Wednesday, June 3, 2015

Trích từ các trang phây của bạn...





Chị Dậu,
hồi mới vô Sài Gòn tôi làm đủ thứ nghề để mưu sinh, mà cái việc chính của tôi ở Sài Gòn là đi học thì tôi lại bỏ bê, chả học hành gì, cứ lên lớp coi thời khóa biểu thấy cái môn dài thòng như “lịch sử các học thuyết kinh tế” hay “chủ nghĩa xã hội khoa học” là tôi bỏ đi một lèo, cả tháng sau mới quay lại. Nhưng bù lại tôi siêng tham gia các CLB, viết báo và học tiếng Anh. Học tiếng Anh thì tôi đi cùng thằng bạn, Pham Quoc Khanh , nó đăng ký lớp học tiếng Anh ở ĐH Sư Phạm ban đêm, còn tôi đi theo nó, học chui. Hai thằng chỉ có một biên lai học phí nhưng cũng học hết khóa này qua khóa khác, bữa nào nhà trường có kiểm tra biên lai thì tôi bỏ ra ngoài, hoặc giả bộ quên… sau này, đâu năm 95, tôi có viết một bài phóng sự, tựa là “Sinh Viên học chui”, đăng trên trang “Nhịp Sống Trẻ” của báo Tuổi Trẻ.
...
phụ trách lớp của tôi lúc đó là một cô giáo, cô không đẹp lắm nhưng có duyên, hiền nhưng trông khắc khổ, lúc nào cũng tất bật với cái cặp to đùng và dáng đi tất tả, chúng tôi gọi cô là Chị Dậu, học trong lớp này tôi phát biểu hăng lắm, siêng làm bài tập, lên bảng liên tục, nói chung tôi là học sinh nhiệt tình nhứt lớp, nên dù biết tôi học chui, Chị Dậu cũng không nói gì, thậm chí còn báo trước mỗi khi có kiểm tra. Thời gian sau được biết Chị Dậu ban ngày đang làm cho một công ty nước ngoài, công ty dầu nhờn Castrol. Biết tôi học tài chánh, Chị Dậu thường đem các tài liệu tiếng Anh ở công ty cho chúng tôi xem riêng, những thư từ, giấy tờ kế toán công ty bỏ, chị đem về, nói Phú tập coi mấy cái này, mai mốt đi làm cần lắm. Tôi cảm kích tấm lòng của chị vô cùng.
...
sau nữa, vẫn đang là sinh viên năm 3, tôi xin về tờ tạp chí “Khoa Học – Công Nghệ - Kinh Tế”, làm chân chạy quảng cáo. Thời đó, cách đây hơn hai chục năm, kiếm quảng cáo khó hơn ăn gan ông trời, tôi chạy ngoài nắng suốt ngày, đen như phi châu, có bữa tới lớp ngủ gục luôn. Chị Dậu hay tin, nói vậy tốt lắm, để chị giúp em lấy quảng cáo Castrol. Cái bữa sau chị nói hai giờ chiều lên gặp phó tổng bên chị. Đúng hai giờ tôi vận bồ đồ “coi được” nhứt, mượn xe thằng bạn, chạy qua công ty chị, má ơi, công ty to đùng, cửa kính sáng choang, thảm sàn mát rượi, máy lạnh teo bugi.. tôi choáng ngợp. Ngợp hơn nữa là gặp sếp chị, nói chuyện, tôi gần như phát run vì quá hồi hộp trước người đàn ông đó, chị phải ngồi bên cạnh, dịch cho tôi từng câu, đỡ lời, hướng dẫn tôi từng động tác… lúc ra về, chị nói, có quảng cáo hay không không quan trọng, chủ yếu là để em làm quen.
...
sau lần đó, tôi lại bỏ đi chu du đâu mấy tháng trời, bỏ học, rồi không gặp lại Chị Dậu nữa, nhưng cái dáng chị, ánh mắt chị, cái cách chị giúp đỡ một đứa sinh viên nghèo thì tôi không quên, không bao giờ tôi quên, và luôn mong muốn được gặp lại chị, không làm gì cả, chỉ để mời chị ly café. Còn chuyện ơn nghĩa, dĩ nhiên, như thường lệ, tôi theo cách của SaiGon, tôi giúp các bạn khác, các bạn trẻ đi sau, bỡ ngỡ, khó khăn, cần gì tôi đều nhiệt thành giúp, là cái cách tôi trả ơn Chị Dậu, trả nợ Sài Gòn.
entro: hôm qua có bạn đọc cái note "chị Dậu" bèn nói, anh kể tiếp chuyện thời sinh viên của anh đi, nghe đã quá, nghe hào sảng quá, mèn ơi, thời đó khốn khó lắm, còn hào sảng, nếu mình muốn thì thời nào cũng hào sảng được mà... dù sao cũng xào lại cái mấy cái note cũ để bạn coi
...

bình thường,
1.
những năm 93~94, lúc chưa viết báo, việc làm thêm chủ yếu của tôi là làm bồi bàn. Không phải bồi bàn ở các nhà hàng sang trọng mà chỉ là bồi bàn chạy sô cho mấy nhà nấu đám cưới. Thường thì tôi hay làm vào tối thứ bảy, trưa và chiều chủ nhật. Một công việc vất vả nhưng đã cho tôi nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Chúng tôi chủ yếu phục vụ ở các quán sân vườn, các khuôn viên nhà văn hóa hay viện bảo tàng. Mỗi đám cưới tôi được trả trung bình ba chục ngàn đồng. Có một đám cưới tôi được trả đến năm chục ngàn, đó chính là đám cưới của Nghệ sĩ kịch Hồng Vân, dĩ nhiên là đám trước, với anh Kiến Trúc Sư, chớ không phải đám sau này, một dĩa cơm bụi ngon lành thời đó chỉ ba ngàn đồng nên công việc này có thu nhập khá hấp dẫn dù hơi vất vả, và nói thế nào nhỉ, đôi khi cũng hơi nhục.
có một việc trong thời gian làm bồi bàn mà tôi luôn bị ám ảnh, là việc sau đám cưới, toàn bộ nhóm phục vụ chúng tôi thường ngồi lại và ăn chung một bữa cơm. Một bữa cơm rất sang trọng. Bữa cơm sang trọng ấy chính là những đồ thừa mà thực khách dùng không hết hoặc chưa đụng đũa đến. Sau này, mỗi khi đi ăn đám cưới, tôi đều nhớ chuyện này.

2.
xưa thời đó, tôi có thằng bạn, tên thằng Thường, thực ra là hai thằng, hai anh em nó cách nhau 2 tuổi tên Bình và Thường, bình thường, nghe nói dân biển, đâu miệt Gò Công, nhưng nhà nó thì không đi biển, nhà nghèo lắm. Hai thằng Bình Thường rất bình thường, không đẹp không xấu, không giỏi không dở, nhưng được cái chịu làm, mà làm công chuyện cũng binh thường, nó chuyên bao mối chạy bàn cho các đám cưới, chính nó giới thiệu tôi làm một chân chạy bàn một thời gian, mà không riêng tôi, cả đám bạn nhà trọ, đám bạn bè nó quen biết, nó đều dắt đi chạy bạn đám cưới ráo trọi, cứ một đám là ba chục ngàn, đám lớn hoặc buổi tối thì bốn, năm chục. May gặp đám trưa tuy nắng nóng chút nhưng nhanh gọn, ăn vù cái xong giải tán, còn gặp đám tối nhiều khi tới 10~11 giờ đêm chưa vãn.
hồi đó công việc làm thêm cho sinh viên chưa nhiều, mấy việc dạy kèm này nọ đều có những thằng nhanh chân thầu như thế (kiểu trung tâm giới thiệu việc làm bây giờ), và thường thu lại phí của người tham gia, ví dụ có sô dạy kèm 200 ngàn/tháng thì thằng môi giới nó giao cho mình nó lấy mất hai chục, nhiều chỗ lấy nửa tháng đầu. Mà nói thiệt là dạy kèm vất vả quá, nhứt là đối với tôi, vì bài tập của bọn con nít càng lúc càng khó, giải ong cả thủ, nên tôi thà đi làm bốc vác hay chạy bàn còn ngon lành hơn nhiều, tuy không cao sang quyền quý bằng nhưng đỡ long óc hại não. Anh em thằng Bình thằng Thường thì không có vụ lấy tiền môi giới kiểu đó, nó lãnh chạy bàn đám cưới nhưng mà nó cũng chỉ ăn công như mọi người, chỉ nhận việc gọi người kiêm quản lý thôi, không ăn đồng giới thiệu nào của anh em cả, dù nếu có cũng chẳng ai nói gì. Mấy đứa quen nó đưa vô làm còn cho mượn năm ba chục ra mua cái áo sơ mi trắng bận, còn tận tình chỉ bảo cách đi đứng, bưng bê ra sao cho đúng nữa.

3.
có bữa đó có người khách dự đám cưới ở bảo tàng Tôn Đức Thắng để quên cái bóp đầm, cái bóp cũng thường, trong đó có cái bằng lái xe máy, giấy chứng minh, chút đồ trang điểm và mấy trăm ngàn, thằng Thường lãnh trách nhiệm ngồi chờ khách quay lại để trả, mà đợi hoài không có ai tới lấy, buổi chiều lại có đám cưới khác nên mãi đến chủ nhựt, nó lấy xe đạp đi đến địa chỉ ghi trên bằng lái xe để trả, đi lòng vòng mất cả buổi trưa mới tìm đúng nhà. Bữa sau anh em hỏi nó, có mấy trăm ngàn mà mày phải đem trả chi cực khổ dữ vậy. Nó nói, bình thường chớ không triết lý chi hết, tao đâu có trả cái bóp không, tao trả niềm tin nữa.

4.
thằng Thường đi làm sớm, mới hơn năm đã mua được xe máy để đi làm, bạn bè nể phục lắm, dù chỉ là chiếc Cup78, đạp 7-8 cái mới nổ, nhưng mà thời đó sinh viên đứa nào đứa nấy còng lưng đạp xe thì nó chạy xe máy nổ bình bịch coi ngon lành hết biết.
một lần kia, tự nhiên không nghe tiếng bình bịch nữa, thấy thằng Thường đi xe đạp trở lại, anh em hỏi xe máy đâu, nó bảo mất rồi. Thì ra thằng Thường cho một thằng bạn ở chung mượn xe đi chơi với bạn gái, thằng kia dựng xe sao để trộm lấy mất, mà nhà thằng kia còn nghèo tợn, không biết lấy gì đền cho Thường, gặp Thường lắp bắp xin lỗi, hứa đi làm kiếm tiền đền lại. Thằng Thường khoát tay, nói câu rất hay, số cái xe này mất, mầy không làm mất thì tao cũng làm mất, anh em mà, thôi khỏi đền đi. Thằng bạn cảm kích lắm, anh em cũng cảm kích, thì ra nó không thường chút nào.

5.
sau này nghe thằng Thường giàu, rất giàu, tôi không lạ, nó chắc chắn là thằng giàu, không giàu tiền bạc cũng giàu tình nghĩa

Hôm đó mình đi xe cơ quan vào, định xuống Vũng Tàu nhưng hết xe, nên đến Saigon, xuống Hàng Xanh, đi xe ôm về. rong hẻm về cho mình 1 ông chú xe ôm hom hem và đen đúa. Mình leo lên xe chú đi, lúc đó 12h kém buổi khuya.

Vì trời tối mình hơi dè dặt, sau nghĩ phải hỏi han nhân thân ông này, mình mở lời, chú người ở đâu. Chú nói tui nhà dưới Long An, mấy năm nay bịnh quạn, mới chạy xe lại 2 năm, tui buồn vợ tui, rồi sinh bịnh, bịnh phổi đó cô, mà giờ ráng chạy kiếm tiền, chớ ở không sao được, còn nuôi mẹ già con nhỏ.
Mình hỏi chứ vợ chú sao mà buồn, chú nói vợ tui cờ bạc bỏ tui đi rồi. Giờ dưới Long An có bà mẹ già, đứa con gái học lớp 7, tui với vợ tui cũng là có duyên mà ít nợ, chuyện vầy.
Hồi đó có lần tui đi về con hẻm chỗ ở, có 2 mẹ con ngồi uống nước, tui hỏi chứ đi đâu, bà mẹ nói tui dắt nó đi phá thai, thai 2 tháng rưỡi,nó mới 18 tuổi. Tui nói sao làm chuyện bất nhơn vậy, rồi nửa giỡn nửa thiệt nói thêm, thôi để thai đó đi, hai mẹ con về đi, đẻ đửa nhỏ ra tui nuôi.
Mấy tháng sau tui nhận được điện thoại, bà mẹ nói con tui đẻ rồi anh nuôi đi, bữa anh hứa đó, nó nằm Từ Dũ. Vậy là tui chạy lên Từ Dũ chở vợ về, bác sĩ không cho vì mới đẻ hôm qua, nhưng tui nói ở lại cũng không có tiền đóng viện phí. Nên ổng cũng thả về chứ biết sao.
Vợ tui về Long An được 3,4 tháng thì nó bỏ đi, từ đó tui nuôi đứa nhỏ. Mấy tháng sau có ông công an tỉnh, tới gạ nói tui bán đứa nhỏ cho ổng lấy 10 cây vàng. Tui nói ổng, mười cây chứ một trăm cây tui cũng không bán.Tui nuôi nó tới nay học tới lớp 7 rồi, xinh gái lắm, cao ráo, tuần nào cũng gọi lên nói cha về thăm con chớ con nhớ cha quá. Má tui có nhiều cháu ruột nhưng thương nó nhứt à. “mà nó có biết chú là cha nuôi nó không?”. Biết chớ, tui nói cho nó lâu rồi. Giờ mỗi tháng tui gửi về nhà được triệu rưỡi, hai triệu. Chừng nào bà má tui chết thì tui dắt nó lên đây, giờ tui chỉ có mơ ước cho nó học hành tới nơi tới chốn thôi cô ơi. kể ra tui cũng có phước, có đứa con gái có gì cơm nước tuổi già, con cái cũng là nhân duyên đó cô.
Đó là câu chuyện của ông xe ôm, đứng bến ngay ngã 4 Hàng Xanh phía café Trung Nguyên chân cầu vượt, ổng tên Đức. Mình ghi ra đây để nhắc mình, cuộc sống đơn giản hay phức tạp, dễ dàng hay khó khăn tùy thuộc vào con mắt nhìn của mình thôi.
Nhận nuôi 1 đứa trẻ chưa dứt sữa không phải con mình, trong khi không có nghề nghiệp ổn định, còn 1 mẹ già, vậy mà nghe chú kể nhẹ hều, như kể cho qua thời gian, ngắn quãng đường đi vậy thôi.
Chỉ là do con mắt nhìn!

Kể thêm:
- Chú xe ôm với bà mẹ cô gái 18 tuổi bỏ con vẫn ở chung xóm Thanh Đa, ra vô thỉnh thoảng cũng đụng mặt.
- Cô gái đó đã lấy chồng khác, đẻ thêm đứa khác cũng con gái, nhưng cờ bạc sau cũng chia tay chồng.
- nhà chú đang ở là nhà cha để lại, hồi đó cha chú làm gì đó trong sân bay chế độ cũ, họ cấp cho cái nhà nhỏ đó, và nhà nước lúc đó bao cấp nuôi hết mấy anh chị em của chú.
- bà mẹ già dưới Long An năm nay hơn 80 tuổi, có mấy công ruộng cho thuê, lấy tiền đó nuôi cháu.
- thỉnh thoảng cũng có người giới thiệu cô này cô kia cho chú, nhưng chú nói "toàn người trời ơi không hà cô ơi, thôi ở dậy nuôi con cho rồi"
- chị bán nước mía không có họ hàng gì, nhưng hễ có khách hỏi xe ôm là kêu chú . Chú nói, tui chạy đàng quàng lắm cô yên tâm, nhờ xóm giềng giúp đỡ giới thiệu khách quen giùm, chớ đi đêm hôm cỡ này tui cũng sợ cướp xe chớ bộ, tui ốm yếu cũng đâu trẻ khỏe nữa (trời ơi đi với mình mà chú sợ bị cướp xe :(((

Sài Gòn, một chuyện chép ở bịnh viện (2)
...
đau lưng, vô bịnh viện chụp phim, lúc bốc số ngồi chờ chụp phim mới thấy đẩy vô một chị đương nằm trên băng ca, băng một bên chưn trắng toát, trông chị đen đúa, ốm yếu và khắc khổ. Mới hỏi thăm, chị bị sao. Chị cười gượng gạo, có vẻ rất đau, bị xe máy đụng đó chú. Anh người nhà đi theo đẩy băng ca cho chị mới tiếp lời, bả bị xe máy chở hàng đụng, thằng đụng bả nó cũng bị gãy xe, bị thương tùm lum, bị bà này bả chạy qua đường ẩu, thằng nhỏ tránh hổng kịp, mà xe nó xe chở hàng, thắng cùi bắp nữa, thiệt xui hết biết, ông anh lắc đầu tỏ vẻ ngao ngán
...
bà này bả bán café, bên nay đường có hàng cây mát, có vỉa hè thì bị trật tự không cho bán, bả chỉ để vài cái ghế mủ cho khách ngồi, còn bả để xe café ở hẻm bên kia đường, cứ có khách là bả phải chạy qua hỏi uống gì, rồi chạy về làm, rồi bưng qua, rồi qua tính tiền, dọn dẹp... ngày bả chạy băng qua băng lại con đường cầu tám chục giác, tui dặn là nhớ ngó trước ngó sau đi, coi chừng có bữa xe nó đụng, y như rằng, anh trai người nhà đi kèm lại chắc lưỡi, lắc đầu, trông anh cũng ốm, đen và khắc khổ y chang như chị.
lúc này vị bác sĩ chụp phim vẫn chưa tới, thấy anh kia chồm tới lắc tay chị, hỏi, bà còn đau không, sao uống thuốc nãy giờ chưa bớt. Chị cười như mếu, đau thấy mẹ, bộ thuốc tiên sao hết liền được, ông về trước đi, lát nhờ ai đẩy về cũng được, chờ đây chi. Anh loay hoay, hình như cũng muốn lui, vò vò cái mũ kết cũ mèm trong tay, quay qua nhìn tôi một lúc, rồi nói, thôi lỡ rồi, để tui ở đây với bà, chiều con Tí Hon đi học về nó chạy vô rồi tui về ăn cơm luôn
anh quay qua tôi, tiếp, cũng hên là có mấy chú nhân viên văn phòng hay uống café chỗ bả, rồi mấy nhà trong hẻm, mấy người buôn bán, gom người chút, góp được mấy triệu, đưa vô đây lo chi phí, mới yên tâm chụp phim, chớ nhà nghèo quá, bả còn không chịu vô bịnh viện sợ tốn tiền kìa. Nhà hả, hai đứa nhỏ một đứa mười lăm, đứa mười một, đều đang đi học, một mình bả bán café ngoài đường nuôi tụi nó, chưa kể tiền học hành, nhà trọ ... tá lả nữa, chồng chết cũng mấy năm rồi, khổ hết biết
tôi tròn mắt, nói vậy anh hổng phải chồng chỉ hả?
có đâu, tui chạy xe ôm gần chỗ bả thôi
bác sĩ chụp phim tới, cười nói oang oang, cầm xấp hồ sơ coi từng cái, rồi mặc kệ cả đống người đang chờ, anh bác sĩ quay ra phía sau mấy dãy ghế, tự tay đẩy cái băng ca của chị vô trước. Thấy anh xe ôm đứng lấp ló ở cửa, tay vò vò cái mũ kết, sẫm màu mồ hôi.

xe trung chuyển

một điểm hay của dịch vụ ở Sài Gòn và miền tây, đó là xe trung chuyển, xe này sẽ đón bạn ở nhà (hoặc ở phòng vé khu vực trung tâm), đưa bạn ra bến xe, lên chuyến xe mình muốn, ví như, ở miền tây mà muốn lên Sài Gòn thì chỉ cần điện thoại, nói tui muốn lên Sài Gòn, chuyến mấy giờ, người ta sẽ đón bạn ở nhà, xe như taxi, có máy lạnh (hoặc không, tùy hãng), đưa ra bến xe, mời lên xe chỗ tốt nếu bạn có yêu cầu, phát khăn lạnh nước suối, và đưa bạn đến Sài Gòn. Tới Sài Gòn, xuống xa cảng miền tây, nếu ở xa quá thì đừng vội gọi xe ôm, xe trung chuyển sẽ đưa bạn vô trung tâm, từ đó hẵng đi cho tiện... giá vé không đổi

mấy năm gần đây xe trung chuyển đưa đón khách tận nhà nên bà con đi lại tiện lợi lắm, mà lạ, xe này chỉ có nhiều tuyến miến tây, miền đông ít có, nghĩa là nếu đi về Nha Trang, Đà Nẵng thì bạn phải tự ra bến xe miền đông mà đi, hoặc ngược lại. (bổ sung) Đầu Nha Trang, Đà Lạt, Đà Nẵng thì hãng Phương Trang có xe trung chuyển, đầu SG thì không có, chỉ ưu tiên trung chuyển khách khám bịnh thôi, gần tới xa cảng nhà xe sẽ thông báo, cô bác nào đi Chợ Rẫy, Y Dược vô nhà chờ có xe trung chuyển.

nói thêm, ngoài đặc trưng dầu gió và nhạc bolero, xe đi miền tây, dù là hãng nào, cũng không bao giờ lấy quá số khách theo số ghế trên xe, luôn chạy đúng giờ dù chỉ có một khách trên xe và luôn xách hành lý lên/xuống cho khách


tự nhiên hôm qua chúc mừng sinh nhựt Hung Cao, nhớ A Khuê,


note cũ, viết lúc hay tin A Khuê đi


Một chút vàng bay cho A Khuê,

Vẫn biết anh có thể ra đi bất cứ lúc nào, có thể là một đêm nào đó từ hơn mười năm trước sau cuộc rượu tàn đêm gặp gỡ ở Đồng Xoài, có thể là một ngày nào đó giữa Bích Câu Viên, vậy mà tôi vẫn bàng hoàng khi đọc tin Anh mất.

Anh đi rồi, cầm bằng như cái điệu “về đây nghe em” không còn da diết, cầm bằng như cái cảnh “lùa bò trong sương” không còn lãng đãng giang hồ, cầm bằng như mấy ngàn bài thơ, bài hát phút chốc, trong một khoảnh khắc của cuộc đời, trở thành “vàng bay trong gió”.

Tôi cũng làm thơ (ai mà chả từng làm thơ), làm văn nghệ của một thời tuổi trẻ ngông cuồng, đầy đam mê và hào hiệp. Tôi nhỏ hơn anh rất nhiều, ngày tôi khăn gói giang hồ đi thăm anh ở Bình Phước thì anh cũng đã dự cảm nhiều về cái chết của mình. Anh hiền lắm, người thật “tử tế” nói theo chữ của Sơn (Trịnh Công Sơn), câu duy nhất mà tôi nghe anh nói xấu ai đó là “tay ấy, kiến văn nó thấp”.

Anh thua thiệt nhiều, quá nhiều nên anh nghèo lắm. Đến tuổi về chiều mà một căn nhà đàng hoàng còn không có, anh ở trong một túp lều đúng với nghĩa đen của từ này, cùng người vợ và tám đứa con nheo nhóc, vất vả với đủ thứ nghề để sinh nhai trong cuộc người.

Nhưng anh cũng giàu lắm, giàu bạn bè, giàu thơ, giàu nhạc và giàu tình cảm. Túp lều đêm đó, trên ngọn đồi đầy cỏ tranh, thành một lữ quán sang trọng cho những khách viếng thăm, thết đãi nào rượu, nào thơ, nào nhạc, nào sương, nào gió… và cái tình nghĩa văn chương. Trái tim ốm đau của anh bỗng chốc như được bơm căng đầy máu nóng, như một cánh buồm no gió, tròng trành đưa chúng tôi đi. Một đêm đáng nhớ.

Lúc về, tôi có viết một bài thơ “Đi thăm một nhà thơ”, không cố tình gửi cho anh nhưng không hiểu sao anh lại đọc được, anh vui lắm, anh thuộc lòng bài thơ, gặp ai cũng khoe: “Đàm Hà Phú nó làm thơ tặng mình đây”. Lần cuối cùng tôi gặp anh ở Sài Gòn, anh nhắn: “Quốc Bảo nó đang làm cho mình cái CD, nó ứng cho mình được năm trăm, mình mới Phú đi uống rượu”. Đấy, anh ngủ trên những viên gạch 4 lỗ được xếp trên nền đất thành hình cái giường, nhưng có năm trăm bạc thì anh mời thằng em giang hồ đi uống rượu.

Cuối cùng thì anh cũng đi, tôi cay mắt khi nghĩ về những đứa con của anh, về chị vợ anh, lúc này họ chắc buồn lắm. Tôi nhớ đêm ấy chị đi bán về (hình như bán chuối chiên ở một cổng trường), sau khi cơm nước cho bọn nhỏ, chị cũng ra ngồi trong cuộc rượu, người nhỏ thó, gầy guộc, mái tóc, gương mặt đen đúa, xương xẩu, đôi vai chùng xuống như đang gồng gánh tất cả nỗi vất vả của một kiếp đàn bà. Chị vẫn ngồi bên anh, anh đàn, chị hát, có lúc cả hai cùng hát, mấy bài nhạc sến. Tôi nhớ đôi mắt chị lúc đó, khác với tất cả những gì thuộc về chị, đôi mắt ấy long anh, đôi mắt ấy nhìn anh yêu đương, đôi mắt giai nhân lắm. Tôi thầm cảm ơn số phận đã đưa chị đến cùng anh, theo anh trên những bước chân giang hồ xuôi ngược.

Cuối cùng thì anh cũng dứt áo ra đi, bỏ lại hàng xấp bản thảo: thơ, nhạc, văn…cả ngàn bài. Anh vẫn viết, viết cuồng, viết vội như một thí sinh hết giờ làm bài, anh vội vã đến không kịp đăng báo, không kịp gửi cho bạn bè xem, vì anh biết, anh phải đi, tiếng chuông có thể điểm bất cứ lúc nào, như lúc này đây, ngày mười ba tháng tám sau một cữ cà phê sáng, trên đường lên ngọn đồi quen thuộc…

Báo chí cũng viết nhiều, có khi chỉ một dòng tin như kiểu cáo phó kèm thêm một vài dòng giới thiệu kẻ xấu số, có khi là một bài viết chân thành đầy tiếc nuối của một bạn thơ. Còn tôi, tôi không tiếc nuối gì cho anh, tâm vé khởi hành hôm nay anh đã cầm trên tay hơn mười hay hai mươi năm trước, từ ngày Vũ Hữu Định viết cho anh “Giang Hồ đâu có ai phong ấn / Mà nghĩ từ quan trở lại quê”, gia tài văn nghệ mấy ngàn bài anh để lại chỉ là những dòng vội vã, ham hố của một kẻ muộn giờ, muộn giờ sống, muộn giờ chơi, muộn giờ viết, muộn giờ bạn bè…

Tôi chỉ là một bạn trẻ anh gặp đâu đó trên bước đường giang hồ, viết mấy dòng này nhự một chút vàng bay cho anh vì được tin muộn quá, như một kẻ tiễn bạn đến sân gia khi tàu vừa chuyển bánh. “Chắp tay quỳ lạy mồ chôn / Hãy chôn ta với chập chùng vàng bay” anh luôn muốn thế mà, tôi gửi anh chút vàng bay này để lòng anh thanh thản ra đi, vậy nhé A Khuê ơi.

Sài Gòn, tháng tám hai ngàn lẻ chín
 — with Hung Caoand Ho Ba Loc.
nhiều lần, mình và bạn Thắm cứ bàn nhau, mình thương miền tây quá, mà khi cần giới thiệu với người khác về đặc sản du lịch miền tây thì lại không biết nói gì, không có gì để nói, không có biển đẹp như miền duyên hải, không núi đồi hùng vĩ như miền bắc, không di tích không phong cảnh, vậy miền tây có gì... miền tây chỉ có tấm lòng.


note cũ, cũ lắm rồi
...
không có đỉnh cao
...
trong Hương Rừng Cà Mau có một chuyện tên là “Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư”. Chuyện ngắn củn, đại khái kể chuyện một anh phái viên của một tờ báo ở thành phố tìm về vùng sâu xứ miền tây để đòi nợ tiền báo sáu tháng từ một người nông dân, tên là anh Tư Có. Hai người lạ gặp nhau, chợt nhắc mấy câu trong sách giáo khoa thư mà thấy tâm đầu ý hợp. Chuyện chỉ có vậy. Cụt hơ.

năm 1996, miền tây lũ lớn khủng khiếp, nước tràn đồng, tràn lộ…Năm ấy tôi lưu lạc cả nửa tháng trời dọc ngang vùng Đồng Tháp Mười, đi đâu rặt cũng nước với trời. Lúc ấy toàn ăn cơm nhà người lạ, những người không quen biết. Đầu tiên là một người nông dân, cũng tên là Tư Có.

chúng tôi ba người lạc đường buổi chiều, đang men theo con lộ mà nước đã lên quá gối để đi. Thỉnh thoảng qua nhiều chỗ trũng lại rớt xuống cái ủm, ướt trụi lủi. Tư Có chạy vỏ lãi ngang qua, kêu mấy đưa bây đi đâu, có vô xóm không, leo lên đây đi. Thì lên liền.

ghé nhà Tư Có ăn bữa cơm chiều với cá rô mề chiên dòn chấm mắm ớt, ba đứa cạo cái nồi gang rột rột đến nỗi vợ Tư Có phải đội mưa chạy đi mua 2 lít gạo về nấu thêm cơm. Đêm đó ngồi uống rượu với Tư Có bên sàn cây, giữa mênh mông là nước. Biết mấy đứa trẻ thích đi chơi miền tây, Tư Có chỉ: bây đi lối đó, qua xóm đó, trưa thì ghé nhà ông này ăn cơm, tối thì ghé nhà bà kia ngủ, cứ nói bạn của Tư Có là được.

quả nhiên, đi lòng vòng, ăn nhờ ở đậu khắp nơi cũng chỉ cần nói: bạn Tư Có, tới nhà ai cũng rượu đế uống say mèm, không ai thèm hỏi coi quen biết Tư Có làm sao, thân thiết gì không. Không ai cần biết. Cứ như Tư Có là chủ tịch tỉnh hay chủ tịch nước vậy. Có người lạ đến thì thêm chén, thêm đũa có gì ăn nấy, còn cái ly rượu thì xây thêm một tua. Chỗ nào cũng nước với trời. Mênh mông.

vì sao người ta thương Tư Có dữ vậy. Tư Có chẳng qua cũng là nông dân thôi mà. Sai rồi. Đâu có ai nể gì Tư Có, cái tên Tư Có là nói ra cho nó có cái tên để mà nói, để mà làm quen. Nếu không phải Tư Có thì là Ba Không, Bảy Hữu gì cũng đặng. Miễn đừng có là người lạ, miễn là biết cầm cái ly, ngửa cổ uống một cái ót là đặng rồi. Bước qua cửa, leo lên sàn, lên ghe rồi là thành người quen, thành bà con luôn, cần biết gì tới Tư Có nữa.

