Tuesday, September 1, 2015

truyện dịch.

深圳晚间新闻
(Báo Thâm Quyến tin tức buổi chiều) - Phùng Hoài Ngọc dịch và giới thiệu
 Thơ và cuộc đời ngắn ngủi của Hứa Lập Chí
Hứa Lập Chí
 Hứa Lập Chí  (许立志) (1990-2014)  là anh công nhân thứ 18 nhảy lầu tự sát vì cuộc sống bế tắc, ở Thâm Quyến, khu công nghiệp nổi tiếng tỉnh Quảng Đông, thọ 24 tuổi … Anh để lại một số bài thơ báo hiệu một tài năng thi ca. Bạn anh là công nhân Châu Khải Tảo đã viết một bài thơ viếng bạn. Giang Nam lãng tử chọn dịch và giới thiệu 8 bài thơ của Hứa Lập Chí và bài viếng bạn của Châu Khải Tảo. 
Trung Cộng bóc lột xương máu mồ hôi và cướp tuổi trẻ của công nhân để hạ giá thành sản phẩm, xuất khẩu hàng giá rẻ ồ ạt chiếm lĩnh thị trường, vươn lên vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chạy đua vũ trang… 
Việt Nam là cửa ngõ hàng giá rẻ TQ…Bạn nghĩ gì về hàng giá rẻ TQ? 
Bài 1. 《冲突Xung đột
Người ta đều nói
 tôi chỉ là đứa trẻ mới biết mấy chữ.
 Nghe vậy tôi không hề phủ nhận
Nhưng thực tế là
dù tôi nói hay không nói
Đều hiểu rằng tôi với xã hội này
phát sinh xung đột .
7 June 2013 7/6/2013 
Bài 2. 我就那样站着入睡Tôi buồn ngủ đứng như thế này
 Tờ báo trước mắt tôi nhỏ xíu ngả màu vàng
Với cây bút sắt tôi đục lên đó vệt màu đen lô nhô.
Bên trong đầy những chữ về công việc
xí nghiệp, dây chuyền sản xuất, bệ máy, sổ ghi công, làm thêm giờ, lương bổng…
Họ đã huấn luyện tôi trở nên ngoan ngoãn
Tôi không biết thét lên, không biết nổi loạn.
Không biết phàn nàn, không biết chôn vùi oán hận.
Chỉ biết nín lặng, chịu đựng thương đau và kiệt sức.
Lúc tôi đặt chân lên chốn này
chỉ hy vọng ngày mùng 10 hàng tháng đồng lương với tờ giấy bạc xám  tro truồi ra. (chui từ hộp ATM)
để ban thưởng cho tôi sự an ủi muộn màng.
Đối với điều này, tôi đã phải mài đi cá tính góc cạnh của tôi, mài mòn đi lời nói của tôi,
Không dám bỏ công việc, từ chối nghỉ ốm, từ chối nghỉ phép có lý do cá nhân,
Không dám đi trễ, không dám nghỉ sớm,
Bên dây chuyền sản xuất, tôi đứng thẳng như thanh sắt, tay nhanh như chớp
Bao nhiêu ngày trắng, bao nhiêu đêm đen
Tôi đã ngủ đứng -như thế này rồi ư ?
20 August 2011 
Bài 3.
一颗螺丝掉在地上Một con ốc vít rơi xuống đất
 Trong đêm khuya quá muộn
Ai lao mình thẳng xuống, nhè nhẹ một tiếng động
Nó không lôi cuốn ai chú ý
Chỉ giống như lần trước
trong một đêm như thế này
có một người lao mình xuống đất
 9 January 2014
Bài 4. 谶言一种》 Một loại sấm truyềnCác già làng đều nói
Tôi giống ông nội tôi thời ông còn trẻ.
tôi chẳng nhận ra điều đó
Về sau tôi lắng nghe họ thêm lần nữa
tôi tin như thế chẳng chút ngờ.
 tôi theo đường ông nội
không chỉ giống vẻ ngoài mà giống cái tinh thần
giống luôn cái tính tình và sở thích
gần như thể chúng tôi cùng đi ra từ một tử cung
Họ gọi ông là “cây sào tre”
và tôi là cái “giá treo áo”
ông thường phải im hơi lặng tiếng
tôi thường phải khúm núm
ông khoái đoán câu đố
tôi thích tiên tri
Vào mùa Thu năm 1943, bọn quỷ Nhật Bản tiến vào
thiêu sống ông nội tôi
ở tuổi  23
Tôi năm nay bước vào 23 tuổi
 18 June 2013 / 18/6/2013
Bình ngắn:* Nhà thơ 24 tuổi nghĩ rằng cuộc đời ông nội chết thảm dưới tay quân Nhật xâm lược và anh sẽ chết thảm dưới chế độ mới này.
 Bài 5.
最后的墓地Ngôi mộ cuối cùng 
Ngay cả cỗ máy cũng ngồi ngủ gà ngủ gật
xưởng máy niêm phong tàng trữ khối sắt bệnh tật
tiền lương giấu đằng sau đôi rèm cửa
Tựa như tình yêu mà người lao động trẻ chôn ở đáy trái tim họ
Chẳng có thời gian để bày tỏ tình yêu, tình cảm vỡ vụn thành bụi
Họ có những cái dạ dày luyện bằng sắt
ngập đầy a xít sulfuric và nitric
Công nghiệp nhắm vào họ, thu gom lấy nước mắt của họ trước khi ứa ra
thời gian trôi qua họ tỉnh dậy chẳng thấy gì.
sản lượng đè thấp tuổi tác xuống, nỗi đau làm việc quá giờ cả ngày đêm
Cái đầu chưa già choáng váng trước khi sinh mệnh hồi phục
Da thịt bày ra giằng co với dụng cụ rồi bị đẩy lui
Và trong khi nó ở đó, phủ trên một lớp hợp kim nhôm
Một số người vẫn chịu đựng, trong khi những người khác bị bệnh cướp đi
Tôi đang ngủ gật giữa họ, canh chừng
Ngôi mộ cuối cùng của bọn trẻ chúng ta 
 21 December 2011 
Bài 6.
我一生中的路还远远没有走完Cuộc hành trình đời tôi còn lâu mới tới đích 
Đây là cái không ai chờ đợi nó tới
Hành trình của đời tôi
Vẩn ở xa xa, không thể đi tới đích
Nhưng bây giờ đã ngã nhào ở nửa đường
Cảnh khốn cùng cũng tương tự
Chưa từng tồn tại trước đây
Nhưng không có gì như thế này
Đến rất đột ngột
Hung dữ thế này
Lại cố đấu tranh
Nhưng tất cả là vô ích
Tôi khát vọng đứng lên hơn bất cứ ai
Nhưng chân tôi không đáp ứng
Dạ dày tôi không đáp ứng
Tất cả xương cốt tôi không đáp ứng
Tôi chỉ nằm duỗi thẳng như thế này
Trong bóng đêm mà phát ra nhiều lần
Tín hiệu cầu cứu vô thanh
Lại nghe thấy một lần nữa
Tiếng tuyệt vọng dội lại
— 13 July 2014 
Bài 7.
我咽下一枚铁做的月亮Tôi nuốt cái vầng trăng bằng sắt
 Tôi nuốt vào một cái vầng trăng bằng sắt
Họ gọi nó là một cái đinh ốc
Tôi nuốt nước thải công nghiệp này, các đơn đặt hàng thất nghiệp
Thanh niên cắm cúi tại cỗ máy chết sớm trước thời hạn của nó
Tôi nuốt sự hối hả và trôi giạt mất việc
nuốt những cái cầu vượt cho người đi bộ, nuốt cảnh sống bao phủ nước rỉ rả
tôi không thể nuốt thêm gì nữa
Tất cả những gì tôi đã nuốt rồi, giờ được phun ra khỏi cổ họng mình
Phun bừa trên mảnh đất của tổ quốc thành một đống
thành một bài thơ hổ thẹn.
19 December 2013

Bài 8. 《出租屋Rời khỏi nhà trọ 
Một nơi rộng mười mét vuông
Chật chội và ẩm ướt, thiếu nắng mặt trời quanh năm
Nơi này tôi ăn, ngủ, ỉa và suy nghĩ
Ho, nhức đầu, già đi, mắc bệnh nhưng vẫn không chết được
Dưới hoàng hôn nhợt nhạt tăm tối, một lần nữa tôi nhìn chằm chằm ngây ngô, cười như một thằng ngốc
đi tới đi lui, hát thấp giọng, đọc sách, làm thơ
Mỗi lần tôi mở hai cánh cửa hay là cửa đan cành liễu
Tôi giống như một kẻ chết rồi
thong thả đẩy mở nắp quan tài. 
 2 December 2013 
***
Bài 9. Bài thơ viếng bạn của công nhân Châu Khải Tảo
惊闻后青工诗人许立志坠楼有感
  Hoảng sợ nghe tin Hứa Lập Chí tự sát 
Mỗi cuộc đời mất đi
là sự ra đi của một tôi khác
Lại một con ốc lỏng lẻo
lại một anh em công nhân ngã lầu chết
Bạn chết thay cho tôi đi tới
và tôi tiếp tục làm thơ thay bạn.
Trong khi tôi làm việc đó, tôi vặn thêm con ốc chặt sâu hơn
Hôm nay là ngày sinh nhật tổ quốc ta lần thứ 65
Chúng tôi chúc đất nước hưởng niềm vui.
Hai mươi bốn tuổi bạn đứng trong khung ảnh màu xám, mỉm cười nhẹ nhàng hơn bao giờ.
Trong gió thu và mưa thu
Một người cha tóc bạc phơ, cầm cái bình  đen đựng tro cốt
– ngôi nhà tình cờ của bạn tôi. 
Châu Khải Tảo 
  1. October 2014 (quốc khánh Trung Quốc 1/10/2014)
PHN


Tại sao Alice Munro đoạt giải Nobel ? - Jens Hansegard - Phùng Hoài Ngọc dịch
Hơn một trăm phóng viên từ khắp nơi trên thế giới đổ xô và hối hả trong tòa nhà chứng khoán trong khu phố cổ Stockholm khoảng một giờ trước khi cánh cửa Viện Hàn lâm Thụy Điển bật mở. Đáng chú ý, có rất nhiều phóng viên Nhật Bản hiện diện, hy vọng sẽ nghe rõ tin tức về việc nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami giành được giải thưởng. Cuối cùng, Peter Englund- thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển – bước ra từ cửa và cho biết: nhà văn viết truyện ngắn Alice Munro người Canada đã giành được giải thưởng Nobel văn học năm 2013.
Sau đây là một số câu Hỏi & Đáp rút ngắn của các phóng viên và thư ký Englund (Các câu hỏi đã được viết tắt và rõ).
Tại sao Alice Munro giành chiến thắng ?
Chúng tôi đã tặng Alice Munro giải thưởng Nobel Văn học vì bà ấy là một bậc thầy của truyện ngắn hiện đại.
Những cuốn sách đầu tiên với việc bàn bạc trao giải thưởng là gì?
Một trong những điều tuyệt vời về bà ấy là bà không có tác phẩm non yếu trong toàn bộ tác phẩm của mình. Bà đã luôn luôn làm việc hết khả năng của mình, bà đã luôn luôn thâm canh truyện ngắn để hoàn thiện. Và bà không bao giờ thực sự viết một cuốn sách yếu hay xấu. Vì vậy, bạn có thể đưa ra lựa chọn của bạn. “Những vầng trăng của sao Mộc” (The Moons of Jupiter) của bà là cuốn sách đầu tiên tôi đọc và bạn có thể nhìn thấy cả hai chủ đề khác nhau trong cuốn sách đó và cũng thấy phong cách tường thuật rất đặc biệt của bà, bạn có thể tìm thấy nó ở đó. Bà kể những câu chuyện của mình gần giống như chuyện của người khác. Bà ấy có một ngôn ngữ rất tiết kiệm và phong cách rải rác (ý là không nổi bật ở một tác phẩm nào- PHN). Bạn có thể thấy điều đó trong “Những vầng trăng của sao Mộc”. Bạn có thể đưa ra lựa chọn của bạn. Tác phẩm mới nhất rõ ràng là rất thú vị, “Cuộc sống thân mến”(Dear Life), trong đó có một số bản phác thảo tự truyện ở phần cuối cung cấp một chìa khóa cho toàn bộ tác giả Alice Munro.
Bà ấy được thông báo đoạt giải như thế nào?
Vâng, tôi để lại một tin nhắn điện tử trên máy trả lời của bà. Tôi không thể liên lạc trực tiếp được với bà và tin nhắn đã đến khá sớm vào buổi sáng. Nhưng bà ấy sẽ được thông báo bằng Thư chuyển phát nhanh, qua email cho cả hai đại diện, bằng thư thường và .v.v…
Về tin nhắn ông đã gửi ?
Về cơ bản, là “Xin chúc mừng! Bạn đã đoạt giải Nobel về văn học”.
Tầm quan trọng của một người phụ nữ chiến thắng là gì ?
Đừng hỏi tôi như thế.
 Chúng tôi chọn bà ấy vì sự xuất sắc, không có gì khác. Tất nhiên nó quan trọng khi bạn bắt đầu việc đếm số lượng. Nhưng bà không phải là ngưởi đại diện cho ai, cái gì… Bà ấy nhận được giải thưởng này chỉ vì những gì bà đã làm. Không có gì khác.
Vậy là, sự cân bằng giới tính không được xem xét khi  chấm chọn ?
Chúng tôi không có các loại chỉ tiêu nào, cảm ơn Chúa …Chúng tôi không có bất kỳ chỉ tiêu, tiêu chuẩn nào. Chúng tôi có thể, nếu chúng tôi muốn, trao giải này bốn lần trong một chuỗi liên tiếp, chẳng hạn, cho một cuốn sách viết cho trẻ em làm việc tại Hoa Kỳ. Nếu chúng tôi muốn làm việc đó. Chúng tôi có thể làm khi chúng tôi hài lòng. Chúng tôi không phải làm dấu ngoặc kép trong bất kỳ hướng dẫn nào. Chúng tôi chỉ tặng giải thưởng cho tác giả – nguời trình bày một chất lượng văn học phi thường. Một trong số này là bà Alice Munro.
(Nguồn: The Wall Street Journal 10 tháng 10 năm 2013) - PHN - AG.20/10/2013
[1] . Câu này ẩn ý thú vị: Margaret Rose, một cái tên đẹp, tên phụ nữ. Cô gái nói phải la mắng một cái tên đẹp như thế  thì thực tức cười. “You” ở đây không trỏ anh lính mà nói chung “người ta” trong đó có cô gái vắt sửa bò..
[2] . Tôi rất vui được trả tiền bữa sáng mà. .
[3] Vua nước Anh (1066-1087)
0.01.2014

Tại sao Alice Munro đoạt giải Nobel ? - Jens Hansegard - Phùng Hoài Ngọc dịch
Hơn một trăm phóng viên từ khắp nơi trên thế giới đổ xô và hối hả trong tòa nhà chứng khoán trong khu phố cổ Stockholm khoảng một giờ trước khi cánh cửa Viện Hàn lâm Thụy Điển bật mở. Đáng chú ý, có rất nhiều phóng viên Nhật Bản hiện diện, hy vọng sẽ nghe rõ tin tức về việc nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami giành được giải thưởng. Cuối cùng, Peter Englund- thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển – bước ra từ cửa và cho biết: nhà văn viết truyện ngắn Alice Munro người Canada đã giành được giải thưởng Nobel văn học năm 2013.
Sau đây là một số câu Hỏi & Đáp rút ngắn của các phóng viên và thư ký Englund (Các câu hỏi đã được viết tắt và rõ).
Tại sao Alice Munro giành chiến thắng ?
Chúng tôi đã tặng Alice Munro giải thưởng Nobel Văn học vì bà ấy là một bậc thầy của truyện ngắn hiện đại.
Những cuốn sách đầu tiên với việc bàn bạc trao giải thưởng là gì?
Một trong những điều tuyệt vời về bà ấy là bà không có tác phẩm non yếu trong toàn bộ tác phẩm của mình. Bà đã luôn luôn làm việc hết khả năng của mình, bà đã luôn luôn thâm canh truyện ngắn để hoàn thiện. Và bà không bao giờ thực sự viết một cuốn sách yếu hay xấu. Vì vậy, bạn có thể đưa ra lựa chọn của bạn. “Những vầng trăng của sao Mộc” (The Moons of Jupiter) của bà là cuốn sách đầu tiên tôi đọc và bạn có thể nhìn thấy cả hai chủ đề khác nhau trong cuốn sách đó và cũng thấy phong cách tường thuật rất đặc biệt của bà, bạn có thể tìm thấy nó ở đó. Bà kể những câu chuyện của mình gần giống như chuyện của người khác. Bà ấy có một ngôn ngữ rất tiết kiệm và phong cách rải rác (ý là không nổi bật ở một tác phẩm nào- PHN). Bạn có thể thấy điều đó trong “Những vầng trăng của sao Mộc”. Bạn có thể đưa ra lựa chọn của bạn. Tác phẩm mới nhất rõ ràng là rất thú vị, “Cuộc sống thân mến”(Dear Life), trong đó có một số bản phác thảo tự truyện ở phần cuối cung cấp một chìa khóa cho toàn bộ tác giả Alice Munro.
Bà ấy được thông báo đoạt giải như thế nào?
Vâng, tôi để lại một tin nhắn điện tử trên máy trả lời của bà. Tôi không thể liên lạc trực tiếp được với bà và tin nhắn đã đến khá sớm vào buổi sáng. Nhưng bà ấy sẽ được thông báo bằng Thư chuyển phát nhanh, qua email cho cả hai đại diện, bằng thư thường và .v.v…
Về tin nhắn ông đã gửi ?
Về cơ bản, là “Xin chúc mừng! Bạn đã đoạt giải Nobel về văn học”.
Tầm quan trọng của một người phụ nữ chiến thắng là gì ?
Đừng hỏi tôi như thế.
 Chúng tôi chọn bà ấy vì sự xuất sắc, không có gì khác. Tất nhiên nó quan trọng khi bạn bắt đầu việc đếm số lượng. Nhưng bà không phải là ngưởi đại diện cho ai, cái gì… Bà ấy nhận được giải thưởng này chỉ vì những gì bà đã làm. Không có gì khác.
Vậy là, sự cân bằng giới tính không được xem xét khi  chấm chọn ?
Chúng tôi không có các loại chỉ tiêu nào, cảm ơn Chúa …Chúng tôi không có bất kỳ chỉ tiêu, tiêu chuẩn nào. Chúng tôi có thể, nếu chúng tôi muốn, trao giải này bốn lần trong một chuỗi liên tiếp, chẳng hạn, cho một cuốn sách viết cho trẻ em làm việc tại Hoa Kỳ. Nếu chúng tôi muốn làm việc đó. Chúng tôi có thể làm khi chúng tôi hài lòng. Chúng tôi không phải làm dấu ngoặc kép trong bất kỳ hướng dẫn nào. Chúng tôi chỉ tặng giải thưởng cho tác giả – nguời trình bày một chất lượng văn học phi thường. Một trong số này là bà Alice Munro.
(Nguồn: The Wall Street Journal 10 tháng 10 năm 2013) - PHN - AG.20/10/2013
Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2013, Lãng tử giới thiệu một truyện ngắn của nữ văn sĩ Alice Munro. Truyện ngắn miêu tả một đám nữ sinh lớp Sáu (lớp cuối bậc tiểu học) với tâm lý phức tạp . Vai trò hạt nhân tích cực của cô giáo tiểu học Darling… Nữ văn sĩ Munro là cây bút truyện ngắn chuyên về đề tài phụ nữ và cuộc sống đời thường. Giải Nobel năm nay cho thấy Ban giám khảo Nobel có khuynh hướng quay trở lại với văn học hiện thực chủ nghĩa thuộc phạm trù hiện đại. Điều đó có thể khiến những người sớm vội quay lưng với hiện đại, mải mê tìm tòi “hậu hiện đại”, nay cần nghĩ lại.
Nguyên tác tiếng Anh  “DAY OF THE BUTTERFLY”
Rút trong tập truyện ngắn đầu tay Dance of Happy Shades, của nữ nhà văn Alice Munro, Canada, Nobel văn học 2013.
Tựa đề rất bí ẩn, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: Ngày của con bướm,/ Ngày bươm bướm/ Ngày lụi tàn/ Ngày ngắn ngủi. v.v…Lãng tử có lần tạm dịch cho dễ hiểu là “Ngày quà tặng”.
Người dịch và giới thiệu: Phùng Hoài Ngọc
Vũ Thị Phương Anh hiệu đính 
GNLT
 Tôi không nhớ khi nào Myra Sayla đến thị trấn, mặc dù cô đã có mặt trong lớp học của chúng tôi tại trường từ hai hay ba năm trước. Tôi bắt đầu nhớ tới cô ấy trong năm qua khi em trai cô Jimmy Sayla vào học lớp Một. Jimmy Sayla không quen đi vào nhà vệ sinh một mình và cậu bé thường phải đến cửa Lớp Sáu tìm Myra và cô sẽ đưa em xuống cầu thang. Nhiều khi, cậu bé không tìm được Myra kịp thời và sẽ có một vết xẫm to chỗ nút  quần bông của mình. Sau đó Myra đã phải hỏi giáo viên: “Xin cho phép em đưa em trai về nhà, nó đã làm ướt mình hết rồi “(*1) .
 Đó là lời cô nói lần đầu tiên ở lớp học và chỉ những người ngồi hàng ghế trước nghe thấy cô ấy, bởi giọng của Myra như tiếng hát nhẹ nhất và có một tiếng cười rúc rích cố nén bật lên làm cho cả lớp linh hoạt hẳn lên. Cô giáo của chúng tôi, một cô giáo lịch sự lạnh lùng, đeo kính gọng vàng mỏng mảnh và khi cô rướn cổ nhìn xuống chúng tôi với vẻ quan tâm thì cô trông thật giống một con hươu cao cổ, đã viết một cái gì đó trên một mảnh giấy và đưa cho Myra. Và Myra ngập ngừng nhắc lại: “Em tôi sơ ý làm ướt quần, xin cô vui lòng cho phép”.
 Mọi người đều biết nỗi xấu hổ của Jimmy Sayla vào giờ giải lao (nếu em không được quản lý trong lớp, như thường lệ, để khỏi làm một cái gì đó không nên làm trong trường), cậu không dám đi ra ngoài sân trường, nơi những cậu trai khác và một số đứa lớn hơn đang chờ đợi để đuổi dồn cậu bé một góc, cậu tựa lưng vào hàng rào phía sau và quật cậu bé bằng cành cây. Cậu đành phải ở lại chơi với chị Myra. Ở trường chúng tôi đã có hai phe, phe con trai và phe con gái, và người ta tin rằng nếu bạn bước gần về phe đối lập thì bạn có thể dễ dàng nhận một roi da. Jimmy sẽ không đến bên phe con gái và Myra không thể  đến với phe con trai, và không ai được phép ở lại trường trừ khi trời mưa hay tuyết rơi. Myra và Jimmy chỉ có thể đứng chơi trong giờ nghỉ ở dưới cổng vòm sau trường, đứng vật vờ giữa hai phe. Có lẽ, hai chị em chỉ xem các trò chơi bóng chày, trò đuổi bắt, trò xây dựng nhà lá vào mùa thu và xây  pháo đài tuyết trong mùa đông; có thể, họ đã chẳng xem gì cả.
 Mỗi khi bạn tình cờ nhìn hai chị em, nhìn cái đầu hơi cong, cơ thể gầy gò của chúng gập lại, hơi cứng đờ. Hai khuôn mặt dài mịn hình bầu dục, da tối xẫm kín đáo u sầu, tóc sáng bóng. Tóc cậu bé dài, tự cắt bớt ở nhà, và tóc Myra đã được cuộn trong các dải nặng trên đỉnh đầu, nhìn cô ấy từ một khoảng cách như đội một chiếc khăn xếp quá lớn đối với cô. Trên đôi mắt đen của hai chị em, mí mắt không bao giờ nâng lên thoải mái, một cái nhìn vẻ mệt mỏi. Nhưng không chỉ có thế. Hai chị em giống như những đứa trẻ trong một bức tranh thời trung cổ, như những bức tranh gỗ khắc, để thờ phượng hay ma thuật, với khuôn mặt mịn màng và già trước tuổi, ngoan ngoãn, kín đáo khó hiểu.
 Hầu hết thầy cô tại trường học của chúng tôi đã dạy lâu năm và giờ giải lao họ sẽ biến mất vào phòng của giáo viên và không làm phiền chúng tôi. Nhưng cô giáo của chúng tôi, người phụ nữ trẻ mang cặp kính gọng vàng mỏng manh, thường hay quan sát chúng tôi từ một cửa sổ và đôi khi đi ra, nhanh nhẹn và khó chịu ngăn chặn một cuộc chiến giữa phe con gái hoặc khởi động cuộc thi chạy trong đám lớn hơn, những đứa đã tụ tập cùng nhau chơi trò Sự thật hay Bí mật. Một ngày nọ, cô đi ra và gọi “Các em lớp Sáu, cô muốn nói chuyện với các em”. Cô mỉm cười một cách thuyết phục, tha thiết và khó chịu khủng khiếp, lộ rõ cặp kính gọng vàng, quay xung quanh. Cô nói: “Có một bạn trong lớp Sáu tên là Myra Sayla. Bạn ấy ở trong lớp các em, đúng không? “.
