy đều được trú trong Chánh Ðịnh Tụ, quyết định chứng đặng quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Tại vì sao thế ? Nếu là tà định và bất định tụ, chẳng thấu triệt đặng nhân tối cực đó.
PHẨM HAI MƯƠI BA: MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT TÁN THÁN.
Lại nữa A Nan, ở về phương Ðông, thế giới nhiều như, số cát sông Hằng, mỗi mỗi thế giới, có hằng sa Phật, mỗi vị đều dùng, tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang, nói lời thành thật, xưng tán công đức Phật Vô Lượng Thọ, không thể nghĩ bàn. Hướng Nam Tây Bắc, hằng sa thế giới, chư Phật xưng tán, cũng lại như thế. Bốn hướng phụ và, hai hướng trên dưới, hằng sa thế giới, chư Phật xưng tán, cũng lại như thế. Tại vì sao thế ? Bởi muốn khiến cho, chúng sanh phương khác, nghe danh hiệu Phật, phát tâm thanh tịnh, quán chiếu thọ trì, quy y cúng dường, cho đến hay phát, một niệm tịnh tín, có được căn lành, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh nước ấy. Tùy nguyện được sanh, đắc bất thối chuyển, cho đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề.
PHẨM HAI MƯƠI BỐN: BA BẬC VÃNG SANH
Phật bảo A Nan: Mười phương thế giới, chư thiên nhân dân, số người chí tâm, nguyện sanh nước đó, thường gồm ba bậc:
Những bậc thượng bối: ly gia đoạn dục, hành hạnh Sa Môn, phát Bồ Ðề Tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Ðà Phật, tu các công đức, nguyện sanh nước đó. Các chúng sanh nầy, đến lúc lâm chung, Phật A Di Ðà, cùng các Thánh chúng, hiện ở trước mặt, trong một khoảnh khắc, liền được tiếp dẫn, vãng sanh Cực Lạc, bèn tự hóa sanh, trong ao Bảy Báu, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại. Do đó, A Nan! Có chúng sanh nào, muốn trong đời nầy, thấy Phật Di Ðà, phải nên phát tâm, Vô Thượng Bồ Ðề. Lại phải chuyên niệm, cõi nước Cực Lạc, tích chứa căn lành, liền đem hồi hướng, thế nên thấy Phật, sanh về nước đó, đặng bất thối chuyển, cho đến đắc quả Vô Thượng Bồ Ðề.
Với bậc Trung bối, tuy rằng không thể hành hạnh Sa Môn, tu công đức lớn, nhưng phải phát tâm Bồ Ðề Vô Thượng, nhất hướng chuyên niệm, A Di Ðà Phật. Tùy chỗ huân tu, các công đức lành, phụng trì trai giới, khởi dựng Tháp Tượng, cúng dường Sa Môn, đốt đèn treo phan, rải hoa đốt hương, lấy đó hồi hướng, nguyện sanh nước kia. Người đó mệnh chung, Phật A Di Ðà, hóa hiện thân Ngài, quang minh tướng tốt, đủ như chân Phật, cùng với Thánh Chúng, trước sau vây quanh, hiện trước người đó, nhiếp thọ tiếp dẫn, liền theo hóa Phật, vãng sanh nước đó, trụ bất thối chuyển,Vô Thượng Bồ Ðề. Trí huệ công đức, sau bậc Thượng bối.
Với bậc Hạ bối, nếu như không thể, tạo các công đức, phải nên phát tâm, Vô Thượng Bồ Ðề, một lòng chuyên niệm, A Di Ðà Phật, vui vẻ tin sâu, chẳng sanh nghi ngờ, đem tâm chí thành, nguyện sanh Cực Lạc. Ðến khi mệnh chung, người ấy trong mộng thấy Phật Di Ðà, cũng được vãng sanh. Trí Huệ Công đức, sau bậc Trung bối.
Nếu có chúng sanh, trụ pháp Ðại Thừa, đem tâm thanh tịnh, hướng Vô Lượng Thọ, cho đến mười niệm, nguyện sanh nước Ngài, nghe pháp thâm sâu, liền sanh tin hiểu, nhẫn đến đạt được, một niệm tịnh tâm, niệm Ðức Phật kia. Người ấy mệnh chung, Thấy Phật Di Ðà, sanh về Cực Lạc, được bất thối chuyển, Vô Thượng Bồ Ðề.
PHẨM HAI MƯƠI LĂM: CHÁNH NHÂN VÃNG SANH
Lại nữa A Nan, nếu như có người thiện nam, thiện nữ, nghe kinh điển nầy, thọ trì đọc tụng, biên chép cúng dường, ngày đêm không ngừng, cầu sanh Cực Lạc, phát tâm Bồ Ðề, giữ gìn giới cấm, vững vàng không phạm. Lợi lạc hữu tình, căn lành đã làm, đều ban cho họ, khiến họ an lạc, nhớ niệm Ðức Phật Di Ðà Phương Tây, cùng quốc độ Ngài. Người nầy mạng chung, sắc tướng như Phật, mỗi mỗi trang nghiêm, sanh về cõi báu, mau được nghe pháp, hằng bất thối chuyển.
Lại nữa A Nan, nếu có chúng sanh, muốn sanh Cực Lạc, tuy rằng không thể đặng tinh tấn lớn, hoặc đặng thiền định, tận trì kinh giới, nhưng cốt làm lành: Một không sát sanh. Hai không trộm cắp. Ba không dâm dục. Bốn không vọng ngữ. Năm không thêu dệt. Sáu không ác khẩu. Bảy không lưỡng thiệt. Tám không tham lam. Chín không sân giận. Mười không si mê. Như thế suốt cả ngày đêm nghĩ nhớ, thế giới Cực Lạc, Phật A Di Ðà, các thứ công đức, các thứ trang nghiêm, hết lòng quy y, đảnh lễ cúng dường, người nầy mạng chung, không kinh không sợ, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh, về cõi Cực Lạc.
Nếu sự đa đoan, không thể ly gia, bận rộn không thể đại tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh, những lúc rỗi rảnh, thân tâm đoan chính, dứt muốn bỏ lo, từ tâm tinh tấn, không nên sân giận, đoạn trừ tật đố, tham lam bỏn sẻn, trong lòng chẳng chuốt, hối hận nghi ngờ. Phải nên hiếu thuận, trung tín hết lòng, tin kinh Phật nói, nghĩa lý thâm sâu, tin nơi đạo lý, làm lành đặng phước, phụng trì tất cả các pháp như thế, không được thiếu sót, nghĩ suy chín chắn. Muốn đặng độ thoát, ngày đêm thường niệm; muốn nguyện vãng sanh, cõi nước thanh tịnh, của Phật Di Ðà, mười ngày mười đêm, cho đến một ngày, một đêm nối nhau không hề gián đoạn, mạng chung đều đặng, vãng sanh Cực Lạc, hành Bồ Tát đạo. Chư vị vãng sanh, thảy đều đắc đặng A Duy Việt Trí, đủ sắc vàng ròng, ba mươi hai tướng, đều sẽ thành Phật. Muốn được làm Phật ở cõi nước nào, tùy theo tâm nguyện. Do nơi chư vị, ngày đêm tinh tấn, cầu đạo không dừng, quyết định kết quả, sở nguyện chẳng luống.
Lại nữa A Nan! Do nghĩa lợi nầy, vô lượng vô số, không thể nghĩ bàn, chẳng có sai khác, vô biên thế giới, chư Phật Như Lai, đồng thanh xưng tán, công đức của Ðức Phật Vô Lượng Thọ.
PHẨM HAI MƯƠI SÁU: LỄ CÚNG NGHE PHÁP
Lại nữa A Nan: Mười phương thế giới, các chúng Bồ Tát, vì muốn chiêm lễ, Cực Lạc Thế Giới, Vô Lượng Thọ Phật, đều đem hương hoa, tràng phan bảo cái, đi đến chỗ Phật, cung kính cúng dường, nghe nhận kinh pháp, tuyên bố hóa đạo, xưng tán cõi Phật, công đức trang nghiêm. Bấy giờ Thế Tôn, liền nói kệ rằng:
Cõi nước Phật Phương Ðông
Nhiều như cát sông Hằng
Hằng sa chúng Bồ Tát
Ðến lễ Vô Lượng Thọ
Và chín phương còn lại
Cũng đồng lễ như thế
Ðều đem tâm cung kính
Dâng cúng món trân diệu
Phát âm thanh hòa nhã
Ngợi khen Tối Thắng Tôn
Thần thông huệ rốt ráo
Thâm nhập sâu cửa pháp
Nghe danh đức Phật thánh
An ẩn đặng lợi lớn
Trong các món cúng dường
Siêng tu không biếng mỏi
Quán cõi thù thắng kia
Vi diệu khó nghĩ bàn
Công đức trang nghiêm khắp
Các cõi Phật khó bằng
Nhân phát tâm vô thượng
Nguyện chóng thành Bồ Ðề
Liền đó Ðấng Tối Thắng
Mĩm cười hiện thân vàng
Quang minh từ miệng phóng
Chiếu khắp mười phương cõi
Thâu về nhiễu quanh Phật
Ba vòng xong nhập đảnh
Bồ Tát thấy hào quang
Liền chứng ngôi bất thối
Lúc hội tất cả chúng
Ðồng sanh tâm hoan hỷ.