...
người nào đã về miền tây sẽ thấy cuộc sống ở đây rất khác, nhất là ở quê. Miền tây là đất bồi hạ nguồn sông Mekong nên đất bằng phẳng, đôi chỗ trũng thấp, chằng chịt sông rạch đến nỗi giao thông đường thủy còn tiện hơn đường bộ. Cho nên mới nói là miền tây không có đỉnh cao.

không có đỉnh cao. Không danh lam thắng cảnh. Không có cái gì vượt bậc, xuất chúng. Không ai lỗi lạc hơn người. Không ai dời non lấp bể. Cho nên ở miền tây người ta chuộng cái gì bình dân, người ta ưa cái gì thiệt tình thôi.

đất hoang, người hoang. Ngày xưa còn không có luật pháp nữa, chỉ nói với nhau: làm sao coi cho đặng thì làm. Đất thấp, đến cái cây ngọn cỏ cũng thấp hơn nơi khác, cho nên người ta sống với nhau quan trọng chuyện tình nghĩa. Tình thương.

dễ hiểu sao người miền tây ưa vọng cổ, ưa nhạc sến và ưa rượu đế. Mấy thứ đó nó bình dân, người ta sao mình vậy. Làm khác coi hổng đặng.

dễ hiểu sao người miền tây ưa nhậu. Bên bàn nhậu không có giai cấp, không có giàu nghèo, không có hơn thua, ở đó ai cũng thiệt tình. Bi nhiêu thì bi.

dễ hiểu sao người miền tây nghèo. Làm một bữa ăn một bữa, nhậu một bữa, đối đãi người khác hơn cả mình. Còn lại thì “để mơi tính”.

ở chỗ không có đỉnh cao, chỉ mênh mông một thứ, như là tình nghĩa

(hình: Đồng Tháp Mười, mùa lũ)

1.
có lần, con mình chạy tới nói, Phú ơi, Văn mới ị, mình khen, giỏi. Ai cũng cười, ị cũng khen, khen chớ, cái gì cũng khen, khen bị mình quá thích nó, quá thương nó, nó làm gì thấy cũng khoái, cả ị cũng khoái, mà khoái là khen

2.
lần khác, đi qua Úc, ở Melbourne, nửa đêm thèm đồ Ý, trời lạnh căm căm, anh bạn lấy xe chở đi kiếm một quán quen, ông chủ cũng là đầu bếp, là một gã Ý gộc, như là có quốc huy trên trán vậy. Bữa đó có nhiều món, món nào nấu cũng ngon miệng vô cùng, mình vừa ăn vừa khen nức nở, bạn bạn dân Úc nói, mình phải vô khen ông chủ, thế là nhắn phục vụ cho gặp ông chủ, để trò chuyện và để khen. Anh người Ý chủ quán, chùi tay vào tạp dề, rồi giới thiệu nguồn gốc, nguyên liệu và cách làm các món ăn, trong mắt anh, lấp lánh niềm vui, niềm tự hào

3.
lần khác nữa, mình với Đức Hiển uống say, nửa đêm xách can rượu chạy lên đèo Chuối uống tiếp, giữa đường đói bụng, mới ghé đâu gần Dầu Giây ăn phở, vô quán đông ơi là đông, phở ngon và cô chủ quán rất đẹp, nhưng cô này rất khó chịu, mặt mũi hầm hầm, luôn miệng cằn nhằn cái gì đó. Mình ăn xong, bèn kêu tính tiền, rồi khen cô, nói quán nầy hay quá, phở ngon mà em thì đẹp quá mức yêu cầu, cổ hứ một tiếng rồi quay đi, nhưng lát sau thấy cô không hầm hầm nữa, mặt mũi tươi tắn hẳn, cười hoài.

4.
tóm lợi là mình thích khen, và được khen, tứt nhiên, ra phường thấy cô nhân viên công vụ nhanh nhẹn chu đáo, mình khen, thấy nhà nước làm đường sạch đẹp chăm cây tốt, mình khen, qua trạm thu phí thấy cô gái thu phí vui vẻ ân cần, mình khen, thấy anh CSGT lịch sự giúp đỡ người dân, mình khen, ra chợ thấy người ta buôn bán vui vẻ nhiệt tình, mình khen... kể cả cái thằng móc túi mình, nó lấy ví ra, rút hai phần ba số tiền, rồi quăng lại cái ví đầy giấy tờ với một ít tiền trong đó, mình cũng khen, vì nó có chút hào hiệp trong người.

khen là do khoái, do thích, do thương. Khen là khen thiệt tình, thiệt bụng, không có thảo mai giả lả. Khen là khen trước mặt, cảm kích người ta, muốn người ta vui. Khen nói mà ngại thì mình khen viết, mới có chuyện nhiều bạn cứ vô ca cẩm, ông này nhìn cái gì cũng màu hồng, có đâu.

5.
nhiều người kiệm lời khen, mà hào phóng lời chê bai chửi bới quá, hổng nên

(hình: câu cá trên sông Taungthamna, Mandalay, Myanmar)
Sài Gòn, bi nhiêu thì bi

“bi nhiêu thì bi”, câu này không phải chữ chánh thống, nó gốc là chữ “bao nhiêu cũng được”. Chuyện là hồi xưa dân Sài Gòn đi chợ ít ai trả giá, bị người bán có nói thách đâu mà trả, nói năm đồng thì đưa năm đồng, nói mười đồng thì đưa mười đồng. Mua một chục trái cây người bán lúc nào cũng đếm thành mười hai, mười bốn trái, một lít gạo thành ra lít mốt lít hai, mua mớ thịt còn gói thêm cho vài miếng xương, mua quả bầu quả bí còn nắm thêm nắm hành ngò… người bán người ta cư xử vậy, mình người mua nỡ nào trả giá, coi sao được. Cư xử hào hiệp vậy cho nên bán mua rất đặng, hỏi giá chỉ để biết, hỏi cái này giá bao nhiêu, tiếng miền nam nói nhanh nói trại, nè, cá lóc bán bi nhiêu đây, dạ chị Hai lấy đi, cá đồng mới giăng câu hồi hôm, lấy về kho tiêu cho sắp nhỏ là hết xảy luôn, bi nhiêu cũng được mà, “bi nhiêu thì bi”.

riết thành cửa miệng, giới bình dân Sài Gòn dùng nhiều, bạn bè rủ nhậu nói, bữa nay tao bao, nhậu nha, bi nhiêu thì bi, dân làm ăn mua bán nhanh tay nhanh miệng, nè lấy đi cưng đẹp lắm đó, bi nhiêu thì bi mà, xích lô ba gác bung cái hất hàm, để qua chở cho, đây xuống chợ xa lắm, lên đi, bi nhiêu thì bi... rồi giờ hầu như lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm, đi đâu cũng nghe, đại ý là kêu người ta cứ thoải mái đi, sao cũng được mà, đừng so đo, đừng tính toán, cái gì cũng vậy, chủ yếu cho được việc, cho vui vẻ thôi, trước sao sau vậy. Mọi thứ trên đời đều có giá của nó, nhưng cái tình nghĩa người ta với nhau, nó vô giá lắm, đem tiền bạc vật chất ra so đo, thiệt nhỏ mọn quá. Bởi vậy nên cái câu “bi nhiêu thì bi” riết rồi ít ai dùng trong chuyện mua bán nữa, mà dùng nó như một lối hành xử, của người Sài Gòn nói riêng và người Nam Bộ nói chung.

nhiều người so sánh câu “bi nhiêu thì bi” của Sài Gòn với câu “vô tư đi” của Hà Nội, khác nhau chút ít, “bi nhiêu thì bi” có chất thoáng đãng nhưng không phải là không có giới hạn. Câu “bi nhiêu thì bi” là khẳng định một chất riêng có của người Nam Bộ, sự hảo sảng, mà cái sự hào sảng này không đến từ ai cả, nó là của mọi người, khi người ta tin nhau, khi người ta tôn trọng một thứ luật lệ ngầm được qui định từ xa xưa, từ thời mới mở cõi, thời đất trời hoang vu. Thứ luật ngầm ấy là niềm tin và sự phúc đáp tử tế, hào hiệp với nhau, người ta đối đãi mình “bi nhiêu thì bi” thì mình cũng “bi nhiêu thì bi” với người khác, vậy mới đặng.

câu “bi nhiêu thì bi” giờ nói ra không giải nghĩa nữa, nói là hiểu, nói là để khẳng định một phong cách sống, của Sài Gòn, bởi tánh hào hiệp, không hơn thua, không so đo, không chỉ trích, “bi nhiêu thì bi”, cùng với “để mơi tính”, “xả láng”, “tới bến”…. nói lên lối sống hết mình, với người khác, với cuộc đời, của người Sài Gòn. “Bi nhiêu thì bi” là một sự thách thức số phận của những người mang dòng máu mở cõi năm xưa, không tính toán mà vẫn đủ đầy, tin mà không bị gạt, chung tình mà không bị ai phụ, mà rủi có thì cũng bỏ, rồi lại “bi nhiêu thì bi”…

...
"bi nhiêu thì bi"

...(trích)

kể chuyện này, có anh kia, kêu bằng Bảy Xụi, anh này lúc trước tên Bảy Lắm, dân ba gác máy kỳ cựu Sài Gòn, bạn bè bằng hữu rất đông, nói chung tánh tình rất được, ai cũng trân quí, sau này bị tai biến nên một bên người hơi bị liệt, tay trái và chưn trái xụi lơ, nên bạn bè kêu lại là Bảy Xụi. Anh này trước còn chạy ba gác máy thì phóng khoáng lắm, bà con trong hẻm ai kêu chở cái gì không bao giờ lấy đồng bạc nào, nhứt quyết không lấy, ai đãi bữa cơm bữa rượu thì nhận, chớ tiền bạc không lấy, bà con đâu chịu, nói chú chạy xe cũng tốn xăng tốn nhớt, cũng đổ mồ hôi sôi nước mắt, phải tính tiền chớ. Bảy Lắm cười hề hề, bà con xóm riềng tình nghĩa, phụ một chút, công cán gì cô bác ơi, xăng nhớt có bi nhiêu, mà bi nhiêu thì bi.

...
Bảy Xụi có vợ với ba con nhỏ, lúc chưa tai biến thì làm dư nuôi vợ nuôi con, lúc tai biến rồi nằm xuống thì nhà thành khó, chị vợ ra chợ buôn bán lặt vặt chạy cơm từng bữa cho ba đứa nhỏ mà cũng không có đồng dư, vì buổi chạy chợ buổi phải đưa đón mấy đứa con đi học, rồi chưa kể tiền thuốc thang cho anh Bảy nên càng ngày càng đuối, mới bắt đầy vay chỗ này nợ chỗ nọ, riết rồi tiền nợ nhiều quá, nợ lâu quá người ta bắt đầu nhắc, hết cách chị Bảy đành tính chuyện bán cái nhà nhỏ trong hẻm để trang trải. Bà con biết chuyện, tới hỏi, vợ chồng bây nợ bao nhiêu. Chị Bảy cộng sổ nói gần ba chục triệu rồi, phải bán nhà mới trả nổi. Bà Ba Thương thở dài cái rột, bán nhà rồi bây tính đưa sắp nhỏ đi đâu, rồi tụi nó học hành sao, chị Bảy khóc thút thít, nói, dạ, thưa cô bác, con cũng chưa biết, tới đâu tính tới đó.

...
cư dân trong hẻm của Bảy Xụi bàn nhau, kiếm cách giúp nhà Bảy Xụi, bà Ba Thương buôn bán ngoài chợ nói thôi chắc để con Bảy ra sạp tui bán, tui chỉ nó một thời gian rồi giao cho nó coi luôn, chớ tui giờ cũng đau lưng rồi, nó mà chịu làm thì bán cái sạp với tui dư sức ăn. Ông Sáu Diệp xe ôm khen, phải đó, bà kêu con Bảy đi bán đi, con nhỏ đó được đó, để tui phụ nó đưa mấy đứa nhỏ đi học. Còn số nợ nhà nó giờ tính sao đây bà con, có chưa tới ba chục triệu, nó cũng mượn lòng vòng trong xóm, ai coi cho được thì cho nó đi, không cho được thì bà con hùn tiền trả, tui nói vậy phải hôn? Bà con vỗ tay rốp rốp. Vậy là nhà Bảy Xụi được xóa gần hết nợ, chị Bảy ra chợ bán, sắp nhỏ được xe ôm đưa đi học. bà con hùn tiền làm cái mái che đầu hẻm, lúc anh bảy đi lại được mới phát cho cái đèn pin, bộ đồng phục, đêm đêm ra ngồi chơi, coi như bảo vệ dân phố, tháng được trả triệu rưỡi, cũng là có lương như người ta.

...
vợ chồng nhà Bảy Xụi vui lắm, gặp ai cũng cám ơn, nhứt là mấy người xóa nợ, anh Bảy nhứt quyết không chịu, nói thôi coi như tui để đó, vài bữa làm có tiền tui nhứt định trả lại, ai cũng cười, nói thôi bỏ đi chú Bảy, lo giữ sức khỏe cho tụi nhỏ nó mừng, đừng có để ý, hồi xưa chú hay nói, bà con xóm riềng tình nghĩa, bi nhiêu thì bi mà, đúng hôn, vậy đi.

(như thường lệ, nguồn: người lữ hành kỳ dị, thích thì share mạnh không cần hỏi nha)

note cũ, nhơn bàn về "khá không nổi"

"khá hông nổi"

(chuyện chép lại, hầu như nguyên bản)

sài gòn, quận 10, tháng tư

vỉa hè vắng, trời nắng, quán cafe cóc dưới tán cây...

tiếng lóc cóc từ chiếc gậy dò đường của một người mù mỗi lúc một lớn dần...

- ê, coi chừng cục đá mầy
- cảm ơn chú Hai, mua vé số đi chú Hai
- không mua mầy
- vé số Cần Thơ quê mình chiều xổ nè chú Hai
- bộ mầy Cần Thơ hả
- dạ, Cần Thơ nè chú, Ô Môn chánh hiệu
- ngồi nghỉ chơn chút đi, có số nào đẹp không?
- dạ chú lựa dùm, con đâu thấy đường, hình như có 79 thần tài đó chú Hai

...
- không có bảy chín, thôi tao lấy đại một tờ, uống cafe không mầy
- dạ cảm ơn chú Hai
- bà Ba, cho ly cafe sữa đá đi
...
- chú Hai ở đâu
- tao Phong Điền Nè
- dạ, dzậy cũng gần
- nhà mầy khúc nào
- dạ lúc trước ở ngay cầu, giờ vô tuốt trong rạch, chú Hai thường qua Ô môn chắc
- ờ, trước có bồ ở đó
- mèn

...
- nhà mầy còn ai dưới
- dạ còn ông già với hai đứa em, má chết rồi
- có dìa thường hông
- dạ một hai tuần, chú Hai có dìa thường chắc
- không, tao lâu rồi không dìa
...
- nè, trả tiền vé số
- trời, sớm mơi đưa tờ hai trăm tiền đâu thồi chú Hai
- khỏi thồi, cho mầy luôn đó, mà nè, đui thiệt không sao biết tờ hai trăm hay dzậy
- dạ, đui thiệt chú Hai, có tròng đâu mà thấy, cầm tiền thì biết thôi, cho chi nhiều dữ chú Hai
- ê, chê mậy
- dạ hông dám, cảm ơn chú Hai

...

tiếng gậy lại lóc cóc xa dần, xa dần

người khách cũng ra xe nổ máy phóng qua đường

bà chú quán ra dọn ly cafe, mỉm cười lắc đầu nói một mình

- xe ôm mà xài sang dữ, bởi dzậy khá hông nổi

...
(như thường lệ, nguồn người lữ hành kỳ dị, share mạnh không cần hỏi nha)



mình cày nát Hô Ly Uốt rồi, coi lại cả những phim thập niên 60~70s, rồi cày tiếp qua điện ảnh Úc Châu và Âu Châu. Úc, mình thích nước Úc, cái gì cũng hay, chỉ có phim là dở, phim gì cũng dở. Phim của Âu châu thì hên xui, nhưng mà chắc chắn là chậm, phim nào cũng 2~3 tiếng, có Nga và Pháp còn đỡ đỡ, còn Anh, Tây Ban Nha, Bỉ, Đan Mạch... do khai thác ngôn ngữ điện ảnh triệt để nên nhịp phim nó chậm thôi rồi, phải dằn lòng là mình đang thưởng thức điện ảnh chơn chính nha, để khỏi bấm nút tua tới. Nhưng bù lại, cảm giác thưởng thức nó trọn vẹn, đến từng chi tiết nhỏ nhất, đặc biệt là thưởng thức vẻ đẹp góc máy quay và diễn xuất của diễn viên

mục điểm phim kỳ nầy, xin giới thiệu một xuất phẩm của điện ảnh Tây Ban Nha, phim "LA PIEL QUE HABITO", tựa tiếng anh là "The skin I live in", phim nầy do tài tử đẹp trai Antonio Banderas thủ vai chánh (có bắn súng chút đỉnh chứ không bắn loạn như mấy phim của Hô Ly Uốt), theo mình thì phim nầy cực kỳ hay, kịch bản, quay phim, âm nhạc, diễn xuất... đều ở mức xuất sắc, không coi uổng phí đó nha
 — with Đàm Hà Khánh.
Sài Gòn, không so sánh

1.
có một cái clip xôn xao trên mạng, vụ cô gái cởi trần truồng vừa đi vừa khóc giữa Sài Gòn, trong clip có một anh nọ chạy xe máy theo, cầm một chiếc áo bắt cô mặc vào, cô không chịu mặc áo và luôn miệng gào khóc “chồng em nó bỏ em rồi”, anh nọ vừa nhẫn nại vừa kiên quyết bắt cô mặc áo vào, luôn miệng nói, “biết rồi, mặc áo vô đi”. Rất ít ai nói về người đàn ông này, đó là một người đàn ông lực lưỡng, trông bình dân và giản dị, một người vô danh trên mạng với cách thể hiện tinh thần đồng loại rất Sài Gòn, hào sảng và ấm áp.

2.
từ chuyên vượt rào như chiếm bắc bộ phủ ở CV nước Hồ Tây, giờ lại nảy ra cuộc chiến vùng miền, và tôi tự hỏi, các bạn cãi nhau năm này qua tháng nọ, để làm gì? chúng ta là đồng bào mà, chẳng phải người SG bây giờ cũng là người HN ngày nào sao?. Các bạn so sánh SG - HN không nhằm mục đích ca ngợi người SG, mà chỉ đơn giản muốn dìm hàng người HN, nếu đúng người Sài Gòn, như người đàn ông trong clip tôi kể trên, tôi tin anh chẳng mấy khi lên mạng, và nếu có, chắc anh cũng chẳng xúm vào chửi thằng chồng bội bạc hay bọn đàn ông thô lỗ trong clip Hồ Tây, và chắc hắn anh chẳng bao so sánh SG – HN. Khi thấy một cô gái trần truồng đi ngoài phố, không cần biết cô gái ấy là ai, đến từ đâu, anh biết mình phải làm gì, rất đơn giản và thiết thực, và rất đỗi con người.

3.
các bạn hay hỏi rằng, tại sao Sài Gòn là đất của dân nhập cư, mà sự hảo sảng và tình nghĩa của nó có thể chi phối mọi người, ai đến SG rồi cũng ít nhiều thay đổi, có cái nhìn phóng khoáng hơn và biết cách để “sống” hơn, họ biết cách cho đi nhiều hơn, bớt toan tính và mưu cầu hơn, và cái họ nhận được cũng nhiều hơn. Câu trả lời có lẽ là vì dân Sài Gòn không dành nhiều thời gian để ghét người khác, họ không thần tượng lòng tốt và ghét cái xấu, không có nhiều ranh giới tốt –xấu đối với người Sài Gòn. Chỉ có được và hổng được, được nghĩa là được, là tốt, là ô kê, còn hổng được thì thôi, hổng sao. Chính cái quan niệm đơn giản này nên người SG không coi việc gì là tốt, giúp người khác là chuyện phải làm, mà không giúp thì coi hổng được, vậy thôi.

4.
(nhơn tiện, là một người viết về Sài Gòn, về những câu chuyện tích cực ở Sài Gòn, tôi cực kỳ bài kích những từ như “lòng tốt”, “người tốt việc tốt”, “tấm gương tốt”… xin đừng nói mấy chữ đó, nó tầm thường hóa người Sài Gòn, bởi người Sài Gòn họ coi chuyện đó là bình thường, là chuyện nhỏ, thậm chí họ chẳng nhớ, hoặc giả họ kể chung với mấy chuyện khác, như chuyện thằng con mới có bồ hay chuyện bà vợ đánh con dê đầu đuôi cả sáu đài từ đầu năm tới giờ mà chưa vô lần nào, vậy thôi)

5.
có câu này hay, sự giận dữ giống như mình uống thuốc độc mà mong kẻ khác chết. Quá hay, chửi người khác không làm mình tốt hơn hay vui hơn, chê Hà Nội không làm Sài Gòn đẹp hơn, Sài Gòn là Sài Gòn, là bạn là tôi, là mọi người, không phải ai và cũng không so sánh với ai hết. Quay lại người đàn ông trong clip mà tôi nói ở mục 1, anh chẳng phải người tốt, chắc chắn anh không nghĩ mình tốt, và anh cũng chẳng phê phán ai là người xấu, anh chỉ đơn giản làm việc mà anh thấy cần làm. Chúng ta cũng nên như vậy, thay vì ào ào lên mạng đả kích người khác, hãy làm cho chính mình thoải mái, hào sảng, yêu thương và ấm áp hơn, vậy là được rồi

...
như thường lệ, nguồn "người lữ hành kỳ dị", chuyện nhỏ Sài Gòn, share mạnh không cần hỏi nha



1.
hồi còn đi học, mình thường hay tham gia phong trào trồng cây gây rừng, cụ thể là phủ xanh mấy ngọn núi trên đèo Rù Rì. Cứ đầu mùa mưa, học sinh chia nhiều nhóm nhỏ, lên núi, nhổ bỏ cây dại, đào lỗ, đặt cây con vào, lấp lại... nhưng bọn mình chủ yếu đi chơi, coi như picnic, toàn chơi là chính, rồi đào bậy cái lỗ, quăng nguyên túi nilon đựng cây con vào đó, lấp sơ rồi bỏ về. Mình cứ áy náy hoài, thâm chí ban đêm mình không ngủ được, vì nghĩ rằng những cái cây đó sẽ chết, chứ làm sao rễ của nó đâm qua túi nilon được, kể cả có một phép thần kỳ mà nó sống, nó cũng không thể đứng lên trong mưa ngàn gió núi như thế. Đem chuyện này nói với bạn bè, bọn nó bảo, thì nó chết năm sau tụi mình mới đi trồng tiếp.

vậy là năm nào tụi mình cũng đi trồng cây gây rừng, các thế hệ sau cũng vậy, và những ngọn núi vẫn cứ trọc lóc, cho tới bây giờ

2.
mình thích Sài Gòn, vì nhiều thứ, nhứt là mấy công ty như công ty chiếu sáng đô thị, slogan của họ là "vươn cao, tỏa sáng", rất ấn tượng, và cách họ làm việc cũng khá chuyên nghiệp, chỗ nào cháy một bóng đèn đường là đêm sau có bóng mới liền. Hay như công ty công viên cây xanh thành phố, một đơn vị công ích thôi, mà có website đẹp, đầy đủ thông tin và hình ảnh, chính những công nhân của công ty này làm thành phố đẹp, những vỉa hè, những công viên tràn ngập hoa, hoa được chăm sóc kỹ, nở suốt mùa, mùa nào hoa ấy.

3.
hôm rồi mình có một cái stt, về chuyện các công nhân công ty công viên cây xanh luôn bọc cao su cho những đoạn dây chằng cây non, để nó khỏi cứa vào thân cây mỗi khi trời gió, một việc nhỏ thôi, mà rất trách nhiệm, rất tình nghĩa với cái cây, nhưng nhiều bạn không tin, kêu mình chụp hình. Hôm nay mình xác nhận 100% số cây trồng mới ở Sài Gòn đều áp dụng cách chăm sóc này. Mỗi thân cây con được chằng bằng bốn cây cọc lớn, đóng chắc chắn, và chằng dây vào thân cây, chỗ tiếp giáp giữa dây chằng và thân cây luôn được bọc cao su cẩn thận, mười cây như một, không sai cây nào.

4.
sáng nay, mình hỏi một công nhân, có qui định về việc này không, ảnh nói hồi trước tụi tui tự làm thôi, rồi công ty thấy vậy ngon, anh em mới làm đồng loạt luôn, anh cười, chớ mình trồng cái cây, mà để nó yếu ớt, nó trầy trụa, lớn hổng nổi... coi sao được chú.

5.
mình thương mấy công nhân công ty công viên cây xanh, cảm ơn họ, họ đáng kính trọng, trong công việc của mình, vất vả nhưng thật đẹp, rất đẹp, họ làm đẹp cho Sài Gòn.

P/S Trà Xanh: Cái này nên share, share mạnh, đừng share vụ vượt rào chiếm bắc bộ phủ ở hồ tây nữa, nha

1.
năm rồi, lúc TQ kéo dàn khoan qua, cộng đồng mạng hô hào đi đánh TQ, anh Nguyễn Thanh Sơn có một status, đại ý rằng, nếu đổi con trai bạn lấy một triệu đô bạn có đổi không, hay một hòn đảo, một đất nước luôn, bạn có đổi không, nếu bạn trả lời không thì đừng hô hào chiến tranh nữa. Tôi suy nghĩ về câu đó rất nhiều. Hôm nay, khi coi lại loạt hình VN thời chiến, tôi lại nghĩ về cái status đó, tôi thấy mình may mắn, vì không phải sống trong thời binh lửa, ly loạn của đất nước.

2.
trong phim Wild, một phim mới của Jean-Marc Vallee, cực hay, chuyện phim là câu chuyện có thật kể về hành trình đi bộ một mình theo lộ trình một ngàn dặm xuyên rừng núi trong gần trăm ngày của một cô gái, thay vì tìm đến cái chết thì cô muốn đi tìm lại đời mình, sau khi đánh mất gia đình, hôn nhân, sa đà vào ma túy và tình dục. Và cái cô nhận ra cuối cùng sau cuộc hành trình hiểm nguy, gian khổ và nhiều lần cận kề cái chết… là cuộc sống thật vô vàn quí giá, đầy yêu thương, nó không đủ chỗ cho bất cứ xúc cảm tiêu cực nào khác. Có đoạn khi vừa mấy ngày đầu, cô gái độc hành viết trong nhật ký hành trình, bây giờ điều tôi thèm muốn nhất là được ngồi trên một cái bồn cầu bình thường

3.
đêm rồi nằm trên ghe câu ngoài khơi Côn Đảo, neo gần một hòn đảo lớn để tránh gió, vậy mà gió vẫn kinh hoàng, gió bạt vào ghe làm nó như muốn văng khỏi mặt biển, trời không mưa mà hơi nước mù mịt do gió hất lên từ những ngọn sóng bạc đầu, cái ghe lớn nhảy trên đầu sóng, vừa lắc vừa nhồi như một cái nút chai… lúc ấy, tôi chỉ nghĩ đến cái giường quen thuộc. Nó chỉ là một cái giường bình thường, một giấc ngủ bình thường, bên cạnh vợ con, mà hằng ngày đôi khi ta chẳng để ý, coi như sự vô nghĩa thường nhật, cho đến khi nằm trên ghe câu, trong một đêm biển đầy gió, mới thấy nó quí giá biết bao.