 Chúng tôi lí nhí. Nhưng có một tiếng lảnh lót từ Gladys Healy “Vâng, thưa cô có ạ”.
– Ồ, tại sao Myra chẳng bao giờ chơi với các em? Hàng ngày cô thấy nó đứng dưới cổng vòm sau trường, không chơi đùa. Các em có nghĩ bạn ấy vui vẻ đứng ở đó không ? Các em có nghĩ mình sẽ vui vẻ nếu bị bỏ lại phía sau ấy không ?”.
  Không ai trả lời; chúng tôi đối mặt cô Darling với tất cả tôn trọng, tự tin và chán nản với sự phi thực tế trong câu hỏi của cô. Rồi Glaydys nói “Myra không thể đi chơi với tụi em, thưa cô. Myra còn phải trông nom em bé!”. “Ồ, cô Darling nói với vẻ hoài nghi, nhưng dù sao các em phải tỏ ra dễ mến với bạn ấy chứ, các em không nghĩ vậy sao ? Các em sẽ cố gắng dễ thương hơn nữa, phải không? Cô tin rằng các em sẽ như thế”. Cô Darling tội nghiệp ! Chiến dịch của cô ấy chẳng mấy chốc bị từ chối, sự thuyết phục của cô hoá ra chỉ là than phiền và cầu xin vu vơ.
 Khi cô giáo đi khỏi, Gladys Healy nói thì thầm “Các em sẽ cố gắng hoà nhã hơn, phải không? Tôi biết các em sẽ như thế” và kéo lưỡi về phía sau hàm răng to, nó kêu lên, cởi mở “Tôi không quan tâm trời mưa hay lạnh”. Nó đọc hết cả câu thơ và kết thúc bằng một cách xoay một vòng chiếc váy hoa văn kiểu hoàng gia thời Stuart. Ông Healey quản lý một cửa hàng thức ăn khô và một cửa hiệu bán trang phục phụ nữ, và vai trò thủ lĩnh của con gái ông ta trong lớp chúng tôi một phần tuỳ thuộc vào cái váy trơn lấp lánh và cái áo khoác bông dày của nó, phụ thuộc vào bộ áo vét khuy đồng của nó, tuy nhiên cũng còn phụ thuộc cả vào cái bộ ngực phát triển sớm và sự áp đặt thô bỉ loè loẹt của cá nhân nó… Bây giờ chúng tôi bắt đầu bắt chước giễu nhại cô Darling.
 Trước khi có chuyện ấy chúng tôi chẳng để ý đến Mira bao giờ. Nhưng bây giờ một trò chơi đã được sáng tác ra; nó bắt đầu với câu “Hãy dễ thương với Myra!”. Kế đó chúng tôi sẽ đi bộ thành từng nhóm ba hay bốn đứa về phía cô bé và theo một dấu hiệu, đồng thanh nói “Chào Myra, chào Myra” và kế tiếp với một câu hỏi đại khái là “Bạn gội đầu bằng gì thế, Myra, tóc rất đẹp và sáng bóng, Myra”, “Ô, cô ấy gội đầu với dầu gan cá thu, Myra cô ấy gội đầu với dầu gan cá thu, các bạn không ngửi thấy sao?”.
 Và phải nói thật, có một cái mùi của Myra, nhưng đó là cái mùi chua ngọt như trái cây rẻ tiền. Đó chính là thứ hàng hoá trong một cái cửa hàng trái cây nho nhỏ do gia đình Sayla quản lý. Cha cô ấy ngồi suốt ngày trên cái ghế đẩu bên cửa sổ, với cái áo sơ mi căng phồng, hở bụng và một búi mái tóc đen xoã quanh cái khuy áo bụng, ông ấy ngồi nhai tỏi. Nhưng nếu bạn đi vào cửa hàng thì bà Sayla sẽ ra đón khách, xuất hiện lặng lẽ giữa những tấm màn treo lủng lẳng phía sau cửa hàng. Mái tóc bà ấy gấp nếp trong những đám tóc uốn sóng màu đen và bà ấy cười với cặp môi dày mím chặt và trễ dài ra hết cỡ; bà ấy nói giá cho bạn với giọng nói nho nhỏ, mời bạn trả giá, và khi bạn không trả giá, bà xách túi trái cây đưa cho bạn với đôi mắt mở to như nhạo báng.
 Một buổi sáng mùa đông, tôi đang đi bộ đến quả đồi có khu trường học từ rất sớm, một người hàng xóm cho tôi đi quá giang vào thành phố. Tôi sống cách thị trấn khoảng nửa dặm, ở trang trại, và tôi không nên đi học trường thị trấn chút nào, nhưng sẽ phải đi học trường nông thôn gần đó nơi có cả nửa tá học sinh và một cô giáo hơi loạn trí từ khi cô ấy thay đổi cuộc sống. Nhưng mẹ tôi, một người phụ nữ sùng đạo, đã thuyết phục hội đồng quản trị thu nhận tôi và cha tôi trả học phí cho gia sư phụ đạo, và tôi đi học trường thị trấn. Tôi là học trò duy nhất trong lớp phải mang theo đồ ăn trưa và ăn bánh sandwiches kem đậu phộng.Trong phòng giữ hành lý chỉ có mình tôi, người duy nhất phải mang giày cao su vào mùa xuân khi phải đi bộ trên đường đầy bùn sền sệt. Tôi cảm thấy chút nguy hiểm nhưng bất chấp chuyện đó mà tôi không thể nói chính xác nó là gì.
 Tôi nhìn thấy Myra và Jimmy phía trước tôi trên quả đồi; họ thường đi học khá sớm, thỉnh thoảng rất sớm, đến nỗi họ phải đứng chờ người gác cửa mở cổng trường. Họ  đi bộ thong thả và thi thoảng Myra quay nghiêng nhìn. Tôi thường đi la cà kiểu ấy, muốn nói chuyện với mấy bạn nữ quan trọng thường đi sau lưng tôi, và không hẳn dám dừng lại chờ. Và bây giờ tôi hiểu rằng chính Myra cũng muốn làm điều ấy với tôi. Tôi không biết làm gì bây giờ. Tôi không thể để người ta nhìn thấy đang đi bộ với cô, và tôi thậm chí không muốn như vậy- nhưng mặt khác, Tôi lại nhớ tới những bước đi ngập ngừng/rụt rè và hơi khúm núm ấy của Myra. Tôi hiểu rằng có một vai diễn mới đang hình thành cho tôi và tôi không thể nào cưỡng lại không diễn cái vai ấy. Tôi cảm thấy một niềm vui vội vã, tỉnh táo, hào hiệp; trước khi biết phải làm gì, tôi gọi “Myra, này, đợi tôi, tôi có mang bánh quy dòn” và nhanh nhẹn rảo bước khi cô ấy dừng lại.
 Myra chờ đợi, nhưng cô ấy không nhìn tôi; cô chờ đợi trong thái độ cứng rắn như mọi khi cô gặp chúng tôi. Có thể, cô ấy nghĩ tôi đang chơi một trò lừa gì đó với cô, có lẽ cô ấy nghĩ tôi sẽ chạy nhanh qua và ném mấy cái bánh vào mặt cô. Tôi mở hộp và chìa ra cho cô. Cô nhặt lấy vài chiếc. Jimmy núp dưới áo khoác của chị và không lấy miếng nào khi tôi đưa hộp bánh cho cậu bé.
 “Cậu ấy nhát quá”, tôi an ủi, “rất nhiều em bé nhút nhát như vậy. Cậu ấy chắc rồi sẽ trưởng thành hơn như thế”. Myra nói “Phải”. Tôi nói “tôi có em bé bốn tuổi. Nó nhút nhát kinh khủng…Lấy thêm bánh đi. Tôi nói, tôi thường ăn bánh này suốt nhưng giờ tôi không ăn nữa .Ăn nhiều đồ ngọt quá thì sẽ nổi mụn đấy.
 Một lúc im lặng.
-“Bạn có thích nghệ thuật không?
 Myra uể oải nói – Không, mình thích nghiên cứu Xã hội và Chính tả và Y tế.
– Mình thích Nghệ thuật và số học. Myra có thể làm toán cộng và toán nhân nhẩm trong đầu  nhanh hơn bất cứ ai trong lớp.
-Tôi ước tôi giỏi môn Số học như bạn. Tôi nói và cảm thấy cao thượng.
-Nhưng tôi không giỏi môn Chính tả, Myra nói. Tôi mắc nhiều lỗi, có lẽ tôi sẽ bị rớt. Cô ấy có vẻ không buồn bã vì điều đó, nhưng thích nói cho có chuyện. Cô ấy quay đầu khỏi hướng tôi, nhìn chằm chằm vào bờ tuyết bẩn thỉu dọc đường phố Victoria, và hít hà như thể bị ướt tới môi và lưỡi.
 “Bạn không rớt đâu”- tôi nói- bạn rất giỏi môn Số học. Bạn sẽ làm gì sau này khi lớn lên?
 Trông cô có vẻ bối rối, “Tôi sẽ giúp mẹ tôi” cô nó, “và làm việc trong cửa hàng”.
 – Ừ, còn tôi sẽ làm tiếp viên hàng không, tôi nói, nhưng đừng nói cho ai biết chuyện đó nha. Tôi không nói cho nhiều người biết đâu.
 – Không, tôi không nói đâu, Myra hứa, bạn đã đọc Steve Canyon trên báo chưa?
– Có .Thực kỳ cục khi nghĩ rằng Myra cũng đọc loại truyện tranh đó, hoặc là cô ấy làm điều gì đó xa rời qui tắc mà cô ấy ứng xử ở trường.
– Bạn có đọc Rip Kirby chưa ?”
– Bạn đọc Orphan Annie chưa?
– Bạn đọc Betsy và the Boys chưa?
Myra  ăn bánh quy dòn một cách không khó khăn, tôi nói, ăn một ít nữa đi. Lấy đầy vốc tay nha.
 Myra nhìn vào trong hộp,“Có một giải thưởng trong đó”, cô nói. Cô kéo nó ra. Đó là một cái ghim cài cổ áo hình một con bướm bằng thiếc nhỏ, mạ vàng với chiếc kẹp kính màu, trông như một đồ trang sức. Cô cầm vật đó trên bàn tay màu nâu, mỉm cười dịu dàng.
Tôi hỏi “Bạn có thích cái đó không?”
Myra nói, tôi thích chúng là những viên đá màu xanh.  Đá xanh là loại ngọc sapphires.
-Tôi biết, đá sinh nhật của tôi là sapphires. Đá sinh nhật của bạn là gì?
-Tôi không biết.
-Bao giờ sinh nhật bạn ?
-Tháng Bảy
-Thế thì đá sinh nhật của bạn là ruby.
-Tôi thích sapphires hơn, Myra nói, tôi thích thứ của bạn.
Cô ấy đưa cái kẹp con bướm cho tôi. Tôi bảo:
– Bạn giữ lấy đi. Người tìm thấy là người giữ nó.
 Myra vẫn chìa con bướm ra, như thể cô không hiểu lời tôi nói. Tôi nhắc lại rằng ai tìm thấy thì người ấy có quyền giữ.
 Myra nói “Nhưng bánh quy dòn là của bạn”, cô hoảng sợ, trịnh trọng nói, “bạn mua nó mà”.
– Nhưng bạn tìm thấy nó.
– Không, Myra nói
– Thôi mà, tôi nói, tôi tặng bạn này. Tôi cầm cái kẹp bướm từ tay Myra rồi đẩy trở lại vào bàn tay cô.
Cả hai chúng tôi đều ngạc nhiên. Chúng tôi nhìn nhau, tôi phấn khởi lắm, còn cô ta thì không. Tôi nhận ra một sự cam kết khi các ngón tay chúng tôi xiết chặt; tôi hoang mang, nhưng được rồi, tôi nghĩ, tôi có thể đến sớm và đi bộ cùng cô  những buổi sáng khác nữa. Tôi có thể đi và trò chuyện cùng cô vào giờ giải lao. Tại sao không ? Tại sao không chứ?
  Myra bỏ con bướm vào túi áo. Cô nói, “tôi sẽ đeo nó trên bộ váy đẹp. Váy của tôi màu xanh”.
 Tôi tin chắc là vậy. Myra mặc bộ váy đẹp đi học. Ngay cả giữa mùa đông giữa những áo choàng len và áo dài vải xẹc, cô chập chờn ẩn hiện nét buồn trong vải lụa bóng xanh da trời, trong đôi dày kếp màu ngọc lam cũ rích, chiếc áo của người đàn bà lớn tuổi quá thời, điều chỉnh bằng một cái nơ con bướm lớn ở cổ chữ V, và phồng lên trên bộ ngực hẹp của Myra…Và tôi vui mừng vì thấy cô ấy không đeo cây kẹp con bướm tôi tặng. Lỡ có ai hỏi cô lấy thứ đó ở đâu, và cô kể cho họ, tôi biết ăn nói làm sao ?
 Sau chuyện đó một ngày, hoặc một tuần, Myra không đến trường. Bình thường cô ấy có thể phải giữ ở nhà để giúp việc. Nhưng lần này cô không trở lại. Một hay hai tuần sau, ghế của cô vẫn trống trơn. Rồi chúng tôi phải chuyển lớp và bàn ngồi của Myra được dọn sách vở đi, đưa vào kệ giá trong phòng chứa đồ. Cô Darling bảo “Chúng ta sẽ tìm một cái ghế khi cô ấy trở lại”. Và cô thôi gọi tên Myra khi kiểm danh.
 Jimmy Sayla cũng không trở lại trường học, không có ai đưa cậu ấy vào nhà vệ sinh.
 Khoảng bốn hay năm tuần lễ sau, kể từ Myra vắng mặt, Gladys đến lớp và nói “ Các bạn có biết Myra Sayla mắc bệnh gì phải nằm trong bệnh viện ?”.
 Đúng như vậy. Glaydys có người dì làm y tá trong bệnh viện. Gladys đưa tay vào giữa bài Chính tả và bảo cô Darling: “Em nghĩ, có thể cô muốn biết”. Cô Darling nói “Ừ, cô muốn biết”.
 “Myra mắc bệnh gì?”- chúng tôi hỏi. Và Gladys nói “Akemia,(*2) đại khái vậy. Và cô ấy phải truyền máu”. Gladys nói với cô Darling, “dì em là y tá”.
 Thế là cô Darling bảo cả lớp viết một lá thư, trong ấy mọi người viết “Myra thân mến, chúng mình đều viết cho bạn một lá thư. Chúng mình mong bạn mau chóng khoẻ hơn và trở lại trường- Bạn của bạn”.Cô Darling nói “Tôi có ý kiến này. Ai có thể đến bệnh viện thăm Myra vào ngày 20 tháng Ba, để tổ chức một tiệc sinh nhật?”.
  Tôi nói “bạn ấy sinh nhật vào tháng Bảy”.
 Cô biết – cô Darling nói – Đó là 20 tháng Bảy, Nhưng năm nay bạn ấy nên sinh nhật vào tháng Ba, vì bị bệnh”.
– Nhưng sinh nhật bạn ấy là tháng Bảy.
– Bởi vì bạn ấy bệnh, cô Darling nói với một giọng khuyên nhủ gay gắt. Nhà bếp ở bệnh viện có thể làm một cái bánh và tất cả các em có thể tặng Myra một món quà, khoảng chừng 25 xu. Tiệc sinh nhật sẽ tổ chức khoảng giữa 2 và 4 giờ, bởi đó là giờ thăm bệnh. Mà chúng ta không thể cùng đi tất cả, như thế quá đông, nào ai muốn đi và ai ở lại học tiếp bài đọc hiểu tiểu học?
 Chúng tôi đều giơ tay, cô Darling cất đi băng cassette chính tả và chọn ra 15 bạn đầu tiên gồm 12 nữ 3 nam. Sau đó ba bạn nam đổi ý không muốn đi nên cô chọn ba bạn nữ khác tiếp theo. Tôi không nhớ đó là lúc nào, nhưng tôi nghĩ hẳn là tiệc sinh nhật của Myra Sayla đã trở thành sang trọng.
 Có lẽ bởi vì Gladys có người dì làm y tá, có thể đó là sự kích động bởi bệnh tật và bệnh viện, hoặc đơn giản chỉ là sự kiện Myra đã ra khỏi quy tắc và điều kiện sống với chúng tôi một cách hoàn toàn, gây ấn tượng sâu sắc. Chúng tôi bắt đầu bàn tán về cô ấy như thể cô ấy là một cái gì thuộc về chúng tôi, và tiệc của cô ấy trở thành một sự kiện lớn; với sự buồn phiền nữ tính, chúng tôi thảo luận lúc nghỉ giải lao và quyết định rằng hai mươi lăm xu thì quá thấp.
 Chúng tôi cùng đi tới bệnh viện vào một buổi chiều đầy nắng khi tuyết bắt đầu tan, mang theo món quà, và cô y tá dẫn chúng tôi lên cầu thang, đi theo hàng một, rồi đi xuống những cánh cửa khép hờ dọc hành lang và nói chuyện thì thào lo lắng. Cô y tá và cô Darling phải ra hiệu giữ trật tự, nhưng chúng tôi vẫn đi nhón đầu ngón chân; cách đối xử của bệnh viện thực là hoàn hảo.
 Ở bệnh viện thị trấn nông thôn nhỏ này không có khu trại bệnh trẻ em, và Myra không hẳn là một em bé, họ cho cô vào nằm cùng phòng với hai người phụ nữ già, xanh xám. Một y tá buông tấm rido che khuất hai bà khi chúng tôi bước vào.
 Myra ngồi trên giường, mặc chiếc áo dài bệnh viện thô rộng. Tóc cô ấy xoã xuống, một bím tóc dài phủ qua vai chạm tới khăn trải giường, nhưng khuôn mặt cô vẫn thế, luôn luôn như thế.
 Myra được nghe cô Darling thông báo về bữa tiệc, nhưng sự bất ngờ không làm Myra bối rối, bởi dường như cô không tin được điều đó, hoặc không hiểu được nó là cái gì… Cô nhìn chúng tôi như khi cô từng đứng xem chúng tôi chơi đùa trên sân trường.
– Chúng ta đã đến rồi, cô Darling nói. Đến rồi ! Và chúng tôi đồng thanh “Happy birthday, Myra ! Hello Myra, Happy birthday, Myra,!”.
   Myra nói “Sinh nhật tôi vào tháng Bảy”. Giọng cô nhẹ hơn bao giờ, hững hờ, vô cảm.
 – Đừng băn khoăn cái ấy, thực mà, cô Darling bảo, hãy coi đó là hôm nay đi. Em bao nhiêu tuổi, Myra?
-Mười một tuổi- Myra nói- vào tháng Bảy.
 Thế là chúng tôi cởi hết áo khoác, hăng hái sửa soạn bữa tiệc, và xếp đặt các gói quà 
lên tấm trải giường màu hoa nhợt nhạt trên giường Myra. Mấy bà mẹ của đám bạn học
đã kết những tấm diềm vải sa tanh, thắt nơ con bướm rất cầu kỳ, tuyệt đẹp, có bà thậm chí còn làm dải băng hoa hồng mô phỏng bữa đại tiệc và những bông hoa trắng hồng của thung lũng. “Nào, Myra”, chúng tôi hô “Myra, happy birthday!”. Myra không nhìn chúng tôi, chỉ nhìn vào những dải ruybang, màu hồng và xanh lấp lánh, và bữa tiệc nhỏ; những cái làm cô vui lòng, như một con bướm vừa kết xong. Một cái nhìn ngây thơ đến trên khuôn mặt cô, một nụ cười riêng biệt chưa hoàn chỉnh.
 -Mở ra đi, Myra, cô Darling bảo, những cái đó dành cho em.
Myra vun các món quà xung quanh em, sờ ngón tay vào, với nụ cười và một niềm tự hào không chờ đợi, vẫn thận trọng. Cô nói “Thứ Bảy, em chuyển đi bệnh viện thánh Joseph ở London” (*3) .
“Đó là nơi mẹ em đang ở”, có một bạn nói, “Chúng ta sẽ đi và gặp bà ấy. Bệnh viện có nhiều bà xơ ở đó”.
– Cô ruột mình cũng là bà xơ – Myra nói, rồi lại lặng lẽ.
Cô bắt đầu mở các gói quà, với một không khí mà không thể nói Gladys có thể làm tốt hơn nữa, được gấp nếp giấy khăn lụa bọc đồ, và ruy băng, và kéo ra những cuốn sách, đồ chơi đố chữ … như thể chúng đều là giải thưởng Myra đoạt được. Cô Darling nói rằng có thể em không cần cảm ơn các bạn, tên của mỗi người trên mỗi món quà Myra đã mở, và tin chắc rằng Myra biết xuất xứ từng món. Myra nói “Cảm ơn Mary Louise, cảm ơn Carol,” và khi cô hướng về tôi, cô nói “Thank you, Helen”. Mỗi người giải thích món quà họ tặng và một cuộc trò chuyện đầy hứng thú, hoan hỉ là việc mà Myra được làm chủ toạ, tuy nhiên cô vẫn không vui vẻ…Một cái bánh được mang ra với dòng chữ “Happy Birthday Myra” nổi bật trên vỏ bánh màu hồng nền trắng và 11 cây nến. Cô Darling châm nến và chúng tôi hát Happy Birthday to You, và hét lên “ Nói một điều ước đi, Myra, nói điều ước” và Myra thổi tắt 11 cây nến. Sau đó chúng tôi ăn bánh và kem dâu.
 Lúc bốn giờ, một hồi chuông vang lên và cô y tá vào dọn đi tất cả phần bánh còn lại và những cái đĩa dơ, chúng tôi mặc áo khoác để về nhà. Mọi người nói “Goodbye Myra” còn Myra ngồi trên giường lặng nhìn chúng tôi đi ra, lưng cô ngồi thẳng, không cần tựa gối, bàn tay cô đặt lên những món quà. Nhưng ra đến cửa, tôi nghe Myra gọi “Helen!”. Chỉ có vài người nghe thấy; cô Daling không nghe thấy, cô đã ra ngoài trước. Tôi quay trở lại bên giường.
 Myra nói “Tôi có rất nhiều thứ. Bạn lấy cái gì đi”.
 -Cái gì? -Tôi nói, đó là quà tặng sinh nhật bạn. Bạn thường xuyên nhận được nhiều quà vào sinh nhật mà.
Ờ, bạn lấy món gì đi- Myra nói, cô nhặt lên một cái hộp bọc da có tấm gương soi nhỏ ở trong, một cái lược, một cái giũa móng tay và một cục son môi tự nhiên, một khăn tay nhỏ với sợi chỉ vàng. Tôi không nhận ra mấy thứ ấy lúc trước. Myra nói “Bạn nhận đi.
Bạn không thích à?
 -Bạn nhận đi. Cô ấy đặt mấy món vào tay tôi. Mấy ngón tay chúng tôi lại chạm vào nhau.
 – Khi tôi từ London trở về – Myra nói- bạn sẽ đến và chơi với mình ở chỗ của mình sau giờ học nha.
 Tôi nói “Okey”. Bên ngoài cửa sổ bệnh viện, có tiếng ai đó chơi đùa trên phố vang lại, có lẽ đang chơi trò đuổi quả cầu tuyết cuối mùa. Tiếng vang đó khiến cho Myra tấm lòng rộng rãi hào phóng,với thắng lợi của cô và tất cả những gì trong tương lai cô tìm thấy vị trí cho tôi, đã trở nên mờ ảo, tối đen. Tất cả món quà trên giường, những gói giấy và ruy băng, mấy băng nhạc, những món quà vang lên tiếng nói biết lỗi, đã vụt qua vào bóng lờ mờ ấy, chúng sẽ không còn là đối tượng ngây thơ trở nên cảm động, trao đổi, chấp nhận mà không bị nguy hiểm. Tôi không muốn nhận tình trạng này bây giờ nhưng không thể biết cách làm sao dời khỏi nó, biết nói dối sao đây. Tôi sẽ từ bỏ nó, tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ chơi với nó. Tôi sẽ để em trai tôi xé toạc nó ra.
  Cô y tá trở lại, mang một ly sữa chocolate.
– Có chuyện gì thế, em không nghe tiếng chuông à ?
 Vậy là tôi được giải phóng, được tự do khỏi những rào cản mà bây giờ đóng lại về chuyện Myra, cái thế giới bệnh viện với mùi ê te, sự cao thượng vô danh,… và bởi cái thói bội bạc của trái tim tôi.
-Ồ cảm ơn cô, cảm ơn cô về mọi thứ. Goodbye.
 Tôi không nhớ rõ là Myra có nói goodbye với tôi không. Hình như không. Cô ấy ngồi trên giường cao, cái cổ màu nâu thanh tú, vươn lên khỏi cái áo bệnh nhân quá rộng với cô, khuôn mặt như tạc màu nâu có khả năng miễn khỏi sự phản bội, món quà của cô có lẽ đã sẵn sàng bị bỏ quên, được cất đi để dành cho những dịp trọng đại nào đó, khi cô thậm chí trở lại đứng dưới mái vòm sau trường học.