Phật ngữ phạm rúng động
Bát âm thông diệu thanh
Chánh sĩ mười phương tới
Ta tất biết nguyện kia.
Chí cầu nghiêm Tịnh Ðộ
Thọ ký sẽ thành Phật
Liễu triệt tất cả pháp
Như dư vang mộng huyễn.
Ðủ đầy các diệu nguyện
Ắt thành cõi như thế
Biết cõi như bóng ảnh
Thường phát tâm hoằng thệ.
Rốt ráo đạo Bồ Tát
Ðủ đầy cội công đức
Tu thắng hạnh Bồ Ðề
Thọ ký sẽ thành Phật.
Thông đạt các pháp tánh
Tất cả Không, Vô Ngã
Chuyên cầu Tịnh Ðộ Phật
Ắt thành cõi như thế
Nghe pháp vui nhận hành
Ðược tới chỗ thanh tịnh
Nhất định Vô Lượng Tôn
Thọ ký thành Ðẳng Giác.
Cõi thù thắng vô biên
Sức bổn nguyện Phật kia
Nghe danh muốn vãng sanh
Dự vào ngôi bất thối
Bồ Tát phát chí nguyện
Nguyện cõi mình không khác
Nhớ rộng-độ tất cả
Ðều phát tâm Bồ Ðề
Xả bỏ thân luân hồi
Ðều khiến lên bờ giác
Gần gũi vạn ức Phật
Tự tại vô ngại khắp
Ði giáo hóa các cõi
Cung kính hoan hỷ đi
Ðộ xong về An Dưỡng
PHẨM HAI MƯƠI BẢY: CA THÁN PHẬT ÐỨC
Phật bảo A Nan, Bồ Tát nước đó, nương oai thần Phật, trong khoảng bữa ăn, lại tới mười phương, vô biên cõi tịnh, cúng dường Chư Phật. Hương hoa tràng phan, những đồ cúng dường, vừa nghĩ liền đến, đều hiện trong tay, trân diệu thù đặc, thế gian chẳng có. Dâng cúng dường Phật và chúng Bồ Tát, các hoa đã rải, liền ngay trên không, kết làm một hoa, hoa đều hướng xuống, tròn đẹp biến khắp, hóa thành lọng hoa. Trăm ngàn quang sắc, mỗi sắc mỗi hương, mùi hương xông khắp, bảo cái nhỏ nhất, đầy mười do tuần, như thế chuyển bội, cho đến che cùng, khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, tùy theo trước sau, thứ tự biến mất. Sau rốt nếu không còn rải hoa mới, chỗ hoa rải trước, cuối cùng chẳng rơi . Ở trong hư không, hòa tấu nhạc trời, dùng âm vi diệu, ca thán Phật đức. Trải qua khoảnh khắc, quay về bổn quốc, cùng tụ hợp nơi, giảng đường bảy báu. Phật Vô Lượng Thọ, rộng nói đại giáo, diễn xướng diệu pháp, thảy đều hoan hỷ, tâm giải đạo đạt. Gió hương liền thổi qua cây bảy báu, phát tiếng ngũ âm, vô lượng diệu hoa, theo gió rải tung ra khắp bốn phía, tự nhiên cúng dường, như thế không dừng. Tất cả chư Thiên, mỗi vị mang theo, trăm ngàn hương hoa, muôn thứ âm nhạc, cúng dường Phật kia, cùng chư Bồ Tát, và chúng Thanh Văn, lui tới trước sau, hớn hở khoái lạc. Ðây do bổn nguyện, Vô Lượng Thọ Phật, gia trì oai lực và cũng đã từng, cúng dường Như Lai, thiện căn tương tục, vì không khuyết giảm, vì khéo tu tập, vì khéo nhiếp thọ, vì khéo thành tựu.
PHẨM HAI MƯƠI TÁM: ÐẠI SĨ THẦN QUANG
Phật bảo A Nan: Trong cõi nước đó, các Bồ Tát chúng, đều đồng thấy suốt, nghe thấu mọi sự, tám phương trên dưới, quá hiện vị lai, chư Thiên nhân dân, cho đến các loài, bò bay máy cựa, tâm ý thiện ác, lời miệng muốn nói, chừng nào độ thoát, đắc đạo vãng sanh, đều dự biết cả. Lại cõi Phật đó, các chúng Thanh Văn, thân sáng một tầm, quang minh Bồ Tát, chiếu trăm do tuần. Có hai Bồ Tát, tối tôn bậc nhất, oai thần quang minh, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới.
A Nan bạch Phật: Hai vị Bồ Tát, danh hiệu là gì? Ðức Phật liền bảo: Một vị danh gọi là Quán Thế Âm; Một vị danh gọi là Ðại Thế Chí. Cả hai vị nầy, nơi cõi Ta Bà, tu hạnh Bồ Tát, vãng sanh nước kia, thường ở hai bên, trái phải của Ðức Phật A Di Ðà. Muốn đến mười phương, vô lượng chỗ Phật, tùy tâm liền đến, hiện nơi cõi nầy, làm lợi lạc lớn. Ngay trong thế gian, nếu các thiện nam và các thiện nữ, gặp lúc cấp nạn, rơi vào khủng bố, quay về nương tựa, Bồ Tát Quán Âm, đều được giải thoát.
PHẨM HAI MƯƠI CHÍN: NGUYỆN LỰC HOẰNG THÂM.
Lại nữa A Nan: Trong cõi Phật đó, tất cả Bồ Tát, hiện tại vị lai, đều đang rốt ráo, nhất sanh bổ xứ. Duy trừ nguyện lớn, vào cõi sanh tử, vì độ quần sanh, làm sư tử hống, khoác đại giáp trụ, công đức hoằng thệ, dùng tự trang nghiêm. Tuy rằng sanh vào, đời ác năm trược, thị hiện giống họ, thẳng tới thành Phật, không thọ hướng ác, sanh đâu cũng thường biết mạng đời trước. Phật Vô Lượng Thọ, ý muốn độ thoát, các loại chúng sanh, mười phương cõi nước, đều khiến vãng sanh nước Cực Lạc kia, tất khiến đặng chứng vào đường Niết Bàn, tất khiến cho người hành đạo Bồ Tát, đều đặng thành Phật. Ðã thành Phật rồi, cùng nhau giáo thọ, cùng nhau độ thoát. Triển chuyển như thế, không thể tính kể. Mười phương thế giới, Thanh Văn Bồ Tát, các loài chúng sanh, sanh về nước đó, đặng đạo Niết Bàn, đều sẽ thành Phật, không thể tính kể. Trong nước Phật đó, thường như nhất pháp, không có tăng nhiều. Tại vì sao thế? Giống như biển lớn, là vua của nước, muôn sông đỗ về, đều vào biển cả, mà nước biển lớn, nào có tăng giảm? Tám phương trên dưới, vô số nước Phật. Nước A Di Ðà, lâu dài rộng lớn, sáng đẹp vui vẻ, vô cùng độc đáo, trang nghiêm thù thắng. Vốn do đương lúc còn làm Bồ Tát, sở nguyện cầu đạo, tích lũy công đức. Phật Vô Lượng Thọ, ân đức bố thí, tám phương trên dưới, vô cùng vô tận, sâu rộng vô lượng, không thể nói hết.
PHẨM BA MƯƠI: BỒ TÁT TU TRÌ.