4.
ai đó nói quên rồi, đại ý là, bạn không biết mình có gì, cho đến khi mất nó. Đôi khi hạnh phúc rất bình thường, là gia đình, là sức khỏe, là bạn bè, là cuộc đời bình lặng của chính mình, mà mình cứ trông vời những thứ xa xôi, và lo toan những điều ngoài tầm tay với, và buộc đời mình vào đó. Hôm rồi nhậu với một anh, anh này nói một câu rất hay, đừng bao giờ nói chữ “phải”, chẳng có gì là “phải”, trời đất còn không “phải” được thì đòi hỏi gì con người, tại sao phải thế này, phải thế kia, không phải thì có sao không? Không. Đừng lệ thuộc vào chữ “phải”, nếu có thì chỉ cần nhớ rằng, phải hạnh phúc, nếu chính mình mà hậm hực cay cú với đời, thì đòi gì đời này phải tốt đẹp với mình

5.
đi câu không nhất thiết phải nhiều cá, cảm ơn mấy gã bạn câu vui vẻ, một chuyến câu thất bát, đầy sóng và gió, nhưng được sống trong nhiên nhiên hoang dã, luôn là cảm xúc tươi mới khi trở về, để yêu thương cuộc sống, yêu thương gia đình và quí trọng mọi thứ, từ nhỏ nhặt nhứt, mà mình có được.
tình cặp vịt đôi bông,

... nó tên giấy là con Mía, thứ Ba, quê Hậu Giang. Tên Mía nghe quê thiệt nhưng nó cũng thương lắm, là do sự tích cái tên này cũng ly kỳ. Chuyện là hồi xưa ba má nó lấy nhau, nhà ngoại mới cắt cho ba công đất, coi như ra riêng. Ba công đất này khó làm, có nước thì bị phèn mà thiếu nước thì khô hạn, mỗi năm trồng được một vụ lúa một vụ màu, làm rất cực mà hai vợ chồng với đứa con đầu không đủ ăn.

anh Hai con Mía bị bịnh rồi mất lúc mới hai tuổi, một phần do nhà nghèo quá không có tiền kịp chạy chữa cho con. Lúc đó ba má con Mía như chết rồi, bỏ bê đồng áng, không thèm ngó ngàng gì nữa, má nó nằm bẹp trên bộ ngựa, ba nó ôm cây đờn phím lõm ngồi bậu cửa uống rượu, nước mắt chảy hoài. Rồi bà con cô bác mới tới, nói thôi ráng sống chớ vậy coi sao được, ba nó mới gượng dậy, vác cuốc ra thăm đồng, tự nhiên thấy có mấy bụi cây mía non mọc lên theo bờ. Ba nó mới nghĩ bụng, hay bỏ lúa trồng mía. Nói rồi xới đất, đi mua hom làm luôn.

năm đó nhà máy đường thu mía giá cao, vợ chồng trúng lớn, rồi sẵn chớn mới có bầu con Mía, nụ cười trở lại với gia đình nhỏ ấy, ba nó đi đâu cũng nói nhờ thằng Hai độ, lúc biết có con gái ba nó mới đặt tên là con Mía, nửa nhớ ơn cây mía nửa mong sau này nó có giọng ca ngọt như mía, bởi nhà nó ngoài làm nông còn có nghề đờn ca tài tử, mà chưa ai thành danh, chỉ quan quẩn mấy đám gần nhà với câu lạc bộ xã.

rồi con Mía lớn lên cũng gọi là có chút nhan sắc như người ta, một phần nhờ anh Hai nó độ nên nó có giọng ca ngọt thiệt ngọt, mười ba mười bốn tuổi ngồi chiếu ba nó đờn cho nó ca được mấy bản vắn, mười sáu tuổi ca được trọn sáu câu, mấy bản dài, vô vai cũng được. Con Mía ca thì ngọt nhưng nó bị hen, nên cụt hơi, ca theo đờn ba nó thì được còn người ta đờn nó ca rớt nhịp, đi thi giải Hậu Giang rớt, giải Bạc liêu cũng rớt, nên cũng ca làng ràng gần nhà, chủ yếu cho vui. Con Mía có thêm hai đứa em nữa, đều là trai hết, mấy năm sau này nhiều người bắt chước trồng mía, mía rớt giá thê thảm, nên nhà con Mía nghèo lại hoàn nghèo, chật vật với mấy miệng ăn, chưa kể học hành.

con Mía kể nó có bồ dưới quê, hai đứa yêu nhau từ lớp mười, thằng kia tên Thành, đúp học hai năm thành ra lớn hơn nó 2 tuổi, hết lớp mười cái nhà nghèo quá, mẹ chết sớm nên thằng Thành bỏ học đi làm mướn. Con Mía thì ráng hết cấp ba rồi cũng thôi. Hai đứa con thương nhau mà chắc ông Trời thử lòng hai đứa đó chú, giờ mà có lấy nhau thì rồi cũng như ba má con, ba má ảnh, cũng ruộng vườn, rồi cũng nghèo nữa, khó tính thiệt. Cái bữa đó ảnh kêu con ra bờ ngồi, ảnh bàn tính một hồi, tụi con mới hẹn là tạm xa nhau hai năm, ảnh qua Bạc Liêu làm tôm, con lên Sài Gòn đi ca. Hai đứa để dành tiền trong hai năm, rồi quay về gặp nhau, nếu còn thương nhau thì tính tiếp, còn không thì coi như chia tay.

thằng Thành qua Bạc Liêu làm mướn cho nhà nuôi tôm, nghe nói ngày được trả trăm rưởi bao cơm, nếu nó tính đúng thì hai năm nó phải dư cỡ tám chục triệu. Dư sức làm nhà, lấy vợ, sanh con. Còn con Mía lên ca cho vui, cho thỏa chí, bởi vậy khi thỏa thuận vụ này, thằng Thành coi như thiệt, nó sợ mất con Mía, nắm tay dặn hoài, sau này Mía có thương ai khác thì nói tui hay, đặng tui khỏi chờ. Con Mía cười ngất, nói, gì mà tính kỹ dữ, yên tâm đi, có gì tui thơ cho hay. Mía lên Sài Gòn là cái mộng từ lâu, nên dù thiệt bụng thương Thành, nó cũng dứt áo đi một phen, nó muốn có gì đó thay đổi, kiếm tiền để phụ cha mẹ, lo cho em nó, tự hứa với lòng là hai năm sau sẽ đền lại cho Thành . Mía lên Sài Gòn lấy nghệ danh là Thanh Huyền, thanh huyền Thành đó mà, yên tâm chưa.

con Mía lên Sài Gòn theo một chị bạn ca, chỉ giới thiệu đi ca mấy quán nhậu, một đêm được hai, ba trăm tùy chỗ, mà thường chỉ ca cuối tuần. Thu nhập cũng không cao, mà tiền nhà trọ, tiền quần áo son phấn nhiều quá, thành ra con Mía cũng không dư mấy. Bữa đó ca xong có ông khách lên tặng bông, hẹn lát gặp chút. Ca xong xuống bàn ổng chơi, ông chú cũng trọng tuổi, cỡ cha con Mía, ổng boa thêm năm trăm, ngồi nói chuyện một hồi, rồi bất giác ổng mới rủ con Mía. Ra Hà Nội ca không cháu?

ông khách này mê vọng cổ, ổng có một nhà hàng ở Hà Nội, thực ra nó là cái quán rượu thì đúng hơn, chuyên các loại rượu và đặc sản miền núi phía bắc. Ông muốn đưa con Mía ra ca, ca y như ở Sài Gòn, cho khách thưởng thức lúc rượu thịt. Con Mía so đo hoài, không dám đi, nào giờ nghe nói thôi chớ có biết Hà Nội nó ra sao, người ta thế nào, đất lạ quê người biết có sống nổi không. Ông khách nọ đưa ra cái giá mà nó chịu luôn, tháng mười triệu, ca ít ca nhiều gì cũng nhiêu đó, bao cơm nước chỗ ở, cho thêm 2 triệu tiền son phấn quần áo, ổng hứa là không có chuyện gì, nếu có chuyện gì ổng đền gấp đôi lương, giờ đưa trước ba tháng lương làm tin, chịu liền.

con Mía, lúc này là nghệ sĩ Thanh Huyền ở Sài Gòn ra ca ở Hà Nội, là một chuyện lạ, độc đáo, nên khách tới quán rất đông. Chỉ có điều là con Mía không dám cho ba má nó hay, sợ tới tai thằng Thành nên nó bỏ cái sim điện thoại luôn, đổi số mới chỉ dùng để gọi cho ba má nó thôi, coi như nó vẫn ở Sài Gòn.

ở Hà Nội không có thầy đờn, không tìm đâu ra một ai biết đờn tân cổ, không tìm đâu một cây phím lõm, nên chỉ ca mở đĩa. Đĩa thì con Mía thu sẵn được hai chục bản tân cổ với mấy khúc trích đoạn mà nó thích, thành ra quanh đi quẩn lại cũng ca chừng đó bài. Rồi mùa đông năm đó, lần đầu tiên con Mía biết cái lạnh Hà Nội. Ta nói, nó lạnh thấu xương chú ơi, con bận ba cái áo mà chưn tay còn run bần bật. Trời lạnh làm bịnh hen của Mía thêm nặng, nên nó đổ bịnh, nằm xẹp lép trong nhà trọ. Ông chủ nhà hàng mới ghé thăm, mua cho tô cháo, mua thuốc cho nó uống. Tự nhiên rồi không biết ai ác miệng, đồn ông chủ nhà hàng cặp bồ với nghệ sĩ Thanh Huyền, làm người ta có bầu.

làm gì có chú, con Mía thanh minh, ổng đường hoàng lắm, người ta đáng tuổi cha chú, đâu có làm bậy, chú đó tội lắm, bị oan mà không kịp nói gì, bị chú cũng thương con, đem con ra Hà Nội nên chú phải lo, chứ cả tháng trời nằm bẹp có đi ca được ngày nào đâu mà chú cũng phải tính lương. Bữa đó con Mía chưa kịp dậy thì ông chủ mang cháo tới, không nỡ kêu nó dậy nên mới để cái cà mên cháo ở đầu giường rồi về.

khi ông chủ vừa quay xe ra khỏi nhà trọ thì bà vợ ông chủ cùng ba người nữa xông vào, cứ thế nắm tóc, đấm đá cho con Mía một trận tơi tả. Là đánh ghen. Bà vợ ông chủ trút hết cơn hờn giận lên người cô gái bé nhỏ, lại đang bịnh, bà còn la làng cho mấy người khác đá vào bụng dưới cô, để cho nó hư thai đi, nghe bà hét vậy, mà oan quá, nào có cái thai nào ở đó. Rồi bà hất cả cà mên cháo nóng vào mặt con Mía, dùng kéo xởn hết tóc trên đầu nó, nói chung là đủ trò tàn bạo. Con Mía kể lại mà ánh mắt còn thất thần như mới hôm qua.

con Mía được mấy bạn trọ chăm sóc, rồi gom tiền đưa nó ra bến xe, về thẳng Sài Gòn. Con Mía về Sài Gòn nằm tiếp trong nhà trọ thêm ba tháng, phần chờ cho tóc mọc ra chút ít, phần vì quá kinh hãi, không dám ra đường. Cũng may nhờ chị bạn che chở, lo cơm nước rồi cho còn cho tiền để con Mía gửi về nhà, y như là đang đi ca bình thường.

lại nói chuyện thằng Thành. Thành làm dưới Bạc Liêu cũng không bền, bị nhà chủ chửi mắng hiếp đáp quá, hở chút trừ lương, chán quá nó cũng bỏ lên Sài Gòn, qua Cần Giờ làm mướn tiếp, cũng trong mấy vuông tôm, chuyên tay lưới đi thu tôm, được trả công theo mẻ, có mẻ năm trăm có mẻ hai trăm, tùy vuông lớn vuông nhỏ, xa hay gần, có ngày làm hai mẻ mà cũng có ngày chơi không, nhưng tính ra cũng dư giả hơn làm công nhựt. Thằng Thành mất số con Mía từ lúc nó ra Hà Nội, nên cứ tối cuối tuần là nó lên Sài Gòn, lang thang mấy tụ điểm ca cổ tìm con Mía, tìm hoài chưa gặp.

bữa tối đó, lúc sắp hết cái hẹn hai năm của hai đứa, con mới nói, thôi đi ca lại một bữa, coi như chia tay nghề, cảm ơn tổ phụ, rồi về quê. Đang ca thì con nhìn xuống thấy ảnh ngồi dưới, con ca rớt nhịp mấy lần. Lúc ca xong chạy xuống thì kiếm ảnh không ra, lúc đó nhìn lên thấy ảnh lên sân khấu xin ca, con đứng dưới mà nước mắt chảy dài. Ảnh lên ảnh nói ảnh ca tặng Thanh Huyền, hay cô Mía của ảnh, ca bản tình nghèo, mà ảnh hò vô câu vầy “Hò ơ... (chớ) người ta giàu đầu heo nọng thịt / tụi mình nghèo cặp vịt đôi bông / sao mai mọc buổi hừng đông / ước sao nên vợ.... (ờ) / hò ơ... (chớ) ước sao nên vợ nên chồng thì thôi…”

lúc con về nhà thì ba má mới cho hay, là có một ông từ Hà Nội vô kiếm, theo cái địa chỉ ghi trên chứng minh lúc đăng ký tạm trú vậy mà ổng mò ra nhà hay thiệt. Ông chủ vô đưa cho nhà nó một trăm triệu, đúng mười tháng lương, năm tháng con Mía ca, năm tháng ổng đền như đã hứa, mừng hết lớn đó chú Hai, bởi con biết ổng đường hoàng con mới đi theo ổng, lúc này anh Thành biết rồi, con cũng tình thiệt với ảnh.

tụi con làm đám cưới vui lắm, làm dưới quê thôi, nhóm họ đãi bên nhà con, rước dâu xong là đãi nhà anh Thành, uống rượu đế mà ca suốt từ sáng tới chiều, có bản “đám cưới trên đường quê” thôi mà ca tới mấy chục bận. Anh Thành không chịu bận đồ vest, nên con với ảnh bận đồ bà ba, quấn khăn rằn luôn, vậy mà ba má con với cô bác chịu lắm nha, cứ xuống tiếp khách, uống chung rượu, rồi lên ca, vui hết biết…

tôi gặp vợ chồng con Mía lúc ở Cần Giờ, con Mía theo chồng lên đây, mới đầu cũng làm mướn, rồi mới đây nghe nói hai vợ chồng nó đụt hai vuông, người ta cho nợ giống, nợ thức ăn, nợ thuốc... thu hoạch mới trả. Nghe nói vợ chồng nó thuận hòa, bà con thương, ông Trời thương, làm vụ đầu là trúng luôn, người ta làm cùng lứa mà một ký ba tám bốn chục con, còn nhà con Mía làm một ký hai bảy hai tám con, nghe đâu vụ đầu trúng hơn ba trăm triệu. Con Mía mừng lắm, nó khoe suốt, chắc nhờ anh Hai con độ đó chú. Con giờ làm tôm riết có ca đâu, bữa nào chú Hai xuống chơi, vợ chồng con đãi rượu, ca cho chú nghe.

ừ, bữa nào chú Hai ghé, hén Mía, ghé uống rượu, nghe thằng chồng bây ca, biểu nó vô câu này, cho chú nghe “Hò ơ... (chớ) người ta giàu đầu heo nọng thịt / tụi mình nghèo cặp vịt đôi bông / sao mai mọc buổi hừng đông / ước sao nên vợ.... (ờ) / hò ơ... (chớ) ước sao nên vợ nên chồng thì thôi…”

Saigon, binh bạn

hôm qua có ông báo mạng viết cái bài "người Sài Gòn xếp hàng nhận phần ăn miễn phí", rồi các bạn FB share tá lả, dân SG còm là nhục nhã nhục nhã vô cùng, còn dân xứ khác còm là hóa ra SG cũng vậy. Mấy bạn yêu SG mới nhắn cho Phú mỗ, nói sao anh không nói gì đi, vì sự thực hổng phải vậy đâu, ok, vậy ta nói đây.

tôi chẳng thấy nhục gì, chỉ thấy vui

thứ nhứt, là chuyện xếp hàng để ăn là chuyện bình thường, không xếp mới là chuyện lạ, còn phần ăn mà họ xếp hàng để nhận thì không phải là miễn phí, mà đó là nhà hàng trả cho người tham gia chương trình khuyến mãi, tiếp thị của thương hiệu McDonald’s, người ta tham gia đông thì nhà hàng mới vui.

thứ hai là, còn tại sao mấy người Sài Gòn lại cam tâm làm vậy, tôi trả lời luôn, vì họ đói, nhưng không phải đói bụng, hay đói nghèo mà là cái đói khác, cái đói văn minh, cái đói ăn vào trong xương tủy, nằm sâu trong tiềm thức mỗi người Việt chúng ta từ rất lâu, mà đôi khi chúng ta không biết. Để tôi kể bạn nghe mấy chuyện nha

hồi xưa, lúc KFC mới vào Việt Nam, chúng tôi hay đi ăn KFC lắm, hầu như tuần 2~3 lần, lúc nào cũng đông, cũng phải xếp hàng, mua, tự bưng ra tìm bàn ăn, mấy miếng thịt gà thắng nhách, bở như giấy được chiên lên, chấm tương ớt không cay tương cà chua lét… mà bán với với cái giá cao ngất ngưỡng, đến mức Anh Sơn (Son Nguyen Truong ), một sếp trực tiếp của tôi lúc đó phải cám cảnh mà có thơ rằng:
"
thưa ông Ken Túc Ky
quê ở tận Huê Kỳ
tuy chẳng quen biết chi
sao tiền tôi ra đi?

...
rồi tôi có dịp ra nước ngoài, việc đầu tiên tôi làm khi rảnh rỗi là vào một nhà hàng McDonald’s, gọi một suất bánh mì kẹp khủng, để ăn cho biết, ăn ngấu nghiền để thưởng cái hương vị mới, coi nó làm sao. Về chất lượng và giá cả thì bánh mì McDonald’s phải gọi tất cả các xe bánh mì ở Sài Gòn là chú, còn cỡ Ba Lẹ thì McDonald’s phải gọi bằng ông nội, vậy tại sao McDonald’s nó bán khắp thế giới, ở đâu người ta cũng xếp hàng mua, và giờ là đến VN. Tương tự như vậy là Starbucks, khi nó lần đầu đến SG, người ta (lúc ấy toàn người giàu và nghệ sĩ) cũng đội nắng xếp hàng để được thưởng thức một ly café, chỉ là một ly café thôi mà, sao vậy, bộ đói khát lắm sao?

...
đâu có đơn giản vậy, phớ hôn, nó không chỉ là ly café, cái bánh mì kẹp hay miếng gà chiên, mấy thứ đó nó đại diện cho một thứ khác, lớn hơn, là nước Mỹ, văn hóa Mỹ, là phương tây, là tư bản giãy chết… các bạn khác có thể chưa quen, nhưng dân SG thì họ từng quen với văn hóa Mỹ, nên họ đói, đói thiệt, đói từ trong tiềm thức, và đó là lý do mà KFC, Starbucks hay giờ là McDonald’s luôn là nơi đông đúc người Sài Gòn nhứt. Cái đói tiềm thức nó bao hàm cả sự khao khát được hòa nhập, được giàu có, được văn minh, được bình đẳng với phần còn lại của thế giới, nó là cái đói lâu ngày đến mức quên cả nhục, lâu lâu coi thời sự bỗng vỡ òa lên vui sướng vì phát hiện ra còn có một nước phi châu nào đó cũng toàn xe máy, nghèo đói và tham nhũng y như VN mình.

cho nên đừng cười những người xếp hàng tham gia chương trình khuyến mãi của McDonald’s để nhận một phần ăn, mà chính họ, đã dạy chúng ta về sự đói, cũng nên coi đó như một bước tiến của hòa nhập với thế giới, đừng khác biệt đến mức dị biệt, nghèo đói và lạc hậu, rồi tự cười nhau “ơ nhục chưa kìa”


Sài Gòn, một chuyện chép ở bịnh viện (2)

đau lưng, vô bịnh viện chụp phim, lúc bốc số ngồi chờ chụp phim mới thấy đẩy vô một chị đương nằm trên băng ca, băng một bên chưn trắng toát, trông chị đen đúa, ốm yếu và khắc khổ. Mới hỏi thăm, chị bị sao. Chị cười gượng gạo, có vẻ rất đau, bị xe máy đụng đó chú. Anh người nhà đi theo đẩy băng ca cho chị mới tiếp lời, bả bị xe máy chở hàng đụng, thằng đụng bả nó cũng bị gãy xe, bị thương tùm lum, bị bà này bả chạy qua đường ẩu, thằng nhỏ tránh hổng kịp, mà xe nó xe chở hàng, thắng cùi bắp nữa, thiệt xui hết biết, ông anh lắc đầu tỏ vẻ ngao ngán

...
bà này bả bán café, bên nay đường có hàng cây mát, có vỉa hè thì bị trật tự không cho bán, bả chỉ để vài cái ghế mủ cho khách ngồi, còn bả để xe café ở hẻm bên kia đường, cứ có khách là bả phải chạy qua hỏi uống gì, rồi chạy về làm, rồi bưng qua, rồi qua tính tiền, dọn dẹp... ngày bả chạy băng qua băng lại con đường cầu tám chục giác, tui dặn là nhớ ngó trước ngó sau đi, coi chừng có bữa xe nó đụng, y như rằng, anh trai người nhà đi kèm lại chắc lưỡi, lắc đầu, trông anh cũng ốm, đen và khắc khổ y chang như chị.

lúc này vị bác sĩ chụp phim vẫn chưa tới, thấy anh kia chồm tới lắc tay chị, hỏi, bà còn đau không, sao uống thuốc nãy giờ chưa bớt. Chị cười như mếu, đau thấy mẹ, bộ thuốc tiên sao hết liền được, ông về trước đi, lát nhờ ai đẩy về cũng được, chờ đây chi. Anh loay hoay, hình như cũng muốn lui, vò vò cái mũ kết cũ mèm trong tay, quay qua nhìn tôi một lúc, rồi nói, thôi lỡ rồi, để tui ở đây với bà, chiều con Tí Hon đi học về nó chạy vô rồi tui về ăn cơm luôn

anh quay qua tôi, tiếp, cũng hên là có mấy chú nhân viên văn phòng hay uống café chỗ bả, rồi mấy nhà trong hẻm, mấy người buôn bán, gom người chút, góp được mấy triệu, đưa vô đây lo chi phí, mới yên tâm chụp phim, chớ nhà nghèo quá, bả còn không chịu vô bịnh viện sợ tốn tiền kìa. Nhà hả, hai đứa nhỏ một đứa mười lăm, đứa mười một, đều đang đi học, một mình bả bán café ngoài đường nuôi tụi nó, chưa kể tiền học hành, nhà trọ ... tá lả nữa, chồng chết cũng mấy năm rồi, khổ hết biết

tôi tròn mắt, nói vậy anh hổng phải chồng chỉ hả?

có đâu, tui chạy xe ôm gần chỗ bả thôi

bác sĩ chụp phim tới, cười nói oang oang, cầm xấp hồ sơ coi từng cái, rồi mặc kệ cả đống người đang chờ, anh bác sĩ quay ra phía sau mấy dãy ghế, tự tay đẩy cái băng ca của chị vô trước. Thấy anh xe ôm đứng lấp ló ở cửa, tay vò vò cái mũ kết, sẫm màu mồ hôi
 — withNguyễn Quốc An.
chuyên mục, giới thiệu phim

"I ogigins" là phim đáng xem nhất mùa này, mình đã rất xúc động và ám ảnh suốt một đêm dài, suy nghĩ thật lâu về cuộc sống

"I ogigins" là típ phim khoa học, một luận chứng về "luân hồi" dưới góc độ khoa học và lồng vào đó một tình yêu đẹp, một đam mê cháy bỏng, một tình bạnh thiêng liêng, những hy sinh thầm lặng... 

chuyện phim kể về Tiến Sĩ Ian Gray, người dành cả đời để nghiên cứu về đôi mắt, chứng minh rằng mỗi người chung ta đều có một đôi mắt khác nhau, từ đó đi tìm nguồn gốc của loài, sự phát triển của tự nhiên và chứng minh sự hoang đường của các tôn giáo khác. Tiến Sĩ Ian Gray dĩ nhiên bác bỏ các niềm tin tôn giáo, dù anh tình cờ gặp và yêu say đắm Sofi, một cô gái kỳ lạ như đến từ thiên đường với những suy nghĩ hơi kỳ quặc, cô đến với anh bất chợt từ một ánh mắt khi anh bắt đầu nghiên cứu về nguồn gốc của loài và ngày mà Tiến Sĩ Ian Gray cùng cộng sự tìm được bằng chứng về phân tử chi phối sự tiến hóa thì cũng là ngày cô lìa đời, dù mọi thứ trùng lặp nhuốm màu định mệnh, Tiến Sĩ Ian Gray vẫn không lay chuyển niềm tin khoa học của mình.

nhưng sau khi có đứa con, và được biết con mình cũng là hậu kiếp của người khác, rồi đặc biệt là một hành trình dài để tìm lại được “hậu kiếp” của Sofi, người yêu năm xưa, có lẽ Tiến Sĩ Ian Gray đã hoàn toàn tin vào Thượng Đế và sự luân hồi của kiếp người. Đoạn thoại hay nhứt trong phim, theo tôi, không phải là đoạn các nhà binh luận khác đề xuất, mà đoạn về cái ngày Sofi qua đời, cô đến phòng thí nghiệm của Tiến Sĩ Ian Gray và nhìn thấy những con giun đang bị làm thí nghiệm để chúng được nhìn thấy, cô phản đối điều này, và cho rằng việc của Gray là làm trái ý Thượng Đế.

Gray nói: "anh không tin vào Thượng Đế, anh không tin có một thế giới tâm linh đang tồn tại bên trên và song song với chúng ta"
Sofi nhìn những con giun trong ống nghiệm, và mỉm cười: "những con giun này không nhìn thấy, chúng không có cơ quan thị giác, chúng không biết gì về ánh sáng, chúng không hề biết là ánh sáng tồn tại bên trên và bên cạnh chúng, và dĩ nhiên chúng cũng sẽ không tin là có ánh sáng, như chúng ta không tin vào thế giới tâm linh"


Sài Gòn có thơm không?

1.
hôm qua tôi có việc đi qua quận 11, sáng sớm ăn cơm tấm rồi ngồi café cóc nhìn ngắm phố phường thời khắc rộn rã bắt đầu ngày mới. Có nhiều chuyện để kể trong một buổi sáng như vậy, ở Sài Gòn, tôi chỉ muốn tả lại khoảnh khắc mà tôi chạm vào, hòa vào nó, không sự kiện trong một khoảnh khắc nhiều, rất nhiều sự kiện
...
sáng sớm thì bao nhiêu hàng quán đồng loạt lục đục mở cửa, người ta gọi nhau, kiêng đồ ra lấn chiếm vỉa hè hoặc giả treo mấy tấm biển hiệu sờn cũ hoặc những thứ biểu tượng đặc trưng của nghề dịch vụ ở Sài Gòn, như cái vỏ xe cũ, cây thuốc rỗng, cục gạch bình xăng, cặp phuộc, cái niềng xe máy, cái bình bơm hơi, cái chìa khóa lớn bằng gỗ sơn xanh…vài người khác thì bưng đồ ăn sáng với ly café chạy tới chạy lui, băng qua băng lại con đường mỗi lúc một ken đặc xe cộ, giao chỗ này tính tiền chỗ nọ, tất tả. Những tiếng gọi đồ ăn hay café chen giữa tiếng xe máy rền rĩ khói, kiểu, sườn bì không mỡ hành nha, tíu mì dai giò gân nha, một đá ít đường một sữa tươi nhiều café… Rồi bên này đáp trả nghe, nghe, có liền có liền, hai ly này nữa là mười bốn ly rồi nha trả đi mày thằng quỉ, hết vốn với mầy luôn, chờ chút đi…Bên bàn kế bên tôi chị chủ quán café đang nói chuyện với một vị khách mới, tôi đoán anh nầy ở miền tây lên nuôi bịnh bên Chợ Rẫy, chị chủ quán vỗ vỗ vào cái bụng mình ra chiều hiểu biết, ra được hết máu bầm trong này là coi như khỏe được chín phần rồi, thôi cũng mừng cho anh… Anh nọ kêu thêm ba điếu con mèo và bấm gọi điện về nhà, em ơi người ta nói lấy ra được máu bầm là coi như đỡ được chín phần rồi, mừng quá…
...
nếu bạn không thích Sài Gòn, bạn sẽ vất vả với đoạn văn trên, kệ bạn chứ, còn nếu bạn thích thì tất cả là Sài Gòn, của Sài Gòn, tôi yêu những điều đó, vụn vặt và rối nùi, hỗn tạp và đậm đặc một thứ không khí chợ, kiểu chợ trời đó, nhưng mà thơm, thơm mùi người

...
2.
có bạn đọc (nhất là mấy bạn đồng hương) hay hỏi tôi, tại sao anh là người Hà Tĩnh/Phú Yên/Nha Trang mà lại yêu Sài Gòn nhiều như vậy, tôi đã trả lời riêng cho các bạn, nhưng cũng như tôi tự trả lời mình, tình yêu luôn không có lý do, nếu yêu mà cần lý do thì nó không phải là tình yêu
...
đối với nhiều người sống dịch chuyển du canh du cư qua nhiều nơi, như tôi, nếu ví mỗi vùng đất mình từng sống và từng yêu như một người phụ nữ trong đời mình, thì gốc gác là bà ngoại, nơi sinh ra như mẹ, nơi lớn lên như người tình đầu bé ba bé bảy nào đó, và Sài Gòn, Sài Gòn thì như vợ, một người vợ bị chồng con cơm áo cuốn trôi mất vẻ lãng mạn cần có của một người tình, nhưng là một người vợ luôn tần tảo, vị tha và là người chờ đón người đàn ông của mình sau những gì hắn tự cho là dời non lấp biển… và tiếc thay, Sài Gòn như một cô vợ như vậy, bị chính ông chồng mình, người mà mình đã tần tảo chăm lo phục vụ trong chừng ấy năm, luôn miệng chê già chê xấu, để rồi hắn ta mơ tưởng về bà ngoại hiền hòa, nhớ về mẹ ấm áp, luôn ngậm ngùi tiếc nuối với bé ba bé bảy đáng yêu của ngày xưa, hoặc mơ tưởng về những người mẫu chân dài ở xa xôi nào đó.
...
đoạn trên tôi mượn ý bạn Tư, trong “yêu người ngóng núi”, nhưng thực ra, theo tôi, Sài Gòn không có tính nữ, như một vài nơi khác, để bạn yêu, Sài Gòn có chăng là duyên nợ, thứ duyên nợ gắn liền cơm áo, giữa người ta với nhau, rất thực thà và rất đỗi con người
— with Ngọc Thắm at Sài Gòn chớ đâu.
Ba Xô lấy vợ,


Ba Xô tên giấy là Trần Văn Xô, hổng phải con thứ ba, mà do hồi xưa Ba Xô bị bịnh, đi chữa cháy cho một nhà trong xóm, đang cảm lại sặc khói, chạy ra phụ xách nước, xách đúng ba xô nước thì lăn ra xỉu, từ đó kêu bằng Ba Xô, chết tên. Bạn bè kêu Xô-Xích-Le, tức Xe Xích Lô, bị Ba Xô hành nghề đạp xích lô, đạp từ lâu lắm, từ thời trai trẻ tới giờ, có bị cấm một thời gian nhưng giờ cũng ra đạp lại.