 Alice Munro
 (Tập truyện xuất bản lần đầu 1965)
 Chú thích của người dịch
(*1) Cậu bé Jimmy bị đái ra quần vì không có chị Myra giúp.
(*2) Cô bé Gladys nói nhầm “Akemia”, đúng phải là bệnh “Leukemia”: bệnh bạch cầu (máu trắng). Bệnh này phải thay máu, nhưng khó làm điều đó, khó tránh khỏi cái chết.
(*3) London là một thị trấn nhỏ ở Canada, không phải London thủ đô nước Anh.
 Lời bàn của người dịch
Cốt truyện có vẻ đơn giản, nhưng miêu tả tâm lý nhân vật nữ tuổi teen khá phức tạp, tinh tế. Nữ văn sĩ Munro nổi tếng là cây bút chuyên gia về đề tài phụ nữ.
 Sơ lược nhân vật:
– Hai chị em Myra Sayla, nhà nghèo, có thể là người da màu, mới di cư tới gần một thị trấn nhỏ…Tâm lý Myra khá phức tạp:  em không tin rằng mọi người thực bụng tử tế với mình, cô bé đã quen chịu sự kỳ thị đến mức thấy bình thường rồi.
 – Gladys Healy con nhà giàu và là “ma cũ” đứng đầu đám bạn học lớp Sáu, cùng hầu hết học trò trong lớp đều kỳ thị với chị em Myra.
 – Helen, người kể chuyện, cũng nhà nghèo, cùng học lớp Sáu, nhưng là “ma cũ”, cũng bị a dua cuốn theo số đông bạn học kỳ thị Myra, nhưng thiên lương nhắc cô cố gắng gần gũi với Myra. Tuy vậy, cô vẫn băn khoăn chưa tin vào hành động tốt đẹp của mình. Nhân vật có tâm lý phức tạp nhất là Helen vừa thay đổi cư xử với Myra lại vừa lo lắng bất an…Câu văn kết thúc truyện: “Tôi không nhớ rõ là Myra có nói goodbye với tôi không. Hình như không. Cô ấy ngồi trên giường cao …”. Người dịch tự hỏi – nhân vật Helen vì sao lại đãng trí đến thế ? Thử giải đáp: Bởi cô ấy muốn mau ra khỏi bệnh viện trong một tâm trạng bất an. Tâm trạng Helen phần cuối truyện rất phức tạp, ngườii dịch chưa dám lạm bàn, để tùy ý bạn đọc bàn luận trước.
 Sự kiện tổ chức sinh nhật cho Myra ở bệnh viện là một điều bất ngờ lớn. Khi mọi người biết Myra mắc bệnh bạch cầu (leumenia) và bị cách ly, họ tổ chức bữa tiệc như là sự bố thí thay vì lòng nhân đạo (?).
 Nhìn chung bút pháp Munro tinh tế và hàm súc, miêu thuật có yếu tố “tảng băng trôi” nên không dễ đọc một lần.
 Phùng Hoài Ngọc

Truyện ngắn, nguyên tác: “Amundsend”
Tác giả: Alice Munro, nữ văn sĩ Canada
Giải Nobel 2013 tặng cho toàn bộ gần 150 truyện ngắn.
Người dịch: Phùng Hoài Ngọc
Lời dẫn (ND)
 Chuyện xảy ra ở một bệnh viện lao mang tên “San” thuộc vùng vịnh biển Amundsen phía tây bắc Canada với khí hậu rất lạnh. Câu chuyện diễn ra cuối Thế chiến II, lúc này bệnh lao ít có hi vọng chữa khỏi, bởi thuốc kháng sinh đặc trị Streptomycin chưa kịp sáng chế…Bệnh nhân là trẻ em, trong khi chữa bệnh lại được học văn hóa, nhà nước cử giáo viên đến ở tại bệnh viện dạy các em học. Bác sĩ cũng kiêm luôn thầy giáo dạy dỗ bệnh nhân học tập … Nhân vật chính là Hyde -cô giáo trẻ  vừa tốt nghiệp đại học…
Tôi ngồi trên băng ghế bên ngoài nhà ga, ngồi đó và chờ đợi. Nhà ga được mở khi tàu đến, nhưng bây giờ nó đã bị khóa. Một phụ nữ khác ngồi ở cuối băng ghế, kẹp giữa hai đầu gối của mình một túi dây bện chứa đầy các bưu kiện bọc trong giấy dầu. Thịt – thịt sống. Tôi có thể ngửi thấy nó.
Amundsen
Vắt theo đường ray là xe lửa điện, trống trải, chờ đợi.
Không có hành khách khác xuất hiện, và một lúc sau trưởng ga thò đầu ra ngoài cửa sổ nhà ga và gọi “San”. Lúc đầu, tôi nghĩ rằng ông ấy đã gọi tên một người đàn ông tên “Sam”. Và một người đàn ông mặc trang phục nhân viên gọn ghẽ bước quanh vào chỗ cuối tòa nhà. Ông bước qua đường ray và bước lên một chiếc xe điện. Người phụ nữ với túi bưu kiện đứng dậy và đi theo ông ta, thế là tôi cũng đi theo. Có tiếng ồn ào bật lên từ phía bên kia đường, và các cửa ra vào của một căn hộ mái phẳng ván ốp mở tung, ào ra một số người, khua rầmrầm mũ trên đầu và thùng xô đựng đồ ăn trưa va vàobắp đùi. Bởi tiếng ồn họ gây ra, bạn có thể nghĩ rằng xe sẽ chạy xa họ trong phút chốc. Nhưng khi họ ngồi yên trên tàu thì không có gì xảy ra. Chiếc xe ngồi yên trong khi họ đếm người và chỉ ra những người vắng mặt và nói với người lái xe rằng ông chưa thể đi được. Sau đó ai đấy nhớ ra rằng người vắng mặt đã mất tích suốt những ngày qua. Chiếc xe bắt đầu chuyển bánh, tuy nhiên tôi không thể biết người lái xe có nghe được những điều này hay không, hoặc là ông có để ý việc đó không.
Những người đàn ông trong xe bước ra tại một xưởng cưa ở chỗ bụi cây – cách không hơn mười phút đi bộ – và ngay sau đó hồ nước hiện ra, tuyết bao phủ khắp. Một toà nhà gỗ dài ở phía trước hồ. Người phụ nữ sửa soạn lại gói xách và đứng dậy, và tôi theo sau. Tài xế một lần nữa gọi “San” và mấy cánh cửa mở ra. Một vài phụ nữ đang chờ đợi để lên xe. Họ chào người phụ nữ với túi thịt tươi, và cô ấy nói rằng đó là một ngày tươi sống.
Tất cả tránh nhìn tôi khi tôi trèo xuống phía sau người phụ nữ mang thịt.
Các cánh cửa đập vào nhau, và con tàu bắt đầu quay lại.
 Sau đó là sự im lặng, không khí lạnh như băng. Cây bạch dương trông giòn với những dấu đen trên vỏ trắng, và một số cây nhỏ, những cây thường sanh lộn xộn, cuộn lại như những con gấu ngủ. Hồ nước đóng băng không bằng phẳngmàmấp mô gò đống trải dọc theo bờ biển, như thể những con sóng đã biến thành băng trong khi rơi xuống. Và tòa nhà, với những hàng cửa sổ cẩn thận và cổng vòm bằng kính trong ở hai đầu. Tất cả mọi thứ giản dị và về phía bắc, màu đen trắng dưới vòm mây trên cao. Thực là phẳng lặngbao la một phong cảnh quyến rũ.
Nhưng vỏ cây phongthực ra không phải màu trắng khi bạn đến gần hơn. Xám vàng, xám xanh và xam xám.
“Côđi về đâu? ” Người phụ nữ được gọi là “bà thịt”gọi tôi. “Giờ thăm viếng chấm dứt lúc ba giờ”.
“Tôi không phải là người đi thăm,” tôi nói, “Tôi là giáo viên mới”.
“À, tuy nhiên họ sẽ không cho cô vào cửa trước,” người phụ nữ nói với vẻ hài lòng,”Cô đi cùng với tôi thì hơn. Cô không mang va lià?”.
“Ông trưởng ga cho biết ông sẽ mang lại sau”.
“Kiểucô đứng đó, trông giống như người  bị  lạc đường”.
Tôi nói rằng tôi đã dừng lại bởi vì cảnh đẹp.
“Một số người cũng nghĩ như vậy.Ít ra họ đã bệnh nặng hoặc quá bận rộn”.
Không ai nói gì nữa cho đến khi chúng tôi bước vào căn bếp ở phía cuối của tòa nhà. Tôi  không có dịp nhìn ngắm xung quanh, bởi vì sự chú ý đã được dồn vào người mang hành lý.
“Cônên lấy được hành lý ra trước khi chúng được bị kéo ra sàn nhà thì hơn”.
Tôi kéo hành lí ra, không có cái ghế để ngồi xuống, và đặt chúng trên tấm thảm mà người phụ nữ đã để đồ của chị.
“Chọn một số và mang theo với cô. Tôi không biết họ sẽ để cô ở nơi nào. Cômặc áo khoác nữa thì tốt hơn. Không có lò sưởi ấm trong phòng quần áo đâu”.
Không có lò sưởi, không đèn đóm, ngoại trừ những gì lọt qua một cửa sổ nhỏ tôi không thể với tới. Nó giống như khi bị trừng phạt ở trường học. Bị chuyển đến phòng quần áo. Vâng. Cũng mùi quần áo mùa đông chẳng bao giờ thực sự khô, giày ngâm cùng vớ bẩn, bàn chân chưa rửa.
Tôi leo lên băng ghế nhưng vẫn không thể nhìn ra ngoài. Trên kệ là mũ và khăn quàng cổ đã ném ra, tôi tìm thấy một túi những trái sung trái vả có ghi ngày trên đó. Ai đó hẳn đã đánh cắp chúng và cất giấu ở đây để mang về nhà. Bỗng nhiên, tôi thấy đói. Không có gì để ăn từ sáng, ngoại trừ một bánh sandwich pho mát khô trên Ontario Northland. Tôi nghĩ về đạo đức ăn cắp của một tên trộm. Nhưng quả sung đã dính răng tôi và phụ lòng tôi.
Tôi lấy lại bình tĩnh kịp thời. Có người đang bước vào phòng treo quần áo.Không có ai ở nhà bếp giúp đỡ mà là một nữ sinh mặc chiếc áo khoác mùa đông kềnh càng, với một chiếc khăn trên mái tóc. Cô gái đến như chạy đua, sách rơi trên băng ghế đến nỗi chúnglăn rải rác trên sàn nhà, cái khăn tuột ra để lộ mái tóc xõa ra một mớ rối bù, và cùng một lúc, dường như, giày ủng bất chợt lỏng lẻo vàvăng ra lăn lóc trên sàn. Không ai quản lý cô, hình như thế, khiến cô ấy mang chúng ra khỏi cửa nhà bếp.
“Ôi, tôi không cố ý đụng vàochị,” cô gái nói,”ở đây thấy tối sầm khi ta từ bên ngoài sáng đi vào, chị không thấy những gì chị đang làm đâu. Chị không rét ư ? có phải chị đang chờ ai đó làm xong công việc à ? “
“Tôi đang chờ gặpbác sĩ Fox”.
“Vâng, chị sẽ không phải đợi lâu. Tôi vừa lái xe từ thị trấn về với anh ấy.Chị không bị bệnh, phải không? Nếu đang bệnh thìchị không thể đến đây được. Chịphải gặpông ta trong thị trấn”.
“Tôi là giáo viên mới”.
“Vậy sao ? chị từ Toronto đếna?”.
“Vâng”.
Im lặng một lúc, có lẽ là sự tôn trọng.
Nhưng không phải. Một cuộc kiểm tra áo khoác của tôi.
“Áo đórất đẹp. Cổ áo bằng lông gì vậy?”
“Cừu Iran. Thực ra, đó là lông cứu giả thôi”.
“Vậy mà nó đã lừa được tôi. Tôi không biết vì cái gì mà họ đưa chị vào đây- nó sẽ đóng băng rứt mông của chị ra. Xin lỗi. Chị muốn gặp bác sĩ, tôi có thể chỉ đường cho. Tôi biết tất cả mọi thứ ở đây. Tôi đã sống ở đây thực sự kể từ khi tôi được sinh ra. Mẹ tôi quản lý nhà bếp. Tôi tên là Mary. Tên chị là gì ? “
“Vivien”
“Nếu chị là một giáo viên, chẳng phải gọi là Côư ? Cô gì nhỉ? “
“Miss Hyde”.
“Chị tránh nắng”[1],Mary nói “Xin lỗi, tôi chỉ nghĩ thế thôi. Tôi thíchlà, nếu chị có thể làm giáo viên của tôi, nhưng tôi lại phải đi học trong thị trấn. Đó là quy định ngu ngốc. Bởi vì tôi không có bệnh lao”.
Cô vừa dẫn tôi đi vừa nói chuyện, qua cánh cửa phía cuối của phòng quần áo, sau đó dọc theo hành lang bệnh viện. Vải sơn sáp, sơn màu xanh lá cây tối xẫm, mùi thuốc sát trùng.
“Bây giờ chị ở đây, có lẽ tôi sẽ gọi Reddy thay tôi”.
“Reddy là ai? “
“Reddy Fox. Đó là từ ngữ trong một cuốn sách. Tôi và Anabel bắt đầu gọi bác sĩ Fox như vậy”.
“Anabel là ai? “
“Bây giờ… không là ai cả. Cô ấy đã chết”
“Ồ, tôi rất tiếc”.
“Không phải lỗi của chị. Nó xảy ra ở quanh đây. Năm nay tôi đang học trung học. Anabel không bao giờ thực sự được đi học hết. Khi tôi vừa vào trường công lập, Reddy tìm giáo viên để cho tôi có thể ở nhà nhiều hơn, vì vậy tôi có thể trông nom cô ấy làm bạn đồng hành của mình”.
Cô dừng lại ở một cửa mở hé và huýt sáo.
“Này. Tôi đã mang giáo viên đến”.
Giọng đàn ông nói “O.k., Mary. Đủ việc cho cô trong một ngày rồi”.
Cô ung dung bước đi và để lại tôi phải đối mặt với một người đàn ông gày gò, chiều cao bình thường, có mái tóc màu đỏ đã được cắt rất ngắn và lấp lánh trong ánh sáng nhân tạo từ hành lang.
“Cô đã gặp Mary,” ông ta nói, “Cô ấy có rất nhiều chuyện nói về mình. Cô ấy sẽ không được ở trong lớp học của cô, do đó cô sẽ không phải trải qua cái đó hàng ngày. Người ta hoặc là nhờ cậy cô ấy hoặc không cần”.
Tôi nghĩ anhgià hơn tôi từ mười đến mười lăm tuổi, lúc đầu anh nói chuyện với tôi theo cách một người đàn ông lớn tuổi hơn. Một ông chủ nhân tương lai luôn bận bịu lo toan. Anh hỏi về chuyến đi của tôi, về việc sắp xếp va li của tôi. Anh muốn biết vì sao tôi lại nghĩ rằng tôi muốn sống ở đây trong rừng, sau khi đã ở Toronto, liệu tôi có buồn chán hay không.
”Ít nhất không phải vậy”, tôi nói, và thêm rằng “nơi đây rất đẹp”.
Nó giống như, nó giống như trong một cuốn tiểu thuyết Nga”.
Anh nhìn tôi lần đầu với vẻ chăm chú.”Có thực không ? Cuốn tiểu thuyết Nganào? “
Anh có đôi mắt màu xanh xám tươi sáng. Chân mày nhướn lên, như một cáimũ lưỡi trainhỏ.
Không phải là tôi chưa đọc tiểu thuyết Nga. Tôi đã đọc hết một số sách và một số cuốn chỉ đọc một phần. Nhưng vì cáichân mày đó, và cái biểu hiện thích thú nhưng có vẻ đối đầu của anh ta, tôi không thể nhớ bất kỳ tiêu đề nào ngoại trừ “Chiến tranh và Hòa bình”[2]. Tôi không muốn nói vậy, bởi vì nó là cuốn sách ai đó có thể cũng nhớ.
“Chiến tranh và Hòa bình”.
“Vâng, đó chỉ làcái “hòa bình” chúng tôi có được ở đây, tôi có thể nói vậy. Nhưng nếu nó là cuộc “chiến tranh” màcô khao khát thìsau đây tôinghĩ rằngcônên tham gia vàođội ngũ những người phụ nữ mặc quân phục và tự mình ra nước ngoài”.
Tôi giận dữ và thấy bẽ mặt, bởi vì tôi không thực sự bày tỏ ra. Hoặc không chỉ tỏ bày ra. Tôi muốn giải thích những gì  mà một hiệu ứng tuyệt vời do cảnh này đã gây cho tôi.
Anh ta rõ là loại người thích đặt ra câu hỏi đểcài bẫy chờ bạn rơi vào.
“Tôi nghĩ tôi đang thực sự mong đợi một nữ giáo viên lớn tuổi đi ra khỏi cầu thang”, ông nói, trong lời xin lỗi nhẹ. “Cô không học nghề giáo viên, phải không? Cô định làm gì khi đã lấy bằng đại học ?”.
“Tiếp tục lấy bằng thạc sĩ,” tôi nói cộc lốc.
“Vậy, cái gì thay đổi ý định của cô ? “
“Tôi nghĩ rằng tôi nên kiếm một số tiền”.
“Ý tưởng có lý. Tuy nhiên tôi sợ cô sẽ không kiếm được nhiều ở đây. Xin lỗi đã tò mò. Tôi chỉ muốn chắc chắn rằng côsẽ không bỏ chạy và để lại chúng tôi trong cơn hấp hối. Chưa có kế hoạch kết hôn, phải không? “
“Không”.
“Được rồi, được rồi. Cô ra khỏi “cái móc”[3] rồi. Tôi không làm nhụt chícô, phải không ?”.
Tôi lắc đầu.”Không”.
“Đi xuống hội trường đến văn phòng của Matron, và cô ấy sẽ cho cô biết tất cả những cáicô cần biết. Chỉ cần cố gắng không để  bị cảm lạnh. Tôi không cho rằng cô có chút kinh nghiệm gì với bệnh lao ? “
“Vâng, tôi đã đọc…”.
“Tôi biết. Tôi biết. Cô đã đọc cuốn “Dãy núi kỳ diệu[4]”.Một cái bẫy khác rung lên, và anh ta dường như phục hồi lại:
“Mọi thứ đã chuyển đổi một chút từ đó, tôi hy vọng thế. Ở đây, tôi đã có một số những điều tôi viết ra về những đứa trẻ ở đây và những gì tôi đã suy nghĩ rằng cô có thể cố gắng làm gì đó với chúng. Đôi khi tôi muốn giãi bày bản thân mình bằng văn bản. Matron sẽ cung cấp cho côthông tin nội bộ”.
Và ông đọc một mạch:
Khái niệm thông thường của phương pháp sư phạm đi ra từ nơi đây. Một số các trẻ em sẽ gia nhập lại thế giới hay hệ thống và một số sẽ không thể. Tốt hơn không phải là rất nhiều căng thẳng. Đó là, kiểm tra, ghi nhớ, phân loại cáivô nghĩa.
Bỏ qua phân loại các doanh nghiệp kinh tế hoàn toàn. Những người cần phải nắm bắt kịp về sau này hoặc làm mà không có nó. Kỹ năng thực sự rất đơn giản xếp đặt sự kiện, v.v, cần thiết để đi sâu vào thế giới. Cái gì là trẻ em cao cấp, vì sao được gọi là vậy? Từ ngữ kinh tởm. Nếu họ  thông minh trong cách học tập, họ có thể dễ dàng bắt kịp. Quên những con sông của Nam Mỹ, tương tự như vậy,Magna Carta. Bản vẽ, âm nhạc, những câu chuyện ưa thích.

Trò chơi, OK, nhưng coi chừngquá kích động hoặc quá độ cạnh tranh.

Thách thức đi qua ranh giới giữa căng thẳng và chán nản. Nhàm chán là tai ương nằm viện.

Nếu Matron không thể cung cấp những gì cô 
cần, đôi khi người gác cửa  cất nómột nơi nào đó.

C
huyến đi tốt.
Tôi đã chứngkiến các sự kiện trong ngày đầu tiên có vẻ độc đáo và bất ngờ. Nhà bếp, phòng treo quần áo cho nhà bếp, nơi người lao động để quần áo và giấu diếm đồ ăn trộm của họ, là những căn phòng tôi không nhìn lại nữa và có thể sẽ không cần nhìn. Văn phòng của bác sĩ cũng tương tự,ra ngoài giới hạn, phòng của Matron là nơi thích hợp cho tất cả các thắc mắc, khiếu nại và sắp xếp thông thường. Matron thấp lùn và mập mạp, mặt hồng hào, đeo kính không gọng và hơi thở nặng nề. Bất cứ điều gì bạn yêu cầu dường như đều gây sửng sốt cho cô và gây khó khăn, nhưng cuối cùng nó đã được chấp nhận hoặc được cung cấp. Đôi khi cô ăn trong phòng ăn y tá, nơi cô được phục vụ một bữa tiệc đặc biệt, và thả một tấm màn ngăn. Chủ yếu là cô giữ một góc phòng ở cho riêng mình.
Bên cạnh Matron, có ba hộ lýthường trực khác. Họ đã ra khỏi quỹ hưu trí để phục vụ, làm nhiệm vụ thời chiến của mình. Còn có sự trợ lực của y tá, những người bằng tuổi tôi hoặc thậm chí trẻ hơn, hầu hết trong số họ đã lập gia đình hoặc đính hôn hoặc chuẩn bị đính hôn chủ yếu với lính trong lực lượng quân sự. Họ nói chuyện suốtnhữngkhi Matron và các y tá không có ở đó. Họ chẳngchút quan tâm nhỏ nhất đối với tôi. Họ chẳng muốn biết Toronto ra sao, mặc dù một số họ biết những người đã đến đó hưởng tuần trăng mật, và họ không quan tâm việc giảng dạy của tôi đang diễn ra hoặc tôi đã làm gì trước đó. Cái đó không phải là họ thô lỗ, họ đưa cho tôi bơ (nó được gọi là bơ nhưng nó thực sự chỉ là bơ thực vật màu cam sọc, nhuộm màu trong nhà bếp) và họ cảnh báo tôi tránh xa những chiếc bánh của kẻ chăn cừu, họ nói có chuột chũi trong đó. Chỉ là, bất cứ điều gì đã xảy ra ở những nơi họ không biết là đã phải giảm giá khiến họ tiếc rẻ. Mỗi khi đến Buổi thời sự trên đài phát thanh, họ vặnsang kênh âm nhạc. Khiêu vũ với một búp bê với một lỗ ở bít tất cô bé. . .
Tuy nhiên, họ đều tôn sùngbác sĩ Fox, một phần vì ông đã đọc rất nhiều sách. Họ cũng nói rằng không có ai như ông ta về việc giật quần áokhỏi người bạn nếu ông ta cảm thấy thíchnhư thế[5].
Tôi không thể hiểu họ có nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa việc đọc nhiều sách và việc giằng xé một bộ quần áo không.
Số lượng học sinh xuất hiện nhiều dạng khác nhau. Mười lăm, hoặc giảm xuống một nửa tá. Buổi sáng chỉ từ 9 giờ đến giữa trưa. Trẻ em được giữcách ly nếu nhiệt độ của họ tăng vọt lên hoặc họ đã trải qua các cuộc kiểm nghiệm. Khi họ có mặt, họgiữ yên tĩnh, dễ hướng dẫnvà không gây rắc rối đặc biệt. Họ đã bị bắt quả tangvì đó là một lớphọc giả vờ, nơi họ được tự do thoát khỏi tất cả các yêu cầu học tập bất cứ điều gì, giống như khi có thời khóa biểu trống và bộ nhớ khỏi cần hoạt động. Sự tự do này không làm cho họ kiêu ngạo, hoặc lười biếng trong bất kỳ cách gây phiền hà nào, chỉ ngoan ngoãn và mơ mộng. Họ hát lưu loát nhẹ nhàng. Họ chơi cờ ca rô [6]. Có một cái bóng của sự thất bạiphủ lên lớp học ngẫu hứng.
Tôi quyết định làm theo lời bác sĩ. Hoặc một số lời nói của ông, chẳng hạn như những lời nói về sự nhàm chán là kẻ thù.
Trong gian kho nhỏ của người gác cửa, tôi đã tưởng tượng ra một thế giới. Tôi xin phép để đưa nó ra ngoài. Tôi bắt đầu vớimôn địa lý đơn giản. Các đại dương, các lục địa, khí hậu. Tại sao không phải là gió và các dòng điện ? Các quốc gia và các thành phố ? Bắc chí tuyến và nam chí tuyến ? Cuối cùng là, tại sao không phải là các con sông của Nam Mỹ ?