Lại nữa A Nan, trong cõi nước đó, tất cả Bồ Tát, thiền định trí huệ, thần thông oai đức, thảy đều viên mãn, bí tạng chư Phật, thông đạt rốt ráo, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, sâu vào chánh huệ, tàng dư tập khí chẳng còn dấy khởi, theo chỗ Phật hành, Thất-giác, Thánh-đạo, tu hành ngũ nhãn, chiếu chơn đạt tục, Nhục nhãn giản trạch, Thiên nhãn thông suốt, Pháp nhãn thanh tịnh, Huệ nhãn thấy chơn, Phật nhãn đầy đủ, rõ biết Pháp-tánh, biện tài tổng trì, tự tại vô ngại, khéo giải thế gian, phương tiện vô biên, chỗ nói chân thật, vào sâu nghĩa vị. Ðộ chúng hữu tình, diễn nói Chánh Pháp, Vô Tướng Vô Vi, không buộc không mở, không phân không biệt, xa lìa điên đảo, ngay chỗ thọ dụng, đều không nhiếp thủ, đi khắp cõi Phật, không luyến không chán, không vui không cầu, cũng không tưởng cầu, không ta không người, không tưởng oán trái. Tại vì sao thế? Bởi các Bồ Tát, đối với chúng sanh, đem Từ Bi lớn, lợi ích quần sanh, xả ly chấp trước, thành tựu vô lượng vô biên công đức. Lấy Huệ vô ngại, giải Pháp Như Như, khéo biết Tập Diệt, phương tiện âm thanh, không vui tiếng đời, thích trong chánh luận, biết tất cả pháp, thảy đều không tịch, sanh thân phiền não, tận dứt cả hai. Ở trong Tam giới, bình đẳng siêng tu, rốt ráo Nhất Thừa, đến bờ giác kia. Quyết đoạn lưới nghi, chứng Vô Sở Ðắc, dùng trí phương tiện, tăng trưởng rõ biết, vốn tự xưa nay, an trụ Thần Thông, đắc đạo Nhất Thừa, liễu ngộ do đấy, không do gì khác!
PHẨM BA MƯƠI MỐT: CÔNG ÐỨC CHÂN THẬT
Trí ấy rộng sâu, thí như biển lớn. Bồ Ðề cao rộng, ví như Tu Di, tự thân oai quang, vượt hơn trời trăng, tâm ấy trắng sạch, giống như núi tuyết. Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng. Thanh tịnh như nước, tẩy sạch trần cấu. Hừng hực như lửa, đốt sạch phiền não, không dính như gió, không các chướng ngại. Pháp âm như sấm, giác kẻ chưa giác. Mưa pháp Cam Lồ, nên nhuận chúng sanh. Rộng như hư không, đại từ bình đẳng, như hoa sen tịnh, nên lìa ô nhiễm, như cây Ni Câu, nên che mát khắp, như chày Kim Cang, phá tan tà chấp, như núi Thiết Vi, chúng ma ngoại đạo, không thể lung lay. Tâm kia chánh trực, khéo léo quyết định, luận pháp không chán, cầu Pháp không mỏi. Giới như lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời nói phát ra, khiến chúng vui phục. Ðánh Trống Pháp, dựng Pháp Tràng, diệu Huệ Nhật, phá si mê. Thuần tịnh an hòa, tịch định minh sát. Làm đại đạo sư, điều phục mình người, dẫn đạo quần sanh, xả bỏ ái trước, hằng lìa ba độc, du hí thần thông. Nhân duyên nguyện lực, phát sanh thiện căn, hàng phục ma quân, tôn trọng phụng sự, tất cả chư Phật, làm đèn sáng soi đời, làm ruộng phước tối thắng. Tốt lành thù đặc, kham thọ cúng dường, hớn hở vui mừng, dõng mãnh vô úy, thân sắc tướng tốt, công đức biện tài, trang nghiêm đầy đủ, chẳng ai sánh bằng, thường được chư Phật, đồng thanh khen ngợi, rốt ráo Bồ Tát, các Ba La Mật, và thường an trú, nơi tam ma địa, không sanh không diệt, đi khắp đạo tràng, xa cảnh Nhị Thừa.
Nầy ông A Nan! Ta nay lược nói, cõi Cực Lạc kia, chỗ Bồ Tát sanh chân thật công đức, thảy đều như thế. Nếu nói rộng ra, trăm ngàn vạn kiếp, cũng không cùng tận.
PHẨM BA MƯƠI HAI: THỌ LẠC VÔ CỰC.
(Thọ vui không cùng tận)
Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Các hàng Trời Người… Nước Vô Lượng Thọ, Thanh Văn Bồ Tát, công đức trí huệ, không thể nói hết. Lại cõi nước ấy, vi diệu an lạc, thanh tịnh như thế, làm sao mà không đủ sức làm lành, niệm đạo tự nhiên? Ra vào cúng dường, chiếu soi kinh pháp, vui thích hành đạo, lâu dài huân tu, tài trí dõng mãnh, tâm không thối chuyển, ý không giải đãi. Ngoài như chậm hoãn, trong ứng sử nhanh, tâm lượng bao dung, ví như hư không, thích nghi Trung đạo, trong ngoài tương ưng, nghiêm chỉnh tự nhiên, thúc liễm đoan trực. Thân tâm khiết tịnh, tham ái không khởi, chí nguyện an định, không tăng khuyết giảm, cầu đạo hòa chánh, không nghiêng theo tà, y lời kinh dạy, chẳng dám sai quấy, như dây chỉ mực, thảy đều mộ đạo, rỗng rang vô niệm, không khởi ưu tư, tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập, đạm bạc an nhiên, làm đặng nguyện lành, không tham không muốn, hết lòng cầu sách, thương xót từ mẫn, lễ nghĩa đều hợp, bao dung sự lý, siêu độ giải thoát. Tự nhiên gìn giữ, chân chân tinh khiết, chí nguyện vô thượng, tịch định an lạc. Một mai khai thông triệt sáng: trong tướng tự nhiên, bản nhiên thanh tịnh, ánh sáng vô lượng, dung hóa tự nhiên, chuyển biến tối thắng. Uất Ðơn thành bảy báu, ngang trải thành vạn vật. Quang tinh minh đồng hiện, tốt lành thù đặc, không đâu sánh bằng. Hiển minh không trên dưới thông suốt không ngằn mé, tự thân cần tinh tấn, nỗ lực tự cầu đạo, tất triệt để siêu thoát, vãng sanh về cõi nước, có vô lượng thanh tịnh, của Phật A Di Ðà. Dứt hẳn trong năm đường, nẻo ác tự đóng chặt. Ðạo thù thắng vô biên, dễ đến mà không người, nước đó không nghịch cảnh, tự nhiên dắt dẫn theo, chí xả như hư không, siêng tu cầu đạo đức, mãi mãi đặng sống lâu, thọ lạc không cùng tận. Ðâu phải như việc đời, ray rức lẽ vô thường?
PHẨM BA MƯƠI BA: KHUYẾN DƯ SÁCH TẤN
Người đời tranh nhau, những việc không đâu, trong chốn ác nghiệp, cùng bao sự khổ, siêng làm kinh doanh, tự cung dưỡng thân. Cao sang nghèo khó, lớn nhỏ nam nữ, suy nhớ chồng chất, do tâm sai sử, không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, họ hàng của cải, có không cũng lo, được một thiếu một, lo cho bằng người. Vừa được chút ít, lại càng lo hơn, nước lửa giặc trộm, oan gia trái chủ, đốt phá cướp giựt, hủy diệt tiêu tan, tâm tham ý chấp, không thể buông bỏ, mạng chung xuôi tay, chẳng mang được gì. Nghèo giàu như nhau, khổ lo muôn mối.
Người trong thế gian, cha con anh em, vợ chồng quyến thuộc, yêu kính lẫn nhau, không ganh ghét nhau, có không thông nhau, không được tham tiếc, sắc mặt lời nói, thường phải nhu hòa, chớ nên chống trái. Lỡ lúc tranh cãi, có chỗ sân giận, đời sau chuyển tiếp, trở thành đại oán. Những việc thế gian, rốt gây họa nhau, tuy chưa tới lúc, nên gấp “tưởng phá”, người nhiễm ái dục, sanh một mình tử một mình, đến đi một mình, khổ vui tự nhận, không ai gánh thay. Thiện ác biến hóa, nghiệp thức theo đuổi, đường đạo không đồng, không lúc gặp lại. Sao lúc còn khỏe, không gắng tu thiện, còn đợi bao giờ ?