Ba Xô có vợ, hổng biết tên con gái, cũng kêu bằng chị Ba Xô, chị Ba Xô vắn số mất sớm, sanh được đứa con gái mới đi lẫm chẫm thì chị mất. Ba Xô ở vậy đạp xích lô nuôi con gái lớn lên. Được cái con Gái nó cũng được má nó độ, lớn lên xinh đẹp, học hành tuy không giỏi nhưng cũng sáng dạ, năm nào cũng có giấy khen, lớp tám đã theo người ta buôn bán kiếm tiền phụ cha. Con Gái năm nay hai ba tuổi, coi như chị Ba đi đã chẵn hai chục năm, mà Ba Xô không đi bước nữa, cũng không hề bồ bịch trai gái, chỉ lo đạp xích lô nuôi con Gái.

năm nọ xích lô bị cấm, Ba Xô ở nhà riết cũng quỡn, mới theo người ta tụ tập nhậu nhẹt, rồi bị bịnh, cũng nặng, nằm viện chừng ba tháng. Thời gian nằm viện thiệt khó khăn, mớ thì tiền thuốc, tiền viện phí, rồi con Gái phải ra vô chăm sóc, bà con cô bác cũng có giúp mà hổng thấm bao nhiêu. Con Gái phải chạy làm thêm, rồi ra trước cổng bịnh viện xếp hàng lấy cơm miễn phí của hội từ thiện ăn qua ngày. Đến bữa khỏi bịnh thì còn thiếu bịnh viện đâu chục triệu, con Gái chạy vạy khắp nơi mà chưa lo được tiền, nó lén ra ngoài sân ngồi khóc miết. Tự nhiên bữa sau bịnh viện thông báo là viện phí có người trả rồi, một người hảo tâm nào đó, không để lại danh tánh, cha con Ba Xô mừng chảy nước mắt.

lúc hết cấm xích lô, Ba Xô là người đầu tiên chuộc xe chạy lại, lúc này con Gái cũng làm có tiền, khách du lịch nhiều mà xích lô thì ít hơn trước nên Ba Xô chạy cũng khá, mỗi ngày đều kiếm một hai trăm ngon lành. Ba Xô chạy bao nhiêu không cần biết, mỗi ngày đều bỏ ống vài ba chục ngàn, ít thì hai chục, nhiều thì năm chục, một hai tuần kêu con Gái gom lại, có khi được vài trăm, một triệu, triệu mấy, đem hết tới góp vô quĩ cơm từ thiện, giúp bịnh nhân nghèo. Khen anh thiệt tình nghĩa quá, Ba Xô cười, tình nghĩa gì đâu chú Hai, mình có ơn phải trả, người ta giúp mình, mình giúp người khác, có ít giúp ít, có nhiều giúp nhiều, đời này không trả, kiếp sau cũng phải trả hà, tui nói vậy phải hôn chú Hai. Ờ, phải đó anh Ba.

Con Gái là một đứa con xinh đẹp và hiếu thảo, trời thương, nó cao ráo giống Ba Xô, lại xinh đẹp tốt tánh như má nói, bởi vậy trai theo hàng đàn, mà mấy năm nó nhứt quyết không yêu đương, lo làm ăn, đi bán ở shop đó chú Hai, rồi làm hội chợ, làm đủ thứ ai mướn gì làm đó, miễn đường hoàng mà có tiền. Buổi tối nó đi học thêm tiếng Anh thôi. Nó nói đời nó nó chỉ yêu Ba Xô, Xô-Xích-Le của nó. Con người ta, có cha đạp xích lô hay làm lao động chưn tay thì thường mắc cỡ, còn con Gái không có nha, nó tự hào lắm, lúc nào cũng khoe ba nó đạp xích lô, chụp hình ba nó chở nó trên chiếc xích lô, khoe trên mạng đó chú Hai, Ba Xô cười hỉ hả.

Năm kia con Gái quen một thằng Mỹ, cũng trọng trọng, ngoài ba chục rồi, thằng này làm kỹ sư, qua đây làm việc chớ hổng phải dân du lịch ba lô, hai đứa có về trình bày với Ba Xô, dĩ nhiên Ba Xô gật đầu cái rụp. Tụi nó cũng lẹ, quen đâu chừng mấy tháng thì thằng kia hỏi cưới, Ba Xô gật tiếp, nhưng mà con Gái nó hổng chịu gật, dứt khoát hổng chịu. Con Gái nói, lấy chồng rồi con theo ảnh đi Mỹ, Xô ở với ai, ai lo cơm nước, ai thuốc thang rau cháo lúc trở trời, ai nói chuyện với Xô. Con Gái nói quen chơi thôi, nếu có lấy chồng nó phải ở chung với Ba Xô mới chịu, chú Hai thấy đời thủa con gái nhà ai kỳ cục vậy chưa?

Cái trời đất xui đâu đó, bữa trưa đó Ba Xô thấy bà bán trái cây kia bị xỉu gần chợ Dân Sinh, mới xuống đỡ dậy, xức dầu, rồi chở bả về nhà trọ, bên quận tư. Bà này quê Bình Định, theo người ta vô Sài Gòn bán trái cây dạo, bữa đó nắng quá mà bả đang cảm nên xỉu giữa đường. Nào giờ tui có biết xứ Bình Định nó nằm đâu chú Hai, người gì đâu mà nói cái tiếng khó nghe muốn chết, bả nói chữ “dờ quơ” mà một tháng sau tui mới hiểu đó chú Hai. Đó rồi coi như ông Trời định, bà này chồng chết, hai đứa con, cũng cỡ con Gái, đương làm công nhân đâu dưới Bình Dương, quen một hồi thấy cũng hạp, thôi xáp lại cho con Gái nó yên tâm đi lấy chồng.

Đám cưới con Gái, đàng trai bên Mỹ qua gần chục người, tía má thằng kia với bạn bè tùm lum, Ba Xô tính chạy đi mượn nhà người quen làm cái lễ cho đường hoàng, con Gái nó cản, nó nói mình sao để vậy đi Xô, nếu ảnh thương con thì ảnh thương, còn mà ảnh có khinh con nghèo thì con bỏ về ở với Xô, sợ gì. Bữa đó chưa rước bà “quơ” Bình Định về, nên chỉ có Ba Xô với gì Út con Gái đứng ra gả cưới. Cưới xong cả nhà kéo nhau đi Phan Thiết, Đà Lạt chơi mười mấy bữa luôn. Bữa nay qua Mỹ lâu rồi, mới đẻ rồi, con gái luôn, coi như tui làm ông ngoại rồi đó chú Hai, Ba Xô cười, lại hỉ hả.

Ba Xô rước bà sau về, dặn rõ, coi như rổ rá cạp lại, già rồi hổng có cưới hỏi chi hết trơn nha, chỉ nấu mâm cơm, cúng má con Gái, Ba Xô thắp nhang nói, mình ôi, cho tôi đi bước nữa, tuổi già có người nương tựa bè bạn, cho con Gái nó yên tâm lấy chồng xa, nha mình, vậy thôi. Hỏi Tết này có chạy hông anh Ba, Ba Xô cười lớn, hông có, mơi mốt đây nghỉ rồi, đi “dờ quơ” Bình Định chơi, chú Hai.
 — with Phan Tan Loc.
Sài Gòn, món nợ bảy cây vàng

...
bà Hai là người gốc Bắc, quê Nam Định, là người Bắc Năm Tư, bà theo gia đình vô Sài Gòn thời đó sớm, gia đình lại khéo mần ăn buôn bán ở chợ nên cũng khá giả, bà lấy chồng đã có tài sản là căn nhà với mảnh đất lớn, nằm mặt tiền một con đường cũng tương đối lớn. Mấy năm bao cấp nhà bà cũng chỉ ở thôi, không dùng mặt tiền nhà làm gì, bị bà thấy cho thuê thì không bao nhiêu tiền mà phiền phức. Sau này, xe cộ Sài Gòn nhiều dần, ở mặt tiền bà thấy cũng ồn ào thiệt, bà mới đồng ý cho vợ chồng ông Bảy mướn làm lò bánh mì.

ông Bảy quê gốc Sài Gòn, là lính chế độ cũ, sau năm 75 lưu lạc mãi, gia đình ly tán, vợ con thì về miền tây làm ruộng còn ông thì phải đi cải tạo. Khi về lại Sài Gòn vợ chồng cũng làm đủ nghề, cuối cùng chọn quay lại làm nghề bánh mì gia truyền. Lò bánh mì của ông Bảy là lò thủ công, nên nóng nực và ồn, nhưng được cái bánh mì ngon, bánh mì loại bự thiệt bự, nóng giòn và thơm lừng mùi bơ mà bà con đi xe đò hay mua làm quà cho sắp nhỏ dưới quê, bán nhiều trên những cần xé ở Hàng Xanh, hay bến xe Miền Đông, Miền Tây. Vợ chồng ông bà Bảy với nhà Bà Hai tuy là chỗ mướn nhà nhưng sống với nhau tình cảm, dần dần cũng như chị em trong nhà, chuyện gì cũng chạy qua chạy lại, tình thương mến thương.

...
làm ăn được mấy năm, buôn bán khấm khá, nhà ông bà Bảy dư tiền, mới xin mua của bà Hai một phần mặt tiền căn nhà mà mình đang mướn. Năm đó là năm một chín chín hai, thời đó giá nhà Sài Gòn rẻ lắm, miếng đất căn nhà của bà Hai ngang tám dài ba chục thước, cắt phân nửa phía trước mặt tiền, chỉ chừa lối đi hơn một mét để đi ra nhà sau, bán cho vợ chồng nhà ông Bảy, giá hai mươi bảy cây vàng, một cái giá quá không rẻ mà cũng không quá mắc, thời đó.

chuyện là vợ chồng nhà Bảy tuy có dư nhưng chỉ gom được hai chục cây, còn thiếu bảy cây vàng, vợ chồng mới xin nợ lại bà Hai, ít bữa kiếm tiền trả tiếp. Bị lúc đó không ai nghĩ chuyện gì lớn nên bà Hai cứ ký giấy bán, giấy bán cũng ghi rõ là tiền đã trả hết, còn chuyện thiếu lại bảy cây vàng chỉ là nói miệng với nhau, không có ghi giấy, thời đó người ta tin nhau.

nhưng rồi đời mà, nhiều chuyện xảy ra, đầu tiên là ông Bảy bịnh chết đột ngột, bà Bảy quá đau buồn nên cũng không ham buôn bán nữa, bà suốt ngày ngồi trước bàn thờ ông, chuyện buôn bán giao lại cho cô con gái, cô này cũng còn đang tuổi ăn tuổi học tuổi yêu đương, nên không mặn mà lắm, ai cũng lơ là cái lò bánh mì đã giúp mình kiếm tiền, rồi các lò bánh mì khác mọc lên như nấm, lò điện, sản xuất nhanh, bánh ngon đều, giá rẻ… cạnh tranh khốc liệt hơn, làm cái lò bánh mì nhà bà Bảy càng lúc càng ế ẩm, chỉ buôn bán cầm chừng. Lúc này thi thoảng bà Hai có nhắc món nợ bảy cây vàng, nhưng bà Bảy không trả nổi, ăn còn thiếu trước hụt sau mà, lấy gì trả, bà Hai thấy vậy thôi cũng không nhắc nữa, quay qua an ủi bà Bảy.

bà Hai người kính Chúa, bà Bảy lại là Phật tử, nhưng mà chồng chết, các con cũng lớn cả nên ra vô sớm tối đều đi với nhau, thậm chí hai bà rủ nhau cùng đi nhà thờ chung lễ, cùng đi chùa dâng hương làm công quả, chẳng nệ tôn giáo gì.

...
sau có chuyện là anh con trai lớn của Bà Hai mới ra làm ăn sao đó, bị thua lỗ, còn suýt vướng vô vòng lao lý vì nghe đâu nợ người ta mấy tỉ bạc. Anh này chạy về khóc kể, năn nỉ mẹ bán nhà trả nợ, bà Hai tuy bình thường không mấy chiều con nhưng đến nước này, thương con thương cháu, bà đành đứt ruột ký giấy bán căn nhà thân thương. Lúc bán nhà thì bà Bảy có qua ngăn cản lắm, bà nói, tui thiệt là giờ bảy cây vàng tui cũng không có trả bà, nhưng bán căn nhà thì uổng quá. Bà Hai cười mà nước mắt chảy dài, nói, thôi món nợ đó của tôi với bà bỏ đi, có đáng bao nhiêu đâu, mình sống nay chết mai, chỉ là sống ít ngày cho con cho cháu thôi, bà ạ. Căn nhà phía sau, lối đi nhỏ nên bán chỉ được có bốn tỉ mấy, vừa đủ cho ông con trai trả một phần món nợ, còn cả gia đình nhà bà Hai ba thế hệ phải dắt díu nhau đi ra đường, lên tận Gò Vấp thuê một căn nhà cấp bốn ở tạm.

...

bà Hai đi mấy hôm thì một bữa nọ bà Bảy ngủ dậy, tươi tỉnh hẳn, bà ra thắp nhang cho ông Bảy, rồi cũng đi rao bán nhà. Căn nhà bà Bảy mặt tiền nên bán được hơn bốn trăm cây. Tiền bán đất bà Bảy chia cho con gái, con trai mỗi đứa một trăm cây gửi vô ngân hàng, sau này muốn làm gì thì làm. Còn phần còn lại bà lên Gò Vấp mua miếng đất lớn, xây hai căn nhà cũng lớn, có sân trước sân sau, hai căn giống y hệt nhau, bà ở một căn, căn kia mời gia đình bà Hai về ở. Bà Bảy nói, ngày xưa bảy cây vàng là một phần tư căn nhà, tính ra nó tương đương với gần một trăm cây bây giờ, nay tôi trả bà cả vốn lẫn lời, bằng cái nhà mới nầy. Cả nhà bà Hai mừng như sống dậy, khóc cười cười khóc.

...
bữa tân gia hai cái nhà mới, mời bà con cô bác ở xóm cũ lên chơi, ai cũng mừng cho bà Hai bà Bảy có nhà mới, lên đây rộng rãi yên tĩnh, hai bà lại có dịp gần nhau, sớm tối có nhau. Nhiều người không biết câu chuyện về món nợ bảy cây vàng, cứ thắc mắc là sao hai cái nhà giống hệt nhau vậy cà, nghe vậy bà Bảy cười, bị tánh tui giống tánh bả, nên làm nhà cũng giống nhau, chớ có gì đâu.


những cây gai,

1.
tôi rất thích một câu của Chương Đặng trên Esquire: "Những hạt cây gai thì nảy mầm ra cây gai. Tôi không hiểu vì sao trên thế gian này lại phải có những cây gai. Nhưng vào những lúc hoang vu nhất của đời sống, tôi nhìn những cây gai trơ gầy trong mùa đông rồi rơi nước mắt. Tôi không cố gắng phân tích nhiều nữa. Nếu nó sinh ra để là một cây gai, hẳn có lý do nào đó!", tôi bắt đầu suy nghĩ lại về nhiều thứ sau khi đọc câu này, lý do ư, có lẽ chính những cây gai, bằng sự vô dụng thậm chí là nguy hiểm của mình, để nhắc nhớ về những khắc nghiệt của đời sống.

2.
tôi hay nói đùa rằng mình là hoa hậu thân thiện, thực ra tôi rất kém thân thiện và tôi cũng không cố tỏ ra thân thiện, nếu có thì tôi chỉ nhận là mình chân thành. FB như một chốn khác, mới tới mới chơi thì thấy lạ, chơi rồi thấy quen, riết cũng thấy ghiền. Tôi trên FB cũng như tôi với mọi người ngoài đời, nếu có khác là do hình ảnh có phần lung linh hơn chút thôi. FB, tuy vẫn ồn ào như đời sống, nhưng tôi cảm thấy vui và thư giãn hơn, nên chắc có ghiền cũng không có gì là xấu. Bởi chính sự quan tâm, yêu mến của nhiều, rất nhiều bạn dành cho mình mà mình mới ghiền.

Nhưng gần đây tôi bắt đầu suy nghĩ về việc hạn chế dùng FB, hoặc nếu có sẽ hạn chế bạn bè rất nhiều

3.
Hà Thi hôm qua hỏi là Phú có bao nhiêu bạn FB, bao nhiêu người theo dõi, có người nào ghét Phú không? dĩ nhiên là có chứ, rất nhiều là đằng khác. Phú nghĩ có phân nửa số bạn trên FB không quan tâm tới Phú, phân nửa còn lại thì khoảng 70% là thích Phú, còn 30% không thích lắm, trong số không thích Phú, chắc chắn sẽ có người ghét Phú chứ, còn lý do không thích hay thậm chí là ghét thì Phú chịu. Thậm chí những mẩu chuyện như trong CNSG cũng có người không ưa, họ mỉa mai cay độc, đối với họ SG là ghê gớm lắm, phải là cướp giết cơ, không có gì màu hồng, không có gì cổ tích lọt vô.

4.
gần đây tôi bắt đầu hủy kết bạn và block vài người, chỉ là quá lắm thì tôi mới làm vậy, thành phần bị block là khá nghiêm trọng, một bạn chửi thầy giáo của mình thậm tệ, một bạn post hình dìm chết một con mèo vì nó thường ị lên gối, một bạn nói về bố mẹ bằng những lời cay nghiệt... còn thành phần hủy kết bạn thì nhiều hơn chút, chỉ vì thấy hổng hạp, hoặc thường xuyên có những còm men cay nghiệt kiểu như: "anh rảnh lắm sao đi chơi hoài vậy?", "sao nịnh vợ, nịnh con hoài?", thậm chí còn nhắc là "suốt ngày post hình vợ con không biết chán à?", hoặc "cha này xạo, giờ làm gì có mấy chuyện này..." ... mà thực ra trên FB các bạn này rất nhiều, chuyện gì cũng ca cẩm được, ai làm gì cũng trở thành đề tài xiên xỏ của các bạn, ví như chuyện vợ chồng nhà kia lên FB kể tội nhau các bạn này cũng xúm vào chửi hùa khí thế

5.
tôi không giận, cũng không ghét các bạn đã ghét mình (hoa hậu thân thiện mà), mà nói như Chương Đặng, tôi cảm thấy thương các bạn ấy, tôi thương chính sự cay nghiệt của họ, như những cây gai, nó tồn tại là có lý do
(note cũ, coi lại đã 1 năm, còn nợ bạn đọc loạt bài này)


chuyện làm ăn ở Sài Gòn

Viết cho mấy bạn trẻ, có ý định làm ăn, hay nói cho đúng từ là khởi nghiệp, ở Sài Gòn, bởi Sài Gòn là đất làm ăn, như tôi đã từng nói nhiều lần, cơ hội luôn có và luôn chia đều cho mọi người, không phân biệt bạn là ai và bạn đến từ đâu, không phân biệt bạn là lính mới hay đã từng lừng lẫy danh tiếng, bởi Sài Gòn luôn độ lượng và công bằng. Nói trước là qua những trang viết này, tôi không có ý định kể hết việc kinh doanh của mình vì tôi cũng chỉ là một người bình thường thôi, không đủ tầm để kể mấy chuyện đó, tôi chỉ muốn chia sẻ vài trải nghiệm, bằng việc kể chuyện.

Phần một: Khởi Nghiệp

Câu chuyện khởi nghiệp thì rất nhiều người viết rồi, tôi thấy đa phần đều ít nhiều nhuốm màu huyền thoại, bởi đa phần đều được kể bởi những doanh nhân giàu có và thành đạt, nhiều người trong số họ dùng quá khứ bần hàn bươn chải của mình như một cách quảng bá tên tuổi, dù thực ra không cần thiết đối với một doanh nhân. Tôi được biết đến như một người viết không chuyên, nên tôi xin viết dưới một góc nhìn khác, có thể bạn thấy lạ, hãy đọc cho vui và nếu có chút ít gì giúp được cho bạn thì cũng mừng.

Tôi đã từng khởi nghiệp nhiều lần, câu này nghe như là câu: tôi đã từng bỏ hút thuốc lá nhiều lần, nghĩa là cũng từng ấy lần tôi thất bại. Tôi ra đời kiếm tiền từ rất sớm bằng việc bán thuốc lá dạo bên bờ biển năm lớp Ba rồi sau đó là đạp xích lô, làm công nhân, bốc xếp, làm rẫy… nên tôi khá hiểu giá trị đồng tiền, dù luôn miệng coi tiền bạc là phù du, ai cũng vậy. Chính vì từng là người lăn lộn để kiếm tiền nên những năm tuổi trẻ tôi ôm ấp những giấc mộng kinh doanh lớn và bất cứ khi nào có cơ hội là tôi bắt đầu, thậm chí là bắt đầu với hai bàn tay trắng, tôi từng làm báo, làm dịch vụ xuất nhập khẩu, thu gom nông sản xuất khẩu, làm du lịch, làm café, bán hàng, quảng cáo, phát hành sách, in ấn… và bao nhiêu câu chuyện thất bại không làm tôi nản lòng, trái lại, nó cho tôi những bài học quí giá, và hơn cả, cộng với hai chục năm ở Sài Gòn, nó cho tôi một góc nhìn, đủ tỉnh táo để không nuôi ảo mộng, nhưng đủ đam mê tin tưởng vào cuộc đời, vào con người, vào Sài Gòn

Vì sao nên khởi nghiệp?

Câu hỏi này chắc dễ trả lời, để kiếm tiền, để được làm việc đúng chuyên môn, để thõa mãn đam mê, để có cuộc sống sung túc, để có sự nghiệp riêng, để được tự do, để có danh tiếng, để nối nghiệp gia đình, để thực hiện những ước mơ… có nhiều câu trả lời, đôi khi người ta khởi nghiệp đơn giản chỉ là vì… bị thất nghiệp. Nếu bạn hỏi tôi rằng tôi khởi nghiệp lúc nào thì tôi không nhớ, nếu phải lấy mốc thời gian thì có lẽ những năm lớp Ba bán thuốc lá dạo ban đêm ở bờ biển cũng được coi là khởi nghiệp, với đầy đủ sự khốc liệt mà một doanh nghiệp phải đối mặt, từ tiếp thị đến cạnh tranh. Nhưng nếu bạn hỏi tôi vì sao nên khởi nghiệp thì lý do của tôi là vì tôi thích, đời tôi, tôi chỉ làm những điều tôi thích, tôi thích sự mạo hiểm, tôi thích rủi ro, tôi thích thử thách, tôi thích chinh phục… những sở thích bạn có thể cũng có nếu bạn là dân leo núi, nhưng vì tôi sợ độ cao, nên tôi không chọn leo núi, tôi chọn kinh doanh.

Có lần, tôi và một người bạn thân bán được một cái máy xông mũi cho một phòng khám tai mũi họng có tiếng ở Nha Trang, lúc ấy chúng tôi tầm 18~19 tuổi, số tiền lãi kiếm được sau thương vụ ấy nhiều, rất nhiều so với một sinh viên nghèo thời bấy giờ, tôi thích đến nỗi không cất đi mà cứ nhét căng đầy hai túi quần, đó là lần đầu tiên tôi kiếm được nhiều tiền như vậy và chúng tôi tiệc tùng với lũ bạn liên miên từ tiền kiếm được. Lúc đó, cái ý niệm: kinh doanh để kiếm tiền, phi thương bất phú, có nảy lên trong đầu tôi, tôi bắt đầu nghĩ rằng mọi thứ nên bắt đầu ngay bây giờ, để kiếm tiền phụ cha mẹ, để nuôi em tôi ăn học, để có thể thoải mái tiêu xài với bạn bè, nếu là một bạn khác thì có lẽ bạn ấy đã nhảy ra khởi nghiệp kinh doanh lúc đó, nhưng tiếc thay, tôi thì không. Tôi biết rõ đó chỉ là may mắn, may mắn trong một thương vụ không phải là tín hiệu tốt cho tất cả. Tại thời khắc quyết định việc làm ăn đó, chúng tôi chỉ đơn giản là thích, thích đi mua một thứ rẻ và bán lại nó cho người cần dùng với giá cao hơn. Dù suy nghĩ rất nhiều, cân nhắc rất nhiều trước việc có nên lao theo con đường kinh doanh hay không, nhưng cuối cùng tôi vẫn phủi tay, không, cũng không hẳn tôi tỉnh táo sáng suốt gì đâu, lúc ấy tôi rất ham chơi, tuổi trẻ mà, tôi bận đi chơi, bận làm thơ và chu du thiên hạ.

Lần khác, đâu năm 1997, tôi có quen một thương gia người Ấn, chúng tôi gặp nhau ở Phòng Công Nghiệp và Thương Mại (VCCI) ở Sài Gòn, ông này nói tiếng Anh không thể dở hơn được nên cuộc trao đổi giữa ông và mấy nhân viên của VCCI thành thảm họa, thấy tình thế căng quá, vô tình có mặt ở đó nên tôi tình nguyện làm phiên dịch cho ông, lúc ra về ông có cho tôi 100 đô la nhưng tôi không lấy, vậy là kéo ra quán café nói chuyện. Sau đó chừng vài hôm, ông này mời tôi ăn tối ở một nhà hàng … Pháp, bởi, như ông nói, thật khó cho hai chúng tôi nếu chọn một nhà hàng thuần Việt hay thuần Ấn, đó là một nhà hàng đẹp, với nhiều món ăn ngon và rất phù hợp để nói chuyện. Trong bữa tối, ông trình bày ý định muốn nhập khẩu một số hàng nông sản của Việt Nam sang Ấn Độ, Parkistan, Bangladesh và SriLanka, chủ yếu là gia vị như hạt tiêu, vỏ quế, hoa hồi…Ông muốn mời tôi làm đối tác cho công ty ông ở Việt Nam, tôi tìm nguồn hàng, thu gom, đóng gói và xuất khẩu còn ông ta nhập hàng và tiêu thụ. Tôi không hứa sẽ hợp tác với ông doanh nhân nọ, tôi chỉ hứa sẽ giúp ông tìm nguồn hàng và thực hiện một vài đơn hàng đầu tiên. Lúc đó tôi đang làm việc xuất nhập khẩu cho một hãng giày Hàn Quốc nên tôi khá quen thuộc với việc xuất hàng, sẵn công ty đang ít việc, tôi nghỉ phép, đi một vòng mấy chỗ trồng nguyên liệu, thăm thú giá cả thị trường, qui cách, chủng loại theo yêu cầu khách hàng… tôi giữ đúng lời hứa, chỉ giúp ông doanh nhân nọ trong một thương vụ đầu, từ thương vụ thứ hai tôi giới thiệu cho ông một công ty chuyên xuất nhập khẩu nông sản và hai bên làm việc khá tốt với nhau. À, chuyện mà tôi muốn kể là sau bữa tối gặp gỡ với doanh nhân người Ấn nọ, tôi lại nảy sinh ý định kinh doanh… nhà hàng, một nơi gặp gỡ và trò chuyện của giới làm ăn, tôi thích sự sang trọng của không gian, sự tử tế của việc phục vụ , vẻ đẹp và hương vị của các món ăn. Dĩ nhiên sau một vài vấn đề, mà chủ yếu là mặt bằng và vốn, tôi đã từ bỏ ý định kinh doanh này, nhưng dù sao, đó là lý do tôi muốn nói, nên phân biệt giữa sở thích và cơ hội.

Có một chuyện rằng một hôm Bill Gates diễn thuyết ở một trường đại học, có một sinh viên hỏi ông rằng: tôi phải làm sao để kiếm được nhiều tiền như ông? Bill trả lời đại ý rằng: “vì Chúa, đừng bắt chước tôi, chỗ tiền đó tôi đã kiếm hết rồi”. Có những người giàu thừa nhận rằng mình may mắn vì kiếm được nhiều tiền, nhưng khi phải đưa ra một lời khuyên hay một lý do để khởi nghiệp, thì tiền là một yếu tố họ loại trừ, dù rằng, ai kinh doanh cũng phải nghĩ đến tiền, dù đó là một nghệ sĩ hay một chính trị gia.

Trong hằng hà sa số các cuốn sách dạy làm giàu, dạy kinh doanh xuất hiện gần dây thì cuốn “Evil Plans, having fun on the road to world domination” của Hugh MacLeod có thể không nằm trong số đó, bởi nó không khuyên bạn khởi nghiệp hay kinh doanh thế nào, nó làm bạn yêu thích công việc và sự chinh phục thế giới, thế giới ở đây không hàm nghĩa rộng lớn, nó chính là thế giới của bạn, là cuộc đời bạn.