Một số trẻ em đã học được những điều như vậy từ trước, nhưng họ đã gần như lãng quên hết. Thế giới bên kia hồ và rừng đã bị bỏ rơi. Những bài học dường như để làm vui cho họ, như  thể họ đã kết giao bạn bè một lần nữa với bất cứ điều gì họ từng biết. Tôi không đổ dồn tất cả mọi thứ trên tụi chúng cùng một lúc, tất nhiên. Và tôi đã phải cư xử dễ dãi với những người chưa bao giờ học được những điều như vậy, bởi vì họ đã mắc bệnh quá sớm.
Nhưng thế là tạm được. Nó có thể là một trò chơi. Tôi tách chúng thành các nhóm, bố trí kêu họ đưa ra câu trả lời trong khi tôi khua như bay cái que trỏ trên tay. Tôi đã cẩn thận không để cho sự phấn khích tiếp diễn quá lâu. Nhưng rồi một ngày kia, bác sĩ bước vào lớp học, hồi phục lại sau ca phẫu thuật buổi sáng, và tôi đã bị bắt gặp. Tôi không thể ngừng  mọi chuyện với vẻ lạnh lùng, nhưng tôi đã cố gắng làm giảm nhẹ cuộc thi đấu của học trò. Ông ngồi xuống, nhìn với một chút mệt mỏi và lãnh đạm. Ông không phản đối. Sau một vài phút, ông tham gia vào các trò chơi, gọi ra những câu trả lời khá buồn cười, những cái tên không chỉ là sai lầm mà còn là tưởng tượng. Sau đó dần dần ông đã hạ giọng nói của mình trầm xuống. Giảm xuống, giảm, đầu tiên làtiếng lí nhí, sau đó thì thầm, sau đó hoàn toàn không thể nghe được. Bằng cách này, với sự vô lý này, ông nắm quyền kiểm soát cả căn phòng. Cả lớp đã im lặng ghi nhớ, để sau bắt chước ông. Đôi mắt của họ dán chặt vào môi ông ta.
Đột nhiên ông bật ra một tiếng gầm gừ nhỏ  làm cho tất cả bật cười.
“Tại sao tất cả mọi người nhìn tôi như không tin tưởng chút nào? Đó là những gì cô Hyde dạy cho các bạn a ? Nhìn chằm chằm vào những người mà không làm phiền ai a? “
Đa số lại cười, nhưng một số không thể dừng quan sátông ta thậm chí vì điều đó. Chúng thèmkhát trò hề khác nữa.
“Tiếp tục đi. Biến đi và tự mình cư xử không đứng đắn ở nơi khác”.
Ông xin lỗi tôi vì đã làm gián đoạn lớp học. Tôi bắt đầu giải thích cho ông ấy lý do tôi làm điều này để giống như trường học thật sự.
“Tuy vậy tôi đồng ý với anh về sự căng thẳng”, tôi nói nghiêm túc,”Tôi đồng ý với những gì anh nói trong bản hướng dẫn của anh. Tôi chỉ nghĩ rằng… “
“Hướng dẫn gì? ồi , đó chỉ là mấycái lặt vặt đã đi qua đầu tôi. Tôi không bao giờ nghĩ là chúng được đặt trong đá[7]”.
“Ý tôi là, miễn là họ không bịbệnh quá nặng…  “
“Tôi chắc rằng cô đã đúng. Tôi không cho rằng cái đó có vấn đề”.
“Nếu không, họ dường như là loại bơ phờ”.
“Không cần tạo ra một bài hát và khiêu vũ về nó”, ông nói, và bỏ đi.
Sau đó chuyển sang làm một lời xin lỗi miễn cưỡng hiếm hoi.
“Chúng ta có thể có một cuộc nói chuyện về nó vào thời gian khác”.
Thời gian đó, tôi nghĩ, sẽ không bao giờ đến. Ông ta rõ rằng nghĩ tôi là kẻ khó chịu và ngu ngốc.
Tôi phát hiện ra vào giờ ăn trưa, từ các trợ lý, có bệnh nhân nào đó đã không được cứu sống trong cuộc mổ sáng hôm đó. Vì vậy, sự tức giận của tôi hóa chuyển thành không, và vì lý do đó tôi cảm thấy không thỏa mãn và cảm thấy thậm chí ngốc nghếch hơn.
Các buổi chiều được tự do. Học sinh của tôi đã xìu xuống để ngủ những giấc dài, và đôi khi tôi cảm thấy mình cũng làm như vậy. Nhưng phòng của tôi rất lạnh, và tấm trải giường rất mỏng, chắc chắn những người có bệnh lao cần một cái gì đó ấm cúng hơn.
Tôi tất nhiên không mắc bệnh lao. Có thể họ keo kiệtkhicung cấp cho những người như tôi …Tôi buồn ngủ nhưng không ngủ được. Trên không, có tiếng ầm ĩ của xe giường được lăn đến vòm tiền sảnh đểbệnh nhân phơi nắngtrong buổi chiều băng giá.
Tòa nhà, cây cối, hồ nước chưa bao giờ giống như cũ nữa với tôi như đã thấy vào ngày đầu tiên, khi tôi đã bị bắt dính bởi bí mật và thẩm quyền của họ. Vào ngày hôm đó tôi đã cảm thấy mình vô hình. Bây giờ nó có vẻ như nó không bao giờ thành sự thật.
Có giáo viên ở đó. Cô đến làm gì vậy?
Cô ấy nhìn vào hồ nước.
Để làm gì?
Không có gì tốt hơn để làm.
Một số người may mắn.
Một lần trong một thời gian tôi bỏ bữa ăn trưa mặc dù nó là một phần  tiền lương của tôi, và đã đi vào Amundsen, nơi tôi đã ăn ở một quán cà phê. Cà phê tên là Postum và tôi đoán tốt nhất là một bánh sandwich đã được đóng hộp cá hồi, nếu họ có chút nào. Salad gà phải được xem xét một cách cẩn thận cho các miếng da và xương sụn. Tuy nhiên, tôi cảm thấy thoải mái hơn ở đó, như thể không ai biết tôi là ai.
Về điều đó, có thể là tôi mắc sai lầm.
Các quán cà phê không có phòng “một phụ nữ”, vì vậy bạn phải đi quacửa bên cạnh khách sạn, sau đó qua lối vào phòng khách  uống bia, luôn luôn tối và ồn ào và đưa ra một mùi bia và whisky, một vụ bùng nổ thuốc lá và xì gà, hút thuốc lá phù hợp để quật ngã bạn xuống. Nhưng người khai thác gỗ, những người đàn ông từ xưởng cưa  sẽ không bao giờ kêu với bạn theo cách những người lính và phi công ở Toronto đã làm. Họ đã ở sâu trong một thế giới của những người đàn ông, nói oang oang ra câu chuyện của mình, không phải ở đây để tìm phụ nữ. Có thể háo hức hơn, trên thực tế, để có thể được ra khỏi đám người đó ngay bây giờ hoặc mãi mãi.
Bác sĩ Fox có một văn phòng trên đường phố chính. Chỉ cần một tòa nhà một tầng nhỏ, vì ông đã sống ở nơi khác. Tôi đã nghe từ các trợ lý rằng “không có bà Fox”. Trên đường phố ở một lề đường, tôi thấy một ngôi nhà có thể thuộc về ông ta- một ngôi nhà bằng vữa phủ, với một cửa sổ mái ở trên cửa trước, những cuốn sách xếp chồng lên nhau trên ngưỡng cửa sổ đó. Có một quang cảnh ảm đạm nhưng có trật tự ở nơi đó, một gợi ý của sự thoải mái tối thiểu nhưng chính xác, rằng một người đàn ông cô đơn, người đàn ông cô đơn thường xuyên, có thể xoay sở.
Trường học thị trấn ở cuối một con đường dân cư đó. Một buổi chiều tôi phát hiện ra Mary trong cái sân đó, tham gia vào một cuộc chiến ném cầu tuyết. Dường như là trận đấu con gái đấu với con trai. Khi cô nhìn thấy tôi, cô kêu lớn tiếng, “Này, truyền,” và ném các quả bóng bằng cả hai tay tung ngẫu hứng, sau đó đi thong thả qua đường phố. “Hẹn gặp lại vào ngày mai” cô gọi qua vai mình, ít nhiều như  cảnh báo rằng đừng có ai đi theo.
“Chị trên đường về nhà a ?”, Cô nói. “Tôi cũng vậy. Tôi thường đi xe của Reddy, nhưng anh ấy trở về rất muộn. Chị sẽ làm gì, đi xe điện ư?”.
Tôi đáp“phải”, và Marybảo: “Ồ, tôi có thể chỉ cho chịđường tắt và có thể tiết kiệm tiền bạc. Con đường bụi cây kia”.
Cô đưa tôi lên một đường hẹp nhưng dễ đi ở phía trên thị trấn, qua những khu rừng và qua xưởng cưa.
“Đây là con đường Reddy đi,” cô nói.
Sau xưởng cưa, bên dưới chúng tôi, một số lối đi xấu xí cắt qua rừng và một vài căn lều, rõ ràng có người ở, vì họ có đống củi và dây phơi quần áo và khói bốc lên. Từ một trong số căn nhà, một con chó hung dữ háu ăn khá bự chạy ra với một cuộc phô diễntiếng sủa và gầm gừ.
“Côche mặt lạiđi!” Mary hét lên. Tức thì cô bốctuyết và ném một quả cầu tuyết trúng ngay giữa hai mắt con vật. Nó xoay quanh, và cô bốc sẵn một quả cầu tuyết sẵn sàng để ném vào mông nó. Một người phụ nữ trong một chiếc tạp dề đi ra và hét lên:”Cô đã giết nó đấy”.
“Sự giải thoát tốt cho đồ bỏ đi đó”.
“Tôi sẽ gọi ông già tôi đuổi theocô”.
“Đó sẽ là ngày đó. Hi vọng ông già của bà không vấp phải một nhà vệ sinh”.
Con chó đi theo phía xa với sự đe dọa giả bộ.
“Tôi có thể chăm sóc bất kỳ con chó nào, đừng lo”, Mary nói,”Tôi cá rằng tôi có thể chăm sóc một con gấu nếu chúng tôi cán phải nó”.
“Có phải bọn gấu không có xu hướng ngủ đông tại thời điểm này trong năm ?”.
Tôi hơi sợ hãi con chó nhưng bị ám ảnh phải thận trọng.
“Ừ, nhưng chịchẳng bao giờ biết đâu. Có lần một con đến sớm, và nó đã chui vào thùng rác  ở bệnh viên San. Mẹ tôi đi tìmquanh và thấy nó ở đó. Anh Reddy có súng và bắn nó. Reddy đã quen đưa tôi và Anabel đi trên chiếc xe trượt tuyết, và đôi khi cũng chở mấy trẻ em khác nữa, và anhấy có một tiếng huýt sáo đặc biệt làm con gấu sợ hãi. Nó quá chói gắt đối với tai của con người”.
“Thật ư. Nó giống như thế nào?”
“Không phải là một loại còi. Tôi muốn nói là một thứ tiếng ông ấy có thể thổi ra bằng miệng”.
Tôi nghĩ về cuộc biểu diễn của anh trong lớp học.
“Tôi không biết, có lẽ ông chỉ nói rằng để giữ cho Anabel khỏi bị sợ hãi. Cô ấy không thể  lái xe trượt tuyết. Ông đã phải kéo cô trên một chiếc xe trượt băng. Đôi khi tôi cũng muốn nhảy lên xe trượt băng, và ônghỏi, ‘có vấn đề với cái này hả? Nó nặng một tấn đấy’. Sau đó, anh ấy sẽ cố quay nhanh xung quanh và bắt tôi, nhưng anh không bao giờ bắt được. Và anh ấy sẽ hỏi Anabel “Điều gì làm cho xe nặng như thế? cô đã  ăn sáng gì chưa?”. Nhưng cô ấy không bao giờ nói. Cô ấy là bạn thân nhất của tôi xưa nay”.
“Còn các cô gái ở trường thì sao? Họ không phải là bạn bè ư? “
“Tôi chỉ cần bám xung quanh họ khi không có ai khác. Họ chẳng có gì. Anabel và tôi có ngày sinh nhật của mình trong cùng một tháng. Tháng Sáu. Hồi sinh nhật thứ 11 của chúng tôi, Reddy đã cho chúng tôi đi thuyềntrên hồ. Ông dạy chúng tôi bơi. Vâng, dạy chúng tôi. Ông luôn luôn phải giữ Anabel – cô ấy không thực sự học bơi. Có lần ông đi bơi- lối thoát được ở một mình, và chúng tôi đã đổ cát vào giày ông ấy. Và sau đó, sinh nhật thứ 12 của chúng tôi, chúng tôi không thể đi bất cứ nơi nào như thế, nhưng chúng tôi đã đến nhà của ông và ăn một chiếc bánh. Cô ấy không thể ăn thậm chí một miếng bánh đó, rồiông đã cho chúng tôi đi trong chiếc xe của ông và chúng tôi đã ném thức ăn ra ngoài cửa sổ cho những con mòng biển. Chúng đánh nhau và la hét. Chúng tôi đã cười mình khùng điên, và ông phải dừng lại và giữ Anabel nên cô không bị xuất huyết.
“Và sau lần đó,” cô nói,”sau đó tôi không được phép gặp cô ấy nữa. Mẹ tôi không bao giờ muốn tôi loanh quanh với trẻ em đã bị bệnh lao. Ông bác sĩ nói rằng ông ngăn chặn nó khi ông phải làm vậy. Vì vậy, ông đã làm, và tôi phát điên lên. Nhưng cô ấy không có được chútniềm vui nào nữa -bệnh cô quá nặng. Tôi muốn cho chịnhìn thấy ngôi mộ của cô ấy nhưng chưa có cái gì đánh dấu nó được. Reddy và tôi sẽ làm một cái gì đó khi ông ấy có thời gian. Nếu chúng ta đi thẳng dọc theo con đường, thay vì rẽ ởchỗ chúng ta đã rẽ, chúng tasẽthấy nghĩa trang của cô ấy”.
Đến lúc này chúng tôi đã xuống vùng đất thấp, gần với bệnh viện San.
Cô nói: “Ôi, tôi suýt nữa quên”, và lấy ra một nắm vé.
“Vì ngày lễ Valentine. Chúng tôi đang chuẩn bị trò chơi này ở trường và nó được gọi là “tạp dề”. Tôi có tất cả chừng này vé đem bán và chị có thể là khách hàng đầu tiên của tôi. Tôi tham dự ở trong đó”.
Tôi ở gần ngôi nhà trong vịnh Amundsen là nơi bác sĩ đang sống. Anhđưa tôi đến đó ăn tối. Lời mời dường như đưa ra không dự tínhtrước vào một ngày anh đâm sầm vào tôi trong hội trường. Có lẽ,anh đã có một khả năng nhớ không thoải mái khi nói rằng chúng tôi sẽ gặp nhau để bàn bạc về ý tưởng giảng dạy.
Buổi tối anhmời là cáitối mà tôi đã mua vé cho trò chơi “tạp dề”. Tôi nói với anhnhư vậy, và anh nói, “Ừ, tôi cũng mua vé rồi. Nó không có nghĩa là chúng taphải có mặt ở đó”.
“Tôi cảm thấy phần nào như thể tôi đã hứa với cô ấy”.
“Ồ, bây giờ cô có thể  bỏ lời hứa của mình. Nó sẽ là điều tệ hại, tin tôi đi”.
Tôi đã làm như anh nói, tuy nhiên tôi không gặp Mary để nói với cô ấy. Tôi chờ đợi ở chỗ anh đã chỉ cho tôi chờ đợi, trên hiên nhà bên ngoài cửa trước của San. Tôi sẽ mặc bộ trang phục đẹp nhất của mình, một đôi giày kếp màu xanh thẫm, với các nút ngọc trai nhỏ và một cổ áo ren thực sự, và nhồi chặt chân vàođôi giày cao gót da lộn trong đôi giày ủng lội tuyết. Tôi đã chờ đợi vượt quá thời gian anh hẹn – lo lắng,trước hết, rằng Matron sẽ đi ra khỏi văn phòng của cô và phát hiện ra tôi, và, thứ nhì, rằng anh đã quên tất cả chuyện hẹn hò.
Nhưng sau đó anh đã đến, cài nút áo khoác lên mình, và xin lỗi.
“Luôn luôn có vài cái lặt vặtphải dọn dẹp”, anh nói, và dẫn tôi vòngqua tòa nhà đến chỗ xe của anh,”Cô đi cóvững chắckhông ?” anh hỏi, và khi tôi nói có,bất chấpđôi giày da lộn khó chịu,anh không đưa tay ra dắt tôi.
Chiếc xe của anh đã cũ và tồi tàn, như hầu hết xe hơi thời đó. Nó không có lò sưởi. Khi anh nói rằng chúng tôisắp đến nhà anh, tôi mới thấy nhẹ nhõm. Tôi không thể hiểu chúng tôi phải làm sao lách qua đám đông tại khách sạn, và tôi đã hy vọng không phải làm bánh mì kẹp tại quán cà phê.
Tại nhà anh, anh nói tôi đừng cởi áo khoác, chờ đến khi trong nhà đã ấm lên một chút. Và anh đã bận rộn ngay đểnhóm một đám lửa trong bếp củi.
“Tôi là người gác cửa cho em, đầu bếp của em và là người phục vụ em”,anh nói,”sẽ sớm thấy thoải mái ở đây, và bữa ăn sẽ không lâu nữa. Đừng làm phụ tiếp tôi. Tôi thích làm việc một mình. Em muốn ngồi chờ đợi chỗ nào ? Nếu em muốn làm gì đó, có thể xem qua những cuốn sách trong phòng phía trước. Không phải là quá khó chịu ở đó vì em bận chiếc áo khoác. Công tắc đènở ngay bên trong cánh cửa. Em không phiền nếu tôi nghe tin tức một chút chứ ? Đó là một thói quen tôi đã mắc”.
Tôi đi vào phòng phía trước, cảm thấy như thể tôi đã ít nhiều phải nghe lệnh, tôi để cánh cửa nhà bếp mở. Anh đến và đóng cửa lại, nói: “Chỉ cần đóng cửa cho đến khi trong nhà bếp ấm áp hơn”, và quay trở lại ủ rũ vẻ kịch tính, giọng nói gần như tiếng nói cẩn thận của đài CBC khi đưa ra những tin tức về chiến tranh.
Có rất nhiều sách để xem. Không chỉ trên giá sách mà còn trên bàn ghế và bậu cửa sổ và chất đống trên sàn nhà. Sau khi tôi đã lật qua một số sách, tôi kết luận rằng anh mua ủng hộ sách theo lô và có thể thuộc sở hữu của một số câu lạc bộ sách. Classics Harvard. Lịch sử của Will Durant. Tiểu thuyết và thơ dường như rất thiếu, mặc dù có một vài tác phẩm kinh điển gây tò mò ngạc nhiên cho trẻ em. Cuốn sách về Cuộc nội chiến Mỹ, chiến tranh Nam Phi, những cuộc chiến tranh Napoleon, cuộc chiến Peloponnesian, các chiến dịch của Julius Caesar.Những cuộc thám hiểm Amazon và Bắc cực. Shackleton mắc kẹt trong băng. Cuộc thám hiểm bi đát của John Franklin, Đảng Donner, và chuyện các bộ lạc bị mất tíchNewton và giả kim thuật, Những bí mật của Hindu Kush.Những cuốn sách cho thấy một người nào đó lo lắng để hiểu biết, để sở hữu vô số mảnh phân tán của kiến ​​thức. Có lẽ không có người nào mà các thị hiếu lạibền vững và nhiều nỗ lực như vậy.
Vì vậy, có thể chắc rằng khi anh hỏi tôi: “Có cuốn tiểu thuyết Nga nào không?”, anhấy không có một nền tảng vững chắc như tôi nghĩ.
Khi anhkêu “Sẵn sàng” và tôi mở cánh cửa, tôi được trang bị vũ khí với sự hoài nghi mới này.
Tôi hỏi,”Anh đồng ý với ai, Naphta hay Settembrini ? “
“Xin lỗi ? sao cơ ?”
“Trong cuốn “Dãy núi kỳ diệu”. Anhthích nhất Naphta, hay Settembrini ? “.
“Thành thật mà nói, tôi đã luôn nghĩ rằng họ là một cặp ba hoa. Còn em ? “.
“Settembrini thì nhân đạo hơn, nhưng Naphta lại thú vị hơn”.
“Họ nói với emđiều đó trong trường học à? “
“Tôi không bao giờ đọc nó trong trường,” tôi nói lạnh lùng.
Anhliếc nhanhtôi một cái, nhướng mày lên.
“Xin lỗi nha. Nếu có điều gì trong đó mà em quan tâm, cảm thấy rảnh rỗi, xin vui lòng đến đây và đọc trong thời gian rảnh. Có một lò sưởi điện tôi có thể dựng lên, bởi vì tôi tưởng tượng em không có kinh nghiệm với bếp củi. Chúng ta sẽ nghĩ về điều đó chứ ? Tôi có thể nhanh chóng làm một chìa khóa phụ cho em”.
“Cảm ơn anh”.
Thịt lợn, khoai tây nghiền nhanh, đậu Hà Lan đóng hộp. Món tráng miệng là một chiếc bánh táo từ bánh mì, những món sẽ tốt hơn nếu ôngấy hâm nóng nó lên.
Anh hỏi tôi về cuộc sống của tôi ở Toronto, khóa học đại học của tôi, gia đình tôi.
Anh nói anhnghĩ rằng tôi đã được nuôi dưỡng trên con đường thẳng và hẹp.
“Ông tôi là một mục sư tự do, loại Paul Tillich”.
“Thếcòn em ? cháu bé gái Kitô giáo tự do ? “
“Không”.
“Khôn khéo lắm. Em có nghĩ rằng tôi thô lỗ? “
“Điều đó còn tùy thuộc… Nếu anh đang phỏng vấn tôi như một ông chủ lao động, không đâu”.
“Vậy, tôi sẽ tiếp tục. Em có bạn trai chưa? “
“Có”.
“Trong lực lượng quân đội, tôi nghĩ vậy”.
Tôi nói, “Trong Hải quân”.Điều đó cho tôi một lựa chọn tốt, để giải thích cho việc tôi không biết nơi mà không rõ anhcó nhận được thư từ thường xuyên.
Bác sĩ đứng dậy và tìm trà.
“Những loại tàu thuyền anh ấy dùng là gì vậy?”.
“Tàu hộ tống, loại tàu chiến nhỏ và nhanh để bảo vệ tàu khác”, một lựa chọn tốt,“Có lần, tôi có thể bảo anh ta phóng ngư lôi, như đã luôn luôn xảy ra với các tàu hộ tống”.
“Một anh chàng dũng cảm. Thêm sữa hoặc đường vào tách trà của em nha?”.
“Không cần cả hai thứ, cảm ơn”.
“Thế là tốt, bởi vì… tôi chẳng có thứ nào. Em biết đấy, nó cho thấy khi em đang nói dối – embị đỏ mặt”.
Nếu tôi không bị đỏ mặt từ trước, mặt tôi đã đỏ lên lúc đó. Sự xúc động tuôn ra từ bàn chân đi lên, và mồ hôi chảy thành dòng xuống dưới cánh tay. Tôi hy vọng trang phục sẽ không bị hỏng.
“Tôi luôn luôn phát nóng khi uống trà”.
“Ồ, tôi hiểu”.
Chuyện không thể tồi tệ hơn, vì vậy tôi đã quyết định phải đối mặt với anh ta. Tôi đổi chủ đề,nói về anh ta, hỏi về cách anhmổ người. Anhtừng cắt phổi người ta chưa, như tôi đã có nghe ?
Anh ta có thể trả lời với kiểu trêu chọc hơn, mạnh mẽ hơn – có thể đây là khái niệm tán tỉnh của anh và tôi tin rằng nếu anh ta đã làm như vậy, tôi sẽ mặc áo khoác của tôi và bước ra trời lạnh. Có lẽ anh biết điều đó. Anh bắt đầu nói về chất plastic. Tất nhiên, loại bỏ các thùy trong cơ thể người cũng đã trở nên phổ biến gần đây.
“Nhưng anh không để mất bệnh nhân nào chứ?”. Tôi hỏi.
Hẳn anh đã nghĩ đó là thời gian để lại nói đùa.
“Nhưng, tất nhiên. Chạy đi và trốn trong bụi cây- chúng tôi không biết họ ở đâu. Nhảy xuống hồ. Hay em đã nghĩ rằng họ không chết ? Có những ca phẫu thuật không thành công, có đấy”.
Nhưng những điều tuyệt vời đang đến, anh nói. Các phẫu thuật anh đang làm sẽ trở thành lỗi thời vìphải đổ máu. Một loại thuốc mới trên đường hoàn thành.Streptomycin[8]. Đã được sử dụng trong thử nghiệm. Có một số vấn đề – rất tự nhiên là sẽ có những vấn đề. Độc tính đốivới hệ thần kinh. Nhưng một cách nào đó sẽ được tìm thấy để đối phó với điều đó.
“Thôi ta bỏ chuyện ấy lại, như tôi, ra khỏi công việc chứ “.