Người đời thiện ác, tự mình chẳng thấy, lành dữ họa phúc, tranh nhau tạo tác, tâm mê thần ám, triển chuyển gây nghiệp, điên đảo tương tục, vô thường là gốc, mờ mờ mịt mịt, không tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa, ham muốn thỏa thích. Mê muội sân giận, tham tài đắm sắc, rốt cùng chẳng dứt, thật đáng thương thay! Người trước không thiện, không biết đạo đức, không ai khuyến tấn, chẳng gì làm lạ! Con đường sanh tử, đạo lý thiện ác, chẳng chút lòng tin, cho là không có, cùng nhau quán sát, rành rành trước mắt.
Hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em chồng vợ, cùng nhau thương khóc, nhất tử nhất sanh, thay nhau quyến luyến, thương lo ràng buộc, không lúc tháo gỡ, tơ tưởng ân hảo, không lìa tình dục, không cân nhắc kỹ, không chuyên hành đạo, tuổi thọ hết rồi, đối phó sao đây !ù Người mê-hoặc nhiều, kẻ ngộ-đạo ít, cưu mang sát độc, ác khí mịt mù, vọng tâm hưng khởi, trái nghịch trời đất, buông lung tạo tội, cướp nhanh mạng sống, đọa thẳng đường ác, chẳng có ngày ra. Mọi người phải nên, nghĩ suy chính chắn, xa lìa việc ác, chọn đường lương thiện, siêng năng thực hành, sang-giàu-thương-muốn, không thể bền giữ, đều phải lánh xa, chẳng thể an vui. Phải nên tinh tấn, sanh nước An Lạc, trí huệ thông suốt, công đức thù thắng. Chớ nên phóng tâm, vào chỗ ham muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng sau người.
PHẨM BA MƯƠI BỐN: TÂM ÐƯỢC MỞ SÁNG
Di Lặc bạch rằng: “Phật nói giáo giới, rất sâu rất khéo, đều nhờ ân lành, giải thoát ưu khổ. Phật là vua Pháp, tôn siêu “trong hàng Thánh”, quang minh chiếu suốt, rõ thông “không ngằn mé”, rộng làm đạo sư, tất cả trời người. Nay được gặp Phật, lại cũng được nghe tiếng Vô Lượng Thọ, thảy đều hoan hỷ, tâm được mở sáng”.
Phật bảo Di Lặc: “ Người tôn kính Phật, là việc lành lớn, thật nên niệm Phật, dứt đoạn hồ nghi, nhổ gốc ái dục, ngăn các nguồn ác, dạo khắp ba cõi. Không chỗ ngăn ngại, mở bày Chánh đạo, độ người chưa độ. Phải nên biết rằng, nhân dân mười phương, nhiều kiếp đến nay, luân chuyển năm đường, khổ lo không dứt, lúc sanh khổ đau, già cũng khổ đau, bệnh vô cùng khổ, chết vô cùng khổ, mùi hôi bất tịnh, chẳng có gì vui. Phải tự quyết định, rửa sạch tâm nhơ, nói làm trung tín, trong ngoài tương ưng. Người hay tự độ, qua lại giúp nhau. Chí tâm cầu nguyện, chất chứa gốc lành, tuy cả một đời, tinh tấn cần khổ, chỉ trong khoảnh khắc. Sau được sanh về, nước Vô Lượng Thọ, vui sướng không cùng. Vĩnh viễn nhổ tận, cội gốc sanh tử, chẳng còn khổ lo, sống ngàn vạn kiếp, tự tại tùy ý. Người người tinh tấn, cầu chỗ tâm nguyện, chớ nên nghi hối, tự gây lỗi lầm, sanh chốn biên địa, trong thành bảy báu, suốt năm trăm năm, chịu bao khổ nạn”.
Di Lặc bạch rằng: “Nhận lời chỉ dạy sáng suốt của Phật, chuyên tinh tu học, y giáo phụng hành, không dám sanh nghi”.
PHẨM BA MƯƠI LĂM: TRƯỢC THẾ ÁC KHỔ
(Ðời trược ác khổ)
Phật bảo Di Lặc: Các Ông có thể, ở trong đời nầy, tâm đoan ý chánh, không làm việc ác, thật là đức lớn. Tại vì sao thế ? Mười phương thế giới, thiện nhiều ác ít, dễ bề khai hóa. Duy thế gian nầy, ngũ ác kịch khổ. Nay ta cõi nầy, thị hiện thành Phật, giáo hóa quần sanh, khiến xả năm ác, trừ năm thống khổ, lìa năm thiêu đốt, khiến đặng điều phục, giáo hóa tâm ý, khiến giữ năm thiện, đặng nhiều phước đức. Những gì là năm?
Thứ nhất đó là: Thế gian chúng sanh, ưa làm điều ác, kẻ mạnh hiếp yếu, thay nhau thù phá, tàn hại sát thương, ăn nuốt lẫn nhau, chẳng biết làm thiện, sau chịu ương phạt, nên có nghèo cùng, ăn xin cô độc, đui điếc câm ngọng, si ác điên cuồng, do nhân đời trước, không tin đạo đức, không chịu làm lành. Lại có những bậc, Tôn quý Hào phú, Hiền minh Trưởng giả, trí dũng tài đạt, do nhân đời trước, từ hiếu tu thiện, tích đức gây nên. Thế gian chuyện nầy, rành rành trước mắt.
Khi tuổi thọ dứt, đọa chốn u minh, chuyển sanh thọ thân, biến dạng cải hình, nên có địa ngục, cầm thú các loài bò bay máy cựa. Thí như thế pháp, lao tù ngục tối, khốn khổ cực hình, thần hồn điêu đứng, tùy tội hướng tới, thân mạng chỗ thọ, hoặc dài hoặc dắn, thọ sanh theo nhau, báo đền lẫn nhau, ương ác chưa dứt, rốt chẳng lìa được, xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó ra, khó đặng giải thoát, đau không kể xiết!
Ở trong trời đất, nghiệp vận tự nhiên, những việc báo ứng, tuy không tức thời, nhưng khi tới lúc, thiện ác hội về, phải thọ quả báo.
Thứ hai đó là: Nhân dân thế gian, không thuận pháp độ, kiêu xa dâm dục, buông lung phóng túng. Bậc trên không sáng, tại chức không chánh, hại người oan uổng, thiệt kẻ trung lương, tâm miệng trái ngược, lăng xăng dối trá. Trên dưới trong ngoài, lừa dối lẫn nhau, sân giận ngu si, cầu tự lợi mình, tham lam muốn nhiều, hơn thua lợi hại, kết giận thành thù, nhà tan mạng mất, chẳng nghĩ trước sau. Giàu có bỏn sẻn, không chịu bố thí, nặng tham quý ái, tâm lao thân khổ, như thế mạng chung, chẳng mang được gì. Thiện ác họa phúc, theo mạng sanh ra, hoặc ở chỗ vui, hoặc vào khổ độc, thấy người làm thiện, ganh ghét hủy báng, không tâm hâm mộ, thường hay lấy cắp, lợi của người khác, dùng tự cung cấp, tiêu hết lại lấy, thần minh rõ biết, chết sa đường ác, trải trong ba ngã, vô lượng khổ não, luân chuyển trong đó, nhiều kiếp khó ra, đau không kể xiết !
Thứ ba đó là: Nhân dân thế gian, theo nhân sanh gởi, mạng thọ bao lâu! Những kẻ bất lương, thân tâm bất chánh, ôm lòng tà ác, thường tưởng dâm dục, phiền não đầy ngực, thái độ nhìn sai, chạy theo bên ngoài, tốn hao tiền của, việc làm phi pháp, chỗ cần nên làm, lại chẳng chịu làm, kết giao tụ tập, dấy binh đánh nhau, công kích sát phạt, bức hiếp cưỡng đoạt, về nuôi vợ con, tận sức làm vui, người người chán ghét, tai ương khổ nạn. Việc ác như thế, người, quỷ rành rõ, thần minh ghi biết, rơi ba đường ác, vô biên khổ não, xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó ra, đau không kể xiết!
Thứ tư đó là: Nhân dân thế gian, chẳng nhớ tu thiện, nói lưỡi hai chiều, miệng nói lời ác, dối trá thêu dệt, ganh ghét kẻ hiền, phá hoại hiền minh, bất hiếu với mẹ cha, coi nhẹ sư trưởng, đối bạn chẳng tin, khó đặng thành thật, tự cao tự đại, tự cho hiểu đạo, hoành hành oai thế, lấn lướt mọi người, muốn người kính sợ, không tự hỗ thẹn, khó hàng khó chuyển, thường ôm kiêu mạn, ỷ lại đời trước, được phước hộ trì, đời nầy làm ác, phước đức hết tận, thọ mạng không còn, các ác đến vây. Lại tên tuổi họ, ghi tại thần minh, ương họa dẫn dắt, chẳng thể trốn chạy, chỉ phải đi tới, vào chốn hỏa ngục, thân tâm tan nát, thần hình khổ cực. Ðến lúc đó rồi, hối hận sao kịp!