Vậy để trả lời cho câu hỏi vì sao nên khởi nghiệp, thì tôi cho rằng, sao cũng được, miễn là bạn thích, phải thật thích, đừng cố tìm một lý do, mà thay vào đó, hãy đặt câu hỏi ngược lại.

Vì sao không nên khởi nghiệp?

Có nhiều bạn trẻ, rất trẻ, tới gặp tôi, hỏi thẳng thừng, em/cháu định bắt đầu kinh doanh cái này, làm ăn cái nọ, và xin lời khuyên. Thật khó cho tôi để nói với các bạn, nếu tôi nói: tốt, bắt tay vào thôi, thì tôi cũng áy náy vì chưa nói hết lòng với bạn, còn nếu tôi nói thực lòng, khuyên bạn nên nghĩ lại thì bạn sẽ không vui, và dù không vui, bạn cũng chẳng nghe lời khuyên ấy, vì lòng bạn đã quyết. Bạn tìm đến tôi không phải xin một lời khuyên, mà đúng hơn, cái bạn cần là một lời động viên, cổ võ từ tôi. Vì khó trả lời cho từng bạn nên tôi viết ra đây luôn, hơi thẳng thắn chút, nhưng coi như tôi đã hết lòng chia sẻ.

Qua nhiều trải nghiệm, từ chính tôi, và từ bạn bè, tôi có thể ghi ra vài tình huống mà bạn không nên, hoặc chưa nên bắt tay vào khởi sự một việc kinh doanh. Mười mấy năm trước, lúc toan tính những dự án kinh doanh đầu tiên, tôi rơi vào hầu hết trong các tình huống sau đây, và tôi đã từng thất bại, không chỉ một mà nhiều lần, đã phải trả giá rất nhiều và cũng gặt hái rất nhiều những trải nghiệm quí báu, nếu bạn thấy mình trong những tình huống sau thì cũng thì cũng đừng vội nghi ngờ, ngay cả từ trường trái đất còn có lúc không đúng thì trải nghiệm của tôi cũng có thể sai.

Bạn không nên khởi nghiệp trong 5 tình huống sau:

1. Khi bạn còn quá trẻ: theo tôi, dưới hai lăm tuổi thì đừng nên làm điều gì một cách nghiêm túc, như lập gia đình hay lập công ty, bạn có thể thấy nhiều tấm gương bỏ học thành công hay tỉ phú 19-20 tuổi… nhưng đó chỉ là vài trường hợp, hoặc họ cực kỳ xuất sắc, hoặc cực kỳ may mắn, tôi thì tôi nghiêng về vế sau nhều hơn. Khi trẻ, lợi thế của bạn là sức khỏe, nhiệt huyết và sự liều lĩnh, nhưng điều đó không cam kết gì cả. Ở tuổi này, sự háo hức và nhiệt huyết của bạn cũng chính là hạn chế đầu tiên, bởi như một con thiêu thân, bạn lao vào ánh sáng vinh quang của sự nghiệp bất chấp mọi thứ, và cũng như con thiêu thân, bạn không đến được đích. Có thể bạn nghĩ rằng: tôi còn trẻ, tôi mạo hiểm chút, nếu thất bại thì coi như một bài học trường đời, vậy cũng tốt, nhưng nói trước, bài học này tốn kém lắm, nhất là niềm tin của bạn, tuổi trẻ là tuổi của tin yêu, tin vào cuộc đời, vào con người, mất niềm tin khó mà lấy lại được, và nửa đời về sau của bạn, dù có thành công đến đâu, cũng khó bù đắp lại niềm tin đã mất. Cá nhân tôi nghĩ rằng, nếu không thừa hưởng một một công việc kinh doanh của gia đình hoặc bỗng nhiên gặp một cơ hội kinh doanh hiếm hoi như nhật thực toàn phần, thì trước tuổi này bạn nên đi làm thuê, kiếm đủ tiền để đi du lịch bụi, đọc sách, sống trọn từng giây phút của tuổi trẻ và tình yêu, đừng vội, mơ ước không bị quá hạn đâu.

2. Khi bạn vẫn còn đi làm thuê: Có nhiều người mong muốn vẫn giữ một công việc, với thu nhập ổn định đủ bảo đảm cuộc sống nhưng vẫn muốn khởi sự một công ty riêng, kiểu chân trong chân ngoài, hai tay hai súng… điều này tôi khuyên là không nên, vì bạn sẽ thiếu tập trung, và hệ quả là cả hai việc đều dễ không thành công, giống như vừa ăn cơm vừa đánh cờ, cơm cũng mất ngon mà cờ thì đánh dở. Mười mấy năm đi làm thuê tôi từng toan tính đủ thứ chuyện, thực hiện không biết bao nhiêu dự án, nhiều lúc ban ngày ở công ty tối về làm suốt đêm, nhưng tôi sớm nhận ra mình không thể thành công với kiểu chân trong chân ngoài này. Khi làm thuê, bạn không chủ động về thời gian, nên nếu không có một người trợ thủ đắc lực, có chuyên môn và trách nhiệm tương đương với bạn hoặc hơn, để đảm nhiệm công ty cho bạn, thì đừng nên cố làm hai việc cùng lúc. Dĩ nhiên tôi không khuyên bạn hãy nghỉ việc trước khi bắt đầu, nhưng ít ra, một khi đã chạy, bạn chỉ có thể chạy trên một đường mà thôi.

3. Khi bạn được bạn bè rủ: hãy cân nhắc kỹ việc khởi nghiệp chỉ vì một lời rủ rê của bạn bè, dù đó là người bạn thân nhất. Đôi khi trà dư tửu hậu với nhau, vài người bạn này ra ý định kinh doanh, một nhà hàng hay quán café, một công ty kinh doanh sản phẩm mà cả nhóm cùng quan tâm hoặc từ một ý tưởng mà mọi người cho rằng nó thật xuất sắc. Người Việt khác người phương tây ở chỗ thiếu rạch ròi giữa tiền bạc và tình cảm, điều này đôi khi cũng tốt vì rạch ròi quá thì bạn bè khó thân thiết, luôn có khoảng cách, nhưng riêng trong việc hùn hạp kinh doanh thì nó hoàn toàn không tốt chút nào, kể cả khi mọi thứ thành công rực rỡ. Nếu bạn không phải là người khởi xướng đầu tiên, thì đừng làm người thứ hai, theo tôi từng biết thì những quan hệ từ việc khởi sự hùn hạp kiểu đó thường không bền, nếu bạn là người thứ hai trong cuộc tình đỗ vỡ này, thì có khi bạn vừa mất tiền vừa mất cả bạn bè. Tôi từng trải qua chuyện này, không phải vì thất bại mà chính việc nhận ra bạn bè ở một góc nhìn cơm áo đã làm tôi rất buồn, thậm chí một thời gian dài tôi chỉ đi chu du thiên hạ một mình cho nguôi ngoai.

4. Khi bạn không có những kiến thức cơ bản thuộc các lĩnh sau: quản trị, kế toán và tiếp thị. Đôi khi bạn rất giỏi về việc mình sẽ làm, ví dụ như bạn là một nhà hóa học và bạn muốn kinh doanh hóa chất, rất tốt, nhưng chưa đủ. Tôi gặp rất nhiều trường hợp này, những người giỏi thực sự cuối cùng phải đầu hàng, không hiểu vì sao mình thất bại. Cho dù tới đó bạn có đăng ký học mấy lớp ban đêm về quản trị hay bán hàng thì nó cũng không thực sự giúp ích nhiều nữa, bạn cần có nó trước, trước cả khi bạn nghĩ đến việc khởi nghiệp. Dĩ nhiên không nhất thiết phải có bằng cấp trong những lĩnh vực này, chỉ cần bạn tự học và áp dụng những thứ đã học vào trong công việc hằng ngày, trong những thông tin kinh tế, tập quan sát và rút ra bài học cho mình. Cả ba thứ kiến thức trên, nếu chịu khó học hỏi thì bạn cũng có thể vừa làm vừa học, nhưng tốt nhất nên có nó trước khi bắt đầu, bởi nếu không, những kế hoạch kinh doanh của bạn ngay từ đầu đã sai be bét rồi, khó mà sửa chữa được.

5. Khi bạn chưa đủ quyết tâm: à, cái này mơ hồ lắm, hơi thuộc về tính cách. Bạn nghĩ, bạn muốn là một chuyện, nhưng quyết tâm theo đuổi đến cùng thì là chuyện hoàn toàn khác. Tôi gặp không ít người, lúc khởi sự rất quyết tâm, rất máu lửa, nhưng đến khi có vài khó khăn là bỏ cuộc, đôi khi tự dưng bỏ cuộc chỉ vì không hứng thú nữa, đôi khi bỏ cuộc chỉ vì vài lời ca thán của gia đình, của bạn bè, đôi khi bỏ cuộc vì nghĩ rằng mình không gặp thời. Cũng có khi, ban đầu, bạn tô vẽ kế hoạch của mình sặc sỡ quá, đến khi thực tế không được như mong muốn, đã làm bạn nản lòng. Hãy xác định, con đường bạn chọn trước mắt không dễ dàng, không có con đường nào dễ dàng, và bạn không còn bước đi với tâm thế một người làm công ăn lương nữa, không thực nghiệm, không nghệ sĩ gì nữa, bạn đang ra trận, bạn đang chiến đấu, bạn đang chạy đua… hãy dẹp bỏ những mơ mộng và xắn tay áo lên. Đừng nhìn biển theo cách một du khách nằm trên bãi cát trắng và nhâm nhi café, hãy nhìn biển bằng con mắt dạn dày sóng gió của một ngư ông. Tôi thích một câu của tổng thống Putin, trích trong hồi ký của ông lúc còn huấn luyện sĩ quan KGB: “nếu chưa muốn bắn, thì đừng rút súng khỏi bao”

Hình: không liên qua, anh này, cùng với hàng chục người khác câu cá ở sông Taungthamna, Mandalay, Myanmar, họ lội ra sông, ngâm mình trong nước ngập đến tận ngực và dùng cần tre câu, số cá này anh ta câu trong hai giờ buổi chiều, nhiều người không hiểu tại sao có cách câu kỳ lạ đó, nhưng tôi là dân câu tôi biết, đó gọi là câu ổ, thả câu đúng chỗ con cá ở chớ không phải thả mồi chờ con cá tới
 — with Mèo Đen

có thể bạn đã biết là một tô phở/bún/hủ tíu/mì gói có lượng calo là 400~600, nhưng làm sao để tiêu hao hết số calo đó thì tham khảo bảng tính sau (nguồn: webthehinh)

ví dụ: cần chạy bộ tốc độ 8km/h trong vòng 1 giờ liền để tiêu hao... 1 tô mì Hảo Hảo. Ăn một thanh chocolate xong thì chổng khu đạp xe 1 giờ mới bảo đảm không béo, nha

Chín Tú 

Chín Tú, tên Tú thứ chín, vốn là nông dân làm vườn ở miệt Cái Chanh. Cái Chanh nằm giáp ranh giữa Cần Thơ và Hậu Giang, nhưng thuộc đất Cần Thơ. Cái Chanh không có ruộng, hầu như chỉ có vườn, vườn nối tiếp vườn, nhiều vườn trồng cây cau vua, thứ cây cau kiểng gốc to, thân cao, tán rộng, bán rất được giá nên nhà vườn cũng khá giả, nhà Chín Tú cũng có trồng cau vua. Con lộ từ chợ Cái Chanh chạy dài vô cầu sắt Chữ Y đẹp như mơ, một bên là con rạch cái Chanh chảy êm êm, một bên là dãy nhà vườn xanh um, hay bên đường lộ nổi bật với hai hàng cau vua dễ đến mấy trăm cây cao chót vót, chạy dài dài... ai đến đây cũng phải thốt lên, trời ơi, quê thôi mà, có cần đẹp dữ vậy hôn

ngoài vườn tược, Chín Tú rất thích karaoke, chỉ khó một điều là Chín Tú không hề biết chữ. Để đi ca karaoke, Chín Tú phải học thuộc rất nhiều bài tủ, hoặc lúc đã ngà ngà say thì nhờ một vài bạn bè thân thiết đọc chữ cho mình ca, bạn bè biết tánh, giúp đỡ cũng nhiều. Chín Tú, ngoài chuyện không đọc chạy mặt chữ thì rất được, tánh tình phóng khoáng, có hiếu với mẹ già, đối đãi với xóm riềng, bạn bè rất mực hết lòng, bình thường cũng siêng năng làm lụng, ai ai cũng quí mến.

có một chuyện về Chín Tú mà tới cầu sắt chữ Y hỏi chắc là người ta sẽ kể, số là cách đây hai năm, Chín Tú trúng độc đắc. Bình thường Chín Tú cũng không mấy khi mua vé số, mà bữa đó đi cafe thằng nhỏ bán vé số cứ nhét đại hai tờ vô túi, thấy tội nên mua luôn, ai ngờ hai tờ đó chiều vô luôn độc đắc, trừ thuế hình như còn hai tỉ bảy.

chuyện là cái cách Chín Tú xài tiền trúng số, ngoại trừ việc cất cho mẹ già từ nhà lá lên căn nhà tường hết mấy chục triệu và mua cho mình một cái iphone, còn lại có bi nhiêu tiền trúng số Chín Tú đem cho hết, cho bạn bè, xóm riềng, anh em... tùy theo thân hay sơ, thấy ai nghèo khổ là Chín Tú cho tiền, người ít cũng 1~2 triệu, người nhiều được 15~20 triệu, cho bằng hết.

nhiều người nói Chín Tú bị khùng, hay chơi ngông, nhưng cũng có nhiều người nói hổng phải, bị tánh Chín Tú hào sảng vậy đó, người miền tây gộc nó vậy đó, chưa từng coi trọng tiền bạc, sống chỉ biết tình nghĩa thôi. Ai có hỏi thì Chín Tú cười, nói, là lộc Trời mà, chia nhau mỗi người một chút, vậy mới bền chớ.

hôm rồi, đi đám cưới ở Cái Chanh, ngồi uống rượu với Chín Tú, rượu say, Chín Tú lại ca, bữa nay bày đặt ca bài Anh Ba Khía, hổng biết chữ nên ca chữ trúng chữ trật "... anh Ba Khía, quê ở miền tây, cuộc sống lâu nay đơn sơ mà chan chứa, chất phát thật thà bao kẻ mến người thương... ơ ơ.." , trong đám ai cũng cười. Cười vậy chớ ai cũng thương, cái thằng, đúng dân miền tây, hổng biết chữ nên khờ hết biết.

(hình không liên quan: Cây Sung Thái, mới thấy, ở Rạch Cái Chanh)\



chuyện tình Bé Sáu “Te”

"...
tui tên Bé Sáu, không phải tên thứ đâu, tên thiệt đó, tên giấy luôn đó, Trần Văn Bé Sáu, còn gọi là Bé Sáu “te”, “te” là một động tác trong nhảy đầm, động tác kết thúc, bị tui mê nhảy đầm lắm, mê từ trẻ tới giờ, năm nay tui sáu lăm rồi, sáu lăm mà chú thấy tui trẻ hôn, nhờ nhảy đầm đó, giờ đêm nào cũng cũng phải nhảy đầm ít nhứt hai tiếng mới ngủ ngon nha. Quê tui dưới Long Hồ, ba má tui sanh tui ở dưới, dưới quê mà, làm biếng đặt tên con nên kêu Bé cho nó gọn, Bé Hai, Bé Ba, Bé Tư… tới Bé Mười Hai thì hết đạn, trai thì thêm chữ Văn, gái thì thêm chữ Thị, vậy luôn, mà tui thấy tên vậy cũng êm, đúng hông chú, quá êm luôn. Tui biết vậy thôi, chớ Long Hồ tui cũng ít về, chủ yếu có đám giỗ gì lớn dữ lắm mới về, còn nhỏ lớn tui sống ở Sài Gòn, chỉ biết Sài Gòn thôi.

nói lại chuyện mê nhảy đầm, tui nói thiệt lòng, cả đời tui chỉ mê có duy nhứt thứ đó, cơm không cần no, áo không cần đẹp, chớ mà nhảy đầm là phải có. Trước bảy lăm tôi có học nhiều thầy, rồi cũng đứng lớp nữa, sau bảy lăm thì lấy vợ, rồi kinh tế khó khăn nên có gián đoạn một thời gian, mà thời đó nhảy đầm còn bị cấm, nên chủ yếu hai vợ chồng vô phòng đóng cửa, mở cái băng nhạc cũ, tiếng nhỏ thiệt nhỏ, rồi dìu nhau mấy bản êm êm cho đỡ buồn, đỡ lụt nghề. Tui với bà xã cũng quen nhau trên vũ trường, rồi mê nhau quá, nhảy riết nhảy vô đám cưới luôn. Bả nhảy đẹp, phải nói là nhứt xứ nam kỳ nầy, tụi Mỹ mà còn mê, vậy mà hổng hiểu sao bả mê tui mới chết chứ. Hai đứa làm đàm cưới có đúng năm mâm, mười bốn khách còn nhiêu họ hàng cô bác thôi. Bả lớn hơn tui hai tuổi, cao hơn chút đỉnh, người đẹp người đẹp tánh quá, hiếm hoi trên đời đó chú em.

mà giờ ít người mê nhảy đầm, ờ, giờ kêu bằng khiêu vũ đó hén, chớ thời tui là hầu như ai cũng mê. Đó là thứ văn minh nhứt mà người tây âu họ phát minh ra, phương đông mình hổng có, mà có cũng chỉ là nhảy cà na xí muội, nhảy đình nhảy đám gì chớ hổng giống kiểu nhảy đầm phương tây. Nhảy đầm, đó là âm nhạc, là thể thao, là múa, là tôn giáo, là tình yêu… là thứ lễ hội thăng hoa nhứt của đờn ông và đờn bà, với nhau. Nhảy đầm là thứ duy nhứt theo tui, có thể kết nối được thể xác với đầy đủ các giác quan và tâm hồn con người, tâm hồn đẹp trong một cơ thể đẹp. Tui chưa thấy ai mê nhảy đầm mà xấu tánh, hoặc có cơ thể xấu hết, tui thiệt. Thời đó bạn bè chỉ nhau, chỉ cần vài đứa tụ họp với cái máy hát là chơi được, là chìm đắm trong các điệu nhảy, quên bom quên đạn, quên thù quên hận, là thấy cuộc đời thiệt đẹp, thiệt du dương và bay bổng. Sau này cấm cái cụt hứng, anh em bỏ hết trơn, chỉ còn tui vẫn lui cui giữ nghề, rồi dạy nghề. Giờ dạy thì tùy, điệu khó năm trăm, điệu dễ ba trăm, mà có người dạy cả tháng mới rành một điệu, dạy bị mình mê, mình muốn nhiều người biết thôi, chớ tiền kiếm được không đủ tiền café nữa chú à.

...

vợ trước tui hả, chú hỏi bà hồi nãy tui kể đó hả, bả chết rồi, còn bà giờ thì cũng vậy, cũng mê nhảy đầm, cũng đẹp người đẹp tánh. Mà chú tin không, bà vợ trước đi hỏi cưới bà vợ này cho tui đó, tin nổi không. Chuyện là vầy, hồi đó, hồi năm tám mươi, nhà có chiếc xe máy honda, tui với bà vợ đầu, kêu bà Hai đó, mới đi mua chỗ này bán chỗ kia kiếm sống, nói đại theo chữ hồi đó là đi buôn. Tui thì hổng thích lắm mà bị khó quá, rồi bà Hai bả buôn bán cũng khéo, cũng có dư đồng ra đồng vô, nên thôi đi đại.

bữa đó gấp quá, tui chở bà Hai mới bị té, bả bị cái xe sau nó trờ tới, cán qua cái cái giò, đem vô bịnh viện cưa mất từ trên đầu gối trở xuống. Thương bà Hai quá nên tui mới để bả ở nhà, rồi một mình ra chạy xe ôm, kiếm tiền thuốc thang cho bả. Lúc đó tui còn không dám mở nhạc chớ đừng nói là đi nhảy đầm, chú biết rồi đó, dân nhảy đầm mà bị cụt giò thì thà chết còn sướng hơn. Mà lúc đó tụi tui chưa có con, rồi sau này cũng hổng có với Bà Hai.

...
sau đó tui có xuống Rạch Giá mần ăn, ghiền quá nên cũng có mở lớp dạy nhảy đầm cho mấy chị em trong xóm, cũng mở lén lút sau nhà của một bà chị nọ thôi. Trong đám học trò có cô đó, tên cô Ba, cô Ba sáng dạ học mau lắm, nhảy cũng đẹp mà tánh tình hiền lành lắm, lúc đó cô Ba đâu chừng mười tám mười chín tuổi. Bữa đó Bà Hai mới kêu tui chở tới chỗ nhảy đầm, kêu cho bả ngồi coi đỡ buồn, chiều ý bả nên tui cũng chở tới. Bà Hai ngồi coi một đỗi, cười tươi lắm, còn nhắc mấy cô, nói cô này lắc hông sao cho khéo, cô kia hất cái đầu gọn quá hén… nói chung là thấy bả vui tui cũng mừng.

tối về, ngồi ăn cơm bà Hai mới hỏi, mình à, mình thấy cô Ba sao? Mình có ưng cổ hông? Tui nghe vậy chết đứng, ráng vớt vát dỗ dành, nói vợ chồng mà mình hỏi kỳ vậy, tui chỉ thương mình thôi, mình đừng nói vậy tội tui, mình. Bà Hai cười lớn, mình thương tui tui biết, nhưng mà vợ chồng phải đồng điệu, giờ tui không khiêu vũ được với mình, tui cũng hổng chắc sanh đẻ được nữa, tui què chưn, không phụng dưỡng được mình mà còn phiền mình chăm sóc, coi như bổn phận làm vợ tui hổng được chút nào. Giờ tui tính thiệt vầy, nếu mình ưng cô Ba đó, tui đi hỏi cưới cổ cho mình, được không, tui hứa không ghen tuông chi hết, chị em hòa thuận, nếu tui không giữ lời mình cứ đuổi tui đi.

tui nghe tới đó tui khóc luôn chú em, không ngờ vợ tui tốt tánh quá, nghĩ cũng thương vợ mà cũng thương mình, tui nhứt quyết hổng chịu. Vậy mà bà Hai bả thủ thỉ riết, rồi bả tự kêu cô Ba ra nói chuyện sao đó, cô Ba cũng ưng, vậy là đám cưới luôn, đãi ở Rạch Giá. Đám cưới vui lắm, nhảy đầm tưng bừng luôn, ba má tui không dự, chỉ có bà Hai với mấy anh chị tui làm đại diện đàng trai, nhà cô Ba cũng không có cha mẹ, do cô Ba cổ mồ côi, cũng chỉ có mấy anh chị đi họ.

sau bữa đó thì tụi tui quay lên Sài Gòn sống, bà Hai giữ lời, không nặng nhẹ cô Ba câu nào. Chú đừng cười, hồi xưa đàn ông hai vợ là chuyện thường, nhưng thường người ta giàu có mới hai ba vợ, tui nghèo mà cũng hai vợ, mà bà nào cũng đẹp mới ác chớ. Rồi cô Ba sanh liền liền, bốn đứa, ba gái một trai. Hai đứa gái giờ theo chồng qua Mỹ, một đứa lấy chồng ở Úc, còn thằng út giờ ở với tụi tui.

tiếc cái là tụi nhỏ giờ hổng có đứa nào mê nhảy đầm như cha mẹ nó. Bà Hai sống với tụi tui thêm mười mấy năm, lúc đám nhỏ lơn lớn chút thì bả chết, bịnh chết thôi. Mấy đứa nhỏ kêu bằng Má Hai đó, thương lắm, mấy đứa con gái tui đó, má Ba tụi nó nói nhiều khi nó còn cãi chớ má Hai nó kêu cái là răm rắp, thấy tụi nhỏ thương má Hai nó tui cũng mừng. Nhiều bữa ngồi riêng với bả, tui hỏi, mình có vui không? Bà cười, vui chứ mình, vui lắm, mình vui là tui vui nhứt. Đám ma của bà Hai lớn lắm, đám con tui khóc, hai vợ chồng tui khóc, anh chị em tui về khóc, hàng xóm láng giềng cũng xúm khóc, khóc động trời luôn.

giờ đám con tui ở nước ngoài, nhiều lúc Tết nó cũng hổng về, nhưng mà đám giỗ bà Hai là về đủ nha chú, về nấu bữa cơm, gia đình con cháu ngồi xúm xít, quây quần với nhau, nghĩ chắc bà Hai ở trển bả thấy cảnh nầy chắc bả vui, bả vui thì tui mới vui. Bởi tui nói, chưa thấy ai mê nhảy đầm mà xấu tánh, tui nói phải hông chú?


dù đã post rồi, nhưng mấy bạn vẫn inbox hỏi về ý nghĩa của cái tựa "Sài Gòn, bao nhớ..." vì thích, vì tò mò, vì muốn thiết kế bìa cho hợp... nên post lại, ai coi rồi bỏ qua hén

Sài Gòn, bao nhớ...

lần đầu tôi đến Sài Gòn, năm 91, tất nhiên có hàng ngàn thứ lạ lẫm, một trong đó là chữ “bao”. Đầu tiên là gặp vựa trái cây, quận Tám bộn, có lẽ do ngay bến ghe thương hồ từ miền tây lên nên trái cây ngon, trái cây bao ăn. Tôi ghé vô hỏi thẳng, bao ăn là sao chú. Ông lão, tay chụp thơm ném dưới ghe lên thoăn thoắt, miệng ngậm thuốc rê, trả lời gọn lỏn, ăn thoải mái, thích thì mua không thích đừng. Vậy là ghé thử liền, chôm chôm Vĩnh Long trái đỏ lựng, lột ăn thoái mái, sầu riêng tách vỏ sẵn, muốn ăn lấy tay xé ăn, măng cụt có con dao thái cắm miệng cần xé, ăn trái nào hớt đầu trái đó… Ăn xong, đã nư rồi mua mỗi thứ một ít, làm quà, cân 3 ký chôm chôm xong chị bán hàng còn bốc thêm vài bốc bỏ vô, một chục măng cụt tính 14 trái, mua trái sầu riêng được tặng luôn trái hồi nãy mới thử.

lần nữa là chuyện bao rẻ, là chỗ bán đồ sida đường Nguyễn Đinh Chiểu, tôi mua cái áo jeans, chị bán áo nói đồ ở đây bao rẻ, đi đâu rẻ hơn lại đây chị đền, mua bận xong đi đi lững thững xuống cuối dãy, thấy cái áo y chang, hỏi ra giá rẻ hơn, tôi thiệt tình quay lại bắt đền. Chị bán hàng cũng thanh minh thanh nga, nói đồ cũ, tùm lum giá, nhưng mà đã bao rẻ thì chị tặng thêm cái nón jeans cho đủ bộ, lỗ của chị hai chục rồi nha. Vậy là vui lòng liền.

xưa thời sinh viên, tôi sống thoải mái nhờ mấy quán chuyên bao thiếu, thiếu thoải mái, không cần cầm cố, không cần danh tánh, không cần ai bão lãnh. Cơm có chị Phượng, café có quán Ngọc, nhậu có quán anh Tiên, ngày nào cũng một cữ cơm, một cữ café và một cữ nhậu. Không tiền cũng cứ vào quán, kêu những món quen thuộc, xong cứ đứng lên đi, đưa tay làm dấu trên không như chữ ký, rồi ra về, tiền bạc cuối tháng có tiền thì trả, không có hai ba tháng trả, nhiều đứa ra trường đi làm cả năm rồi mới quay lại trả, bình thường, người ta bao thiếu thì mình bao trả, không so đo.

có lần tôi đánh nhau với giang hồ ở Thủ Đức, hai bên đánh xáp la cà, ném không biết bao nhiêu là ly chai, đánh xong đi về, băng giang hồ kia quay lại gặp chủ quán, bao nhiêu ly chai bàn ghế bị bể cứ nói một tiếng, đền đầy đủ. Lần khác tôi uống rượu với giang hồ bến xe Chợ Lớn, uống từ trưa, đến tối thì hết mồi, một anh trong bọn nói bữa nay ở nhà bà già nấu món gì đó, lâu quá tôi quên, để tao chạy về xin bả, nói đoạn ra dựng chiếc cối, chắc là có độ lại, rồ ga quay xe xẹt lửa, lao đi. Chẳng may màn biểu diễn xe không chuẩn lúc đã say, anh chàng bốc đầu quá chớn, xe quăng tới trước người rớt lại, chiếc xe quăng tới đụng vô một cái tủ thuốc, bể miếng kiếng, văng thuốc lá tùm lum. Chị bán thuốc chửi anh giang hồ, lúc này đang đau đớn lồm cồm dậy dắt xe, chửi té tát. Anh chàng đó, tôi nhớ là ở trần, người ngợm xăm vằn vện, thẹo thọ, nhăn nhở cười xin lỗi chị bán thuốc nọ rối rít, nói, thôi bà làm gì dữ vại, đừng chửi nữa, bao nhiêu tui đền, tui đền. Sau nhậu lại, mình nói anh chơi hay quá, ảnh nói, giang hồ với nhau chớ không giang hồ với người ta, mình sai phải xin lỗi, phải đền chớ, ui, nói nghe, dân Sài Gòn chơi bao đẹp, không đẹp không ăn tiền nha.