Anh rửa chén, tôi lau khô. Anhquàng một khăn rửa chén quanh eo tôi để bảo vệ trang phục của tôi. Khi hai đầu khăn đã được buộcchặt, anh ta đặt tay lên phần trên của lưng tôi. Sức ép chắc như vậy, các ngón tay xòe ra – anh gần như đang kiểm định được tình hình  cơ thể của tôi một cách chuyên nghiệp. Khi tôi đi ngủ đêm đó, tôi vẫn có thể cảm thấy cái áp lực đó. Tôi cảm thấy nó phát triển cường độ từ ngón tay út đến ngón tay cái cứng rắn. Tôi rất thích bàn tay áp chặt đó. Thực vậy, cái đặt tay đócòn quan trọng hơn so với nụ hôn đặt trên trán tôi sau đó, trước khi tôi bước ra khỏi xe của anh. Một nụ hôn môi khô, ngắn gọn và trang trọng đặt lên tôi với một uy quyền, vội vã
Chìa khóa nhà anhnằm trên sàn phòng tôi, được luồn qua dưới cửa ra vào khi tôi vắng nhà. Nhưng nghĩ cho cùng tôi không thể sử dụng nó. Nếu ai khác đã đề nghị tôi chuyện này, tôi đã chớp lấy cơ hội. Đặc biệt là nếu nó bao gồm một lò sưởi. Nhưng, trong trường hợp này, sự hiện diện của quá khứ và tương lai của anh ấy trong ngôi nhà sẽ hút hết ra tất cả sự thoải mái bình thường của tình hình và thay thế nó bằng một niềm vui, đó là sự nhức đầu…Tôi ngờ rằng chẳng biết tôi có thể đọc nổi một từ ngữ.
Tôi chờ đợi Mary đi qua mắng tôi đã mất mặt với trò chơi “tạp dề”. Tôi nghĩ sẽ nói rằng tôi không được khỏe. Tôi đã bị cảm lạnh. Nhưng sau đó tôi nhớ rằng cảm lạnh là việc nghiêm trọng ở nơi này, liên quan đến việc đau mặt nạ và chất khử trùng, sự xua đuổi vì sợ lây lan. Và ngay sau đó tôi hiểu rằng không có hy vọng giấu chuyến thăm của tôi đến nhà bác sĩ. Đó là một bí mật mà không ai thậm chí từ các y tá, những người chẳng nói gì, hoặc vì họ quá cao thượng và kín đáo hoặc vì chuyện xảy ra đã không còn làm họ quan tâm. Nhưng các trợ lýđã trêu chọc tôi.
“Tận hưởng bữa ăn đêm khác nữa chứ ?”.
Giọng điệu của họ rất thân thiện, họ dường như chấp thuận. Địa vị của tôi đã tăng lên. Bất kể lúc trước tôi là ai khác, ít nhất tôi có lẽđã trở thành một người phụ nữ có đàn ông.
Mary không xuất hiện suốt cả tuần.
“Thứ Bảy sau” là những từ đã được nói ra ngay trước khi anh thực hiện nụ hôn ấy. Vì vậy, tôi chờ đợi một lần nữa ở trước hiên nhà, và lần này anh không đến muộn. Chúng tôi lái xe về nhà anh, tôi đi vào phòng phía trước trong khi anhnhóm lửa lên. Ở đó tôi nhìn thấy có cái lò sưởi điện cũ rích.
“Em đã không nhậnlời mời của tôi,” ông nói, “Em có nghĩ rằng tôi không có ý như vậy ? Tôi luôn luôn biếtrõ những gì tôi nói”.
Tôi nói rằng tôi không muốn đi vào thị trấn vì sợ gặp Mary.
“Bởi vìsẽ vắng mặtbuổi hòa nhạc của cô ấy”.
“Đó là vì,nếu em đang sắp xếp cuộc sống của mình cho phù hợp với Mary”, ông nói.
Món ăn đã được làm nhiều như lần trước. Thịt lợn, khoai tây nghiền nhanh, bánh ngô thay cho đậu Hà Lan. Lần này anh để cho tôi làm tiếp trong nhà bếp, thậm chí bảo tôi sắp xếp bàn ăn.
“Em có thể tìm hiểu mọi thứ ở đây. Nó được  sắp xếp khá hợp lý, tôi tin vậy”.
Điều này có nghĩa rằng tôi có thể quan sát anh làm việc tại bếp. Sự tập trung dễ dàng của anh, các cử độngthận trọng tiết kiệm, tạo ra trong tôi một sự liên tụckhuấy động và thu hút.
Chúng tôi chỉ mới bắt đầu bữa ăn thì có một tiếng gõ cửa. Anh đứng dậy và kéo cáichốt cửa và bật ra Mary. Cô mang theo một hộp giấy và đặt trên bàn. Sau đó, cô cởi áo khoác ném ra và phô diễn bản thân trong một bộ trang phục màu đỏ và màu vàng.
“Chúc mừng ngàyValentine”,cô nói, “chị không bao giờ đến xem tôi trong buổi hòa nhạc, vì vậy tôi đã đưa buổi hòa nhạc đến cho chị”.
Cô đứng trên một chân vàđá tung ra một chiếc giày, sau đó đến chiếc giày kia. Cô gạt chúng ra khỏi đường đi của mình và bắt đầu nghênh ngang quanh cái bàn, hát cùng một lúc bằng một giọng than vãn nhưng trẻ trung mạnh mẽ:
Tôi được gọi là chiếc ly đựng bơ nhỏ bé,
Thân thiết
ly bơ nhỏ bé,
Mặc dù tôi chả
 bao giờ có thể nói lý do tại sao
Nhưng tôi
vẫn được gọi là ly bơ nhỏ,
Ly bơ nhỏ 
 đáng thương
Ly bơ nhỏ  ngọt ngào, tôi…
Bác sĩ đã đứng dậy ngay trước khi cô bắt đầu hát. Anh đang đứng ở bếp, cạo cạo cái chảo rang đựng các miếng sườn lợn.
Tôi vỗ tay. Tôi nói,”Thật là một trang phục tuyệt đẹp”.
Thực sự là vậy. Váy đỏ, váy lót sáng màu vàng, tạp dề trắng xao động, vạt áo thêu.
“Mẹ tôi đã làm nó đấy”.
“Kể cả thêu ren ?”
“Chắc chắn rồi. Bà ấy thức đến 4 giờ để làm xong cho tôi vào đêm hôm trước”.
Rồi cô tiếp tục nhảy xoay tít và dậm mạnh để thể hiệnbộ váy. Các dĩa chén kêu leng keng trên kệ. Tôi vỗ taythêm nữa. Cả hai chúng tôi muốn chỉ có một điều. Chúng tôi muốn bác sĩ quay lại và đừnglàm ngơ chúng tôi. Muốn anh ta nói, thậm chí một cách miễn cưỡng, một từ lịch sự.
“Và nhìn xem còn gì khác”, Mary nói, “cho một Valentine”. Cô xé mở hộp giấy và đó là  bánh quy Valentine, tất cả cắt thành hình trái tim và phủ băng đỏ dày.
“Lộng lẫy quá,” tôi nói, và Mary tiếp tục nhảy cỡn: :
Tôi là thuyền trưởng của trò tạp dề trẻ con.
Và cùng là 
một đội trưởng tốt chính cống .
Bạn rất rất tốt, và có thể là hiểu biết
,
Tôi chỉ huy một thủy thủ
 đoàn tốt chính cống.
Bác sĩ cuối cùng cũng quay lại, và Mary chào anh.
“Được rồi,” anh nói,”Thế là đủ rồi”.
Cô lờ đi:
Sau đó tặng cho ba lần reo hò và thêm một lần nữa. Cho đội trưởng dày dạncủa trò “tạp dề”.

“Tôi nói, thế là đủ rồi”.
Đối với đội trưởng trò chơitạp dề… “
“Mary. Chúng tôi đang ăn bữa tối. Và cô không được mời. Cô có hiểu điều đó không? Không được mời”.
Cuối cùng, cô ấy cũng im lặng. Nhưng chỉ trong giây lát.
“Vâng, ông khiếp quá, vậy đó. Ông chẳng mấytử tế”.
“Và côcũng chỉ có thể đến mà không cần mang bánh quy. Cô đang trên đường trở nênmập tròn như một con lợn nhỏ”.
Khuôn mặt của Mary căng phồng lên như thể cô sắp bật khóc, nhưng thay vào đó, cô nói: “Xem ai đang nói chuyện. Ôngchỉ biết nhìn người khác bằng một con mắt”.
“Thế là đủ rồi !”
“Vâng, ông đủ rồi”
Bác sĩ nhặt mấy cái giày của cô và đặt xuống trước mặt cô.
“Xỏ giày đi”.
Cô xỏ giày với đôi mắt đầy nước mắt chảy qua mũi. Cô bực tức mãnh liệt. Ông nhặt chiếc áo khoác của cô và không giúp cô khi cô lúng túng mặc áo trật ra theo cách của mình và tìm thấy các nút.
“Thế được rồi. Nào, côđến đây bằng gì ?”
Cô từ chối trả lời.
“Đi bộ, phải không? được, tôi có thể lái xe đưa cô về nhà. Vì vậy, cô không có cơ hội để quăng mình vào một bờ tuyết và đóng băng đến chết,khỏi phải tự thương hại”.
Tôi không nói một lời. Mary không nhìn tôi lấy một lần. Thời điểm này đã quá đầy đủ các cú sốc thay cho lời tạm biệt.
Khi nghe thấy tiếng xe khởi động, tôi bắt đầu dọn bàn. Chúng tôi đã không phải ăn món tráng miệng với bánh táo một lần nữa. Có lẽ anh không biết về bất kỳ loại bánh khác, hoặc có lẽ đó là tất cả các bánh được làm ra.
Tôi chọn một trong các hộp bánh quy hình trái tim và ăn. Kem lòng trắng trứngcực kỳ ngọt ngào. Không có dâu tây hoặc hương vị anh đào, chỉ có đường và màu thực phẩm đỏ. Tôi ăn miếng khác và miếng nữa.
Tôi biết rằng,ít ra tôi nên nói lời tạm biệt. Tôi  nên nói cảm ơn cô ấy cho các hộp bánh quy. Nhưng nó sẽ không quan trọng. Tôi đã nói với bản thân mình rằng nó sẽ không quan trọng. Buổi biểu diễncủa cô đã không diễn ra cho tôi. Hoặc có lẽ chỉ một phần nhỏ của nó đã được dành cho tôi.
Anhấy thực tàn nhẫn. Nó gây sốc cho tôi khi thấyanh đã quá tàn nhẫn. Để dành cho một người thì quá nhu cầu. Nhưng anh đã làm cho tôi, theo cách ấy. Để cho thời gian của anh với tôi không bịmất đi. Suy nghĩ này tâng bốc tôi, và tôi cảm thấy xấu hổ rằng nó tâng bốc tôi. Tôi không biết những gì sẽ nói với anh ta khi anh trở lại.
Anh ấy không muốn tôi nói bất cứ điều gì. Anhdẫn tôi vào giường. Việc này đã có cả trong chương trình, hay là bất ngờ với anh ấy cũng như đối với tôi ? Tình trạng trinh tiết của tôi, ít nhất, đã không xuất hiện như một bất ngờ,anhđưa ra một chiếc khăn, cũng như bao cao su, và anh vẫn kiên trì tiến hành dễ dàng như anh có thể. Niềm đam mê của tôi là một bất ngờ, cho cả hai chúng tôi.
“Tôi dự định sẽ kết hôn với em,” anh nói.
Trước khi anh đưa tôi về nhà, anh ném tất cả sốbánh quy, tất cả những trái tim màu đỏ, ra ​​ngoài tuyết để các loài chim mùa đông ăn.
Vậy là, việc đã được quyết định. Việc đính hôn của chúng tôi, mặc dù anh có một chút thận trọng khi nói, là một sự kiện thỏa thuận cá nhân. Đám cưới sẽ diễn ra bất cứ khi nào anh có thể thu xếpđược vài ngày nghỉ liên tục. Sự kiệnchủ yếu nhất của đám cưới, anh nói. Tôi đã không viết một chữ cho ông bà tôi. Tôi đã hiểu rằng ý tưởng về một buổi lễ, tiến hành trong sự hiện diện của những người khác có ý kiến mà anhta không tôn trọng, và những người sẽ gây ra cho chúng ta tất cả những gì cười thầm và cười màu mè thìquá nhiều hơn anhấy có thể chịu đựng.
Cũng không phải là anh ủng hộ chiếc nhẫn kim cương. Tôi nói với anh rằng tôi chưa bao giờ muốn có một cái, đó là sự thật, bởi vì tôi chưa bao giờ nghĩ về nó. Anh cho biết như thế là tốt. Anh  biết rằng tôi không phải là loại ngu ngốc, một cô gái theo truyền thống.
Sẽ là tốt hơn nếu ngăn chặn bữa ăn tối với nhau, anh nói, không chỉ vì nói chuyện nhưng vì rất khó để có đủ thịt cho hai người trên một thẻ khẩu phần. Thẻ thực phẩm của tôi thì không có sẵn, đã được bàn giao cho nhà bếp, cho mẹ của Mary, ngay sau khi tôi bắt đầu ăn ở San.
Tốt hơn là không gợi sự chú ý.
Tất nhiên, tất cả mọi người đều có nghi ngờ điều gì đó. Các y tá già quay ra thân mật, và thậm chí Matron cười với tôi một nụ cười đau khổ. Tôi đã tự thỏa mãn một cách khiêm tốn, gần như không có ýgì. Tôi đã tự cúi mình, với một cặp mắt tĩnh lặng như nhung, hơn làthất vọng. Nó không xảy ra tình trạng là, những phụ nữ lớn tuổi đang xem xét phương hướng của sự thân mật này diễn ra theo hướng nào và họ sẵn sàng đổi hướng chính đáng nếu bác sĩ quyết định bỏ rơi tôi.
Đó là các trợ lý, những người đã hết lòng đứng về phía tôi, và trêu chọc tôi rằng họ thấy tiếng chuông đám cưới trong lá trà của tôi.
Tháng Ba là thời nghiệt ngã và bận rộn đằng sau những cánh cửa bệnh viện. Nó luôn là tháng tồi tệ nhất, các trợ lý nói. Vì một số lý do, người ta đã đưa mùa đông vào trong đầu để chết vậy, sau khi chịuđựng các cuộc tấn công của mùa đông. Nếu một đứa trẻ không xuất hiện trong lớp học, tôi không biết có một biến cố lớn tồi tệ hơn hay chỉ là một cáibộ giường nệm khăn trảibị lật xuống với chẩn đoán một trận cảm lạnh.
Thời gian đã được lựa chọn, tuy nhiên, chờ bác sĩ làm một số sắp xếp. Anhluồn một cái thư dưới cánh cửa căn phòng của tôi, hướng dẫn tôi sẵn sàng vào tuần đầu tiên của tháng Tư. Trừ khi có một sự khủng hoảng thực sự, anh có thể sắp xếp một vài ngày sau đó.
Chúng tôi sẽ đi Huntsville.
Sẽ đi Huntsville–  mật mã của chúng tôi cho việc  kết hôn.
Tôi có giày kếp xanh lá cây, giặt khô và cuộn lại cẩn thận trong túi ngủ của tôi. Tôi cho rằng tôi sẽ phải thay đổi quần áo của tôi trong nhà vệ sinh phụ nữ. Tôi đang ngóng đợi xem liệu có loại hoa dại đầu mùa nào dọc theo con đường mà tôi có thể hái để làm một bó hoa. Anhấy có đồng ý với tôi cần có một bó hoa ? Nhưng vẫn còn quá sớm ngay cả đối với đầm lầy cúc vạn thọ. Không có gì được nhìn thấy ngoài những cây vân sam đen gầy và hòn đảo lan nhanh cây bách và đầm lầy. Và, trong những con đườngđi qua, một mớ bòng bong hỗn độn của đá đã trở nên quen thuộc với tôi ở đây – sắt dính máu và thềm dốc đá granit.
Các đài phát thanh trên xe hơi đang chơi nhạc khải hoàn, bởi vì các nước đồng minh đang ngày càng tiến gần hơn tới Berlin. Bác sĩ nói rằng họ đang trì hoãn để cho người Nga đến đó trước. Anh nói rằng họ sẽ phải hối tiếc.
Bây giờ chúng tôi đang đi khỏi Amundsen, tôi thấy rằng bây giờ có thể gọi anhlà Alister. Đây là chuyến đi xe dài nhất mà chúng tôi từng đi cùng nhau, và tôi bị kích thích bởi cái sự không ý thức nam giới của anh với tôi – mà tôi biết có thể nhanh chóng chuyển sang đối cực – và bởi kỹ năng bình thường của anhkhi làm một tài xế. Tôi cảm thấy điều đó thú vị vìanh là một bác sĩ phẫu thuật, tuy nhiên tôi sẽ không bao giờ thừa nhận điều đó. Ngay bây giờ, tôi tin rằng tôi sẽ nằm xuống cho anh trong bất kỳ vũng lầy hoặc cái ốnhớp nhúa nào hoặc cảm thấy cột sống của tôi bị nhàu nát trên mấy cục đá bên đường nếuanh yêu cầu một cuộc gặp gỡ ngay thẳng. Tôi cũng biết, rằng tôi phải giữ những cảm xúc này cho mình.
Tôilại nghĩ đến tương lai. Một khi chúng tôi đến được Huntsville, hy vọng rằng chúng tôi sẽ gặp một vị mục sư và đứng cạnh nhau trong một phòng khách, nơi sẽ có sự hào hoa quý tộc hạng nhất của những phòng khách mà tôi biết trong suốt đời mình.
Tuy nhiên, khi chúng tôi đến đó, tôi khám phá ra rằng có những cách khác để kết hôn, và chú rể của tôi có một ác cảm khác rằng tôi đã không nắm được. Anh sẽ không có bất cứ điều gì để làm với một mục sư. Tại tòa thị chính ở Huntsville, chúng tôi điền các mẫu đơn trong đó thề về tình trạngđộc thân của mình và chúng tôi thực hiện một cam kết để được kết hôn bởi một thẩm phán hòa giải.
Giờ ăn trưa. Alister dừng lại bên ngoài một nhà hàng nơi có thể là một người anh em họ đầu tiên đến cửa hàng cà phê ở Amundsen.
“Chuyện này sẽ ra sao”.
Nhưng, nhìn sâu vào mặt tôi, anh ta thay đổi ý.
“Không ư?”, anh nói, “O.K”.
Chúng tôicuối cùng cũng ăn trưa trong căn phòng phía trước lạnh buốt của một trong những ngôi nhà quý phái đã quảng cáo những bữa ăn tối thịt gà. Các dĩa chénđóng băng giá lạnh, không có thực khách nào khác, và không có âm nhạc đài phát thanh mà chỉ có tiếng lách cách của dao nĩakhi chúng tôi cố gắng tách bóc từng phần riêng biệt của thịt gà xơ già. Tôi chắc là anh ta đang nghĩ rằng chúng tôi có thể làm tốt hơn trong cái nhà hàng mà anh đề nghị ở nơi đầu tiên.
Tuy nhiên, tôi thấy hồi hộpkhi hỏi về phòng vệ sinh nữ, và ở đó, trong không khí lạnh thậm chí làm nản lòng hơn so với căn phòng phía trước, tôi rũ lắc cái váy đầm màu xanh lá cây và mặc lại nó, tô lại miệng, và sửa lại mái tóc.
Khi tôi đi ra, Alister đứng lên chào tôi và những nụ cười và xiết tay tôi, và nói tôi trông khá đẹp.
Chúng tôi đi bộ một cách cứng nhắc trở lại xe, tay nắm tay. Anh mở cửa cho tôi, đi vòng quanh rồi vào xe, ngồi lắng mình một chút và vặn chìa khoákhởi động xe, sau đó lao vút đi.
Chiếc xe được đậu ở phía trước một cửa hàng đồ sắt. Xẻng xúc tuyết đang được bán với giá một nửa. Vẫn còn một biển hiệu trên cửa sổ nói rằng giày trượt có thể được mài nhọn ở bên trong.
Bên kia đường có một ngôi nhà bằng gỗ sơn một màu vàng dầu nhờn. Những bậc cửa phía trước của nó đã trở nên không an toàn, và hai tám ván hình thành một chữ X được đóng đinh vắt qua chúng.
Chiếc xe tải đậu ở phía trước của xe Alister là một cái xe kiểu trước chiến tranh, với một tấm ván điều khiển chạy và một mép rìa gỉ sắt trên chắn bùn của nó. Một người đàn ông trong bộ áo liền quần đi ra khỏi cửa hàng đồ sắt và trèo lên xe. Sau một số phàn nànvề động cơ, sau đó cótiếng nổ lạch bạch và nảy chồm tại chỗ, nó được lái đi. Bây giờ một chiếc xe tải giao hàng với tên cửa hàng trên nó đang cố gắng để đậu xe vàochỗ bỏ trống. Không đủ chỗ đậu xe. Người lái xe bước ra và đếngõ trên cửa sổ của Alister. Alister ngạc nhiên, liệuanh đã không  nói năng trung thựcvà đã nhận thấy có vấn đề. Anhcuốn cửa sổ xuống, và người đàn ông hỏi chúng tôi đậu xe ở đó có ý định mua cái gì đó trong cửa hàng không. “Nếu không thì xin vui lòng di chuyển dọc theo được không?’.
“Chỉ dời đi,” Alister nói, người đàn ông ngồi bên cạnh tôi, cái người sắp kết hôn với tôi nhưng bây giờ sẽ không cưới tôi,”Chúng ta chỉ dời đi”.
Chúng ta. Anh đã nói “chúng ta”. Trong một khoảnh khắc, tôi bám vào từ đó. Sau đó, tôi nghĩ rằng, Đây là lần cuối cùng. Lần cuối cùng tôi sẽ được bao gồm vào trong chữ “chúng ta” của anh ấy.
Không phải là chữ “chúng ta” có vấn đề, đó không phải là những gì làm cho sự thật rõ ràng hơn với tôi. Đó là giọng điệu của nam giới với nam giới với người lái xe, sự bình tĩnh và xin lỗi phải chăng của anhta. Tôi gần như ước muốn bây giờ quay trở lại với những gì anh đã nói trước đây, khi anh thậm chí không nhận ra cái xe tảiloay hoay đậu xe. Những gì anh đã nói sau đó là khủng khiếp nhưng ít nhất tay nắm thật chặt trên vô lăng, bàn tay nắm và sự lơ đãng của anh và giọng nói của anhcó sự cố gắng với chúng. Không thành vấn đề những gì anh đã nói, anh đã nói ra vềchỗ đứng khó hiểu  tương tự như những điều anh đã nói ra khi anh đang nằm trên giường với tôi. Nhưng bây giờ nó không phải vậy nữa, sau khi anh đã nói chuyện với người đàn ông khác. Anh cuốn cửa sổ lên và dồn tất cả sự chú ý của mình vào chiếc xe, để lùi nó ra khỏi vị trí khít khao của nó và di chuyển để không đụng chạm với chiếc xe tải, như thể không có gì cần nói nữa hay phải loay hoay thu xếp.
“Tôi không thể làm điều đó,” anh đã nói.
Anhta không thể chấp nhận nó.
Anh ta không thể giải thích điều này.
Chỉ có điều là,anh cảm thấy nó sẽ là một sai lầm.
Điều xảy ra với tôi là tôi sẽ không bao giờ có thể nhìn vào những chữ “S” s xoăn  giống như là dấu hiệu trên ván trượt sắc nét, hoặc những tám ván thô đóng đinh hình chữ X, giống như những người bước qua các bậc của ngôi nhà màu vàng, mà không nghe giọng nói này.
“Tôi sẽ đưa em đến ga xe lửa bây giờ. Tôi sẽ mua vé cho em về Toronto. Tôi chắc rằng có một chuyến tàu đến Toronto vào cuối buổi chiều. Tôi sẽ nghĩ ra một số câu chuyện rất chính đáng và tôi sẽ có nhờ ai đó đóng gói hành lý của em. Em sẽ cần phải ghi cho tôi địa chỉ Toronto của em. Tôi không nghĩ rằng tôi đã giữ nó. Ồ, và tôi sẽ viết cho em một tài liệu tham khảo. Em đã làm tốt một công việc tốt. Tuy nhiên em sẽ không cần hoàn thành lời cam kết- tôi chưa nói với em nhưng các em học sinh sắp được chuyển đến viện điều dưỡng khác. Tất cả các kiểu thay đổi lớn đang diễn ra”.
Một giai điệu mới trong giọng nói của anh, gần như vui vẻ. Một giai điệu khuây khỏa. Anh đang cố gắng giữ cho khuây khỏa, không để nó biến mất cho đến khi tôi ra đi.
Tôi ngắm xem các đường phố. Nó giống như đang được kích thíchđối vớisự tự hành hình của riêng tôi. Vẫn chưa ra. Một chút  vẫn chưa, tôi vẫn chưa nghe giọng nói của anh ta lần cuối cùng,vẫn chưa.
Anh ta không phải hỏi đường đến nhà ga. Tôi tự hỏi thành tiếng liệu anh đã từng đưa những cô gái lên tàu trước đây chưa.
“Đừng như thế mà” anh nói.
Mỗi vòng quay giống như một lát cắt của những gì còn lại của cuộc đời tôi.