Thứ năm đó là: Nhân dân thế gian, ỷ lại biếng lười, không chịu làm thiện, tu thân sửa nghiệp. Lời cha mẹ dạy, chóng trái phản nghịch, coi như oan gia, không biết phận con, phụ ân bội nghĩa, chẳng chút báo đền, phóng túng du đảng, đam mê tửu sắc, gây gổ xung đột, không biết tình người, vô nghĩa vô lễ, không thể can ngăn. Sáu hàng quyến thuộc, tiền của có không, chẳng thèm đoái hoài, chẳng nghĩ “công ơn cha mẹ”, không còn “tình nghĩa thầy bạn”. Thân khẩu và ý, chưa từng một thiện, không kính tin Phật, không kính trọng Pháp, không tin sinh tử thiện ác, muốn hại người chơn, náo loạn tăng chúng, ngu si mê muội, cho mình trí huệ, nhưng không đặng biết, sanh từ đâu tới, chết đi về đâu, bất nhân bất thuận, vọng cầu sống lâu. Từ tâm khuyên dạy mà chẳng chịu tin, đắng miệng nhọc lời, với họ chẳng ích, trong tâm bế tắc, ý không khai giải. Ðại mạng đến kề, hối hận đã muộn, trước chẳng tu thiện, lâm chung mới hối, làm sao cho kịp !
Ở trong trời đất, năm nẽo rành rành, thiện ác báo ứng, họa phước nối nhau, tự làm tự chịu, không ai gánh thay.
Người hiền làm thiện, từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Kẻ dữ làm ác, từ khổ vào khổ, từ tối vào tối, có ai hay biết? Chỉ Phật rõ biết. Lời dạy mở bày, ít kẻ tin làm, sanh tử chẳng dừng, đường ác không dứt, người đời như thế, khó thể dứt tận. Thế nên tự nhiên, có ba đường ác, vô lượng khổ não, xoay vần trong đó, đời đời kiếp kiếp, không có ngày ra, khó đặng giải thoát, đau không kể xiết !
Năm ác năm khổ, năm thiêu như thế, ví như lửa lớn, thiêu đốt thân người. Nếu từ trong đó, tận chế tâm ý, đoan thân chánh niệm, nói làm đi đôi, chỗ làm chí thành. Chỉ làm việc thiện, không làm việc ác, thân tự độ thoát, đặng phước đức kia, mạng sống dài lâu, đặng đạo Niết Bàn, là năm thiện lớn
PHẨM BA MƯƠI SÁU: TRÙNG TRÙNG HỐI MIỄN.
(Nhiều lần khuyên gắng)
Phật bảo Di Lặc: Ta bảo các ông, năm ác, năm khổ, năm thiêu như thế, luân chuyển sanh nhau, nếu phạm điều nầy, phải trải đường ác. Hoặc trong hiện đời, trước bị bệnh ương, sống chết chẳng đặng, chỉ cho đại chúng.
Hoặc lúc mạng chung, vào ba đường ác, khổ đau sầu thống, tự cùng thiêu cháy. Oan gia gặp gỡ, giết hại lẫn nhau, khởi từ việc nhỏ, kết thành khổ lớn, đều do tham nhiễm, trước tài đắm sắc, không chịu thi ân, tự cầu sướng thân, không kể phải quấy, si dục bức bách, tranh lợi về mình. Giàu sang vinh hiển, đương thời thỏa thích, không hay nhẫn nhục, không lo tu thiện, oai thế chẳng bao, tùy thời tiêu dứt! Ðạo lý tự nhiên, vận hành hiển phát, bơ vơ kinh hoàng, sẽ đọa vào đó, xưa nay đều vậy, đau khổ đáng thương. Các ông thảy đều được kinh Phật dạy, chiếu soi cặn kẽ, giữ mình đoan chánh, trọn đời không lười, tôn Thánh kính thiện, nhân từ bác ái, phải cầu độ thế, bứng gốc sanh tử, dứt sạch mầm ác, lìa ba đường dữ, sợ đường thống khổ.
Nếu gặp việc thiện, trước nhất làm gì? Tâm phải tự đoan, thân phải tự đoan, mắt tai miệng lưỡi, đều phải tự đoan. Thân tâm đều giữ, thanh tịnh trong sạch, cùng thiện tương ưng, đừng theo tham dục, không phạm điều ác, sắc mặt lời nói, phải nên nhu hòa, hành thân phải chuyên, cử chỉ ngó nhìn, an định từ tốn, làm việc cẩn trọng, sau khỏi hối hận vì không chân thật, luống uổng công phu.
PHẨM BA MƯƠI BẢY: NHƯ NGHÈO ÐẶNG CỦA BÁU
Như các ông đặng, rộng trồng gốc đức, chớ phạm đạo cấm, nhẫn nhục tinh tấn, từ tâm chuyên nhất, trai giới thanh tịnh, một ngày một đêm, thì thù thắng hơn, nước Vô Lượng Thọ, làm thiện trăm năm. Tại vì sao thế? Bởi cõi Phật kia, chứa đầy đức thiện, chẳng tơ hào ác. Cõi nầy tu thiện, mười ngày mười đêm, thù thắng hơn các cõi Phật phương khác, làm thiện ngàn năm. Tại vì sao thế? Cõi Phật phương khác, phước đức tự nhiên, không chỗ tạo ác, chỉ thế gian nầy, thiện ít ác nhiều, uống khổ ăn độc, chưa từng ngưng nghỉ. Ta thương các ông, khổ tâm khuyên dạy, trao cho kinh pháp, thảy đều thọ trì, quán chiếu phụng hành. Trai gái sang hèn, bà con bạn bè, thay nhau dạy bảo, cùng nhau kiểm thảo, nghĩa lý thuận hòa, vui vẻ hiếu hiền. Chỗ làm nếu phạm, phải tự hối lỗi, bỏ ác làm thiện, sáng nghe chiều sửa, phụng kinh trì giới, cũng giống như kẻ nghèo đặng của báu, chuyển trước sửa sau, tẩy sạch tâm nhơ, cải sửa hành vi, tự nhiên cảm nhận, nguyện ước thành đạt. Ở chỗ Phật hành, nước thành tụ lạc, đều được giáo hóa. Thiên hạ hòa thuận, trời trăng trong sáng, mưa gió thuận thời, tai dịch chẳng khởi, nước thạnh dân an, binh đao chẳng động, trọng sùng nhân đức, chuyên hành lễ giáo, nước không trộm cắp, không có oan uổng, mạnh không hiếp yếu, người người đắc ý. Ta thương các ông, hơn cha mẹ thương. Ta cõi nầy thành Phật, lấy thiện trừ ác, nhổ gốc khổ sanh tử, khiến đặng năm đức, đặng an vô vi. Ta vào Niết Bàn, kinh đạo lần diệt, nhân dân tà ngụy, lại làm điều ác, năm thiêu năm khổ, lâu sau càng nguy. Các ông thay nhau, khuyên lơn nhắc nhở, y kinh pháp Phật, chớ nên trái phạm.
Di Lặc Bồ Tát, chấp tay bạch rằng: Người đời khổ ác, như thế như thế, Phật đều thương xót, Phật đều độ thoát, chúng con xin vâng, theo lời Phật dạy, không dám trái phạm.
PHẨM BA MƯƠI TÁM: LỄ PHẬT HIỆN QUANG
(Lễ Phật hiện ánh sáng)
Phật bảo A Nan: “Các ông muốn thấy, Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác và chư vị Bồ Tát, các A La Hán, cõi nước đang ở, nên hướng về Tây, phía mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ, xưng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật”.
A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặt hướng về Tây, chấp tay đảnh lễ, rồi bạch Phật rằng: Con nay nguyện thấy, thế giới Cực Lạc, Phật A Di Ðà, phụng sự cúng dường, trồng các căn lành. Ðang khi đảnh lễ, bỗng dưng được thấy Phật A Di Ðà, dung nhan quảng đại, sắc tướng đoan nghiêm, như ngọn núi vàng, cao vượt hơn hết, tất cả thế giới. Lại cũng nghe đặng, chư Phật Như Lai, mười phương thế giới, xưng dương tán thán, Phật A Di Ðà, các thứ công đức, không ngại không dứt.