Sài Gòn đúng nghĩa buôn bán là vậy, xưa vậy, giờ hao mòn nhiều nhưng nếu gặp đúng người Sài Gòn, người miền tây thì vẫn còn. Trái cây bao ăn, bao ngọt, đồ ăn bao rẻ, quần áo bao đẹp, đậu xe bao trật tự, đi nhậu bao say, chơi bao vui, quán xá bao thiếu, hàng hóa bao thử, bao đổi, bao trả, kể cả tivi đầu máy điện thoại, mua rồi không ưng cũng bao trả lại luôn… “bao”, nghĩa là cam kết miệng rằng bạn phải hài lòng với cái mà bạn nhận được, bao hài lòng, cái chữ bao đơn giản nghe như chơi rồi bỏ, nhưng nó là cam kết nghiêm túc và hào hiệp, rất riêng, của người miền nam. Nhiều người buôn bán sau này từ nơi khác tới, học đòi chữ "bao" nhưng khó thực hiện, bởi muốn, phải thiệt lòng, thiệt tình, bởi không có luật nào bắt buộc phải “bao”, chỉ có thứ luật mơ hồ di truyền đâu đó từ những ngày khẩn hoang mở cõi, thời con người tin nhau, sống phải với nhau, tới bây giờ.

bởi, tôi sống ở Sài Gòn hơn hai chục năm, tôi dám nói, Sài Gòn bao nhớ nha. Ai từng sống ở Sài Gòn, dù ghét dù yêu, dù đã ra đi tìm miền đất hứa hay quay về cố xứ sinh nhai, đều nhớ Sài Gòn, ai từng một ngày một bữa ở Sài Gòn, ăn dĩa cơm tấm tô hủ tíu bụi bặm, đi xe ôm lang bạt, ngủ nhà trọ bến xe… đều sẽ nhớ Sài Gòn, nhớ cái ồn ào bụi bặm, nhớ một mảng đời lộn xộn ngược xuôi, mạnh ai nấy sống nhưng yên tâm là ai cũng sống được, dù rất khác lạ, nhưng cũng rất thân quen, rất nhớ.

như tôi, mỗi ngày, tôi đều nhớ Sài Gòn. Sài Gòn bao nhớ mà.

(à quên, lần trước có bạn hỏi cái hình này nghĩa là gì, nó là cái quán cafe bự nhứt, đẹp nhứt và sang chảnh nhứt ở trung tâm thành phố, cuối tuần ra trễ không có chỗ đâu nha)



Tình nghĩa Gò Quao

Tư Thân, dĩ nhiên là tuổi Thân, tuổi con khỉ, vốn là bộ đội ra quân, về nhà lấy vợ. Tư Thân quê tuốt miệt dưới, xứ Gò Quao nghèo khổ ruộng phèn nước mặn, dù mấy năm quân ngũ cộng với tánh siêng năng sẵn có nhưng hai vợ chồng mới cưới quay đi quay lại với đủ thứ nghề và mấy công ruộng ở quê vẫn không khá nổi. Lúc thằng Hai ra đời nó cứ đau bịnh riết, hai vợ chồng Tư Thân mới mang nó lên Sài Gòn chữa trị, thuốc thang hết tháng lại năm, chỉ cầu thằng nhỏ khỏe mạnh mà về. Trong lúc chị vợ trong bịnh viện chăm thằng nhỏ thì Tư Thân chạy tới chạy lui, mua cái này cái kia giùm các nhà khác, cũng nuôi bịnh ở đó, mới đầu là sẵn tiện giúp người ta thôi, rồi được người ta cho vài đồng lẻ, gom ngày cũng kha khá, thấy vậy Tư Thân mới làm mạnh hơn, gần như trở thành một đầu mối mua bán hàng, lấy thuốc, đóng tiền… vừa là giúp đỡ mọi người, mà mình cũng kiếm ít bạc lẻ.

thằng Hai ra viện nhưng chưa khỏi hẳn, bác sĩ hẹn tái khám, Tư Thân bèn bàn với vợ, mình ra thuê cái nhà trọ coi chừng thằng Hai, tui về nhà kiếm ít vốn lận lưng, coi bộ trên Sài Gòn mua bán dễ sống hơn dưới quê, mình à. Vậy là làm liền. Lúc này tánh lanh lợi, chịu khó, dễ thương của Tư Thân mới phát huy, mua thiếu, được giá, bán hết hàng liền liền, tất nhiên gia tài cũng chỉ là trái dừa lạnh, vài gói mèo, đôi chai nước… bỏ trong cái thùng xốp, bán quanh cổng bịnh viện hoặc đi chỗ này chỗ nọ, tùy có sự kiện, hay chỗ nào đông người là Tư Thân tới bán. Mới đầu ngày kiếm ba chục, rồi kiếm năm bảy chục, bữa nào hên kiếm một hai trăm, hàng hóa nhiều dần, rồi một cái thùng xốp không đủ thành ra hai cái, Tư Thân mới kiếm cái đòn gánh, gánh luôn hàng của mình hai đầu, ai mua gì bán đó, thậm chí muốn có bữa nhậu dã chiến với bia lạnh, nem chua với tương ớt, Tư Thân cũng có luôn.

ba năm ròng rã mua bán, vợ chồng Tư Thân mới thuê được cái phòng trọ đàng hoàng, tháng triệu bạc, sắm sửa được tivi, tủ lạnh, bếp núc đầy đủ, thằng Hai khỏe mạnh hẳn, lúc này đi học mẫu giáo nên vợ Tư Thân mới đi làm giúp việc nhà cho người ta, làm theo giờ, ngày hai ca, cũng kiếm ba bốn triệu một tháng, còn được nhà chủ thương, cho cái này cái nọ. Cuộc sống gia đình sáng sủa dần, tháng tháng còn gửi về quê cho cha mẹ được năm ba trăm làm quà, Lễ Tết vợ chồng khính nính đồ đạc, rạng rỡ dắt díu nhau về quê, tuốt miệt Gò Quao, cũng bảnh như ai.

...
bữa đó Tư Thân đi bán tới trưa thì cũng mệt, mới vô ngồi bóng cây nghỉ, lấy cơm vợ ra ăn, thì có một ông khách nọ cũng đi bộ, ghé lại mua chai nước, rồi xin phép ngồi kế bên uống, ông khách sang trọng quá nên Tư Thân cũng ngại, hổng dám nói chuyện, chỉ cúi mặt ăn cơm, hỏi gì trả lời nấy. Lúc người khách hỏi, chú quê đâu, Tư Thân thiệt thà nói em quê Kiên Giang, hỏi tới nữa, Kiên Giang khúc nào, mới nói Gò Quao, người khách lạ im lặng một hồi, rồi giựt mình, nói, tui cũng quê Gò Quao nè. Vậy là Tư Thân mừng rơn, bỏ cơm, mới quay qua nói chuyện, hỏi thăm nhà cửa, dòng họ, thì ra cũng cùng một xã, bên đầu kinh xáng bên ngay khúc giữa, tuy không biết nhau nhưng cũng biết tới ông thầy Hai y tá chích thuốc dạo, ông Bảy thiến heo, bến đò kinh tây hồi xưa có con nhỏ đưa đò đẹp hết biết… chuyện mãi không dứt.

Tư Thân thấy cũng vui, như gặp bà con xa ở Sài Gòn, mới rủ ông khách nọ làm vài lon bia, hai người ngồi dưới cái bệ xi măng sát gốc cây, bày bia lạnh ra uống, lúc này mới thiệt thà hỏi thăm ông khách nọ, ổng nói thôi kêu ổng là anh Ba đi, mười mấy năm rồi ổng không về quê, sống ở nước ngoài, là Việt Kiều, thỉnh thoảng có về Việt Nam chỉ ghé Sài Gòn một bữa rồi đi. Làm đâu hai lon bia thì chia tay, anh Ba phải về đi mần còn Tư Thân đi bán tiếp, anh Ba đòi trả tiền mà Tư Thân nhứt quyết hổng lấy, bà con cùng quê, gặp nhau mừng hết lớn, cho tui đãi lon bia cho mát dạ tui mà anh Ba. Anh Ba mới xin số điện thoại, nói bữa nào gọi, làm sâu sâu hơn chút, đặng kể chuyện Gò Quao cho anh Ba nghe, cho đã.

...
bữa khác, đâu chừng mấy tháng sau thì có số điện thoại anh Ba gọi Tư Thân, mà hổng phải anh Ba gọi, là người khác, nói anh Ba bị tai biến, té trong khách sạn ở Sài Gòn, người ta lấy số điện thoại anh Ba để gọi cho người thân mà thấy toàn tên nước ngoài, có đầu danh bạ là Tư Thân, số 4 Thân LoveGQ, tưởng đâu bạn gái nên mới gọi. Tư Thân lật đật gánh đồ vô bịnh viện thăm, bịnh viên kêu đóng tám trăm ngàn Tư Thân cũng đóng, hỏi bà con sao Tư Thân nói ông đó là anh Ba tui, thực ra anh Ba tên chữ là Henry Nguyễn. Được đâu hai bữa thì anh Ba tỉnh, nhưng còn yếu, cảm ơn Tư Thân nhiều lắm, lúc này mới báo công ty, rồi thu xếp giấy tờ, xin chuyển qua bịnh viện sang trọng hơn, tuốt bên quận 7, hỏi anh Ba có thân nhân nào khác không, anh Ba lắc đầu, thôi có chú Tư đây được rồi.

chỗ mới xa quá, Tư Thân đi bộ qua không nổi, sẵn có vợ đang làm mướn bên đó, mới kêu vợ, nói mình tranh thủ ra vô chăm anh Ba, ảnh ở một mình chắc buồn mà sanh bịnh, cuối ngày Tư Thân đi xe buýt dẫn thằng Hai qua chơi, nói chuyện với bác Ba, thằng nhỏ biết gì đâu, gặp bác Ba mừng rơn, kể chuyện này chuyện nọ, rôm rả lắm. Anh Ba nói với Tư Thân, vợ chồng chú tốt quá, gặp nhau qua đường mà cần chi tử tế vậy. Tư Thân cười nhe hàm răng trắng trên gương mặt đen sạm, bậy nà anh Ba, mình cùng dân Gò Quao chớ có phải qua đường. Lúc mọi người về hết, anh Ba nằm ngó ra cửa sổ, nước mắt chảy dài.

chừng tháng sau thì anh Ba về nước, trước khi đi, anh Ba mới kêu Tư Thân tới, cho ít tiền, nói ít chứ thực ra một ngàn đô đối với nhà Tư Thân là cả gia tài. Nhưng Tư Thân không lấy, nhứt quyết không lấy, nói anh Ba khi dễ tụi em quá, ai làm vậy kỳ lắm, nhứt quyết không lấy nha. Rồi sau vợ chồng tiễn anh Ba về, còn chống gậy nhưng cũng tự đi ra sân bay được, thằng Hai nhỏ xíu mới quấn bác Ba được mấy bữa, giờ nghe bác Ba đi thì nó khóc thiệt tình, làm bác Ba nó cũng chảy nước mắt theo.

...
mấy tháng sau có một người gọi điện cho Tư Thân, tự xưng là vợ của Henry Nguyễn, Tư Thân quên mất, hổng nhớ Henry nào, thì ra là anh Ba Gò Quao mình chớ ai, mới hay anh Ba mất rồi. Anh Ba có bịnh cũng lâu, rồi bị té nên bịnh trở nặng, về nhà được mấy tháng thì không qua khỏi. Anh Ba không con cái, hậu sự đã lo xong, giờ muốn đem cốt của mình về đặt ở Gò Quao, nhắn lại là chuyện này phải nhờ Tư Thân lo. Tư Thân, như thường lệ bản tánh, làm liền chớ đắn đo gì. Lúc nhận cốt của anh Ba, mới thấy có lá thơ gửi cho Tư Thân, đại khái cảm kích cái tình nghĩa Gò Quao, của Tư Thân, và dặn đem cốt mình đặt ở đâu, gặp ai, làm vầy làm vầy…

...
lúc luật sư kêu Tư Thân ra lãnh một trăm ngàn đô của anh Ba để lại cho mình, Tư Thân còn không biết nó trị giá bao nhiêu, một trăm ngàn đô là cỡ hai tỉ mấy, anh luật sư mặc đồ măng sết với cà vạt đỏ nói với Tư Thân vậy, làm hai vợ chồng bật ngửa, cũng không biết hai tỉ mấy là nhiều cỡ nào, hả mình, Tư Thân hỏi vợ. Chị Tư cười hiền lành, làm sao nhiều bằng cái tình nghĩa của mình, mình sống buôn bán cái tình nghĩa đó, thứ tình nghĩa xứ Gò Quao, lời quá.

...(Bài đăng Người Đô Thị - SỐ T11-2014, post theo yêu cầu bạn đọc)



trích bài “Chuyến đi cuối cùng của chị Phụng“ của tác giả Lê Hồng Lâm:

...
Với “Chuyến đi cuối cùng của chị Phụng“, nữ đạo diễn Nguyễn Thị Thắm đã mất 5 năm cho dự án này. Tất nhiên thời gian quay phim chỉ chiếm một phần, thời gian còn lại là vật vã dựng phim (từ 70 giờ quay rút lại còn 86 phút), là bế tắc và áp lực vì kinh phí khiến bộ phim phải nằm đắp chiếu đợi, là stress thậm chí trầm cảm khi 2 nhân vật chính qua đời vì HIV khi bộ phim chưa hoàn thành trong khi họ khao khát được xem hình ảnh của mình trên phim… Có lẽ tâm trạng bế tắc thậm chí tuyệt vọng muốn bỏ cuộc của những người làm nghệ thuật, đặc biệt là những người hoạt động “underground”, những người làm phim độc lập thì mình không lạ. Thậm chí khi vượt qua được những khó khăn và bế tắc, tác phẩm của họ cũng gặp rất nhiều khó khăn để đến với công chúng chứ chưa nói thu hồi lại vốn hay giành được một vài vinh quang nào đó. Mình luôn nói điện ảnh là một cuộc chơi nghiệt ngã là thế.

Nhưng tất nhiên, trong số đó vẫn có những người vượt lên, vẫn có những người thành công giữa hàng chục người thất bại. Xem phim của Thắm mới thấy, chỉ có sự dấn thân, nhiều tháng trời lăn lộn ăn ở và sống cùng những thành viên trong đoàn lô tô của chị Phụng, lê la từ tỉnh thành này qua tỉnh thành khác không khác gì một thành viên trong đoàn, Thắm mới ghi lại được những chi tiết đắt giá đến thế, những lời thoại vừa chân chất vừa gan ruột đến thế. Gần như không có một vỏ bọc nào cần phải che giấu, không có một sự đề phòng nào, họ chia sẻ những câu chuyện của cuộc đời họ, chấp nhận sự miệt thị của người đời (tự gọi mình là bê đê bóng gió), chấp nhận thân phận của mình như một ‘kiếp nạn”, một nghiệp chướng (karma) phải trả nợ cho kiếp trước.

35 con người, đa phần là người đồng tính, dưới sự dẫn dắt của chị Phụng, một người đồng tính nam lớn tuổi, lang bạt qua những tỉnh thành nghèo của miền Trung Việt Nam chạy suốt về tận đất Mũi Cà Mau. Ban ngày, họ sống vật vờ tạm bợ trong những căn nhà tạm, tối đến đắp lên người đủ thứ áo sống xanh đỏ, kim sa hột lựu lấp lánh, đắp lên mặt những thứ mỹ phẩm rẻ tiền rồi làm trò mua vui cho những người dân nghèo ở một vùng ven nào đó, một làng chài nghèo xơ xác nào đó. Làng này hết khách, họ lại chất vật dụng lên xe tải, đi qua một làng ở một tỉnh thành khác ngay trong đêm tối. Số tiền họ thu được mỗi đêm chả được là bao, lại phải đối mặt với thanh niên địa phương đến xin đểu, không cho thì chúng nó kéo đến đánh đập, đốt phá tài sản, rồi thì chung chi, trả tiền ăn nhậu cho bảo kê, cảnh sát địa phương… Số tiền nợ của chị Phụng để duy trì đoàn lô tô lên đến 200 triệu đồng, mỗi tháng trả góp 2 triệu, chị nói đùa “đến khi người ta chết (tức chủ nợ) chết, chắc mình vẫn chưa trả hết tiền”.

Dù vậy, xem phim của Thắm, không thấy bi lụy, không thấy thương vay khóc mướn, cũng không “tận dụng” đề tài này như một lợi thế. Thậm chí, những câu thoại bật lên trong những tình thế cám cảnh, bi đát khiến người xem bật cười. Có thể họ sống quá lâu trong sự khốn khổ, trong niềm tuyệt vọng nên đành phải xem nó như một trò cười của số phận, hay họ chưa biết sướng nên không biết mình khổ? Nhưng trong những câu chuyện của họ, cái chết luôn hiện hữu ở đâu đó, rất gần, và họ coi nó như một sự giải thoát nghiệp chướng trong hành trình làm người của họ. Khi Thắm kết thúc phần quay bộ phim và chờ tài trợ để hoàn thành dựng phim, chị Phụng và chị Hằng đã chết vì HIV sau một cơn bệnh quật ngã (xem suốt bộ phim không thấy họ có biểu hiện gì của căn bệnh này) mà chưa được xem mình trên phim, dù đó là khát khao của họ khi để Thắm bước vào gánh hát như một thành viên trong đoàn để kể câu chuyện của mình.

hãy đi xem bộ phim này, nếu các bạn yêu điện ảnh, cảm mến sự dũng cảm và dấn thân của nữ đạo diễn Nguyễn Thị Thắm, hãy đi xem bộ phim này nếu bạn thực sự muốn chia sẻ với thế giới, có thể bên ngoài và xa lạ với thế giới hào nhoáng mà bạn biết, nhưng nó thực và tình lắm.

P/S: share mạnh giùm đi anh em


mình thực ra không phải thuộc dạng cần giảm cân lắm, ngoài cái bụng bia ra thì người mình toàn nạc không, chỉ là dạo gần đây mình quan tâm nhiều đến sức khỏe, tăng cường tập luyện thể thao và chú ý chế độ ăn uống. Do quan tâm nên mình đọc nhiều tài liệu liên quan đến sức khỏe và phát hiện nhiều điều thú vị, (là mới với mình thôi) đặc biệt là việc cân đối calory in-out hằng ngày,

ví dụ, ví dụ nha:
đàn ông dùng khoảng 1,500-1,800kcal mỗi ngày,
một bữa ăn kiểu VN ta (nhẹ) trung bình đem đến 500-800Kcal, như vậy chỉ cần 3 bữa / ngày là vừa đủ năng lượng, nếu bạn nào ít vận động thì kể ra hơi dư, vậy thì bất cứ thứ gì ngoài 3 bữa ăn chính đó sẽ tạo ra năng lượng dư thừa, dù đó là 1 ly cafe sữa, một miếng chocolate, một chén chè nhỏ, một ly bia... và tình trạng dư cân, tăng mỡ bụng sẽ xảy ra

một ví dụ khác:
bạn chơi thể thao một giờ liền chỉ tiêu hao có 400-500Kcal, nhưng chỉ 3 ly bia với bạn bè vào cuối ngày hoặc một ly kem, một ly chè, một thanh Chocolate cũng nạp vào hơn số Kcal đó, như vậy nỗ lực tập luyện sẽ không đem lại hiệu quả

đọc, hiểu điều này, và tạo cho mình một thói quen ăn uống lành mạnh, ít năng lượng hơn, ít béo, ít đường, nhiều đạm, nhiều xơ và tăng cường vận động hơn nữa, nhứt là lúc đã ngoài 40 tuổi, vậy thôi, đừng theo các phương pháp giảm cân hoặc cậy nhờ thực phẩm chức năng mần chi

(cũng đừng căng thẳng quá, lỡ thích món gì thì lâu lâu cho phép mình sa đọa, quất tới bến đi, nha)
(ảnh: 1 bảng tính chi tiết thành phần trong thực phẩm hằng ngày, nguồn webthehinh)








biệt thự không đóng cổng,

tôi quen anh cũng lâu, dễ cũng hai chục năm, từ lúc chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, lâu vậy nhưng không thân mấy, số lần gặp nhau thì rất ít, càng lúc càng thưa dần, chỉ thi thoảng mới ngồi riêng với nhau chút xíu, hoặc cứ hẹn hò sẽ ngồi với nhau mãi, cũng không ai trách ai, vì Sài Gòn rộng quá mà. Anh có công ty riêng từ lâu, làm ăn khá giả, mở rộng qui mô, xuất khẩu nước ngoài, càng lúc càng giàu, nghe bạn bè to nhỏ anh giờ ở tầm đại gia, mà tôi cũng quan tâm gì, biết vậy mừng cho anh thôi

năm kia anh kêu ra quán café, bảo Phú xem giùm anh cái thiết kế biệt thự nhà anh, tôi hơi dỗi đùa, bảo sao anh không để công ty em thiết kế cho anh, chơi kỳ cha, anh cười, có thằng cháu con bà hàng xóm đang học năm cuối kiến trúc, má nó năn nỉ để nó thiết kế, mình cũng muốn cho nó một công trình đầu tay, nhưng cẩn thận nhờ Phú coi lại giùm, xem được không. Cái biệt thự thiết kế khá đẹp, còn non tay nghề nhưng sáng tạo, kiểu rất hiện đại, dùng kính nhiều nên nhìn sáng sủa. Tôi chỉ góp ý là anh coi lại đi, chớ Sài Gòn giờ phức tạp, cửa kính nhiều mà không có song sắt thì dễ bị trộm lắm, anh cười, vụ đó không lo đâu.

anh kể, thời sinh viên anh cùng mấy đứa bạn cùng quê vô xóm đó ở trọ, tuy không gần trường anh nhưng lại là trung tâm để đi lại mấy trường khác. Xóm nghèo, toàn nhà trọ, nhà cấp bốn lấn chiếm lụp xụp, cư dân toàn dân lao động, xe ôm, ba gác, xích lô, thợ hồ, ve chai, buôn bán nhỏ. Vô ở trọ rồi mới biết xóm này cực kỳ phức tạp với đủ loại tệ nạn, rượu chè, trộm cướp, ma tuý, giang hồ… nhưng được cái nhà trọ rẻ, và bình dân nữa. Anh ở trọ chỗ đó 5 năm, có lúc thiếu tiền nhà cả năm vẫn được ở, có lúc mất xe đạp được bà con gom tiền mua cho xe khác, có lúc trong túi không còn cắc nào vẫn đều đặn ăn ngày ba bữa, café đầy đủ, lúc nào có tiền trả sau. Anh ở trọ chỗ đó 5 năm, thành cư dân hẻm luôn, lúc ra trường đi làm vẫn tiếp tục ở đó, người ta mở hẻm, tráng nhựa, làm cống, lập khu phố, có tên anh trong cư dân của xóm, tuy sau này phải thuê cái phòng trọ lớn hơn.

rồi anh làm có tiền, anh mua một góc khu nhà trọ, cất cái nhà nhỏ nhưng vẫn đi chung lối nhà trọ. Anh quen chị cũng sinh viên nghèo, hai người cất được cái nhà từ tay trắng và một đống nợ nần, nhưng vẫn đến với nhau. Đám cưới anh đãi nguyên xóm, mỗi người đi mừng, vừa mừng cưới vừa mừng tân gia, mỗi người một món đồ, anh nhớ rõ món nào của ai, cái nồi cơm điện của chị Bảy café, cái giường của anh em ông Thơ ông Nhạc, bộ ghế gỗ do cha con ông Tư thợ mộc đóng, cái cây khế kiểng của bà Sa bánh mì, bộ ghế đá của Tám Cai… vợ chồng anh vui lắm, mấy đêm liền không ngủ, cứ ra vô sắp đặt mọi thứ, lau chùi cho sáng bóng. Nhà cửa từ đó hạnh phúc, anh chị sanh liền 3 đứa con, đứa nào cũng đẹp, cũng ngoan. Rồi anh giàu, giàu lắm, anh mua hết khu nhà trọ, mua luôn miếng đất trống kế bên, thành một lô đất bự, hơn năm trăm thước vuông, và anh cất cái biệt thự đó, do một sinh viên kiến trúc năm cuối, con của của bà Sa bánh mì thiết kế, anh cười vẻ chịu lỗi, anh cũng không nhờ Phú xây được, vì trong xóm có ông Tám Cai, với nguyên bang thợ hồ…



tuần rồi ghé nhà anh, hẻm lớn, thông qua mấy hẻm con, nhưng mà đúng là lộn xộn thiệt, người ta buôn bán, để xe, nhậu nhẹt, ngồi lấn chiếm gần hết con hẻm. Ngôi biệt thự nằm gọn phía sau lô đất, chừa nguyên cái sân mênh mông phía trước, tha hồ đậu xe. Trong sân đám con nít hơn chục đứa đương rộn ràng cười nói chạy nhảy, không biết đứa nào là con anh chị luôn. Anh nói, cái sân nhà anh, anh để như cái sân chung, cho đám con nít trong xóm chơi, chớ tụi nó chơi ngoài đường sợ xe cộ quá, nhà anh có cổng cũng như không, vì không đóng cổng bao giờ.

sân nhà anh, ban ngày con nít chơi, chị Bảy bán café khách khứa ngồi lềnh khênh, buổi tối làm chỗ họp dân phố, xóm có nhậu nhẹt ca hát cũng kéo vô, còn khuya nữa thì lục đục hàng xóm qua gửi đồ, chị Bảy gửi bàn ghế café, vợ chồng thằng Đỏ gửi xe cháo lòng, bà Sa gửi xe bánh mì, bà Chín gửi tủ thuốc, ông Lắm cất xe ba gác.. anh cười, giờ giống như cái sân chung, ai gửi đồ cuối cùng thì tự động đóng cổng, ai lấy đồ sớm thì lo quét dọn, vậy thôi. Mà nói thiệt, nhà anh cũng như cái nhà chung, người ta mượn sân đãi tiệc thì mượn luôn bếp nấu, bọn con nít trong xóm cuối tuần xin qua ngủ chung với con anh để chơi game, người ta đi chợ giùm anh, rảnh nấu nướng giùm anh, tưới cây, cho cá ăn… nhà anh bà con hẻm ra vô thoải mái, cần gì cứ chạy qua lấy.

đang ngồi chơi thì có cô bé tới đứng kế, mặc cái đầm đẹp, đôi mắt tròn vo, anh hỏi, gì đó con, con bé lí nhí, dạ con muốn bông, bông nào, nó chỉ tay ra vườn sau, chỗ dàn hoa lan rất đẹp mà anh thường chăm chút, bông của bác Hai, treo lên sân khấu cho đẹp. Anh nhìn tôi cười, con gái Út chị Bảy café, bữa nay sinh nhựt nó, sáu tuổi, đãi ngoài sân mình nè, cũng bọn nhỏ trong xóm không hà, anh kêu tụi nó làm sân khấu ca nhạc, lát má nó dọn hàng đem bàn ghế vô. Rồi anh gọi ra ngoài cho một phụ nữ dáng lam lũ, chị Bảy, chị bưng tui ly café, rồi vô xách mấy giò Lan ra treo ngoài sân khấu cho tụi nhỏ nha. Lát sau chị Bảy bưng café vô, nói, chú Hai đừng chiều con Út, mấy bông Lan đó quí lắm, treo ra ngoài coi chừng tụi nó bứt trụi lủi à, anh lại cười, kệ đi chị Bảy, bứt bông này nó ra bông khác, chủ yếu cho con Út nó vui, à, bác Hai đặt bánh kem cho con rồi, lát chở tới nha.

lúc tôi về thì bánh kem được chở tới, cái bánh bự chà bá, cả hẻm ra coi, con Út nhảy choi choi mừng, chị Bảy nước mắt ròng ròng, nói, má ơi, nào giờ chưa thấy cái bánh kem nào bự dữ thần ta ơi.
 — in Saigon.


tinh thần của Chuyện nhỏ Sài Gòn là sự chia sẻ, vì cũng nhiều chuyện viết ra thực chất là do các nhân vật chia sẻ với mình, mình rất vui nếu các bạn cùng chia sẻ những câu chuyện trên tinh thần CNSG mà bạn được chứng kiến, dưới đây là những câu chuyện mới được chia sẻ trong các còm men, mình post luôn đây góp chuyện để cùng đọc

Chuyện của Hoang Anh To chia sẻ trong note "hãy bao dung, bạn ơi"

1.
Có 1 lần em vào 1 quán ăn trên đường vạn kiếp - quán có món mì vịt quay mà em thích - nhưng lâu lâu mới ghé ăn 1 lần - bữa sáng đi làm trể nhưng cũng thèm nên ghé vào ăn - hối ông chủ tầm 50 tuổi hơn " chú ơi , cho con nhanh nhanh để con đi làm trễ" - Quán lúc này rất đông, ông chủ phải bưng lại cho tôi - định trả tiền rồi ăn xong đi luôn cho kịp , nhưng mặt mày tái mét, đứng lên " chú ơi , con đi vội quá con không đem theo bóp rồi ... chú cho con gửi lại con chưa ăn "
Ngồi xuống ăn lẹ đi còn đi làm cho kịp giờ ... rồi khi nào đi ngang trả cũng được - ông cụ bình thản nói
Nhưng mà lâu lắm con mới đi ngang qua !
Ông chú nói : ăn cho nhanh đi không sao đâu
Sau hôm đó , khoảng 3-4 hôm sau tôi mới tới và cũng ăn tô mì vịt quay như thường lệ - ông chủ vẫn cười vui
Khi tính tiền - ông vẫn tính có 1 tô - tôi nói " hôm trước con quên tiền con trả luôn 2 tô chú ơi " -
ông cười và nói " vậy 2 tô, tui đâu có nhớ ! ai thiếu người đó nhớ "

2.
Một hôm trên đường Hai bà Trưng đoạn kề Lãnh sự quán Mỹ - có 1 cô bé chắc ở quê lên nên dừng lại nói điện thoại
Thì phía đằng xa anh lính tít còi ... nhưng do cô vừa nghe điện thoại đường lại vừa đông nên ko nghe tiếng còi ... nên có 1 đôi vợ chồng cũng hơn 50t chạy lên " Chạy đi , chạy lẹ đi " - Bà vợ thì " chạy kìa công an bắn bây giờ " - vì công an canh chổ này có cây súng rất to !
Tôi nhìn đôi vợ chồng già , họ cười và nói " con này quê lên nè , đâu xe chổ này Lính bắn chết đó !" - tội chỉ " dạ dạ"

3.
Hơn 10 năm trước lúc cài thời còn chưa cấm mũ bảo hiểm. 3 thằng bạn thân lắm hay đi chơi ... mà chỉ có 1 chiếc xe, đến cuối đường Hồ Văn Huê thì có cảnh sát - lại dừng đèn xanh đèn đỏ
Kề bên có 1 phụ nữa hơn 40 tuổi - công an kìa con ơi !
tôi ngồi phía sau vội nhảy xuống - định đi vào lề đường rồi đi 1 đoạn để tránh, rồi 3 thằng đi tiếp
" Con lên đây cô chở cho - nhanh đi - con đi hướng nào " - Người phụ nữ nói liên tù tì, không kịp phản ứng gì tổi chỉ dùng tay chỉ " dạ con đi hướng này "
đi 1 khoảng khá xa, bà mới dừng xe " con đi nha - chú ý công an đó nhe chưa"
Tôi chỉ " dạ dạ, con cám ơn" - thấy bà quay xe lại - tôi hỏi cô đi đâu vậy ? - " cô đi về tân Bình " rồi bà từ từ len vào làn xe và đi

.
Chuyện của Marbles Nguyen chia sẻ trong note "ở Sài Gòn (2)"

Hôm bữa đi Bò Cạp Vàng chơi, chạy xe máy chở nhỏ bạn ngồi sau với cả đống đồ đạc, balô, bạt, chảo chiên, thịt, chả, dầu ăn, gia vị... Đang "ung dung buồng lái ta ngồi, nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng" ... nhìn vô kiếng hậu thấy một ông cầm con dao dí theo mình - có vẻ rất nguy hiểm - đường thì vắng vì mới sáng sớm. Mình nhích ga 55-60km/h ôm ra đường lớn chạy thục mạng gần 3 km mà vẫn không cắt đuôi được, may sao thấy phía trước là trụ sở CA Tân Bình - đường Hoàng Văn Thụ bèn tấp vô lề ngay trước đồn. Đối tượng cũng giảm tốc và áp sát lại... nở một nụ cười khó hiểu và nói như chửi: " đm, làm gì chạy nhanh dzữ mậy? làm tao dzí theo nãy dzờ, mày rớt con dao nè, khúc dưới Lý Thường Kiệt." - lúc này nhìn lại mới thấy cái bịch treo bên hông chỉ còn 2 chai muối ớt xanh - thơm ngon hảo hạng - chính gốc Khánh Hòa và tờ giấy bọc con dao, còn nó thì đã đào tẩu từ lâu. Thế là mình quay qua, gãi mũ bảo hiểm, "cám ơn chú, chú làm con hết hồn". Ông chú khoát tay " không có dzì, mày chở con gái thì chạy chậm chậm lại chút, đi chơi xa phải đảm bảo an toàn cho con người ta nghe hông" - rồi quay xe đi luôn - bỏ lại 2 đứa nhìn nhau tròn mắt...