Có một chuyến tàu đến Toronto lúc năm giờ. Tôi chờ đợi trong xe, trong khi anh đi vào mua vé. Anh đi ra với vé trong tay và cái tôi nghĩ là anh bước nhẹ hơn. Anh phải nhận ra điều này, bởi vì khi anhđến gần chiếc xe, anh trở nên điềm tĩnh hơn.
“Nhà ga thực là đẹp và ấm áp. Có một phòng đợi đặc biệt cho phụ nữ”.
Anh mở cửa xe cho tôi.
“Hay là, có thể côthích tôi chờ đợi và tiễn cô không? May ra có một nơi mà chúng ta có kiếm được một mảnh bánh táo tươm tất. Đó là một bữa ăn tối khủng khiếp”.
Điều này làm cho tôi xáo động bản thân mình. Tôi đi ra và đi bộ vượt trước anh ta, đi vào nhà ga. Anh chỉ lối vào phòng chờ của phụ nữ. Anhnhướnchân mày nhìn tôi và cố gắng nói đùa lần chót:
“Có thể một ngày nào đó em sẽ tính rằng đây là một trong những ngày may mắn nhất của cuộc đờiem”.
Tôi chọn một băng ghế trong phòng chờ có một tầm nhìn ra cửa trước nhà ga. Để tôi sẽ có thể nhìn thấy anh ta xemanh có quay trở lại không. Có lẽ anhấy sẽ cho tôi biết rằng đây hoàn toàn là một trò đùa. Hoặc một thí nghiệm, như trong một số vở kịch về thời trung cổ. Hoặc có lẽ anh sẽ thay đổi trái tim. Lái xe xuống đường cao tốc, nhìn thấy ánh sáng mặt trời mùa xuân nhạt nhòa trên những tảng đá mà chúng tôi gần đây đã ngắm nhìn cùng nhau. Ấn tượng bởi sự nhận ra cái điên rồ của mình, anh sẽ quay lại và tăng tốc  lên.
Còn ít nhất một giờ trước khi tàu Toronto đi vào nhà ga, nhưng có vẻ hầu như bất cứ lúc nào. Và ngay cả bây giờ những hình ảnh viển vông đang chạy qua tâm trí tôi. Tôi lên tàu như thể có chuỗi dây xích trên mắt cá chân tôi. Tôi áp mặt vào cửa sổ để nhìn sân ga khi tiếng còi thổi cho cuộc khởi hành của chúng tôi. Nó không phải là quá muộn nếu tôi muốn nhảy khỏi tàu. Nhảy tự do và chạy qua nhà ga ra đường phố, nơi anhta vừa đỗ xe và nhảy lên cầu thang, suy nghĩ, không quá muộn,  cầu nguyện không phải là quá muộn.
Tôi sẽ chạy đến gặp anh ta. Không quá muộn.
Bây giờ có một sự rung chuyển, la hét, kêu gào, không phải một người mà là một đám người đến trễ đang gõ đập giữa các hàng ghế. Những nữ sinh trung học trong trang phục thể thao, cười thétvới những rắc rối do mình gây ra. Người hướng dẫn không hài lòng và thúc giục họ đi tới khi họ tranh giành chỗ ngồi.
Một trong số họ, và có lẽ là người la to nhất, là Mary.
Tôi quay đầu và không nhìn họ nữa.
Nhưng đây là cô ấy, gọi tên tôi và muốn biết tôi ở đâu.
”Đi thăm một người bạn”, tôi nói với cô ấy.
 Cô quăng mình xuống bên cạnh tôi và nói rằng họ đang chơi bóng rổ với  đội Huntsville. Đó là một cuộc bạo loạn. Họ bị thua.
“Chúng ta bị thua, phải không?”, cô nói lớn trong sự thỏa thích rõ ràng, và những người khác than thở và cười khúc khích. Cô nhắc đến điểm số, mà thực sự là khá gây sốc.
“Các cô, tất cả mặc quần áo tử tế lên”, cô nói. Nhưng cô ấy không thực sự quan tâm nhiều, cô dường như tin lời giải thích của tôi mà không quan tâm thực sự.
Cô bây giờ mới biết khi tôi nói rằng tôi về Toronto để thăm ông bà tôi. Không một lời về Alister. Thậm chí không một từ xấu. Cô ấy đã không quên. Chỉ dọn dẹp hiện trường và vứt nó đi, trong tủ quần áo như trước đây của cô khác. Hoặc có thể cô ấy thực sự là một người có thể đối phó coi thường với sự bẽ mặt.
Bây giờ tôi biết ơn cô ấy, ngay cả nếu tôi đã không thể cảm thấy một điều như vậy vào thời điểm đó. Từ biệt bản thân mình, vậy có những gì tôi đã làm được khi chúng tôi đến Amundsen ? Bỏ tàu và chạy về nhà anh ta và yêu cầu được biết lý do tại sao, tại sao.
Những gì xấu hổ của tôi là mãi mãi.
Như vậy, điểm dừng chân ở đó vừa đủ lâu cho đội tuyển tự tập hợp lại, trong khi  cảnh báo của người hướng dẫn rằng nếu họ không tiến về phía trướcthì họ sẽ phải đón xe hơi đi Toronto.
Trong nhiều năm, tôi nghĩ rằng tôi có thể chạy nhào vào anh ta. Tôi sống, và vẫn sống, ở Toronto. Dường như với tôi, mọi người đều kết thúc ở Toronto, ít nhất trong một thời gian ngắn.
Sau đó, hơn một thập kỷ sau đó, cuối cùng nó đã xảy ra. Đi qua một đường phố đông đúc, nơi chúng tôi có thể thậm chí không đi chậm. Đi theo hướng ngược nhau. Nhìn chằm chằm, cùng một lúc, một cú sốc nhạt nhẽo trên những khuôn mặt bị thời gian làm hư hoại của chúng tôi.
Anh ta kêu lên, “Em khỏe không?”, Và tôi đã trả lời:”Tốt”,sau đó thêm vào, cho lịch sự, “Hạnh phúc”.
Vào giai đoạn này, đóchỉ là sự thật nói chung chung. Tôi đang có cả dãy việc kéo lê theo với chồng tôi, về việc chúng tôi phải trả một món nợ điều hành bởi một trong những đứa con của anhấy. Tôi đã đi, buổi chiều ấy, đến một chương trình triển lãm tại Phòng trưng bày Mỹ thuật, để nhập mình vào một khung cảnh thoải mái hơn cho tâm trí.
Anh gọi lại cho tôi một lần nữa. “Tốt cho cô,” anh nói.
Nó vẫn có vẻ như thể chúng tôi sẽ thực hiện theo cách của chúng tôi đi ra khỏi đám đông, như thể chỉ trong một lúc, chúng tôi sẽ ở bên nhau. Nhưng đó chỉ là giả định, cũng có thể, rằng chúng tôi sẽ tiếp tục theo những phương hướng đang đi, và vì vậy chúng tôi đã làm.
Không có tiếng kêu rên hổn hển, không có bàn tay đặt trên vai tôi khi tôi ra đến lề đường. Chỉ là một chớp lóe mà tôi đã bắt gặp khi một mắt anh ta mở rộng hơn mắt kia. Đó là mắt trái -luôn luôn ở bên trái, như tôi nhớ. Và nó luôn luôn trông rất lạ, cảnh báo và ngạc nhiên, như thể một số say mê điên cuồng không thể xảy ra đã xảy ra với anh, rằng gần như làm anh ta bật cười.
Tất cả chỉ có thế. Tôi tiếp tục đi về nhà.
Cảm giác giống như khi tôi dời khỏi Amundsen.
Con tàuđang kéo tôi, không tin tưởng.
Chẳng có gì thay đổi, rõ ràng, về tình yêu ♦
Lời bàn người dịch
 Nhân vật chính Hyde mồ côi cha mẹ sớm- bạn đọc hiểu vậy dù nhà văn không kể điều đó. Cô còn có ông bà nhưng cũng chẳng mấy thân thiết, khi cô tự quyết định làm lễ đính hôn cũng không hỏi xin phép hay báo tin đến ông bà – hai người thân duy nhất còn lại.  Chỉ khi từ bỏ Amundsen cô mới về thăm họ. Cho thấy, nữ nhân vật có một hoàn cảnh thực bất hạnh thiệt thòi. Điều đó cũng ngầm giải thích lối ứng xử tùy hứng của cô với bác sĩ trưởng bệnh viện lao…Chỉ một hai tình tiết nho nhỏ như cô giáo viên trẻ bụng đói không ngần ngại cầm ăn quả sung lúc mới đến bệnh viện, chẳng phải kể chuyện vu vơ. Nó kết hợp với tình tiết cô lên giường dễ dàng với bác sĩ lúc gần cuối truyện, góp phần vẽ nên chân dung hoàn chỉnh của nhân vật này. Chúng ta bạn đọc cần lưu ý rằng bối cảnh câu chuyện xảy vào lúc chiến tranh thế giới II sắp kết thúc. Nhu cầu tồn tại của con người là cao hơn những chuyện tình cảm hay sex…Một bác sĩ cầu hôn rồi bỗng nhiên hủy hôn chẳng cần nói lý do cũng là một vấn đề nhân cách con người.
  Kết truyện mở ra một tình trạng mới:
Tôi đang có cả một dãy việc kéo lê theo với chồng tôi, về việc trả một món nợ của chúng tôi điều hành bởi một trong những đứa con của ông ấy”.
 Nữ văn sĩ quả thực cao tay, khôn ngoan mà nhàn hạ, mở  câu chuyện ra đến vô tận mà chỉ tốn chút công phu.
 Cái tên truyện “Amundsen” chỉ là địa danh câu chuyện, nơi có lẽ tác giả đặt nhằm nhấn mạnh vùng đất khí hậu khắc nghiệt có một bệnh viện lao và cuộc sống thời chiến gian khổ. Người dịch đổi tên tác phẩm thành “Cô giáo bước vào đời” bởi muốn nhằm vào nhân vật chính và cho dễ tiếp nhận đối với bạn đọc người Việt.
 Người dịch
 Chú thích
[1] Hyde: nghĩa là ẩn nấp. Mary nói giỡn với cô giáo trẻ Vivien Hyde. (ND)
[2] Tiêu thuyết của nhà văn Nga Liev Toltoi thế kỷ 19 (ND)
[3] Cái móc: cái bẫy, nói giỡn chơi.  (ND)
[4] .Nguyên văn: “The Magic Mountain
[5] . Chi tiết này tạm hiểu: bác sĩ lột áo khi ông làm tình với những phụ nữ ở bệnh viện hoặc khám bệnh cho bệnh nhân khi điều trị . (ND)
[6]. Nguyên văn: Xs và Os. ( ND)
[7] . Lời nói đặt trong đá: ý nói là khuôn mẫu, đáng tôn trọng. (ND)
[8] .Streptomycine: thuốc khánh sinh, hồi đó là thuốc đặc trị bệnh lao. (ND)

Nguyên tác: “Dimension”
tác giả: Alice Munro, nữ văn sĩ Canada
Giải Nobel văn chương 2013[1]
Người dịch: Phùng Hoài Ngọc

Doreeđã phải đi ba chuyến xe buýt, chuyến đầu đi Kincardine, nơi đây cô lại chờ một chuyến khác đến thị trấn London[2], từ đây cô chờ đợi chuyến xe buýt thành phố đến bệnh viện tâm thần. Cô bắt đầu đi vào ngày chủ nhật lúc chín giờ sáng. Vì thời gian chờ đợi giữa các chuyến xe buýt, phải đến hai giờ chiều cô mới đi được quãng đường hơn một trăm dặm. Tất cả chuyến đi đều phải ngồi, hoặc trên xe buýt hoặc trong bến xe, chẳng phải là điều cô phải phiền não. Công việc hàng ngày của cô không phải là loại ngồi ghế.
Doree là một hầu phòng ở khách sạn Comfort. Cô cọ rửa nhà tắm, dọn giường và phòng nghỉ, hút bụi thảm và lau gương. Cô thích công việc vì nó lấp đi suy nghĩ của mình đến một mức độ nhất định và làm cô mệt mỏi để dễ ngủ vào ban đêm. Cô hiếm khi phải đối mặt với một mớ hỗn độn thực sự xấu xa, mặc dù một số phụ nữ mà cô làm việc cùng có thể kể những câu chuyện làm cho bạn cười đến xoăn tóc. Những phụ nữ lớn tuổi hơn cô, họ đều nghĩ rằng cô nên cố gắng làm việc để tiến bộ hơn. Họ nói rằng cô nên được đào tạo cho một công việc văn phòng trong khi cô vẫn còn trẻ và đáng điệu thanh nhã. Nhưng cô lại bằng lòng làm những gì cô đã làm. Cô không muốn làm công việc phải nói chuyện với nhiều người. 
Không ai trong những người làm việc cùng cô biết những gì đã xảy ra. Hoặc, nếu họ đã biết, họ không nói nữa. Hình ảnh của cô đã được in trên báo chí – họ đã sử dụng bức hình anh ấy chụp cô với tất cả ba đứa con, em bé mới sinh, Dimitri, trong vòng tay cô, và Barbara Ann và Sasha ở hai bên sườn nhìn lên. Mái tóc cô dài, lượn sóng và màu nâu, quăn tự nhiên và màu sắc tự nhiên, vì anh ta thích nó, và khuôn mặt của cô rụt rè và dịu dàng – một sự phản ánh cô ấy ít hơn những gì anh muốn nhìn thấy ở cô. 
Kể từ đó, cô đã cắt tóc ngắn, tẩy trắng và bịt lại, và cô đã giảm cân nhiều. Và cô đã mang  theo tên thứ hai của mình:Fleur. Ngoài ra, công việc mà họ tìmcho cô là ở một thị trấn với khoảng cách khá xa nơi cô từng sống.
Đây là lần thứ ba cô thực hiện chuyến đi. Hai lần đầu tiên anh đã từ chối gặp cô. Nếu anh ta làm điều đó một lần nữa thì cô sẽ thôi cố gắng. Thậm chí nếu anh ta đã gặp cô, cô có thể không trở lại trong một thời gian. Cô không nhiệt tình nữa. Cô không thực sự biết những gì cô  sắp làm.
Trên cái xe buýt đầu tiên cô không quá lo lắng. Chỉ theo xe chạy và ngắm nhìn phong cảnh. Cô đã lớn lên trên bờ biển, nơi có một cái gì như mùa xuân, nhưng mùa đông ở đây đã gần như nhảy  thẳng vào mùa hè. Một tháng trước, đã có tuyết, và bây giờ nó đã đủ nóng để bỏ hở tay trần. Những khoảng đất nhỏ loang lổ đọng nước nằm trong các cánh đồng, và ánh sáng mặt trời đã đổ xuống các nhánh cây trần trụi. 
Trên chuyến xe buýt thứ hai cô bắt đầu cảm thấy bồn chồn, và cô không thể cố đoán xem ai trong số phụ nữ ngồi quanh cô có thể đi đến cùng một nơi. Họ là những phụ nữ đi một mình, thường mặc trang phục cẩn thận, có lẽ khiến họ trông như thể đang đi nhà thờ. Những người lớn tuổi trông như thể họ sẽ  đi nhà thờ cũ nghiêm ngặt nơi bạn phải mặc váy và vớ và một số loại mũ, trong khi những người trẻ tuổi có lẽ đã thuộc về một cộng đoàn sống động, nơi chấp nhận quần áo, khăn quàng cổ tươi sáng, bông tai, và kiểu tóc phồng. Khi bạn nhìn lần thứ hai, bạn đã thấy rằng một số phụ nữ mặc quần cũng khá già như những người khác. 
Doree không phù hợp với cả hai loại. Trong suốt cả năm rưỡi đó cô đã làm việc và không mua cho mình một chiếc quần áo mới. Cô mặc bộ đồng phục của mình tại nơi làm việc và quần jean ở mọi nơi khác. Cô đã bước ra khỏi cách thức trang điểm bởi vì anh đã từng ngăn cấm điều đó, và bây giờ, mặc dù cô có thể làm điều đó, cô lại không muốn nữa. Những cuộn tóc màu lúa mạch của cô không phù hợp với gương mặt xương xương mộc mạc của mình, nhưng điều đó chẳng quan trọng.
Trên chuyến xe buýt thứ ba cô lấy một chỗ ngồi bên cửa sổ, và cố gắng giữ cho mình bình tĩnh bằng cách đọc những biển hiệu – cả quảng cáo và các biển hiệu giao thông đường phố. Có một mẹo nào đó cô đã chọn để giữ cho tâm trí của mình khỏi vẩn vơ. Cô lấy các chữ cái của bất cứ cái gì đôi mắt cô nhìn vào, và cô đã cố gắng để xem có bao nhiêu từ mới cô có thể nhận ra trong số chúng. “Coffee”, chẳng hạn, chữ “fee”sẽ cung cấp cho cô từ “chi phí”, và sau đó chữ “foe” cho”kẻ thù” và “off” cho chữ “tắt” và chữ “of” cho chữ “của”, … Từ ngữ đã phong phú hơn trên con đường ra khỏi thành phố, khi họ đi qua biển quảng cáo, cửa hàng khổng lồ, rất nhiều xe hơi, thậm chí bóng bay thả neo trên mái nhà để quảng cáo bán hàng.
Doree đã không nói với bà Sands về hai nỗ lực sau cùng của mình, và có lẽ sẽ không nói với bà về điều này. Bà Sands, người mà cô gặp vào chiều thứ Hai, nói về việc cô cần tiếp tục đi bước nữa, tuy nhiên cô luôn luôn nói rằng việc đó cần có thời gian, rằng mọi thứ không thể vội vàng. Bà  nói với Doree rằng cô đang làm tốt, rằng cô đã dần dần phát hiện ra sức mạnh của mình.
“Tôi biết những lời này đã được thực hiện đến chết,” cô nói. “Nhưng chúng vẫn đúng”.
Cô đỏ mặt trước cái điều cô nghe mình nói – cái chết – nhưng không làm cho nó tồi tệ hơn bởi lời biện hộ của mình.
Khi Doree  mười sáu  tuổi, bảy năm trước đây, cô đi thăm mẹ trong bệnh viện mỗi ngày sau giờ học. Mẹ cô đã hồi phục từ một ca mổ ở lưng, được cho là nghiêm trọng nhưng không nguy hiểm. Lloyd là một người phục vụ ở đó. Anh và mẹ của Doree có chung một trải nghiệm là cả hai từng là hippies cũ [3]– Lloyd mặc dù thực sự có vài năm thời tuổi trẻ bất cứ khi nào có thời gian anh lại đến và trò chuyện với bà ấy về những buổi hòa nhạc và biểu tình tuần hành phản đối mà cả hai đều tham dự, những người kỳ quặc họ được biết đến, các chuyến đi ma túy đã bị thảm bại, đại loại như vậy.
Lloyd rất quen thuộc với các bệnh nhân, nhờ những câu chuyện hài hước và phong cách mạnh mẽ tự tin của anh. Anh chắc nịch, vai rộng và đủ quyền lực để đôi khi mời một bác sĩ (Không phải là anh được hài lòng bởi anh đã giữ ý kiến cho rằng rất nhiều thuốc là gian lận và nhiều bác sĩ quấy rầy). Anh có làn da đỏ nhạy cảm, mái tóc sáng và đôi mắt gan lỳ.
Anh hôn Doree trong thang máy và nói với cô rằng cô là một bông hoa trên sa mạc. Sau đó, anh tự cười mình, và nói: “Làm thế nào ban đầu em có thể đạt được như vậy?”.
“Anh là một nhà thơ và không hiểu điều đó đâu”, cô nói, để cho tử tế.
Một đêm, mẹ cô đột ngột qua đời, vì tắc mạch máu. Mẹ của Doree có nhiều bạn nữ, những người có thể nhận chăm sóc Doree – và cô ở lại với một trong số họ trong một thời gian, nhưng người bạn mới Lloydlà một trong những người Doree ưa thích. Trước ngày cô tổ chức sinh nhật tiếp theo, cô đã mang thai, sau đó kết hôn. Lloyd chưa bao giờ  kết hôn trước đó, mặc dù đã có ít nhất hai trẻ em ở đâu đó mà anh không biết chắc. Tuy nhiên chúng sẽ được nuôi lớn lên. Triết lý cuộc đời của anh đã thay đổi vì anh đã lớn tuổi – bây giờ anh tin vào hôn nhân, kiên trì, và không hạn chế sinh đẻ. Và anh đã tìm thấy bán đảo Sechelt, nơi anh và Doree sinh sống, đông người trong những ngày này – những bạn cũ, cách sống cũ, người yêu cũ. Chẳng bao lâu anh và Doree di chuyển từ vùng nông thôn đến một thị trấn mà họ chọn từ một cái tên trên bản đồ: Mildmay. Họ không sống ngay trong thị trấn, họ thuê một nơi ở nông thôn. Lloyd có việc trong một nhà máy sản xuất kem. Họ trồng một khu vườn. Lloyd biết rất nhiều về làm vườn, cũng giống như anh đã làm nghề mộc gia dụng, quản lý một bếp củi, và có một chiếc xe hơi cũ.
Sasha đã ra đời.
“Tự nhiên hoàn hảo”, bà Sands nói.
Doree nói, “Vậy sao?”.
Doree luôn luôn ngồi trên ghế thẳng lưng trước mặt bàn làm việc, không phải trên ghế sofa, trong đó có một mẫu hoa và những cái đệm. Bà Sands chuyển ghế của mình đến cạnh bàn làm việc để họ có thể nói chuyện mà không ngại bất kỳ rào cản nào giữa hai người.
“Tôi đang chờ đợi cô sẽ làm gì đó”,bà nói,”Tôi nghĩ đó là cái tôi có lẽ làm được ở vị trí của cô”.
Bà Sands không nói điều đó từ lúc đầu. Một năm trước, thậm chí, bà đã thận trọng hơn, biết Doree sẽ thận trọng như thế nào, sau đó, bà nghĩ rằng bất cứ ai, bất kỳ linh hồn sống nào cũng có thể làm ở vị trí của cô. Bây giờ bà biết rằng Doree sẽ chỉ cần chấp nhận nó như một cách, thậm chí một cách khiêm tốn, để cố gắng hiểu rõ.
Bà Sands không giống như một số người khác. Bà không nhanh nhẹn, không mảnh mai, không đẹp. Cũng không quá già. Tuổi bà ước cỡ như mẹ của Doree, mặc dù bà không có vẻ  đã từng là một hippie lập dị (3). Tóc màu xám của bà đã được cắt ngắn và bà có một nốt ruồi trên một gò má. Bà đi giày phẳng và quần lỏng lẻo và có hoa. Ngay cả khi chúng có màu hoa mâm xôi hoặc màu xanh ngọc những bông hoa trên ngọn đã không làm cho bà trông như thể bà thực sự quan tâm đến những gì bà mặc- nó còn hơn như ai đó đã bảo bà rằng bà cần phải làm điệu bản thân mình và bà đã ngoan ngoãn đi mua sắm một cái gì đó bà nghĩ có thể làm như thế. Tính cách bà rộng rãi, tỉnh táo, khách quan vui vẻ, toát ra sự hăng hái tấn công tất cả các sự xúc phạm, toát ra ngay từ quần áo.
“Vâng, hai lần đầu tiên tôi chưa bao giờ nhìn thấy anh ấy” Doree nói,”Anh ấy không đi ra ngoài”.
“Nhưng lần này anh ta đã đi ? Anh ta đã ra ngoài?”
“Vâng, anh ấy đã đi. Nhưng tôi sẽ không mấy khó  hiểu anh ta”.
“Anh ấy già đi nhiều không?”
“Tôi đoán vậy. Tôi nghĩ anh ấy bị giảm cân nhiều. Và những quần áo đó. Đồng phục. Tôi chưa bao giờ thấy anh ta trong bộ dạng như thế”
“Chẳng phải anh ấy đã từng làm một nhân viên phục vụ bệnh viện ?”
“Việc đó là không giống nhau”.
“Anh ấy trông chờ cô sẽ giống như một người khác ư?”.
“Không”, Doree bặm môi trên, cố nghĩ ra cái khác biệt là gì. Anh ấy im lặng quá. Cô chưa bao giờ thấy anh lặng lẽ như thế. Anh thậm chí  như không biết rằng anh nên ngồi xuống đối diện với cô. Lời đầu tiên cô nói với anh là “Anh không ngồi xuống sao?” Và anh đã nói, “Như thế có được không?”.
“Anh ấy nhìn như trống rỗng”, cô nói,”Tôi tự hỏi liệu có phải họ đã bắt anh ấy uống ma túy ?” .
“Có lẽ, cái gì đó đã giữ anh ta tồn tại ổn định lại. Cô đừng phiền, tôi không biết. Cô và anh ta đã có một cuộc chuyện trò chứ?”.
Doree băn khoăn có thể nói như vậy không. Cô đã hỏi anh ta một số câu hỏi thông thường ngớ ngẩn. Anh cảm thấy thế nào ? (O.K) Anh có đủ ăn không? (anh nghĩ là đủ) Anh có được đi bộ đến nơi nào đó nếu anh muốn không ? (Dưới sự giám sát, có. Anh ấy nghĩ cô có thể gọi nó là một nơi. Anh nghĩ cô có thể gọi nó là đi bộ).