A Nan bạch rằng: “Cõi Phật tịnh đó, chưa từng có được, con cũng nguyện thích sanh về cõi đó”.
Thế Tôn bảo rằng: “Người sanh nước đó, đã từng gần gũi, vô lượng chư Phật, trồng các cội đức. Muốn sanh về đó, cần phải nhất tâm, quy y chiêm ngưỡng”.
Khi nói lời nầy, Phật A Di Ðà, liền từ lòng tay, phóng vô lượng quang, chiếu khắp tất cả, thế giới chư Phật. Ngay trong lúc ấy, cõi nước chư Phật, thảy đều hiện rõ, trong khoảng một tầm, thảy đều do nơi, quang minh thù thắng, vô cùng thanh tịnh, của Phật Di Ðà. Trong thế giới nầy, núi Ðen núi Tuyết, Kim Cang Thiết Vi, các núi lớn nhỏ, sông ngòi rừng cây, cung điện trời người, tất cả cảnh giới, chiếu soi nơi nơi. Như mặt trời mọc, chiếu sáng thế gian, tận đường địa ngục, cho đến hang hốc, những chỗ tối tăm, thảy đều khai thông, đồng một sắc sáng. Giống như nạn nước, đầy khắp thế giới, vạn vật trong đó, chìm lỉm không hiện, bao trùm muôn vật, chỉ thấy toàn nước, quang minh Phật kia, cũng giống như thế. Bồ Tát Thanh Văn, tất cả quang minh, đều bị ẩn mờ, chỉ ánh sáng Phật, minh hiện chiếu diệu. Bốn chúng trong hội, Trời Rồng, Tám Bộ, Người và Phi Nhân… thảy thảy đều thấy, thế giới Cực Lạc, các thứ trang nghiêm: Phật A Di Ðà, ngồi trên tòa cao, uy nghi oai đức, tướng tốt sáng chói, Bồ Tát Thanh Văn, cung kính vây quanh. Cũng thí như là: núi chúa Tu Di, vương khỏi mặt biển, sáng rực chiếu diệu, thanh tịnh bằng thẳng, không có tạp uế không hình loại khác, chỉ toàn các thứ, quý báu trang nghiêm, thánh hiền đồng trú. A Nan cùng với, các chúng Bồ Tát, đều rất vui mừng, hớn hở đảnh lễ, cúi đầu sát đất, xưng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chư Thiên nhân dân, cho đến các loài, bò bay máy cựa, thấy ánh sáng nầy, tất cả bệnh khổ, không chi chẳng dứt. Tất cả ưu não, đều được giải thoát, thảy thảy đều phát, tâm từ tu thiện, hoan hỷ khoái lạc. Chuông khánh đàn cầm, và đờøn không hầu, không đánh tự nhiên, cũng phát ngũ âm. Trong cõi nước Phật, chư Thiên nhân dân, đều đem hương hoa, tận trên hư không, rải khắp cúng dường. Vào lúc bấy giờ, thế giới Cực Lạc, về phía hướng Tây, trăm ngàn câu chi na do tha nước, nhờ thần lực Phật, như hiện trước mắt, như thiên nhãn tịnh, quán một tầm đất. Kia thấy cõi nầy, cũng lại như vậy: Cũng đều thấy đặng “thế giới Ta Bà, Thích Ca Như Lai, và các Tỳ Kheo, vây quanh thuyết pháp”.
PHẨM BA MƯƠI CHÍN: TỪ THỊ THUẬT CHỖ THẤY
Bấy giờ Ðức Phật bảo A Nan và Bồ Tát Từ Thị : Các ông có thấy, thế giới Cực Lạc, cung điện lầu các, ao suối rừng cây, đầy đủ vi diệu, trang nghiêm thanh tịnh ? Các ông có thấy chư thiên cõi dục, trên đến trời sắc cứu cánh, rải các hương hoa, khắp cõi Phật chăng ?
A Nan bạch rằng: Vâng ! Ðã thấy rồi.
Các ông có nghe, A Di Ðà Phật, đại âm tuyên bố, tất cả thế giới, giáo hóa chúng sanh?
A Nan bạch rằng: Vâng ! con đã nghe.
Phật bảo A Nan:
Các ông có thấy, trong cõi nước đó, các chúng tịnh hạnh, dạo trong hư không, cung điện tùy thân, không có trở ngại, biến khắp mười phương, cúng dường chư Phật, và họ niệm Phật không ngừng hay không ? Lại các loài chim, trụ giữa hư không, phát ra pháp âm, đều do biến hóa, ông đều thấy chăng ?
Từ Thị bạch rằng: “Như lời Phật dạy, mỗi mỗi đều thấy”.
Phật bảo Di Lặc: Những người nước kia, có người thai sanh, ông có thấy không?
Di Lặc bạch rằng: Thế Tôn! Con thấy, thế giới Cực Lạc, nhân dân trụ thai, như ở cung điện của trời Dạ Ma, lại thấy chúng sanh, ở trong hoa sen, ngồi thế kiết già, tự nhiên hóa sanh. Do nhân duyên gì mà nhân dân kia, có người thai sanh, có người hóa sanh?
PHẨM BỐN MƯƠI: BIÊN ÐỊA NGHI THÀNH
Phật bảo Từ Thị : Nếu có chúng sanh, lấy tâm nghi hoặc, tu các công đức, nguyện sanh nước đó, không rõ Trí Phật, Trí không nghĩ bàn, Trí không xưng lường, Trí rộng đại thừa, vô đẳng vô luân, thù thắng tối thượng. Ðối các trí nầy, nghi hoặc chẳng tin, nhưng tin tội phước, tu tập gốc thiện, nguyện sanh nước đó. Lại có chúng sanh, chứa nhóm căn lành, mong cầu Trí Phật, Trí phổ biến, Trí vô đẳng, oai đức rộng lớn, Trí không nghĩ bàn. Nơi thiện căn mình, không thể sanh tin, nên việc vãng sanh, nước Phật thanh tịnh, ý chí do dự, không được chuyên tâm, song do tương tục, niệm Phật không dừng, đem nguyện lành mình, kết làm nguyện gốc, tiếp đặng vãng sanh. Những hạng người nầy, bởi nhân duyên đó, tuy sanh nước kia, không thể đến trước chỗ Vô Lượng Thọ, con đường bị ngăn, nơi biên địa Phật, trong thành bảy báu, Phật chẳng làm thế, thân hành chỗ tạo, tự tâm hướng tới, tuy rằng cũng có, hoa sen ao báu, tự nhiên thọ thân, ăn uống sung túc, như trời Ðao Lợi. Ở trong thành đó, không thể ra đặng. Nhà ở trên đất, cao lớn đều không theo như ý muốn, trong năm trăm năm, thường không thấy Phật, không nghe kinh Pháp, không thấy Bồ Tát, Thanh Văn Thánh chúng, trí tuệ người đó, không được sáng suốt, hiểu kinh lại ít, tâm không khai thông, ý không vui vẻ, cho nên người đó gọi là thai sanh. Nếu có chúng sanh, rõ tin Trí Phật, đến Trí thù thắng, đoạn trừ nghi hoặc, tin gốc lành mình, làm các công đức, chí tâm hồi hướng, đều trong ao báu, tự nhiên hóa sanh, ngồi thế kiết già, ở trong khoảnh khắc, thân tướng quang minh, công đức trí huệ, như các Bồ Tát, thành tựu đầy đủ. Từ Thị nên biết, người hóa sanh kia, trí huệ thù thắng.
Còn người thai sanh, trong năm trăm năm, không thấy Tam Bảo, cũng không biết đặng, pháp thức Bồ Tát, cũng không được duyên, tu tập công đức, không nhân gần gũi, Phật Vô Lượng Thọ, nên biết người nầy, ở các đời trước, không có trí huệ, rơi vào nghi lầm.
PHẨM BỐN MƯƠI MỐT: HẾT LẦM THẤY PHẬT
Ví như một vị, vua Thánh Chuyển Luân, có ngục bảy báu, con vua bị tội, đem giam vào đó. Lâu đài cung điện, màn báu giường vàng, lan can cửa sổ, bàn ghế trang sức, kỳ diệu quý báu, ăn uống áo quần, như vua Chuyển Luân, nhưng đem khóa vàng, xích hai chân lại, tiểu vương tử đó, có vui hay không?