...
...
Chuyện Của Pham Nhan chia sẻ trong note "Sài Gòn, cơm tháng"

KTX Bách Khoa Sài Gòn cũng có ông Chín nấu cơm cho sinh viên ktx, cũng cơm tháng, cũng cho sinh viên thiếu, có nhiều người ra trường đi làm, có tiền quay lại trả ông. Ông Chín có biệt tài là chỉ cần nghe giọng nói là biết được thằng này là thằng nào, ở phòng bao nhiêu, còn bao nhiêu bữaa chưa ăn hay đã thiếu bao nhiêu ngày rồi. Cứ ăn xong nói: "ông Chín, con ăn cơm với cá kho, trứng chiên hay gì gì đó..." là được ông Chín ghi vô sổ mà không cần nhìn mặt. Căn tin ông chín bán chỉ có thuê người nấu, phục vụ thì toàn sinh viên, cứ đến giờ là chạy xuống phụ bưng bê, dọn dẹp. Sắp đến giờ học thì làm một đĩa cơm thật no rồi đi, thằng khác tới phụ thay. Cứ thế nhiều thế hệ sinh viên đến rồi đi. Sau này đập ktx cũ, xây ktx mới, không rõ ông Chín về đâu, nhưng chắc sẽ có nhiều sinh viên tìm ông để trả tiền cơm tháng còn thiếu.


Chuyện của Bao Chau chia sẻ trong note "Sài Gòn, đời ba gác máy"

Hồi xưa, nhà em bán mì gói. Xe ba gác chở rần rần. Cửa hàng bán mì có thuê 2 chú xe ba gác, chú tên Thành, chú tên Công, ghép lại là thành công. Hông biết phải hạp tuổi hông, mà 2 chú đó chạy đắt xô lắm. Bà nội em dạy "tụi bây hông được hỗn hào, coi thường người ta, người ta chạy xe chở hàng cho mình, bán được hàng cũng nhờ công họ, mình có miếng cơm cũng nhờ họ. Xem thường người ta là tự đạp đổ chén cơm, biết chưa. Với lại, tụi bây có tôn trọng người ta thì người ta mới tôn trọng lại." Vậy nên cả 1 đám con cháu, toàn dân học thức, không đứa nào dám lên mặt với mấy chú, mặc dù mấy chú nói chuyện toàn thưa, dạ với bọn em. Sau này, mấy chú biết ông nội là chủ tịch quận, có phần nể hơn nữa vì như mấy chú nói "bà ba ăn ở biết điều quá". Giờ em cũng dạy con em như vậy. Sống phải biết điều mới bền.




hãy bao dung, bạn ơi

1.
mỗi lần tôi post một, hay nhiều câu chuyện về Sài Gòn hoặc liên quan đến người Sài Gòn, người miền tây, mà tôi viết thì toàn chuyện vui thôi , mỗi lần như thế thì y như rằng luôn có vài còm, vài bạn inbox với ý tiêu cực hoặc muốn phản ánh mặt trái của Sài Gòn, có bạn còn dẫn link khắp nơi, trích nhật báo các tin cướp giựt, hôi của, thói xấu... của Sài Gòn chèn vô, vừa muốn cho tôi xem để máng vốn rằng ông ơi, Sài Gòn của ông là vầy nè, bầy hầy lắm, không tốt đẹp như ông nghĩ đâu... lại vừa muốn cho người đọc của tôi cùng xem, các mẹ ơi, biết gì chưa, đừng tin cha này, Sài Gòn tệ lắm... tôi không biết các bạn làm thế để làm gì, nó giống như bạn dọn một tô canh chua cá bông lau ngon mắt lên bàn mời khách, bỗng có thằng nào nhìn vô nói, ôi cá này nó ở dơ lắm, nó toàn ăn @#$%%^ thôi, bẩn bỏ mẹ... tưởng tượng vậy để biết người nấu, chủ nhà, và thực khách khác sẽ thấy người đó có duyên cỡ nào hén

2.
tôi sống ở Sài Gòn, chuyện ở Sài Gòn tôi biết, bạn biết, ai cũng biết, báo chí đưa tin hằng ngày mà, đâu cần thêm một tiếng chỉ trích chứ.. dĩ nhiên, ai cũng có quyền chỉ trích, nhưng chỉ trích đúng chỗ, đúng thời điểm mới được, bạn có quyền chỉ trích Sài Gòn chứ, nhưng Sài Gòn là ai? Sài Gòn là bạn, là tôi, là chúng ta, chúng ta đã làm gì cho Sài Gòn? hay chúng ta đều vượt đèn đỏ, đều bu đen trước cổn trường đón con mặc kệ kẹt xe, chúng ta chạy trên vỉa hè, lấn tuyến, đái bậy và xả rác… và lớn hơn nữa, chúng ta cũng ăn cắp thời gian và tiền bạc của công ty, của nhà nước, và lớn hơn nữa, chúng ta chẳng có trách nhiệm gì với đất nước, với thế hệ tương lai… vậy thì chúng ta có quyền gì chỉ trích chứ. Nên chăng thay vì chỉ trích, chúng ta hãy chỉ thay đổi chính mình, chính mình, bằng cách tập có một con mắt bao dung với người, với đời

3.
bạn vào ở Sài Gòn hai mươi năm, đi đâu bạn cũng đi taxi vì bạn ghét xe ôm Sài Gòn, vì bạn thấy họ chạy ẩu, lấn tuyến, ngược chiều, đái bậy, chửi thề, phun nước bọt phèo phèo, lừa khách ở quê lên, chỉ đường tào lao, chặt chém khách… có cả trăm thứ để bạn có thể ghét, thậm chí căm thù giới xe ôm Sài Gòn. Tôi vào ở Sài Gòn hai mươi năm, tôi thấy xe ôm Sài Gòn dễ thương, cho dù họ có tất cả các hành vi trên mà bạn nói, tôi vẫn thấy họ dễ thương. Bởi bạn chỉ nhìn họ như xe ôm, tôi coi họ như người bạn mới quen, tôi biết gia cảnh họ, tôi biết anh này tự hào có con học giỏi thi toán thành phố, anh nọ buồn vì mẹ bịnh tiểu đường, tôi biết họ quê ở đâu, tôi thậm chí ăn cơm, uống rượu với họ, tôi biết cuộc sống và suy nghĩ giản đơn của họ, tôi thấy từ trong họ toát lên cái đẹp bình dị của cuộc sống, của Sài Gòn. Cũng chính họ những gã xe ôm mà bạn ghét, sau nhọc nhằn mưu sinh ở Sài Gòn, là những tâm hồn, tuy thô mộc nhưng rất đỗi con người, qua những câu chuyện mà tôi đã kể và sẽ kể cho bạn nghe

4.
đầu tuần vui vẻ, nha bạn

Lê Thị Sài Gòn

hai mươi năm trước, có một cô gái, ta tạm gọi là cô Thơm, cô Thơm người vùng núi ở tuốt ngoài Thanh Hóa, làng quê nghèo khó quá nên cô nghe lời một người bà con đưa đường dẫn lối thế nào, lạc vào Sài Gòn làm mướn. Cô Thơm làm phụ việc ở một tiệm phở của một người đồng hương với đồng lương 500 ngàn một tháng, sau khi trừ chi phí cơm nước các thứ thì cô còn dư khoảng 100 ngàn gửi về quê giúp thầy mẹ. Cô Thơm làm lụng khá vất vả, từ 4 giờ sáng đã dậy làm việc, quần quật cho đến tận 11 giờ đêm, hầu như chẳng mấy lúc nào ngơi tay, và không thể ngước mặt lên nổi bởi tiếng chửi sa sả suốt ngày của vợ chồng bà chủ, thỉnh thoảng cô còn bị ném cả giẻ lau vào mặt hay đánh lên đầu côm cốp bằng cái giá bự bằng nhôm thường dùng múc nước phở, nói chung cô Thơm quá khổ. Nhưng khổ cực chỉ làm cô buồn, chớ không hề làm phai bớt nét đẹp ngầm của một cô gái bắc, da trắng môi hồng, mái tóc dài đen mượt.

cô Thơm có hẹn mỗi tháng một lần sẽ điện thoại về nhà, ở quê, cả nhà cô sẽ kéo ra một nhà người quen có mắc điện thoại để cô gọi về nói chuyện với từng người, thầy trước, rồi mẹ, rồi chị, rồi em, thỉnh thoảng nhắn luôn con Hồng, cái Huệ ra cùng trò chuyện. Đó là khoảng thời gian vui nhứt của cô Thơm, cô cười, cô khóc cả giờ liền bên chiếc điện thoại. Cô Thơm hỏi han chuyện gia đình, đồng áng, chuyện sức khỏe thầy mẹ, chuyện học hành mấy đứa em, còn chuyện mình thì cô Thơm toàn nói dối, cô nói cô làm bán hàng, nhàn nhã lắm, có điều chưa quen việc nên lương thấp, mai mốt cô sẽ khá hơn, sẽ gom tiền về thăm nhà…

chỗ cô Thơm gọi điện là một tiệm bán tạp hóa, hồi xưa đa số tiệm tạp hóa thường có gắn thêm cái điện thoại công cộng làm đại lý cho bưu điện, có máy tính cước đàng hoàng, giá cả cũng phải chăng, chỉ có điều tiệm này không có buồng điện thoại riêng, chỉ là để cái điện thoại trong góc khuất đằng sau quầy hàng, kê cái ghế cho khách ngồi nói chuyện, vậy thôi. Cái tiệm tạp hóa của một đôi vợ chồng, chưa già lắm nhưng cũng không còn trẻ, tầm sáu mươi ngoài, ông bà nói giọng bắc, gốc gác đâu ngoài Nam Định Thái Bình, nhưng hầu như không biết gì về quê hương nữa do là người bắc năm tư, ông bà đã sống cả đời ở Sài Gòn, ông bà rất hiền và dễ thương. Ông bà có hai người con,, một người theo bạn bè vượt biên rồi sống ở Úc, còn người kia thì chết lúc còn nhỏ do đau bịnh, giờ ông bà gần như sống với nhau thôi.

Tiệm tạp hóa cũng vắng khách, nên ông bà hay kê ghế ngồi chơi, xem báo đọc sách gần chỗ cái điện thoại, và vừa vô tình vừa cố ý, đều dõi theo cuộc trò chuyện với quê nhà của cô Thơm. Biết hoàn cảnh cô Thơm, ông bà thấy thương cô lắm, mỗi lần cô sang gọi điện thì ông lén tắt cái máy tính cước, nó chỉ dừng ở 5 ngàn đồng dù cô có gọi bao lâu đi nữa, lâu lâu bà kêu ra cho cô món này món nọ, chai dầu gội, chai sữa tắm, cái quần cái áo, nói là dư dùng đem cho, chớ thiệt ra cũng đồ mới cả, cô Thơm cũng quí ông bà không kém.

có một anh nọ, ta tạm gọi là anh Bần đi, bần là tên một loại cây mọc nhiều vùng nước lợ, gần mé nước, bần trong tiếng nam bộ cũng có nghĩa là nghèo, anh Bần quê miệt Cần Đước, cha mẹ chẳng may mất sớm, mấy đứa con nương tựa nhau, đứa lớn chăm đứa nhỏ cùng với sự đùm bọc của bà con nội ngoại xóm riềng mà lớn, như cái cây ngọn cỏ, như con thòi lòi con ba khía, khỏe mạnh và hiền lành, dù không học hành đàng hoàng.

anh Bần chạy xe ôm, thực ra anh là lính nghĩa vụ ra, sau ba năm đóng quân ở sư đoàn năm, chuyên trồng rau nuôi cá, anh xuất ngũ trở về không có nghề ngỗng gì, may có ông chú kêu về, cho cái xe máy cũ, chạy xe ôm. Nói chạy xe ôm chứ thực ra công việc của anh Bần là sáng chở ông chú ra cửa tiệm đâu tuốt ngoài Chợ Lớn, phụ dọn hàng với ông chú, rồi về chở cháu đi học, đưa bà thím đi chợ, đưa về, chiều lại đón cháu, ra đón ông chú, đóng cửa tiệm, tối thì anh ngủ lại ngoài tiệm coi hàng… Nói là chạy xe ôm chứ anh cũng không dư đồng nào vì thời gian cao điểm thì mắc chở chú thím, dọn hàng, còn lại chạy lòng vòng kiếm khách, đổ xăng cũng hết tiền. Anh Bần thường thỉnh thoảng chở hàng cho ông bà chủ tiệm tạp hóa, anh giao tương, chao, sa tế, lạp xưởng khô… từ Chợ Lớn xuống, thường ngang khúc giữa trưa, nên ông bà mời dùng cơm trưa, riết rồi thân quen

tới đây thì chắc các bạn cũng biết rồi, ông bà chủ tiệm tạp hóa nọ bèn cáp anh Bần cho cô Thơm, quá đẹp đôi mà, có điều cả hai chưa tiến xa được ngoài một vài lần trò chuyện và cái nắm tay rụt rè. Bởi nếu không đi điện thoại về nhà thì cô Thơm có rảnh mà đi đâu, đi chút về lại bị chửi, lại bị đánh nên cô sợ, cao điểm là có lần cô đi gặp anh Bần về, trượt chưn té làm bể một chồng tô, cô bị trừ nửa tháng lương, bị chửi đến ba đời và bị vụt cơ man nào là đòn. Còn anh Bần thì cũng vậy, loằng ngoằng chút với một hai cuốc xe lẻ là đụng giờ về đón chú, đưa thím, không hở ra được, lỡ mà để chú thím chờ năm ba phút thì cũng mặt nặng mày nhẹ, tao nuôi mày báo cô báo cậu, điếc đầu. Mà cơ bản nữa là vì cả hai nghèo quá, còn gánh nặng cơm áo sau lưng, tiền đâu, uống ly nước mía còn không dám, làm sao nghĩ chuyện yêu đương chồng vợ

thấy lâu quá đôi trẻ chưa tiến triển gì, ông bà tìm hiểu thì mới ra sự tình, cũng khó hén, nhưng Sài Gòn mà, luôn luôn có cách, Sài Gòn thì luôn luôn có cách. Ông bà thời trước nữa, thời mới giải phóng, bị đưa lên Sông Bé khai hoang lập đất, làm hợp tác xã trên đó, cực khổ quá nên đứa con lớn bỏ đi vượt biên còn đứa con nhỏ đau bịnh chết trên tay ông bà trong nước mắt, mãi sau chạy chọt mới về lại được Sài Gòn. Sau này giải tán hợp tác xã, người ta vẫn để cho ông bà cái lô đất cũ, coi như công xã viên, lô đất rẫy chừng 3 hecta, trồng cây gì, nuôi con gì cũng ngon lành lắm, có điều đường vô đó xa xôi cách trở, nghe nói đi xe máy chừng cây số phải dừng lại lấy cây dích bùn đỏ ra rồi mới đi tiếp được. Ông bà lên nhận đất rồi, nhưng chưa biết làm gì, hiện đang bỏ không, bán thì cũng không được mà làm thì hổng có sức làm. Thì đây, đưa đôi trẻ coi như quà cưới

đám cưới diễn ra luôn ở tiệm tạp hóa, đãi bốn bàn, ông bà chủ tiệm là chủ hôn, chú thím anh Bần đưa rể, thầy mẹ với mấy đứa em cô Thơm đón xe vào nam đưa dâu, có cả anh con trai lớn của ông bà ở Úc gửi về tiền mừng. Anh Bần đen thui xúng xính trong bộ đồ mướn, cô Thơm được trang điểm mặc áo dài gấm nhìn đẹp rực rỡ, chụp mười tấm hình. Cưới xong anh Bần chở cô Thơm, cái ba lô đằng trước cái túi cói đằng sau, ra Bình Triệu hướng lên Sông Bé, bắt đầu cuộc sống mới

vợ chồng anh Bần cô Thơm siêng năng chịu khó, yêu thương nhau, anh Bần vốn là lính chuyên trồng rau nuôi cá nên với cái rẫy trong tay thì anh như người khai vương lập quốc, cô Thơm gái bắc mà, giỏi giang hơn nhiều cô gái khác nên một tay giúp chồng làm nhà, đào ao, trồng cây, làm chuồng heo, chuồng gà… rồi cô Thơm có bầu, là con gái, vì ở xa quá nên cô Thơm quay về Sài Gòn, về nhà ông bà tiệm tạp hóa để chờ sanh, ông bà cưng lắm, lần đầu có cháu có dâu mà, cưng lắm, chăm chút kỹ vô cùng, ngày nào cũng bồ câu gà ác ăn riết.

đứa bé, con của anh Bần và cô Thơm, ra đời ở Sài Gòn, nó tên là Lê Thị Sài Gòn. Năm nay nó mười chín tuổi, đẹp như mẹ nó, hiền như cha nó. Anh Bần giờ ngon lành, lúc tách tỉnh người ta kêu làm giấy đỏ, ông bà cho anh đứng tên luôn, rồi nhà nước mở đường mới, qua đúng rẫy của anh. Cô Thơm sanh thêm hai đứa con nữa, thằng Bình Phước thằng Bình Long, giờ họ nhà ngói xênh xang, cả gia đình hai bên xúm vô làm trang trại, cuộc sống tươi vui lắm

vậy đó, đó là câu chuyện của cô bé Lê Thị Sài Gòn, tôi gặp cháu chút xíu, nó kể tôi nghe trong nét mặt rạng ngời, nó nói nó thích tên mình lắm, mà ai cũng thích tên nó, nhiều khi nói chuyện người ta cứ kêu Sài Gòn, Sài Gòn, nghe thích lắm. Ừ ta cũng thích cháu, ta cũng thích tên cháu nữa, Sài Gòn à



Ở Sài Gòn (2)

có những thứ, ở Sài Gòn, rất nhỏ, nhỏ quá không thành chuyện, nhỏ nhặt đến mức không ai để ý, ai cũng coi là chuyện lình bình hằng ngày, như nắng như mưa, như cái cây cụt ngọn như đèn đường vàng vọt lúc tối trời, nhỏ bé và nhẹ nhàng đâu đó như một tiếng một cái phủi tay, như lóc cóc tiếng mì gõ, như một vốc trái cây bốc thêm… nhỏ lắm, vậy mà khi xa người ta mới nhớ, mới thương, mới lật đật ra vô coi ngó, thầm thỉ với mình, ủa ở đây hổng giống Sài Gòn, ủa vậy là mình nhớ Sài Gòn sao, kỳ vậy cà


1.
ở Sài Gòn, thường khi dừng đèn đỏ ngã tư, nếu trời nắng người ta sẽ dừng ở bóng cây gần nhứt, cho dù cái chỗ dừng xe còn cách cái đèn đỏ chừng chục mét, mà không ai thấy phiền, xe sau nối xe trước, chen chúc trong cái bóng mát nhỏ nhoi đề chờ lao tiếp vào dòng người khi đèn xanh bật sáng, trong ầm ĩ tiếng động cơ phố xá, rồi cô gái ngồi sau bất chợt hỏi, cây gì bông tím đẹp ghê ta nơi, tiếng đáp từ một người đàn ông nào đó, xa mãi phía sau, bằng lăng

2.
ở Sài Gòn, khi đừng đèn đỏ, nếu đường không quá đông, người ta vẫn luôn chừa một lối nhỏ, ngay bên phải sát lề, để dành cho những chiếc xe máy quẹo phải, nếu quên chừa thì người cần quẹo cứ nhích tới xin, hoặc một người khác tự động nhắc, bà con xích qua chút cho người ta quẹo phải, chỉ vậy thôi, chút nhường nhịn giữa phố phường lộn xộn, hổng ai nhớ, không ai làm ơn cho ai cũng không ai cần luật lệ làm chi, chỉ là một thứ vô hình, mà người ta hay gọi là, biết điều.


3.
ở Sài Gòn, khi đi ngoài đường lỡ làm rớt món đồ nào đó, ví dụ như cái nón, cái áo, cái mạng che mặt, cái cặp sách… mấy anh chở hàng làm rớt bịch hàng, nếu không sợ xe khác cán phải món đồ thì chỉ cần dừng lại, quay đầu nhìn về hướng món đồ mình làm rớt, rồi lát tự động có người đi sau lượm đưa lại, đôi khi đưa tận tay, cũng có khi vội vã người ta lấy cái chưn móc món đồ lên, chạy tới rồi đá qua cho bạn, y như làm xiếc, coi kỳ lắm. Cũng có khi bạn làm rớt mà không biết, người ta cứ lượm, rồi lạch đạch chạy theo để đưa cho bạn, nhiều khi món đồ không bao nhiêu nhưng mà bạn vui, vậy rồi người ta cũng tất tả đi, không kịp nhìn mặt bạn để nhận một nụ cười, một tiếng cảm ơn

4.
ở Sài Gòn, thường giữ xe miền phí ở mấy quán café, quán ăn, quán nhậu.. miễn phí là không thu tiền giữ xe, dĩ nhiên ở đâu cũng miễn phí, mà Sài Gòn miễn phí có tặng kèm nha, kèm nụ cười, dù có thẻ hay không thẻ. Mấy anh bảo vệ giữ xe quán thường rất dễ thương, bạn chỉ cần chạy xe tới quán, đá chống rút chìa khóa cầm thẻ rồi cứ vậy lững thững vô quán, anh bảo vệ sẽ tự động dắt xe bạn, xếp vô hàng, khéo léo để không làm trầy xe bạn, nếu trời nắng anh kiếm tấm bìa che lên yên xe, trời mưa anh phủ bạt cho khỏi ướt, mà rủi có ướt, lát nữa dắt xe ra anh sẽ lau khô cho bạn. Bạn ăn uống thoải mái nha, lúc bạn lục đục tính tiền thì anh bảo vệ nọ đã đẩy xe bạn ra khỏi hàng, cầm cái đuôi xe vừa cười vừa hỏi, anh Hai đi hướng nào để em dẫn, bạn hất mặt hướng nào thì anh sẽ dẫn xe ra hướng đó, bạn đưa thẻ và đi, có dư tiền lẻ bạn cho anh năm ba ngàn, không thì thôi, hổng sao, có khi bạn cho người ta còn hổng dám nhận, vẫn tiễn khách vui vẻ, cảm ơn anh Hai ủng hộ, mơi mốt ghé nữa anh Hai… anh bảo vệ kiêm dẫn xe đó, lương cũng năm ba triệu, đứng ngoài nắng ngoài mưa, có cười một trăm lần một ngày, có dẫn mấy chục chiếc xe cũng không thêm mấy đồng bạc, đừng nghĩ người ta làm vì tiền mà mang tội

5.
ở Sài Gòn, mấy người đi xe máy chở hàng nặng hay cồng kềnh, thường chở yên sau cột bằng dây, đa phần là xe ôm làm thêm việc giao hàng hoặc mấy anh chuyên lấy hàng ơ chợ đầu mối, nhiều khi đi lặc lè ngoài đường mà có tới mấy chục người theo nhắc, em ơi tuột dây kìa, ê sao nó nghiêng bên này dữ vậy mày, anh ơi coi chừng rớt cái bịch bên này… rồi tỉ như rủi mà có tuột dây, có rớt hàng, thì tự động người ta dừng lại, khiêng lên xe phụ, tấp vô lề cột lại giúp… chớ mình ên anh giao hàng sao làm được, nên người đi giao hàng ở Sài Gòn thường không sợ chở hàng nhiều, không sợ đi một mình, bởi, có gì nhờ bà con người ta phụ. (còn tiếp)

Hình: một thanh niên dừng xe, phụ cột đồ giúp cho một anh giao hàng bị đứt dây cột, giữa trời nắng đổ lửa buổi trưa, Sài Gòn, quận nhứt 2013

(cuối tuần vui vẻ, như thường lệ, nguồn Đàm Hà Phú,Chuyện nhỏ Sài Gòn, share mạnh không cần hỏi nha)


chiếc vòng tử tế (01)

đang đi bộ trên đường, thấy Tư xe ôm đang chỉ đường cho một bác gái đi xe máy, từ xa thấy anh Tư ra tận đường, chỉ tay ra trước, lật trái, chặt gió hai cái rồi lật phải, đẩy bàn tay ba lần rồi lại lật trái.. có thể đoán anh Tư đang chỉ cho bác gái kia một lộ trình khá phức tạp, lại gần còn nghe anh Tư hỏi nhướng, chị nhớ hôn, hông thì tới cái ngã ba cuối cùng hỏi tiếp nha chị Hai

- nay đi làm trễ hả Phú, thấy mình, anh Tư háy mắt
- dạ, bị nãy kẹt, mình rút điếu thuốc, mồi lửa cho anh
- bà này bả quê ở đâu mà bả nói tao hổng nghe gì trơn mầy, hất tay theo hướng đi của bác gái hỏi đường mới nãy, anh Tư cười lớn, bả hỏi đường đi Bảy Hiền mấy lần mà tao tưởng bả xin tiền, tao nói mấy lần tui xe ôm làm gì có tiền cho bà, ha ha, má ơi, tội nghiệp bả quá, hổng biết đường Sài Gòn khó chỉ thấy mẹ
- người ngoài Quảng đó anh
- sao mầy biết
- nghe chữ “cổm ơn” là biết
- ờ, chỗ đó xa hông mầy
- xa lắm anh Tư, cỡ ngàn cây số
- ờ, vậy mà con cháu đâu để bà già chạy xe một mình, tội quá, anh tư rít thuốc, xả ra chầm chậm
- mà đi bảy Hiền làm gì anh chỉ quẹo tá lả vậy
- thì Thành Thái, ra Bắc Hải, ra Lý … ờ, má, sao tao không chỉ bả đi Cách Mạng Tháng Tám cho thẳng ta, mình ngu quá trời má ơi, chỉ đường đó bả đi lạc nữa, thôi, mầy đi làm đi, để tao chạy theo chỉ lại cho bả

chưa dứt lời, anh Tư gác chân qua yên xe, hất nhẹ, vừa đề vừa nhấn số, lao ra đường, vứt điều thuốc cháy dở xuống vũng nước gần vỉa hè, vội vã trong cái nắng trưa Sài Gòn

#chiecvongtute , #tutela#chuyennhosaigon (như thường lệ, share không cần hỏi nha)


Sài Gòn, cơm tháng

ai ăn cơm bình dân Sài Gòn chắc cũng biết chữ này, cơm tháng, đơn giản là ăn cơm chỗ nào đó một tháng, được đóng tiền trước hoặc giữa tháng, hoặc quen thì đóng sau cũng được… dần nó thành một thành ngữ, để chỉ thứ gì đó bình dân, quen thuộc, thân thiết dữ lắm, ừ cái hẻm đó tao ăn cơm tháng mấy năm trời, hoặc như, ai chớ bà Năm La hả, tao ăn cơm tháng nhà bả luôn… sinh viên càng phải biết chữ này, đời sinh viên khó khăn nên thường đóng trước tiền ăn nguyên tháng, rồi lấy cái phiếu, ăn bữa nào xé phiếu bữa đó.