Cô nói,”Anh cần phải tìm chút không khí trong lành”.
Anh nói, “Đúng vậy”.
Cô hình như hỏi rằng anh có bạn bè nào chưa. Như cách bạn hỏi con  bạn về trường học. Như khi con bạn đi học, bạn sẽ hỏi chúng như thế.
“Đúng, đúng”, bà Sands nói, đẩy nhẹ hộp khăn giấy mở sẵn về phía trước. Doree không cần nó, đôi mắt cô vẫn lạnh nhạt. Rắc rối là ở chỗ bụng dưới. Cô thở gấp nặng nhọc.
Bà Sands chỉ chờ đợi, biết đủ để giữ cho bàn tay cô lỏng ra.
Và, dường như anh ấy đã phát hiện ra những gì cô định nói, Lloyd nói rằng có một bác sĩ tâm thần đến và nói chuyện với anh thường xuyên.
“Tôi bảo bác sĩ rằng anh đang lãng phí thời gian,” Lloyd nói,”Tôi biết nhiều như anh ta biết”.
Đó là lần duy nhất anh thấy có vẻ Doree có nét gì đó giống như anh [4].
Tất cả trong chuyến thăm, trái tim cô vẫn đập mạnh. Cô nghĩ rằng, cô có thể ngất xỉu hoặc chết. Nó làm hao phí cô như một nỗ lực để nhìn anh, để có được anh ta trong tầm nhìn của cô, như một người đàn ông, thiếu tự tin, gày gò và xám, lạnh, di chuyển máy móc nhưng là kẻ bất hợp tác.
Cô không nói chút gì về điều này với bà Sands. Bà Sands có thể đã hỏi – một cách khéo léo – về người mà cô sợ. Bản thân cô hay anh ta? Nhưng cô không sợ.
Khi Sasha được một tuổi rưỡi, Barbara Ann được sinh ra, và, khi Barbara Ann hai tuổi, họ sinh Dimitri. Họ đã cùng bàn bạc đặt tên cho Sasha, và sau đó họ giao ước rằng anh sẽ đặt tên cho bé trai và cô đặt tên cho bé gái.
Dimitri là đứa bé đầu tiên bị đau bụng. Doree nghĩ rằng có thể mình không đủ sữa, hoặc sữa của cô không đủ giàu chất bổ. Hay có lẽ là quá giàu chất bổ? Tuy nhiên, đều không đúng. Lloyd mời một người phụ nữ từ Hiệp hội La Leche đến và nói chuyện với cô. Dù bạn làm gì, người phụ nữ nói, bạn không được cho nó một chai sữa bổ sung. Đó sẽ chỉ là ranh giới mỏng manh chêm vào, chị nói, và rất nhanh chóng, cô sẽ làm cho nó từ chối vú mẹ hoàn toàn. Cô nói như thể đó sẽ là một bi kịch lớn.
Người khách nữ biết chút ít rằng Doree đã cho bé uống sữa bổ sung. Và dường như sự thật là bé ưa thích cách đó – bé ưa thích kiểu đó nhiều hơn vào bộ ngực mẹ. Ba tháng, bé đã hoàn toàn bú bình, và sau đó Lloyd không có cách nào để giữ nó bú mẹ. Cô nói với anh rằng sữa của cô đã khô cạn, và cô phải bắt đầu bổ sung. Lloyd vắt một vú sau đó đến vú kia với quyết tâm mãnh liệt và thành công lấy ra được một vài giọt sữa trông thực khổ sở. Anh gọi cô là một kẻ nói dối. Họ đánh nhau. Anh nói rằng cô là một con điếm như mẹ cô.
Tất cả những hip-pi là gái điếm, anh nói.
Chẳng bao lâu họ lại hòa hợp. Nhưng bất cứ khi nào Dimitri cáu kỉnh, bất cứ khi nào bé bị cảm lạnh, hoặc sợ hãi cả con thỏ vật cảnh của các bé lớn hơn, hay vẫn còn bám vào ghế ở cái tuổi anh trai và em gái của mình đã tự đi bộ được, sự thất bại cho con bú cứ bị nhắc lại.
Lần đầu tiên Doree đến văn phòng của bà Sands, và một trong những người phụ nữ khác ở đó đã cho cô một cuốn sách nhỏ. Trên mặt trước của sách là một cây thánh giá bằng vàng, những chữ bằng vàng và dòng chữ màu tím: “Khi mất mát bạn có vẻ không chịu nổi…”. Bên trong, có một bức tranh Chúa Giêsu màu sắc dịu nhẹ và một số chữ in đẹp hơn mà Doree không đọc.
Trong chiếc ghế của cô ở phía trước bàn làm việc, Drree vẫn giữ chặt cuốn sách nhỏ, cô bắt đầu cơn rung rẩy. Bà Sands đã phải cạy gỡ cuốn sách ra khỏi bàn tay cô.
“Ai đó đã cho cô cái này?” Bà Sands hỏi.
Doree nói “Cô ấy”, và hất đầu vào cánh cửa khép kín.
“Cô không thích nó à?”.
“Khi bạn đang suy sụp là khi họ sẽ cố gắng và đến với bạn”, Doree nói, và sau đó nhận ra rằng đó là một cái gì đó mẹ cô đã nói, khi một số phụ nữ với một thông điệp tương tự đến thăm bà trong bệnh viện. “Họ nghĩ rằng bạn sẽ ngã khuỵu gối và sau đó nó sẽ ổn thôi”.
Bà Sands thở dài.
“Vâng”, bà nói, “Đó chắc chắn không phải là đơn giản”.
“Không thể như thế,” Doree nói.
“Có lẽ không”.
Họ không bao giờ nói về Lloyd trong những ngày đó. Doree chẳng bao giờ nghĩ xem cô liệu có giúp gì anh ấy không, và rồi chỉ coi anh như thể một tai nạn khủng khiếp của thiên nhiên.
“Thậm chí nếu tôi tin tưởng vào cái thứ đó”, cô nói – ý nghĩa trong cuốn sách nhỏ – nó chỉ để mà…”. Cô  muốn nói rằng một niềm tin như thế sẽ thuận tiện bởi vì sau đó cô có thể nghĩ Lloyd đang bị đốt cháy ở dưới địa ngục, hoặc một cái gì thuộc loại đó, nhưng cô không thể tiếp tục, bởi vì chỉ là quá ngớ ngẩn khi nói về nó. Và vì một trở ngại quen thuộc, đó giống như một cái búa đánh cô vào bụng.
Lloyd nghĩ rằng con cái của họ cần được giáo dục tại nhà. Điều này không phải vì những lý do tôn giáo- đang chống lại loài khủng long và người tiền sử và loài khỉ và tất cả những cái đó – mà vì anh muốn lũ trẻ được gần gũi với cha mẹ và được giới thiệu với thế giới một cách cẩn thận và từ từ, tốt hơn là kiểu ném vào nó tất cả cùng một lúc.”Tôi chỉ ngẫu nhiên nghĩ rằng họ là con của tôi”, anh nói, “Tôi nghĩ chúng là những đứa con của chúng tôi, không phải trẻ con của Bộ Giáo dục”.
Doree đã không chắc chắn rằng cô có thể xử lý việc này, nhưng hóa ra Bộ Giáo dục có chủ trương và kế hoạch bài học mà bạn có thể nhận được từ trường học địa phương. Sasha là một cậu bé sáng dạ, người thực tế đã tự học đọc, và hai bé kia vẫn còn quá nhỏ nên chưa đọc được nhiều. Vào các buổi tối và ngày cuối tuần, Lloyd dạy Sasha về địa lý và hệ mặt trời, thói ngủ đông của động vật, làm thế nào một chiếc xe chạy được, bao phủ từng đối tượng như các câu hỏi đưa ra. Rất nhanh chóng, Sasha đã đi trước các kế hoạch của trường học, tuy nhiên Doree đi đón chúng và cho đứa bé làm hết các bài tập đúng lúc để điều luật đó được thỏa mãn.
Có một bà mẹ khác trong huyện làm công tác Giáo dục ở nhà. Tên chị ấy là Maggie và chị có một xe tải nhỏ. Lloyd cần chiếc xe của anh ta đi làm việc, và Doree thì không học lái xe, vì vậy cô đã vui mừng khi Maggie mời cô đi quá giang đến trường một lần mỗi tuần để nộp lại các bài tập đã hoàn thành và nhận những cái mới. Tất nhiên họ mang tất cả trẻ em đi cùng. Maggie đã có hai con trai. Đứa lớn tuổi bị nhiều chứng dị ứng nên chị đã phải để mắt nghiêm ngặt tất cả các thứ bé ăn và đó là lý do tại sao chị dạy bé học ở nhà. Và sau đó, có vẻ như chị cũng có thể giữ cả đứa bé giỏi hơn. Bé muốn ở lại với anh trai, tuy nhiên bé đã có vấn đề với bệnh hen suyễn.
Doree sau đó tỏ lòng biết ơn chị khi so thấy ba đứa trẻ khỏe mạnh của cô. Lloyd nói rằng vì cô sinh con khi cô vẫn còn trẻ trong khi Maggie đã chờ đợi cho đến khi chị ấy mấp mé thời kỳ mãn kinh. Anh đã phóng đại số tuổi của Maggie, nhưng đó là sự thật mà chị đã chờ đợi. Chị là một chuyên viên đo mắt. Chị và chồng chị hợp tác làm việc cùng nhau, và họ đã không bắt đầu cuộc sống gia đình con cái cho đến khi chị rời khỏi nghề nghiệp và họ đã có một ngôi nhà ở nông thôn.
Tóc của Maggie đã  muối tiêu, cắt cúp sát đầu. Chị có dáng người cao, ngực bằng phẳng, vui vẻ, và bảo thủ. Lloyd gọi chị là Lezzie. Chỉ ở sau lưng chị ấy thôi, tất nhiên. Anh nói đùa với chị ấy trên điện thoại nhưng nói thầm với Doree,”Đó là Lezzie”. Điều đó đã không thực sự làm nản lòng Doree – anh gọi rất nhiều phụ nữ là “Lezzies”. Nhưng cô sợ rằng đùa thế có vẻ quá thân thiện với Maggie, một sự xúc phạm, hoặc ít nhất là một sự lãng phí thời gian.
“Cô muốn nói chuyện với “bà già” ư. Vâng, tôi tìm bà ấy ngay ở đây thôi. Bà ấy đang vò xát bộ quần áo lao động của tôi, chà đi xát lại trên bàn chà. Hãy xem, tôi chỉ có một chiếc quần. Dù sao, tôi tin ở việc giữ bà ấy bận rộn”.
Doree và Maggie đã mắc thói quen cùng nhau đi mua sắm ở cửa hàng tạp hóa, sau khi họ lấy  được giấy tờ tại trường học. Hồi ấy, đôi khi họ uống cà phê tại nhà hàng Tim Horton và đưa con đến công viên Riverside. Họ ngồi trên một chiếc ghế dài trong khi Sasha và con trai của Maggie chạy vòng quanh hoặc treo ngược trên những cái máy kỳ cục, và Barbara Ann nghịch lên xuống trên cái đu và Dimitri chơi trong hộp cát. Hoặc họ ngồi trong xe tải nhỏ nếu trời lạnh. Họ nói chuyện chủ yếu là về các trẻ em và những món ăn họ nấu, nhưng chẳng biết làm sao Doree biết được Maggie đã trải qua khắp châu Âu trước khi được đào tạo như một chuyên viên đo mắt, còn Maggie tìm hiểu ra Doree thời trẻ đã kết hôn như thế nào. Về cách nào mà cô dễ dàng mang thai lần đầu, và tạo sao bây giờ không dễ dàng như vậy nữa, và tại sao mà Lloyd nghi ngờ, vì vậy mà anh ta đã lục lọi ngăn kéo tủ quần áo của cô tìm kiếm thuốc kiểm soát sinh đẻ và nghĩ hẳn cô phải cất thuốc ở nơi kín đáo.
“Và rồi cô thế nào?” Maggie hỏi.
Doree đã bị sốc. Cô nói cô không dám.
“Ý tôi là, tôi nghĩ đó là việc làm khủng khiếp mà không nói cho anh ta biết. Nó chỉ là một  trò đùa khi anh ta đi tìm nó”
“Ồ,” Maggie nói.
Và một lần Maggie nói, “Tất cả mọi chuyện  ổn thỏa với cô chứ? Tôi có ý nói về hôn nhân của cô? Cô có hài lòng không ?”.
Doree nói có, không do dự. Sau đó cô đã cẩn thận hơn về những gì mình nói. Cô thấy rằng có những chuyện cô quen dùng thì người khác có thể không hiểu. Lloyd có một cách nào đó nhìn sự vật, chỉ là cách riêng của anh. Ngay cả lần đầu tiên cô muốn gặp anh ấy ở bệnh viện, anh cũng giống như thế. Y tá trưởng là một người cứng nhắc, vì vậy anh đã gọi cô ấy là “bà chồn cái vượt địa ngục” thay vì tên cô là bà Mitchell. Anh nói rằng cái tên nghe quá nhanh khiến bạn có thể không nắm bắt được. Anh nghĩ rằng cô ấy chọn cái yêu thích, và anh không phải là một trong số cái đó. Bây giờ có một người anh ghét cay ghét đắng ở nhà máy kem, người ấy bị anh gọi là “Louie bú dính”. Doree không biết tên thật của người đàn ông đó. Nhưng ít nhất nó chứng minh rằng không phải là những người phụ nữ duy nhất khiêu khích anh.
Doree khá chắc chắn rằng những người này không phải là xấu như Lloyd nghĩ, nhưng cô không nhắc chuyện đó để tránh gây mâu thuẫn với anh. Có lẽ người đàn ông thì phải có kẻ thù,  bởi họ phải có câu nói đùa trêu chọc nhau. Và đôi khi Lloyd đưa kẻ thù vào câu chuyện cười, giống như khi anh đã tự cười mình. Cô thậm chí còn được phép cười với anh ta, miễn là cô không phải là người khởi động tiếng cười.
Cô hy vọng rằng anh sẽ không dùng cách ứng xử ấy với Maggie. Đôi khi cô sợ cô nhìn thấy một cái gì theo kiểu đó đang tới. Nếu anh ngăn cản cô đi xe đến trường và các cửa hàng tạp hóa với Maggie thì đó sẽ là một bất tiện lớn. Nhưng tồi tệ hơn sẽ là sự xấu hổ. Cô sẽ phải thực hiện một số lời nói dối ngu ngốc, để giải thích điều này. Nhưng Maggie sẽ biết, ít nhất chị ấy biết rằng Doree đang nói dối, và chị ấy sẽ giải thích rằng, có thể, như ý nghĩa mà Doree ở trong một tình trạng tồi tệ hơn côthực sự đang có. Maggie có cách nhìn sự việc sắc sảo hợp lý của mình.
Sau đó, Doree dù sao cũng tự hỏi, tại sao cô phải quan tâm những gì Maggie nghĩ. Maggie là một người ngoài cuộc, thậm chí không phải người Doree cảm thấy đặc biệt thoải mái. Đó là, Lloyd và Doree cùng gia đình của họ mới là vấn đề. Lloyd nói như vậy, và anh đã đúng. Sự thật của chúng ở giữa chúng, hợp đồng, không phải là điều mà bất cứ ai khác có thể hiểu và đó không phải là việc của người khác. Nếu Doree có thể canh chừng lòng trung thành của mình thì nó sẽ ổn thôi.
Tình trạng dần dần trở nên tồi tệ. Không cấm đoán trực tiếp, nhưng chỉ trích nhiều hơn. Lloyd đến với lý thuyết cho rằng bệnh dị ứng và hen suyễn của con trai Maggie có thể là lỗi của Maggie. Lý do thường là người mẹ, anh nói. Anh quen nhìn thấy điều đó ở bệnh viện, mọi lúc rồi. Vượt tầm kiểm soát, thường là người mẹ được giáo dục quá nhiều.
“Có khi, nhiều trẻ em chỉ được sinh ra với một cái gì đó,” Doree nói vẻ thiếu khôn ngoan. “Anh không thể nói đó là người  mẹ trong mọi lúc”.
“Ô. Tại sao tôi không thể? “
“Tôi không nói là anh. Tôi không có ý nói là anh không thể. Tôi muốn nói là họ không thể được sinh ra… “
“Bởi khi cô là một cơ quan y tế như vậy a?”
“Tôi không nói rằng tôi đã như vậy”.
“Không. Và cô không …”.
Tình trạng xấu càng tồi tệ hơn. Anh muốn biết những gì họ nói chuyện, cô và Maggie.
“Tôi không biết. Không có gì, thực đấy”.
“Buồn cười thật. Hai người phụ nữ đi trên xe ôtô. Lần đầu tiên tôi nghe nói thế. Hai người phụ nữ chẳng nói chuyện gì. Cô ấy xuất hiện để phá vỡ chúng ta”.
“Ai kia ? Maggie ư? “
“Tôi đã có kinh nghiệm về loại người phụ nữ như cô ấy”
“Loại gì?”.
“Loại cô ấy”.
“Đừng có ngốc thế”.
“Coi chừng. Đừng gọi tôi là ngốc”.
“Cô ấy muốn làm vậy vì cái gì ?”
“Tôi làm sao biết được ? Chị ấy chỉ muốn làm điều đó. Anh hãy chờ. Anh sẽ thấy. Chị ấy sẽ giúp anh vượt qua sự om xòm và than vãn về cái kẻ đáng ghét là tôi”.
Và thực tế nó hóa ra như anh đã nói. Ít nhất nó chắc chắn đã nhìn theo cách đó với Lloyd. Chính cô đã thấy mình khoảng mười giờ đêm ở trong nhà bếp của Maggie, sụt sịt nước mắt và uống trà thảo dược. Chồng của Maggie nói,”Cái quái gì thế ?” khi anh gõ cửa – cô nghe tiếng anh qua cánh cửa. Anh không biết cô là ai. Cô nói, “Tôi thực sự xin lỗi đã làm phiền ông” trong khi ông nhìn chằm chằm vào cô, dướn chân mày lên và miệng mím chặt. Và sau đó Maggie đã đến.
Doree đã đi suốt con đường trong bóng tối ở đó, đầu tiên đi dọc theo con đường sỏi mà cô và Lloyd  đang sống, sau đó trên đường cao tốc. Cô đi về phía con mương mỗi khi một chiếc xe đi đến, và làm cô phải giảm tốc độ đáng kể. Cô nhìn vào những chiếc xe đi ngang qua, nghĩ rằng một trong số đó có thể là Lloyd. Cô không muốn anh ấy đi tìm cô, vẫn chưa, cho đến khi anh đã sợ hãi mà vượt khỏi sự điên cuồng. Những lần khác, cô đã có thể đe dọa anh ta bởi chính cô, cô khóc lóc và gào thét và thậm chí đập đầu xuống sàn, trầm bổng,”Đó là không đúng sự thật, đó là không đúng sự thật, không đúng sự thật,” lần nữa và nữa. Cuối cùng anh cũng quay ra dịu xuống. Anh nói,”Được rồi, O.K. Tôi sẽ tin  cô. Em yêu, yên nào. Hãy nghĩ về những đứa trẻ. Tôi sẽ tin em, em yêu. Chỉ xin dừng lại”.
Nhưng đêm nay cô đã co mình lại ngay khi cô sắp bắt đầu màn biểu diễn đó. Cô mặc áo khoác và bước ra khỏi cửa, với tiếng anh ta gọi cô ở sau lưng, “Đừng làm thế. Tôi cảnh cáo cô!”.
Chồng của Maggie đã đi ngủ, không cần trông thấy cái gì hài lòng hơn, trong khi Doree tiếp tục nói, “Tôi xin lỗi. Tôi rất xin lỗi, làm phiền chị lúc này trong đêm”.
“Ôi, im nào”, Maggie nói, tốt bụng và nghiêm túc. Cô muốn uống một ly rượuvang không ?”.
“Tôi không uống rượu”.
“Thế thì, tốt hơn là cô không nên bắt đầu nói ngay bây giờ. Tôi sẽ lấy cho cô tách trà. Nó rất nhẹ nhàng. Trà cúc La Mã đấy. Không phải chuyện mấy đứa trẻ, phải không?”.
“Không”.
Maggie lấy áo khoác của mình và trao cho cô một hộp khăn giấy chùi mắt và mũi. “Tuy vậy chưa phải cố nói với tôi. Chúng tôi sẽ sớm giúp bạn ổn định”.
Ngay cả khi cô ấy đã phần nào ổn định, Doree không muốn thốt ra toàn bộ sự thật, và để cho Maggie biết rằng bản thân cô là trung tâm của vấn đề. Hơn thế nữa, cô không muốn phải giải thích về Lloyd. Không thành vấn đề cái chuyện cô vò xé lung tung với anh, anh ta vẫn là người gần gũi nhất trên thế giới với cô, và cô cảm thấy rằng tất cả mọi thứ sẽ sụp đổ nếu cô mang mình đi kể với ai đó một cách chính xác anh ta như thế nào, nếu cô ấy là hoàn toàn không chung thủy.
Cô nói rằng cô và Lloyd đã rơi vào một cuộc tranh cãi cũ và cô đã rất ốm và mệt mỏi vì nó mà tất cả cái cô muốn là thoát được ra ngoài. Nhưng cô sẽ vượt qua nó, cô nói. Họ sẽ thoát ra.
“Những chuyện đôi khi xảy ra cho mỗi cặp vợ chồng ấy mà” Maggie nói.
Chợt điện thoại reo, và Maggie trả lời.
“Có. Cô ấy ổn mà. Cô ấy chỉ cần đi bộ thì cái gì đó ra khỏi cơ thể cô ấy thôi. Tốt. O.K, vậy nha, tôi sẽ chở cô ấy về nhà vào sáng mai. Không có rắc rối gì đâu. O.K. Chúc ngủ ngon”.
“Đó là anh ấy”, cô nói, “Tôi đoán chị đã nghe”.
“giọng anh ta thế nào ? Nghe có bình thường không?”.
Maggie cười, “ôi,  tôi đâu biết giọng anh ấy khi bình thường, phải không? Anh ấy không có vẻ say rượu”.
“Anh ấy cũng không uống rượu. Chúng tôi thậm chí không có cà phê tại nhà”.
“Muốn ăn một ít bánh mì nướng không?”.
Vào buổi sáng sớm, Maggie lái xe đưa cô về nhà. Chồng của Maggiekhông đi làm, tuy nhiên ông ở nhà với các con trai.
Maggie đã vội vàng quay về, vì vậy chị chỉ nói: “Tạm biệt. Gọi điện cho tôi nếu cần nói chuyện” khi cô quay chiêc xe tải nhỏ vòng quanh cái sân.
Đó là một buổi sáng lạnh lẽo đầu mùa xuân, tuyết vẫn còn trên mặt đất, nhưng Lloyd đã ngồi trên các bậc thềm mà không mặc áo khoác .
“Chào buổi sáng”, anh nói, lớn giọng lịch sự vẻ mỉa mai. Và cô cũng nói chào buổi sáng, bằng một giọng giả vờ như không chú ý đến anh ta.
Anh không nhích sang một bên để cô trèo lên bậc cửa.
“Cô không thể vào đó”, anh nói.
Cô quyết định làm nhẹ chuyện này.
“Thậm chí nếu em xin phép à? Làm ơn đi”.
Anh nhìn cô nhưng không trả lời. Anh mỉm cười với đôi môi mím chặt.
“Lloyd ?”, cô nói “Lloyd ?”
“Cô không vào thì tốt hơn”.
“Em chẳng nói với chị ấy bất cứ điều gì, Lloyd. Em xin lỗi vì đã bỏ ra ngoài. Em chỉ cần một không gian thở, em chỉ nghĩ vậy”.
“Tốt hơn là không đi vào”.
“Có chuyện gì với anh vậy? Những đứa trẻ đâu rồi ?”.
Anh lắc đầu, như anh từng làm khi cô nói điều gì đó anh không thích nghe. Một cái gì đó nhẹ nhàng thô lỗ, như “cứt trong sạch”.
“Lloyd. Những đứa trẻ đi đâu ?”
Anh nhích qua một chút  để cô có thể lách qua nếu cô thích.
Dimitri vẫn còn trong giường của bé, nằm ngang. Barbara Ann nằm trên sàn bên cạnh giường của nó, như thể bé đã cố bò ra hoặc bị kéo ra. Sasha bên cửa nhà bếp, cậu bé đã cố gắng để bỏ chạy. Cậu bé là đứa duy nhất có những vết bầm tím trên cổ họng. Cái gối đã làm việc cho hai đứa bé kia.
“Tôi gọi điện đêm qua vào lúc nào?” Lloyd nói, “Khi tôi gọi điện, nó đã xảy ra”.
“Cô đã tự mình mang đến tất cả”, anh nói.
Bản phán quyết của tòa án nói là anh bị điên, Anh có thể không bị kết án. Anh là tội phạm điên – anh phải bị đặt vào một tổ chức bảo vệ an toàn.