Từ Thị bạch rằng: Thưa Ðức Thế Tôn: Không thể vui được, bị nhốt chỗ tối, tâm chẳng tự tại. Nếu tận dùng hết các thứ phương tiện, muốn cầu thoát khỏi, cậy nhờ cận thần, rốt chẳng như ý. Vua Chuyển Luân vui, mới đặng thoát ra.
Phật bảo Di Lặc: Các chúng sanh đó, cũng lại như thế. Nếu bị đọa lạc, vào chỗ nghi hối, mong cầu trí Phật, đến Trí rộng lớn, song tự căn lành, không thể sanh tin, nhưng do chỗ nghe, đặng danh hiệu Phật, mới khởi lòng tin, tuy sanh nước kia, ở trong hoa sen, chẳng xuất hiện đặng. Thai hoa nước kia, tưởng như ở trong cung điện vườn hoa. Tại vì sao thế? Trong đó thanh tịnh, không có uế ác, suốt năm trăm năm, không thấy Tam Bảo, không được gần gũi, cúng dường Chư Phật, xa lìa tất cả, gốc lành thù thắng, lấy đấy làm khổ, chẳng sanh vui thích. Nếu chúng sanh đó, biết gốc tội mình, đáy lòng tự trách, cầu lìa chốn ấy, lỗi lầm đời trước, thảy đều dứt sạch, mới được thoát khỏi, liền đặng sanh về, chỗ Vô Lượng Thọ, lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ, khai giải vui vẻ, cũng đặng cúng dường khắp vô lượng Phật, tu các công đức.
Nầy A Dật Ða! Là vị Bồ Tát, đều nên biết rằng, những sự nghi hoặc, là đại tổn hại, làm mất lợi lớn, bởi thế phải nên, rõ tin Trí Huệ Vô Thượng của Phật.
Từ Thị bạch rằng: Vì sao cõi nầy, có hạng chúng sanh, tuy cũng tu thiện, chẳng cầu vãng sanh?
Phật bảo Từ Thị: Hạng chúng sanh nầy, trí huệ cạn cợt, phân biệt Tây Phương, không bằng cõi Trời, không có gì vui, nên chẳng cầu sanh.
Từ Thị bạch rằng: những chúng sanh nầy, hư vọng phân biệt, không cầu cõi phật, sao thoát luân hồi?
Ðức Phật dạy rằng: Hạng chúng sanh nầy, các căn lành trồng, không hay lìa tướng, không cầu huệ Phật, đắm sâu dục lạc, phước báo nhân gian. Tuy cũng tu phước, cầu quả Trời Người. Ðến khi quả kết, tất cả đầy đủ, nhưng chưa thể ra khỏi ngục ba cõi. Giả sử như là: cha mẹ vợ con, quyến thuộc nam nữ, muốn cùng cứu thoát, song nghiệp tà kiến, chưa thể xả lìa, luân hồi chao đảo, không được tự tại. Các ông hãy nhìn, bao kẻ ngu si, căn lành không trồng, mà chỉ biết đem, thế trí biện thông, tăng lớn tâm tà, hỏi sao thoát khỏi, nạn lớn sanh tử?
Lại có chúng sanh, tuy trồng căn lành, làm ruộng phước lớn, nhưng tâm vẫn còn, trước tướng phân biệt, tình chấp sâu nặng, cầu thoát luân hồi, trọn không thể được. Nếu ai biết đem, trí huệ vô tướng, trồng các cội đức, thân tâm thanh tịnh, xa lìa phân biệt, cầu sanh Tịnh Ðộ, hướng Phật Bồ Ðề, sẽ sanh cõi Phật, vĩnh viễn giải thoát.
PHẨM BỐN MƯƠI HAI: BỒ TÁT VÃNG SANH
Bồ Tát Di Lặc bạch Phật rằng nay, thế giới Ta Bà, các cõi nước Phật, Bất thối Bồ Tát, sẽ đặng sanh về, nước Cực Lạc kia, số ấy bao nhiêu ?
Phật bảo Di Lặc: Ở thế giới nầy, có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát, đã từng cúng dường, vô số chư Phật, trồng các cội đức, sẽ sanh nước đó. Bồ Tát hạnh nhỏ, tu tập công đức, sẽ được vãng sanh, không thể tính kể. Chẳng những cõi ta, các vị Bồ Tát, vãng sanh nước đó, cõi Phật phương khác, cũng đặng như thế. Từ ở phương xa, chiếu soi cõi Phật, có đến mười tám câu chi na do tha đại Bồ Tát, sanh về nước đó. Về hướng Ðông Bắc, cõi Phật Bảo Tạng, có chín mươi ức, Bồ Tát bất thối, sanh về nước đó. Từ ở cõi nước Phật Vô Lượng Âm, cõi Phật Quang Minh, cõi Phật Long Thiên, cõi Phật Thắng Lực, cõi Phật Sư Tử, cõi Phật Ly Trần, cõi Phật Ðức Thủ, cõi Phật Nhân Vương, cõi Phật Hoa Tràng, Bồ Tát bất thối, vãng sanh về đó, hoặc mười trăm ức, hoặc một trăm ngàn, đến một vạn ức.
Phật thứ mười hai, danh Vô Thượng Hoa, Ngài có vô số, các chúng Bồ Tát, đều bất thối chuyển, trí huệ dõng mãnh, đã từng cúng dường, vô số chư Phật, đủ đại tinh tấn, thảy đều phát tâm, hướng về nhất thừa. Ở trong bảy ngày, liền hay nhiếp thủ, trăm ngàn ức kiếp. Ðại sĩ chỗ tu, các pháp kiên cố, các Bồ Tát ấy, đều sẽ vãng sanh.
Phật thứ mười ba, danh gọi Vô Úy, Ngài có tất cả, bảy trăm chín mươi ức đại Bồ Tát, các tiểu Bồ Tát, và các Tỳ Kheo… không thể tính kể, đều sẽ vãng sanh.
Mười phương thế giới, danh hiệu chư Phật, và chúng Bồ Tát, chỉ kể tên thôi, cùng kiếp chẳng hết.
PHẨM BỐN MƯƠI BA: CHẲNG PHẢI LÀ TIỂU THỪA
Phật bảo Từ Thị: Ông hãy quán sát, Chư đại Bồ Tát, khéo được lợi ích. Nếu có thiện nam, và thiện nữ nào, được nghe danh hiệu Phật A Di Ðà, hay sanh một niệm, với tâm vui thích, quy y chiêm lễ, y giáo tu hành, phải biết người nầy, được lợi ích lớn, sẽ đặng công đức, như trên đã nói, tâm không hạ liệt, cũng không cống cao, thành tựu căn lành, thảy đều tăng thượng, phải biết người nầy, không phải tiểu thừa, trong giáo pháp ta, được xưng gọi là đệ tử bậc nhất. Cho nên bảo ông, thế gian Trời Người, A Tu La … nên: vui thích tu tập, sanh tâm hy hữu, ở trong kinh nầy, sinh tưởng đạo sư. Muốn khiến vô lượng hằng sa chúng sanh, nhanh chóng an trụ, được bất thối chuyển, muốn thấy nước kia, rộng lớn trang nghiêm, nhiếp thọ các cõi nước Phật thù thắng, tròn đầy công đức. Phải phát tinh tấn, nghe pháp môn nầy. Nên vì cầu pháp mà không sanh tâm, thối chuyển hư ngụy, dù vào lửa lớn, chẳng nên nghi hối. Tại vì sao thế? Bởi vô lượng ức vị Bồ Tát kia, thảy đều mong cầu, pháp môn vi diệu, tôn trọng lắng nghe, không sanh chóng trái. Có nhiều Bồ Tát, muốn nghe kinh nầy, mà chẳng thể được. Vì thế các ông, phải cầu pháp nầy”
PHẨM BỐN MƯƠI BỐN: THỌ KÝ BỒ ÐỀ
Nếu trong đời sau, mãi cho đến khi, Chánh Pháp bị diệt, sẽ có chúng sanh, trồng các gốc lành, đã từng cúng dường, vô lượng chư Phật. Do Như Lai kia, gia trì uy lực, hay đặng pháp môn quảng đại như thế, nhiếp giữ thọ trì, sẽ được rộng lớn“Trí nhứt thiết trí”. Ở trong pháp đó, rộng giải thù thắng, đặng hoan hỷ lớn, rộng vì người nói, thường thích tu hành. Các chư Thiện nam và chư Thiện nữ, hay trong pháp nầy, nếu như đã cầu, hiện cầu sẽ cầu, đều đặng thiện lợi. Các ông phải nên, an trụ không nghi, trồng các cội lành, phải thường tu tập, khiến không nghi trệ, không nhập tất cả, các thứ trân báu, thành tựu lao ngục.