cái lợi của cơm tháng là yên tâm, không lo đói nguyên tháng đó, lúc có tiền cứ trích tiền đóng tiền cơm tháng, rồi yên chí lớn. Sinh viên, dân lao động xích lô ba gác, dân bốc xếp, chợ búa mấy khu càng bình dân càng chuộng cơm tháng, đến bữa cứ ra ăn, chỗ dễ dãi quen biết cho chọn món thoải mái, cơm canh bao no còn tặng trái chuối ly trà đá, chỗ khó khăn thì qui định món được kêu, nhưng nói chung ai quan tâm, chỉ cần có cơm, có cái gì mằn mặn, yên bụng qua bữa là được. Cái bất lợi là phải ăn riết một chỗ, có đi đâu cũng ráng về chỗ quán cơm ruột mà ăn, vậy thôi.

có quán này, cơm bình dân, nghe kêu tên chị chủ, là quán chị Phượng. Quán chị bán cơm bình dân, một phần trong nhà và ba phần là ngoài hẻm, ghế bàn nhựa, chén dĩa cũng nhựa, ngoài lề đường thì che bậy bạ bằng mấy cây dù khuyến mãi, toàn thấy sinh viên, bán báo, vé số, xích lô, xe ôm vô ăn. Cơm chị Phượng nấu ngon, cơm không trắng nhưng gạo nở thơm phức, canh chua rau giá xanh um, cá lóc từng khứa hay cá rô mề nguyên con kho tộ đúng kiểu miền tây, cá trê chiên dòn mắm gừng hay canh cải thịt băm không thua mấy nhà hàng, trà đá để một bình lớn, sạch sẽ mát mẻ, một phần cơm có mười bảy ngàn, món nào mắc lắm chừng hai chục ngàn, giữa trung tâm Sài Gòn thì giá đó là quá rẻ, mà cơm tháng 30 ngày chỉ tính có 25 ngày thôi, ai mà không thích chớ.

buổi trưa buổi chiều khách đông lắm, chị Phượng luôn tay luôn miệng, mẹ chồng chị và đứa con gái lớn đi học về cũng ra phụ quyết liệt mà vẫn không ngớt việc, mấy khách cơm tháng phải vô phụ dọn bàn, dọn dĩa, tự múc cơm, múc canh… người cơm tháng nhiều quá, thành ra quen biết nhau hết, gặp nhao xôn xao, bữa nay chạy khá không mậy, sáng giờ được trăm vé chưa con, cô ba bữa nay mua trúng lô vỏ lon ngon lành hén… rào rào như cái chợ nhỏ, chị Phượng mặt đỏ phừng vì mệt vẫn chào hỏi, cười tươi với khách, anh Ba hết tháng rồi nha anh Ba, Tú ơi tháng này em dư hai bữa, để mai ăn luôn hay sao cưng ơi…

có quán này, cơm bình dân, là quán chị Phượng, chị Phượng chồng chết, có hai đứa con, gái lớn đâu mười sáu mười bảy, trai nhỏ mới chừng mười tuổi, đều đang tuổi ăn học, cái nhà quán cơm nhỏ xíu, chừng chục thươc vuông, được cái mặt tiền, chị mướn lại của người ta, bà chủ nhà thấy chị buôn bán không lời mấy nên coi như cho chị bán không, tính tháng có hai triệu với trả tiền điện nước thôi. Chị cất cái gác nhỏ, đem mẹ chồng về ở chung, mẹ con bà cháu có nhau. Mẹ chồng chị cũng già lắm rồi, chắc đã ngoài tám mươi, cũng hơi lẫn lẫn, gặp ai cũng nói, biểu con Phượng lấy chồng khác, đi bước nữa đi, mà nó hổng chịu, buôn bán một mình cực quá.

có bữa nọ, đâu hơn hai giờ chiều, chị Phượng lục đục dọn rồi mà có khách cơm tháng mới lừng lững đạp chiếc xích lô về ăn, chú Năm ơi đi đâu về trễ dữ, con hết đồ ăn, thôi chú ngồi đây con chiên bậy mấy cái trứng ăn nha chú. Chú Năm xích lô không đi một mình, ông chở theo một anh tây to béo, làm hai phần luôn cô Phượng, cho thằng này ăn với, tui bao nó, tính vô tháng cho tui. Anh chàng Tây có vẻ đói lắm, quất sạch dĩa cơm trứng chiên, trái chuối với ly trà, lúc nghe nói được ông Năm bao, nó cười ha hả, cám ôn cám ôn, xong ra, nó ra dấu biểu ông Năm ngồi lên xe, để nó đạp chở ông Năm đi.

chiều muộn ông Năm đạp xe xích lô không quay về hỏi, tui thiếu cô mấy tháng rồi cô Phượng, dạ có hơn hai tháng mấy, để con lật sổ coi, mà chú có tiền chưa, không có thì để lo tiền thuốc cho thím Năm đi chú ơi, chú cứ ăn rồi vài bữa có trả. Chú Năm cười, đưa tờ trăm đô, cái thằng Tây đó, tưởng nó kẹo kéo, trả giá thấy ớn luôn, đi một vòng Sài Gòn mà nó trả có năm đô, vậy mà tui đãi nó dĩa cơm thôi, cái nó cho luôn một trăm đô, tui phải lật đật đi hỏi người ta, chớ sợ đô giả đó cô Phượng, thằng tốt bụng thiệt đó. Chị Phượng cười tươi, khách trong quán ai cũng ra cầm tờ trăm đô săm soi, cha Năm bữa nay trúng mánh quá, được hơn hai triệu bạc cuốc xe, ờ ờ, cô Phượng ơi, tui trả hết tiền cơm tháng, còn dư đãi bà con bữa chiều nay nha, được được chú Năm, bữa nay vui quá xá.

(P/S: như thường lệ, nguồn Đàm Hà PhúChuyện nhỏ Sài Gòn, share mạnh không cần hỏi nha)



đầu tuần, kể chuyện café

số là hôm qua, hai cha con tôi đi UnionSquare chơi, chơi chán mới rủ nhau đi kiếm chỗ uống cafe, TrungNguyên thì tôi không thích, đi HighLand thì anh Văn không thích, cuối cùng chúng tôi chọn Calibre Cafe, một chỗ ấm cúng. Tôi gọi một ly Capuchino và chơi trò ném bong bóng với anh Văn, tôi sẽ đập quả bóng bóng, cho nó bay ra ngoài để anh Văn leo qua cái lưng ghế sofa chạy đi nhặt, trò đơn giản chủ yếu làm mặt làm mũi cho anh Văn vui. Nhưng rồi trò chơi mau chán, bởi khi trái bong bóng vừa bay ra ngoài lối đi thì lập tức có ai đó nhặt trước và đem lại cho anh Văn kèm một nụ cười thật tươi, làm anh Văn không có cơ hội leo qua cái lưng ghế để cho tôi giả làm mặt giận dữ

tôi nhận ra chỗ ngồi của mình gần một cái lò nướng bánh, thứ bánh mì trứng nướng hình tròn cắt góc tư có dập carô mà mấy bà mấy cô hay bán cho khách bộ hành ở trung tâm Sài Gòn. Theo đề xuất của anh Văn, chúng tôi gọi một phần bánh nướng ăn kèm với kem. Cô gái phục vụ trẻ bắt đầu nướng bánh cho chúng tôi, mùi bánh nướng thơm phức làm khách từ mấy bàn cafe gần đó cũng lân la tới và gọi thêm nhiều phần bánh nữa, cô gái nướng bánh bắt đầu lúng túng khi có nhiều người vây quanh hít hà và chờ đợi, rồi cái lò nướng trở chứng cứ rớt dây cắm suốt, rồi hết bơ, hết bột… nhiều sự cố liên tiếp xảy ra làm cô gái hơi luống cuống dù luôn miệng mỉm cười. Một cô gái khác đến giúp cô cho bột vào khuôn, tôi cúi xuống giữ cọng dây điện cho nó khỏi rớt, anh khách lớn tuổi nọ cầm cái nắp lò trong khi cô gái gỡ bánh, không quên luôn miệng động viên cô gái, em làm giỏi lắm, sao em không mở lò bánh chứ. Mẻ bánh đầu tiên bị hư, chị nọ nói liền, ê đừng bỏ, em cứ đưa đây chị quất luôn, nhưng cô gái vẫn nướng lại mẻ bánh khác trong sự háo hức của mọi người, tất cả đều vui. Sau đó bạn Thắm đến và thử một miếng bánh, rồi khen rất ngon, cô gái vẫn nán lại quay qua nói với chúng tôi rằng cô mới vào đây làm, và cái lò này thì quá cũ nên khó sử dụng, ồ, ai quan quan tâm chứ, bánh ngon lắm, cô gái ơi


hết chuyện, đầu tuần vui vẻ và hãy tử tế với nhau

note cũ,

"có người trả rồi"


ở Sài Gòn, thỉnh thoảng bạn đi ăn tiệm và lúc đứng lên móc bóp gọi tính tiền thì bạn nghe chủ quán nói, nãy có người/anh kia/chị kia... trả rồi, bạn khựng lại đôi chút, rồi cười. Đôi khi bạn biết người đã trả tiền cho mình vì nãy vào quán có nhận ra người quen hoặc nói đôi câu xã giao, nhưng cũng có lúc bạn chịu không nhớ ra là ai, bạn cố gắng hỏi chủ quán xem dung mạo người ấy thế nào, người ta có nói gì không, hỏi vậy thôi chớ dắt xe ra khỏi quán bạn cũng quên, người trả tiền cho bạn thì còn quên mau hơn, nhét cái bóp vô túi là họ quên, chủ quán cũng chẳng để ý đâu, mỗi ngày quán đó có hàng biết bao khách trả tiền qua lại kiểu đó, chuyện nhỏ mà.

tôi cũng có vài lần được trả tiền "giùm" kiểu đó, mới đầu tôi ngại lắm, cứ mang tâm lý biết ơn mãi, nhưng sau thấy cũng bình thường, thay vì cảm kích người đã trả tiền cho mình, tôi chọn cách của Sài Gòn, là trả tiền cho người khác nữa, vậy đi

thường thì việc "có người trả rồi" này chỉ dừng mức nho nhỏ như tô phở, ly cafe, dĩa cơm tấm... nhưng cũng có khi là chầu lẩu dê năm bảy người hay một bữa nhậu say ngoắc cần câu, dù số tiền trả là bao nhiêu thì nó cũng thành chuyện nhỏ, tôi chắc là không ai nhớ, người được trả không nhắc, người trả cũng không kể, chuyện chỉ có Sài Gòn và ông chủ quán biết mà thôi.

có điều hay, như một cái luật, ở Sài Gòn, là người chủ quán không bao giờ ăn gian số tiền đó, ví như, nếu người chủ quán nhận tiền của người trả giùm mà lát sau vẫn ra tính tiền của người được trả thì đâu ai biết nè, nhưng mà không có, ở Sài Gòn thì không có chuyện đó, chỉ là nụ cười đẫm mồ hôi dầu mỡ và cái khoát tay, bàn này có người tính tiền rồi.
...................................................................................................................................................................


May 17 · 
MẸ TÔI & LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ
Nguyễn Kiến ---Mẹ tôi chỉ là một thư ký thường cho một công sở ở Sài Gòn trước năm 1975. Vào cái trưa ngày 30/04/1975, khi biết chắc miền Nam đã thất thủ và Việt cộng đang từ từ tiến vô Sài Gòn, Mẹ tôi lặng lẽ mở tủ lấy lá Cờ Quốc Gia, bỏ vô chiếc thau đồng vẫn thường để đốt vàng bạc trong các dịp cúng giổ trong gia đình, rồi đem xuống bếp, thắp ba cây nhang lâm râm khấn vái trước khi châm lửa đốt. Lúc đó chúng tôi cũng biết việc cất giữ những gì thuộc về chế độ cũ sẽ mang tới tai hoạ cho gia đình, huống chi là lá Cờ Quốc Gia, nên Mẹ tôi phải đốt đi; nhưng những điều mà Mẹ tôi giải thích sau đó về việc khấn vái trước khi đốt lá cờ mang một ý nghĩa khác hơn mà suốt đời tôi không quên được. Mẹ tôi nói:
– «Biết bao nhiêu anh chiến sĩ quốc gia đã chết dưới lá cờ ni, chừ vì thời thế mà mình phải đốt đi, mình cũng phải xin phép người ta một tiếng!».
Thế rồi, những năm tháng sống dưới chế độ cộng sản bắt đầu đến với người dân miền Nam. Như bao nhiêu gia đình khác, gia đình tôi ngơ ngác, bàng hoàng qua những chiến dịch, chính sách liên tiếp của Việt cộng. Hết “chiến dịch đổi tiền ”, “chính sách lương thực, hộ khẩu ”, đến “chính sách học tập cãi tạo đối với nguỵ quân, nguỵ quyền”, “chiến dịch đánh tư sản mại bản ”, «chính sách kinh tế mới » … và nhiều nữa không kể hết. Ai nói Việt cộng ngu ngốc, chứ riêng tôi thì thấy họ chỉ vô đạo đức và kém văn hoá, kỹ thuật; chứ thủ đoạn chính trị thì thật cao thâm ! Chính sách nào của Việt cộng cũng làm cho người dân miền Nam khốn đốn, dìm sâu con người đến tận bùn đen.
Đầu tiên là «chiến dịch đổi tiền», họ phát cho mổi gia đình một số tiền bằng nhau, như vậy mổi gia đình đều nghèo như nhau, không ai có thể giúp ai được. Họ tuyên bố vàng, bạc, quý kim, đá quý là thuộc tài sản của Nhà Nước, ai mua, bán, cất giữ thì bị tịch thu.
Kế đến là «chính sách hộ khẩu», tức là mổi gia đình phải kê khai số người trong gia đình để được mua lương thực (tức là gồm khoai, sắn và gạo mốc) theo tiêu chuẩn, nghĩa là mổi người (mà họ gọi là «nhân khẩu») được 13 kg lương thực mổi tháng.
Bao vây như vậy vẫn chưa đủ chặt, Việt cộng sau đó còn ban hành lệnh cấm người dân mang gạo và các loại hoa màu khác từ vùng này sang vùng khác, bất kể là buôn bán hay chỉ là để cho bà con, con cháu. Thành thử các vùng thôn quê miền Nam (vốn dư thừa lúa gạo) mà lúc bấy giờ cũng không thể đem cho bà con, con cháu ở thành phố; nhiều bà nội, ngoại phải giấu gạo trong lon sữa guigoz để đem lên thành phố nuôi con cháu bị bệnh hoạn, đau ốm…

Như vậy là họ đã hình thành một cái chuồng gia-súc-người khổng lồ, con vật-người nào ngoan ngoãn thì được cho ăn đủ để sống, con nào đi ra khỏi cái chuồng đó thì chỉ có chết đói. Chính sách này còn cao thâm ở chổ mà miền Nam ngày trước không có là không thể có cái việc «các má, các chị nuôi giấu cán bộ giải phóng trong nhà» như Việt cộng đã đĩ miệng, phỉnh phờ người dân trước đây.
Ba tôi rồi cũng đi tù «cãi tạo» như bao nhiêu sĩ quan, công chức miền Nam khác, Mẹ tôi ở lại một mình phải nuôi bầy con nhỏ. Bây giờ mổi khi hồi tưởng lại đoạn đời đã qua, tôi vẫn tự hỏi, nếu mình là mẹ mình hồi đó, liệu mình có thể bươn trãi một mình để vừa nuôi chồng trong tù vừa nuôi một đàn con dại như vậy không? Trong lòng tôi vẫn luôn có một bông hồng cảm phục dành cho Mẹ tôi và những phụ nữ như Mẹ tôi đã đi qua đoạn đời khắc nghiệt xưa đó.

Từ một công chức cạo giấy Mẹ tôi trở thành “bà bán chợ trời” (bán các đồ dùng trong nhà để mua gạo ăn), rồi sau khi kiếm được chút vốn đã “tiến lên” thành một «bà bán vé số, thuốc lá lẻ» đầu đường. Thời đó, cái thời chi mà khốn khổ! Mẹ tôi buôn bán được vài bữa thì phải tạm nghỉ vì hễ khi có «chiến dịch làm sạch lòng, lề đường», công an đuổi bắt những người buôn bán vặt như Mẹ tôi, thì phải đợi qua “chiến dịch” rồi mới ra buôn bán lại được. Có khi Mẹ tôi đẩy xe vô nhà sớm hơn thường lệ, nằm thở dài, hỏi ra mới biết Mẹ tôi bị quân lưu manh lường gạt, cụt hết vốn.
Thời bấy giờ, do chính sách «bần cùng hoá nhân dân» của Việt cộng đã tạo ra những tên lưu manh, trộm cắp nhiều như nấm. Có tên đến gạt Mẹ tôi đổi vé số trúng mà kỳ thật là vé số cạo sửa, vậy là Mẹ tôi cụt vốn; có tên đến vờ hỏi mua nguyên một gói thuốc lá Jet (thời đó người ta thường chỉ mua một, hai điếu thuốc lẻ, nên bán được nguyên gói thuốc là mừng lắm), thế rồi hắn xé bao lấy một điếu, rồi giả bộ đổi ý, trả gói thuốc lại, chỉ lấy một điếu thôi, vài ngày sau Mẹ tôi mới biết là hắn đã tráo gói thuốc giả!
Một buổi tối, tôi ra ngồi chờ để phụ Mẹ tôi đẩy xe thuốc vô nhà, thì có một anh bộ đội, còn trẻ cỡ tuổi tôi, đội nón cối, mặc áo thun ba lỗ, quần xà lỏn (chắc là đóng quân đâu gần đó) đến mua thuốc lá. Hồi đó, bộ đội Việt cộng giấu, không mang quân hàm nên chẳng biết là cấp nào, chỉ đoán là anh nào trẻ, mặt mày ngố ngố là bộ đội thường, cấp nhỏ, anh nào người lùn tẹt, mặt mày thâm hiểm, quắt queo như mặt chuột thì có thể là công an hay chính trị viên…
Anh bộ đội hỏi mua 3 điếu thuốc Vàm Cỏ, rồi đưa ra tờ giấy một đồng đã rách chỉ còn hơn một nửa. Mẹ tôi nói:
«Anh đổi cho tờ bạc khác, tờ ni rách rồi, người ta không ăn».
Anh bộ đội trẻ măng bỗng đổi sắc mặt, cao giọng lạnh lùng:
«Chúng tôi chưa tuyên bố là tiền này không tiêu được!».

À, thì ra những thằng oắt con Việt cộng này cũng biết lên giọng của kẻ chiến thắng, giọng của kẻ nhân danh một chính quyền ! Lúc này tôi mới sực thấy cái quần xà lỏn màu vàng mà hắn đang mặc được may bằng lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ ! Mẹ tôi lẳng lặng lấy tờ tiền rách và đưa cho hắn 3 điếu thuốc. Khi hắn đã đi xa, Mẹ tôi vò tờ bạc vất xuống cống và nói nhỏ đủ cho tôi nghe:
«Thôi kệ, một đồng bạc, cãi lẫy làm chi cho mệt… Hắn mặc cái quần… làm chi rứa, thắng trận rồi thì thôi, sỉ nhục người ta làm chi nữa, con hí?».

Thì ra Mẹ tôi cũng đã nhận ra cái quần hắn mặc may bằng lá Cờ Quốc Gia và điều mà Mẹ tôi quan tâm nhiều hơn là lá cờ, chứ không phải tờ bạc rách!
Khi Việt cộng mới chiếm miền Nam, nhiều người vẫn tưởng Việt cộng cũng là người Việt, không lẽ họ lại đày đoạ đồng bào. Nhưng sau nhiều năm tháng sống dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu ra rằng Việt cộng xem dân miền Nam như kẻ thù muôn kiếp, họ tự cho họ là phe chiến thắng «vẻ vang» và có quyền cai trị tuyệt đối đám dân xem như không cùng chủng tộc này.

Một hôm, đang ngồi bán thuốc lá, Mẹ tôi tất tả vô nhà, kêu đứa em tôi ra ngồi bán để mẹ đi có việc gì đó. Một lúc sau Mẹ tôi trở về và kể cho chúng tôi một câu chuyện thật ngộ nghĩnh. Mẹ kể:
– «Mẹ đang ngồi ngoài đó thì nghe mấy bà rủ nhau chạy đi coi người ta treo Cờ Quốc Gia trên ngọn cây. Té ra không phải, có cái bao ny-lông màu vàng có dãi đỏ, chắc là gió thổi mắc tuốt trên ngọn cây cao lắm, người ta tưởng là Cờ Quốc Gia. Mà lạ lắm con, có con chó nó cứ dòm lên cây mà sủa ra vẻ mừng rỡ lắm, rứa mới lạ, chắc là điềm trời rồi!».

Mẹ tôi là vậy đó, bà hay tin dị đoan, nhưng chính ra là Mẹ tôi nhìn mọi việc bằng tình cảm trong lòng mình.
Thời gian trôi mãi không ngừng… Cuối cùng rồi Ba tôi cũng may mắn sống sót trở về sau gần 10 năm trong lao tù cộng sản, Mẹ tôi vẫn bán thuốc lá lẻ, chúng tôi sau nhiều lần bị đánh rớt Đại Học, đành phải tìm việc vặt vãnh để kiếm sống. Đôi khi tôi tự hỏi, cuộc đời mình sẽ ra sao, liệu mình có thể có một mái gia đình, vợ con như bao người khác không trong khi mà cả gia đình mình không hề thấy một con đường nào trước mặt để vươn lên, để sinh sống với mức trung bình!? «Mọi người sinh ra đều bình đẳng… và ai cũng được quyền mưu cầu hạnh phúc…» câu ấy nghe có vẻ hiển nhiên và dễ dàng quá; nhưng phải sống dưới chế độ cộng sản, việc gì cũng bị truy xét lý lịch đến ba đời, mới thấm thía ý nghĩa và hiểu được vì sao người ta dùng câu ấy để mở đầu cho bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền bất hủ.
Một ngày khoãng đầu năm 1990, công an phường đến đưa cho Ba tôi một tờ giấy có tiêu đề và đóng dấu của Công An Thành Phố, nội dung vỏn vẹn “đến làm việc”. Gia đình tôi lo sợ là Ba tôi sẽ bị bắt vô tù lại, Ba tôi thì lẳng lặng mặc áo ra đi, hình như các ông «sĩ quan học tập» về đều trở thành triết gia, bình thản chấp nhận thực tại. Hay là thân phận của con cá nằm trên thớt, thôi thì muốn băm vằm gì tuỳ ý.
Rồi Ba tôi về nhà với một tin vui mà cả nhà tôi có nằm mơ cũng không thấy được, công an thành phố kêu Ba tôi về làm đơn nộp cho Sở Ngoại Vụ vì gia đình tôi được Nhà Nước “nhân đạo” cho đi định cư ở Hoa Kỳ! Thật không sao kể xiết nổi vui mừng của gia đình tôi với tin này, đang từ một cuộc sống tuyệt vọng nơi quê nhà mà nay được ra đi đến một quốc gia tự do, giàu mạnh nhất thế giới! Những ngày sau đó lại cũng là Mẹ tôi đi vay mượn, bán những món đồ cuối cùng trong nhà chỉ để có tiền làm bản sao photocopy các giấy tờ “Ra Trại” của Ba tôi, khai sinh của chúng tôi, đóng tiền cho “Dịch Vụ”… để làm thủ tục xuất cảnh.

Chỉ khoảng 6 tháng sau là gia đình tôi lên máy bay để bay qua trại chuyển tiếp bên Thái Lan. Tôi lên máy bay, ngồi nhìn xuống phi trường Tân Sơn Nhất dưới kia mà nước mắt cứ trào ra không ngăn được. Thế là hết, đất nước này của tôi, thành phố Sài Gòn này của tôi, nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, một lát nữa đây sẽ vĩnh viễn rời xa, bao nhiêu vui buồn ở đây, mai sau chỉ còn trong kỷ niệm! Tôi quay lại nhìn thấy Ba tôi mặt không lộ vẻ vui buồn gì cả, còn Mẹ tôi thì nhắm mắt như đang cầu nguyện và Mẹ tôi cứ nhắm mắt như thế trong suốt chuyến bay cho đến khi đặt chân xuống Thái Lan, Mẹ tôi mới nói:
– “Bây giờ mới tin là mình thoát rồi!”.
Sau khoảng 3 tuần ở Thái Lan, gia đình chúng tôi lên máy bay qua Nhật, rồi đổi máy bay, bay đến San Francisco, Hoa Kỳ.
Ngày đầu tiên đến Mỹ được người bà con chở đi siêu thị của người Việt, thấy lá cờ Việt Nam bay phất phới trên mái nhà, Mẹ tôi nói:
– «Úi chao, lâu lắm mình mới thấy lại lá cờ ni, cái Cờ Quốc Gia của mình răng mà hắn hiền lành, dễ thương hí?».
Rồi Mẹ kêu tôi đi hỏi mua cho mẹ một lá Cờ Quốc Gia bằng vải, đem về cất vào ngăn trên trong tủ thờ.
Chúng tôi dần dần ổn định cuộc sống, cả nhà đều ghi tên học College, Mẹ tôi cũng đi học College nữa và xem ra bà rất hứng thú với các lớp ESL (English as a Second Language); đặc biệt là các lớp có viết essays (luận văn).

Mẹ tôi viết luận văn rất ngộ nghĩnh, thí dụ đề tài là «Bạn hãy nói các điểm giống nhau và khác nhau của một sự việc gì đó giữa nước Mỹ và nước của bạn» thì Mẹ tôi lại viết về lá Cờ Quốc Gia. Ý Mẹ tôi (mà chắc chỉ có mình tôi hiểu được) là nước Việt Nam có đến hai lá cờ khác nhau với hai chế độ tương phản nhau mà người Mỹ thời này hay ngộ nhận cờ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng của Việt cộng; trong khi lá cờ đó không phải là lá cờ thiêng liêng của người Việt tại Mỹ. Rải rác trong suốt bài luận văn dài tràng giang đại hải của Mẹ tôi là những mẩu chuyện thật mà Mẹ tôi đã trải qua suốt thời gian sống dưới chế độ Việt cộng. Mẹ tôi kể là mẹ thấy bà giáo Mỹ đọc say mê (tôi nghĩ có lẽ là bà giáo Mỹ sống ở nước tự do, dân chủ không thể ngờ là có những chuyện chà đạp, bức hiếp con người như thế dưới chế độ cộng sản). Khi bài được trả lại, tôi cầm bài luận của Mẹ tôi xem thì thấy bà giáo phê chi chít ngoài lề không biết bao nhiêu là chữ đỏ: «interesting!», «Narrative», «I can’t believe it!”… . và cuối cùng bà cho một điểm “D” vì… lạc đề!
Cuộc sống chúng tôi dần dần ổn định, vô Đại Học, lấy được bằng cấp, chứng chỉ, rồi đi làm, cuộc sống theo tôi như thế là quá hạnh phúc rồi. Dạo đó, có anh chàng Trần Trường nào đó ở miền Nam California, tự nhiên giở chứng đem treo lá cờ đỏ sao vàng của Việt cộng trong tiệm băng nhạc của anh ta làm cho người Việt quanh vùng nổi giận, đồng bào đem cả ngàn lá Cờ Quốc Gia, nền vàng ba sọc đỏ đến biểu tình trước tiệm anh ta suốt mấy ngày đêm. Mẹ tôi ngồi chăm chú xem trên truyền hình và nói với tôi:
– “Tinh thần của người ta còn cao lắm chớ, mai mốt đây mà về thì phải biết!”
Ý Mẹ tôi nói là sau này khi không còn cộng sản ở Việt Nam nữa thì chắc đồng bào sẽ hân hoan trở về treo lên cả rừng Cờ Quốc Gia chớ không phải chỉ chừng này đâu.

Thời gian trôi nhanh quá, chúng tôi đã xa quê hương gần 20 năm, Việt cộng vẫn còn đó, vẫn cai trị đất nước tôi. Sau này do chúng tôi, kể cả cha chúng tôi nữa, đều học xong và ra đi làm, không ai có thể chở Mẹ tôi đi học ESL nữa nên Mẹ tôi phải ở nhà thui thủi một mình, buồn lắm. Có lần tôi hỏi mẹ có muốn về Việt Nam một chuyến để thăm bà con lần cuối không, Mẹ tôi nói:
> – “Không, về làm chi, rồi mình nhớ lại cảnh cũ, mình thêm buồn; khi mô mà hoà bình rồi thì mẹ mới về!”
> Ý mẹ nói “hoà bình” nghĩa là khi không còn cộng sản nữa.
> Rồi Mẹ tôi bệnh, đưa vô nhà thương, bác sĩ chẩn đoán Mẹ tôi bị ung thư phổi, cho về nhà để Hospice Care đến chăm sóc (Hospice là các tổ chức thiện nguyện ở khắp nước Mỹ, nhiệm vụ của họ là cung cấp phương tiện, thuốc men miễn phí nhằm giảm nhẹ đau đớn cho những người bệnh không còn cứu chữa được nữa). Mẹ tôi mất không lâu sau đó. Mẹ nằm lại đất nước Mỹ này và vĩnh viễn không còn nhìn thấy lại quê hương mình lần nào nữa.

Trong lúc lục giấy tờ để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để đựng ít tiền và các giấy tờ tuỳ thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước… Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có lẽ lá cờ vàng hiền lành này đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã khuất.
Nguyễn Kiến

Like · Comment · 








No comments:

Post a Comment