Nầy A Dật Ða, như thế các loài, kẻ oai đức lớn, hay gặp pháp Phật, thông đạt rộng rãi cửa pháp khác nhau. Bởi trong pháp nầy, không chịu lắng nghe, nên ức Bồ Tát, tâm bị thối chuyển, quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nếu có chúng sanh, nơi kinh điển nầy, biên chép cúng dường, thọ trì đọc tụng. Trong một khoảnh khắc, vì người diễn nói, khuyến khích lắng nghe, không sanh ưu não, cho đến ngày đêm, nghĩ tưởng cõi đó, và công đức Phật, nơi đạo vô thượng, rốt không thối chuyển. Người ấy lâm chung, giả sử ba ngàn đại thiên thế giới, chìm trong lửa lớn, cũng đặng siêu hóa, sanh về Cực Lạc. Người ấy đã từng, gặp Phật quá khứ, thọ ký Bồ Ðề, tất cả Như Lai, đồng thời khen ngợi. Thế nên cần phải, chuyên tâm tin nhận, trì tụng nói làm.
PHẨM BỐN MƯƠI LĂM: CHỈ LƯU LẠI MỘT KINH NẦY
Ta nay do vì, các chúng sanh thảy, nói kinh pháp nầy, khiến cho thấy đặng Phật Vô Lượng Thọ. Và cõi nước kia, tất cả các thứ, những gì sẽ làm, đều có thể cầu. Không khéo sau khi ta đã diệt độ, lại sanh nghi hoặc, ở trong đời sau, kinh đạo tận diệt, ta vì tấm lòng, từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại, chỉ một kinh nầy, trụ thế trăm năm. Có chúng sanh nào, được gặp kinh nầy, tùy theo ý nguyện, đều đặng độ thoát. Như Lai tại thế, khó gặp khó thấy. Kinh đạo chư Phật, khó được khó nghe. Gặp thiện tri thức, nghe pháp hay hành, việc nầy cũng khó. Nếu nghe kinh nầy, tin ưa thọ trì, là khó trong khó , chẳng gì khó hơn.
Nếu có chúng sanh, đặng nghe tiếng Phật, từ tâm thanh tịnh, hớn hở vui mừng, tóc lông dựng đứng, hoặc chảy nước mắt, đều do đời trước, từng hành Phật đạo, chẳng phải người phàm. Nếu nghe hiệu Phật, trong lòng hồ nghi, lời kinh Phật dạy, thảy chẳng lòng tin, đều do ở trong đường dữ mà tới, tai ương đời trước, chưa được dứt tận, chưa được độ thoát, nên tâm hồ nghi, chẳng hướng tin vậy.
PHẨM BỐN MƯƠI SÁU: CẦN TU KIÊN TRÌ.
(Siêng tu kiên trì)
Phật bảo Di Lặc: Pháp vô thượng của chư Phật Như Lai, mười lực vô úy, vô ngại vô trước, pháp rất thậm sâu, pháp Ba La Mật của Chư Bồ Tát, chẳng phải dễ gặp. Người hay nói pháp, cũng khó mở bày, vững chắc tin sâu, thời cũng khó gặp.
Ta nay như lý, mà tuyên nói các pháp môn rộng lớn, vi diệu như thế, chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật, phú chúc các ông, làm đại thủ hộ. Vì chúng hữu tình bị chìm trong những đêm dài lợi dưỡng, đừng để chúng sanh luân chuyển năm đường, chịu nhiều thống khổ. Phải nên tu hành, tùy thuận ta dạy. Ðối Phật phải hiếu, thường nhớ ơn thầy, khiến pháp môn nầy, trụ lâu chẳng diệt, phải nên kiên trì, không được bỏ mất, không được khởi vọng, tăng giảm kinh pháp, thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả. Pháp ta như thế, nên nói như thế. Chỗ Như Lai làm, cũng nên làm theo, tu trồng phước thiện, cầu sanh Tịnh Ðộ.
PHẨM BỐN MƯƠI BẢY: PHƯỚC HUỆ ÐƯỢC NGHE
Bấy giờ Thế Tôn, mới nói kệ rằng:
Ðời trước nếu không tu phước huệ,
Nơi đây chánh pháp chẳng thể nghe.
Ðã từng cúng dường các Như Lai,
thì hay vui vẻ tin việc nầy.
Kiêu ác, giải đãi cùng tà kiến,
Khó tin pháp vi diệu Như Lai,
Như người mù hằng đi trong tối,
Không thể mở đường cho kẻ khác.
Chỉ từng đối Phật trồng căn thiện,
Hạnh nguyện cứu đời mới hay tu.
Nghe xong, thọ trì và biên chép,
Ðọc tụng, xưng tán và cúng dường.
Như thế nhất tâm cầu cõi Tịnh,
Quyết định vãng sanh nước Cực Lạc.
Giả sử lửa lớn khắp tam thiên,
Nương oai đức Phật đều được thoát.
Biển trí huệ Như Lai sâu rộng,
Chỉ Phật cùng Phật mới hay biết;
Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí,
Ðem hết thần lực chẳng thể lường.
Công đức Như Lai Phật tự biết,
Chỉ có Thế Tôn hay khai thị
Thân người khó được, Phật khó gặp,
Tín huệ nghe pháp khó trong khó.
Nếu các hữu tình sẽ làm Phật,
Vượt hạnh Phổ Hiền lên bờ giác.
Thế nên rộng nghe chư Trí sĩ,
Nên tin ta dạy lời như thật.
Diệu pháp như thế may được nghe,
Phải thường niệm Phật mà sanh hỷ.
Thọ trì rộng độ dòng sinh tử,
Phật nói người nầy thật bạn hiền.
PHẨM BỐN MƯƠI TÁM: NGHE KINH ÐƯỢC LỢI ÍCH
Bấy giờ Thế Tôn, nói kinh pháp nầy, Trời Người thế gian, có đến một vạn hai ngàn na do tha ức chúng sanh, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Có hai mươi ức, chúng sanh chứng đắc, quả A Na Hàm. Sáu ngàn tám trăm, chư vị Tỳ Kheo, phiền não đã sạch, tâm đặng giải thoát. Có bốn mươi ức chư vị Bồ Tát, đối với quả vị Vô Thượng Bồ Ðề, trụ bất thối chuyển, công đức hoằng thệ, đem tự trang nghiêm. Hai mươi lăm ức, các loại chúng sanh, được bất thối nhẫn. Có đến bốn vạn ức na do tha, trăm ngàn chúng sanh, đối với quả vị “Vô Thượng Bồ Ðề”â, chưa từng phát ý, nay mới phát tâm. Trồng các căn làønh, nguyện sanh Cực Lạc, thấy Phật Di Ðà, đều sẽ vãng sanh cõi Như Lai đó. Phương khác từng người, thứ lớp thành Phật, đồng một danh hiệu: “Diệu Âm Như Lai”. Lại có chúng sanh, mười phương cõi Phật, nếu hiện tại sanh, hoặc vị lai sanh, thấy Phật Di Ðà, mỗi nơi có đặng, tám vạn câu chi na do tha người thọ ký pháp nhẫn, thành tựu viên mãn “Vô Thượng Bồ Ðề”. Các hữu tình kia, đều do nhân duyên, thệ nguyện đời trước, cùng được vãng sanh, thế giới Cực Lạc.
Bấy giờ tam thiên đại thiên thế giới, sáu thứ chấn động, cùng hiện các thứ, thần biến ít có, phóng “Ðại Quang Minh” chiếu khắp mười phương. Lại có chư Thiên, ở trên hư không, trổi lên điệu nhạc, phát âm tùy hỷ. Cho đến chư Thiên, cõi trời Sắc Giới, thảy đều được nghe, khen chưa từng có. Hoa đẹp vô lượng, phơi phới rơi xuống. Tôn giả A Nan, Bồ Tát Di Lặc, các chư Bồ Tát, và chúng Thanh Văn, Trời Rồng Tám Bộ, tất cả đại chúng, vô cùng hoan hỷ, tin nhận phụng hành.

shared http://duongvecuclac.com/nghi-thuc-cung-vong-co-hon/

No comments:

Post a Comment