Doree đã chạy ra khỏi nhà và bị vấp ngã xung quanh sân, giữ tay chặt trên bụng như thể bụng cô đã bị rạch mở và cố gắng để giữ mình lại với nó. Đó là cảnh mà Maggie nhìn thấy khi chị quay trở lại. Chị đã có một linh cảm, và đã quay xe tải trên đường. Suy nghĩ đầu tiên của chị là Doree đã bị người chồngđánh hoặc đá vào bụng. Doreecó thể làm gì được ngoài những tiếng kêu gào. Nhưng Lloyd, người vẫn đang ngồi trên bậc thềm, di chuyển sang một bên nhã nhặn cho chị đi, không nói một lời, và chị đã đi vào trong nhà và tìm thấy những gì bây giờ đã mong tìm thấy. Chị gọi điện cho cảnh sát.
Trong một thời gian Doree phải nhồi bất cứ cái gì có thể nắm được bỏ vào miệng. Sau các bụi bẩn và cỏ, đó là tấm trải giường hay khăn tắm hoặc quần áo của mình. Như thể cô đang cố gắng để kiềm chế không chỉ tiếng hú tăng lên mà còn là cái cảnh tượng ấy trong đầu cô. Cô đã bị bắn một viên đạn bằng cái gì đó, đều đều làm cô im bặt, và điều này gây tác động. Thực tế, cô đã trở nên rất lặng lẽ, mặc dù không say xỉn. Cô được cho là ổn định. Khi cô  ra khỏi bệnh viện và nhân viên xã hội đưa cô đến nơi ở này, bà Sands tiếp nhận, tìm cho cô nơi nào đó để sống, tìm cho cô một công việc, thiết lập các thói quen nói chuyện với cô một lần mỗi tuần. Maggie đi gặp cô ấy, nhưng chị là người Doree không thể chịu đựng được khi gặp mặt. Bà Sands nói rằng cảm giác đó là tự nhiên vì nó đã được liên tưởng lại [5]. Bà nói rằng Maggie sẽ hiểu.
Bà Sands nói rằng Doree có tiếp tục tới thăm Lloyd là tùy ý cô. “Tôi không ở đây để chấp thuận hay không chấp thuận, chị biết không. Nó đã làm cho chị  cảm thấy tốt để gặp anh ta ? Hay là xấu?”.
“Tôi không biết”.
Doree không thể giải thích rằng người cô đang trông chờ không thực sự là anh ta. Nó gần giống như nhìn thấy một con ma. Rất nhợt nhạt. Quần áo lỏng lẻo nhợt nhạt trên người anh, đi giày mà không gây ra  bất kỳ tiếng ồn -có thể là dép – trên đôi chân anh ta. Cô có cảm giác rằng một số tóc của anh đã đứt rơi ra. Tóc dày và lượn sóng, màu mật ong. Dường như hai vai anh không có chiều rộng, không có chỗ hõm trong xương đòn của anh ta nơi cô quen ngả đầu nghỉ ngơi.
Những gì anh đã nói, sau đó, với cảnh sát và đã được trích dẫn trên báo chí, là – “Tôi đã làm điều đó để cứu họ khỏi đau khổ”.
Đau khổ gì?
“Nỗi đau khổ khi biết rằng mẹ của chúng đã phản đối chúng”, anh nói.
Nó đã bị đốt cháy thấm vào trong não Doree và có lẽ, khi cô quyết định cố gặp anh ấy, đã có ý tưởng làm cho anh ta quay trở lại. Làm cho anh nhìn thấy, và thừa nhận, mọi thứ đã thực sự biến mất ra sao.
“Anh ấy bảo tôi phải ngừng cãi cọ với anh hoặc ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi đã ra khỏi nhà”.
“Tôi chỉ đi đến nhà Maggie có một đêm. Tôi hoàn toàn có ý định quay trở lại. Tôi đã không phản đối bất cứ ai”.
Cô nhớ lại đầy đủ chính xác cuộc cãi nhau nổ ra như thế nào. Cô đã mua một hộp mì ống mà đã có một vết lõm rất nhỏ trên vỏ. Vì rằng nó đã được đem bán và cô đã hài lòng với tính tiết kiệm của mình. Cô nghĩ rằng cô đang làm một cái gì đó thông minh. Nhưng cô không nói với anh rằng, một lần anh đã bắt đầu đặt câu hỏi cô về điều đó. Đối với một số lý do cô nghĩ rằng tốt hơn là cứ giả vờ cô đã không nhận thấy.
Ai đó cũng sẽ nhận thấy, anh nói. Chúng ta có thể đều bị ngộ độc. Có chuyện gì với cô ấy ? Hoặc là, cô ấy đã suy nghĩ cái gì? Phải chăng cô lập kế hoạch để thử cái đó trên các đứa con hoặc thử trên anh ta?
Cô đã bảo anh ta đừng có điên khùng.
Anh đã nói rằng không phải anh bị điên. Ai nếu không phải một người phụ nữ điên sẽ mua chất độc cho gia đình mình ?
Mấy đứa trẻ đã được canh chừng ở cửa ra vào của căn phòng phía trước. Đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy chúng như còn sống.
Vì vậy, những gì cô đang suy nghĩ – rằng cô có thể làm cho anh ta hiểu, cuối cùng, đó là ai đã bị điên ?
Khi cô nhận ra những gì trong đầu cô, cô phải ra khỏi xe buýt. Cô có lẽ đã nhận ra, ngay ở cửa, vài người phụ nữ khác, những người đi chậm chạp về phía con đường. Cô có thể băng qua đường và chờ xe buýt quay về thành phố. Có thể một số người đã làm điều đó. Họ đang đi chuyến thăm và sau đó quyết định không đi nữa. Mọi người có thể làm điều đó xưa nay.
Nhưng có lẽ, tốt hơn là cô tiếp tục đi vào và nhìn thấy anh ấy rất kỳ lạ và vô vị. Không phải là người đáng trách về bất cứ điều gì. Không phải là con người. Anh ta giống như một nhân vật trong một giấc mơ.
Cô đã có những giấc mơ. Trong một giấc mơ cô đã chạy ra khỏi nhà sau khi tìm kiếm chúng, và Lloyd đã bắt đầu cười theo cách đơn giản cũ kỹ của anh ta, và sau đó cô đã nghe Sasha cười phía sau cô và nó đã hiểu ra mọi chuyện về cô, tuyệt vời, rằng họ đều đang chơi một trò đùa.
“Bà hỏi tôi, nó có làm tôi cảm thấy tốt hay xấu khi tôi nhìn thấy anh ta? Lần gần đây, bà đã hỏi tôi ?”.
“Phải, tôi đã hỏi”, bà Sands nói.
“Tôi phải suy nghĩ về điều đó”.
“Phải”
“Tôi quyết định nó làm cho tôi cảm thấy tệ hại. Vì vậy, tôi đã không đi nữa[6]“.
Thật khó để nói với bà Sands, nhưng cái gật đầu của bà đã dường như cho thấy một sự hài lòng hoặc nhất trí.
Vì vậy, khi Doree quyết định rằng cô sẽ đi một lần nữa, sau hết, cô nghĩ rằng tốt hơn là không nhắc đến nó. Và vì rất khó khăn không nhắc đến bất cứ điều gì xảy ra với cô – có được rất ít, hầu hết các thời gian- cô gọi điện và hủy bỏ cuộc hẹn của mình. Cô nói rằng cô đang đi một kỳ nghỉ. Họ đã bước vào mùa hè, khi những ngày lễ là điều bình thường. Với một người bạn, cô nói vậy.
“Cô không mặc chiếc áo khoác đã mặc tuần trước”.
“Đó không phải là tuần trước”.
“Có phải không?”
“Đó là ba tuần trước đây. Thời tiết hiện giờ nóng. Cái này nhẹ hơn nhưng tôi không thực sự cần nó. Anh không cần một chiếc áo khoác chút nào”.
Anh hỏi về chuyến đi của cô, những xe buýt nào cô đã phải đón từ Mildmay.
Cô nói với anh rằng cô đã không sống ở đó nữa. Cô nói nơi cô sống, và về ba chuyến xe buýt.
“Đó là một chuyến đi vất vả cho cô. Cô thích sống ở một nơi lớn hơn ? “
“Nó dễ dàng hơn để có được công việc đó”.
“Vậy là, cô đi làm việc? “
Cô nói với anh ta lần cuối cùng về nơi cô sống, xe buýt, nơi cô làm việc.
“Tôi dọn phòng trong một khách sạn,” cô nói, “Tôi đã nói với ông rồi”.
“Có. có. Tôi quên. Tôi xin lỗi. Cô có bao giờ nghĩ đến việc trở lại trường học? Học ban đêm?”
Cô nói rằng cô đã suy nghĩ về việc đó nhưng không bao giờ đủ nghiêm túc để làm bất cứ điều gì. Cô nói rằng cô không quan tâm công việc cô đang làm.
Sau đó, dường như họ không thể nghĩ được bất cứ điều gì hơn để nói chuyện.
Anh thở dài, nói, “Xin lỗi. Xin lỗi. Tôi nghĩ tôi không quen nói chuyện lắm”.
“Vậy, anh làm gì tất cả các thời gian?”
“Tôi nghĩ, tôi đọc khá nhiều một chút. Loại thiền định. Chính thức”.
“Ô”.
“Tôi đánh giá cao việc cô đến đây. Nó có nhiều ý nghĩa với tôi. Nhưng không nghĩ rằng cô phải giữ mãi như thế. Ý tôi là, chỉ khi cô muốn đến. Chỉ đến gặp khi cô muốn. Nếu một cái gì sắp tới, hoặc nếu cô không cảm thấy thích nó… Những gì tôi đang cố gắng để nói là, chỉ  một thực tế là cô có thể đến, thậm chí đến một lần, đó là một phần thưởng cho tôi. Cô có hiểu những gì tôi nói không ?
Cô nói , cô cũng nghĩ vậy.
Anh nói rằng anh không muốn can thiệp vào cuộc sống của cô.
“Anh không cần phải thế”, cô nói.
“Đó là những gì cô định nói ? Tôi nghĩ cô sẽ nói một cái gì khác”.
Thực tế là, cô đã gần như nói, cuộc sống nào?
Không, cô nói, không hẳn vậy, chẳng có gì khác.
“Tốt”.
Ba tuần sau nữa cô nhận một cuộc gọi điện thoại. Đó là bà Sands tự gọi trên đường dây, không phải một người phụ nữ trong văn phòng.
“Ồ, Doree. Tôi nghĩ cô vẫn chưa trở lại…từ kỳ nghỉ của cô. Vậy, cô đã trở về ?”
“Vâng,” Doree nói, cố gắng nghĩ ra nơi cô có thể nói đã ở.
“Nhưng cô đã không đi đâu đó để sắp xếp một cuộc hẹn khác ?”
“Không. Vẫn chưa”.
“Thế thì được. Tôi chỉ kiểm tra thôi. Cô ổn không?”.
“Tôi không sao”.
“Được rồi. Tốt. Cô biết tôi đang ở đâu nếu có khi cần tôi. dù chỉ muốn một cuộc chuyện trò”.
“Vâng”.
“Vậy tự chăm sóc đi”.
Bà đã không nhắc tới Lloyd, không hỏi cuộc đi chơi có tiếp tục không. Vâng, tất nhiên, Doree  nói rằng chúng sẽ không xảy ra. Nhưng bà Sands khá tốt, như thường lệ về sự cảm nhận những gì đang xảy ra. Cũng khá tốt khi trì hoãn, khi bà hiểu rằng một câu hỏi có thể thấy được cô ấy bất cứ nơi nào. Doree không biết những gì cô đã nói, nếu được hỏi, cho dù cô ấy đã rút lời đổi ý và nói dối hoặc ra ngoài sự thật. Cô đã quay trở lại, trên thực tế, hôm chủ nhật sau sau khi anh ta ít nhiều nói với cô rằng nó không quan trọng dù cô đến hay không.
Anh bị cảm lạnh. Anh không biết tại sao bị bệnh đó.
Có lẽ anh đã suy sụp với chuyện đó, anh nói, lần cuối cùng anh nhìn thấy cô, và đó là lý do tại sao anh lại buồn rầu.
Buồn rầu. Cô hiếm khi có bất cứ điều gì để làm, ngày nay, với bất cứ ai sử dụng một từ như thế, và nó có vẻ xa lạ đối với cô. Nhưng anh đã luôn luôn có thói quen sử dụng những từ như vậy, và tất nhiên cùng một lúc những từ ngữ đã không đánh vào cô như chúng đã làm ngay bây giờ.
“Tôi giống như một người khác với cô sao”, anh hỏi .
“Phải, anh khác quá”, cô nói một cách thận trọng,”tôi không khác chứ?”
”Cô trông đẹp”, anh buồn bã nói.
Một cái gì đó mềm mại trong cô. Nhưng cô đã chiến đấu chống lại nó.
“Cô có cảm thấy khác?”, anh hỏi,”Cô có cảm thấy như một người khác ?”
Cô nói cô không biết,”Anh nghĩ sao ?”
Anh nói, “Cùng như thế cả”.
Trong tuần sau một phong bì lớn đã được trao cho cô khi đang làm việc. Nó ghi địa chỉ cẩn thận nơi cô ở tại một khách sạn. Phong bì chứa đựng một vài tờ giấy, với văn bản viết cả hai mặt. Cô không nghĩ lúc đầu phong thư ấy đến từ anh – cô bằng cách nào đó đã nghĩ rằng người trong nhà tù không được phép viết thư. Nhưng, tất nhiên, anh là một loại tù nhân khác. Anh không phải là tội phạm. Anh chỉ là tội phạm điên.
Không có ngày ghi trên thư từ và thậm chí không có câu “Doree thân mến”. Nó chỉ bắt đầu nói chuyện với cô theo cái cách mà cô nghĩ nó phải là một số loại thư mời tôn giáo”:
Người ta đang tìm kiếm một giải pháp. Tâm trí họ là nỗi đau (từ tìm kiếm). Rất nhiều điều xô đẩy xung quanh và làm tổn thương họ. Cô có thể nhìn thấy khuôn mặt của họ trong tất cả các vết bầm tím và đau khổ của họ. Họ đang gặp rắc rối. Họ vội vàng đi xung quanh. Họ phải đi mua sắm và đi đến tiệm giặt và có được mái tóc của họ được dọn và kiếm sống hoặc đi nhận phúc lợi của họ. Những người nghèo phải làm điều đó và những người giàu có phải khó khăn đitìm những cách tốt nhất để xài tiền của họ. Đó cũng là công việc. Họ phải xây dựng những ngôi nhà tốt nhất với vòi nước vàng dẫn nước nóng và lạnh. Và chiếc Audis của họ và bàn chải đánh răng kỳ diệu và tất cả đồ dùng thay thế tốt và sau đó những đồ báo động trộm để bảo vệ chống lại tất cả các cơ sở giết mổ gia súc và những láng giềng giàu hay không giàu đều có sự bình an nào đấy trong tâm hồn họ. Tôi đáng viết “người hàng xóm” thay vì “không ai cả “, tại sao vậy? Tôi đã không có bất kỳ người hàng xóm nào ở đây. Nơi tôi đang ở ít nhất có những người đã ở vượt ra bên ngoài quá nhiều sự nhầm lẫn. Họ biết những gì là tài sản của họ đang và sẽ luôn luôn như vậy, và họ thậm chí không phải mua hoặc nấu thức ăn riêng của họ. Hoặc chọn nó. Những sự lựa chọn bị loại trừ.
Tất cả những gì chúng tôi ở đây đều có thể nhận được là những cái chúng tôi có thể gạt bỏra khỏi tâm trí mình.
Lúc đầu, tất cả trong đầu tôi là sự phiền muộn và bất hạnh. Có một cơn bão vĩnh viễn, và tôi sẽ đập đầu tôi vào xi măng với hy vọng từ bỏ nó. 
Ngăn chặn sự đau đớn của tôi và cuộc sống của mình. Vì vậy, hình phạt đã được ban ra. Tôi đã làm giảm xuống và buộc lại vào các loại thuốc (được đưa vào trong máu tôi. Tôi cũng không phàn nàn, bởi vì tôi đã phải học rằng không có lợi nhuận trong đó. Cũng không phải là sự khác nhau nào từ cái gọi là thế giới thực, trong đó mọi người uống rượu và tiếp tục phạm tội và để loại bỏ những suy nghĩ của họ chúng đangđau đớn. Và thường chúng được kéo ra và bị giam giữ nhưng đó không phải là thời gian đủ dài để họ đi tới phía bên kia. Và đó là những gì? Nó là một trong hai cái cộng lại, điên rồ hay hòa bình. Hòa bình. Tôi đã đến hòa bình và vẫn còn tỉnh táo.Tôi tưởng tượng cô đọc cái này bây giờ và đang nghĩ tôi sẽ nói điều gì đó về Chúa Giêsu hoặc về bất kỳ loạiPhật nào, như thể tôi đã đến một cuộc đàm thoại tôn giáo. Không, tôi không nhắm mắt lại và được nâng lên bởi một năng lực bậc cao đặc trưng hơn. Tôi không thực sự biết những gì có nghĩa vềcái đó. Những gì tôi làm là “tự biết mình”. Biết mình là một Lời răn dạy từ một nơi nào đó, có thể là Kinh Thánh,như vậy ít nhất trong đó tôi có thể đã theo Kitô giáo. Ngoài ra, đối với “Tự bạn là sự thật”– tôi đã cố gắng cho rằng nó có thể ở trong Kinh Thánh. Nó không nói racác bộ phận- xấu hay tốt- là sự thật để, do đó, nó không có ý định như một hướng dẫn với đạo đức.“Bạn tự biết mình” cũng không liên quan hoặc với đạo đức như chúng ta biết hoặc trong Hành vi. Nhưng “hành vi” không thực sự là mối quan tâm của tôi, vì tôi đã được đánh giá khá chính xác như một người không thể được tin cậy để đánh giá rằng anh ta nên cư xử như thế nào và đó là lý do tôi ở đây .
Quay lại với “Một phần hiểu biết trong sự hiểu biết chính bạn”. Tôi có thể nói hoàn toàn nghiêm nghị rằng tôi biết bản thân mình và tôi biết điều tồi tệ nhất tôi có khả năng làm và tôi biết rằng tôi đã làm nó. Tôi được thế giới đánh giá như là một quái vật và tôi không phải cãi nhau với điều đó, mặc dù tôi có thể nói khi điqua những người dội mưa bom hoặc đốt cháy thành phố hoặc bỏ chết đói và giết hàng trăm ngàn người đã không được nói chung xem là Quái vật nhưng được tắm với huy chương và danh hiệu, chỉ có tác dụng chống lại một số lượng nhỏ được coi là gây sốc và cái ác. Điều này  không có nghĩa như một lời bào chữa, nhưng chỉ là quan sát.
Cái tôi “biết riêng tôi” là con quỷ của chính tôi. Đó là bí quyết của sự thoải mái của tôi. Ý tôi là, tôi biết sự tồi tệ nhất của tôi. Nó có thể tồi tệ hơn cái tồi tệ nhất của người khác  nhưng trong thực tế, tôi không phải suy nghĩ hay lo lắng về nó. Không có lời bào chữa. Tôi bình an. Tôi là một quái vật ư? Thế giới nói như vậy và nếu người ta nói như vậy thì tôi đồng ý. Nhưng sau đó tôi nói, thế giới không có bất kỳ ý nghĩa thực sự cho tôi. Tôi là tự tôi và không có cơ hội được bất kỳ tự mình khác. Tôi có thể nói rằng tôi bị điên nhưng sau đó có nghĩa là gì ? Điên. Lành mạnh. Tôi là tôi. Tôi vậy là không thể thay đổi cái tôi và tôi không thể thay đổi nó ngay bây giờ.
Doree, nếu cô đã đọc đến đây, có một điều đặc biệt tôi muốn nói với cô  nhưng không thể viết nó ra. Nếu cô đã bao giờ nghĩ sẽ trở lại đây thì có lẽ tôi có thể cho cô biết. Không nghĩ rằng tôi là kẻ nhẫn tâm. Nó không phải là, tôi sẽ không thay đổi mọi thứ nếu tôi có thể, nhưng tôi không thể. 
Tôi gửi thư này đến nơi làm việc của cô mà tôi nhớ và tên của thị trấn để bộ não của tôi làm việc tốt trong một số khía cạnh. 
Cô nghĩ rằng họ sẽ phải thảo luận về văn bản này tại cuộc họp tiếp theo của họ và cô đã đọc nó nhiều lần, nhưng cô không thể nghĩ ra bất cứ điều gì để nói. Những gì cô thực sự muốn nói chuyện là bất cứ điều gì anh đã nói rằng không thể viết bằng văn bản. Nhưng khi cô nhìn thấy anh một lần nữa, anh cư xử như thể anh chưa bao giờ viết cho cô cả. Cô tìm kiếm một chủ đề và nói với anh về một ca sĩ nhạc dân gian từng nổi tiếng- người đã ở tại khách sạn trong tuần đó. Trước sự ngạc nhiên của cô, anh biết nhiều hơn cô đã biết về nghề nghiệp của ca sĩ ấy. Hóa ra là anh đã có một máy truyền hình, hoặc ít nhất là đã mở xem một cái, và xem một số chương trình biểu diễn và, tất nhiên, những tin tức thời sự, thường xuyên. Điều đó đã cho họ nhiều hơn một chút để nói chuyện, cho đến khi cô không thể chịu đựng được mình.
“Điều cô không thể nói với tôi là cái gì, ngoại trừ trong một con người ?”
Anh ấy nói rằng ước gì cô đã không hỏi anh. Anh không biết họ có sẵn sàng thảo luận về nó không.
Sau đó, cô sợ rằng nó sẽ là một cái gì đó cô thực sự không thể xử lý, một cái gì đó khó chịu, chẳng hạn như anh vẫn yêu cô. “Tình yêu” là một từ ngữ mà cô không thể chịu nổi khi nghe thấy.
“O.K”, cô nói, “Có lẽ, chúng ta không…”
Sau đó, cô bảo, “Tuy nhiên, anh cho tôi biết thì tốt hơn. Nếu tôi bước ra khỏi đây và bị đè bẹp bởi một chiếc xe thì tôi sẽ không bao giờ biết, và anh sẽ không bao giờ có cơ hội để nói với tôi một lần nữa”.
“Đúng,” anh nói.
“Vậy, nó là gì? “
“Lần sau. Lần sau. Thinh thoảng tôi không thể nói được nữa. Tôi muốn nói nhưng tôi cạn kiệt cái cần nói”.
Tôi đã suy nghĩ về cô, Doree, kể từ khi cô ra đi và tiếc rẻ vì tôi làm cô thất vọng. Khi cô đang ngồi đối diện tôi, tôi có xu hướng tìm được tình cảm nhiều hơn có lẽ tôi bày tỏ. Nó không phải là quyền của tôi để thể hiện tình cảm trước mặt cô, vì cô chắc chắn có nhiều quyền hơn tôi và cô luôn luôn tự kiểm soát. Vì vậy, tôi sẽ đảo ngược những gì tôi đã nói trước đây, bởi vì tôi đã đi đến kết luận rằng tôi, cuối cùng, có thể viết thư cho cô thì tốt hơn tôôi có thể nói chuyện..
Bây giờ, tôi bắt đầu chỗ nào?
Trời tồn tại.
Đó là một cách nói nhưng không đúng bởi vì tôi không bao giờ tin vào thiên đàng và địa ngục, v.v… Cho đến lúc tôi lo rằng luôn luôn là một đống chuyện tào lao. Vì vậy, nó phải có vẻ khá kỳ lạ về tôi để đưa lên thành một chủ đề bây giờ.
Tôi sẽ chỉ nói lúc ấy: Tôi đã thấy các trẻ em.Tôi đã thấy họ và nói chuyện với họ. Ở đó. Anh đang nghĩ gì vào lúc này? Anh đang suy nghĩ tốt, bây giờ anh ta thực sự là đang vòng qua chỗ uốn cong. Hoặc, đó là một giấc mơ và anh ta không thể phân biệt một giấc mơ, anh ta không biết sự khác biệt giữa một giấc mơ và sự tỉnh táo. Nhưng tôi muốn nói với anh tôi biết sự khác biệt đó và cái tôi biết là, chúng tồn tại. Tôi nói rằng họ tồn tại, không phải họ còn sống, bởi vì sống nghĩa là trong một “mức độ” đặc biệt của chúng tôi, và tôi không nói chúng đang ở nơi đâu. Thực tế, tôi nghĩ rằng họ không ở đâu cả. Nhưng chúng vẫn tồn tại và hẳn là nó phải có một “mức độ” khác hoặc vô số mức độ, nhưng những gì tôi biết là tôi đã có quyền truy cập vào bất cứ một điều gì chúng đang ở. Có thể tôi đã giữ điều này quá nhiều của riêng mình và phải suy nghĩ và suy nghĩ và với cái điều như tôi phải suy nghĩ về nó. Vì vậy, sau khi đau khổ và cô đơn như vậy, có một hồng ân của Chúa đã nhìn thấy cách đem lại cho tôi phần thưởng này. Tôi là người rất xứng đáng với nó, ít nhất với cách thức của tư duy của thế giới.
Vâng, nếu cô vẫn đang đọc cái này tới giờ và không xé nát nó ra từng mảnh, cô hẳn phải muốn biết một cái gì đó. Chẳng hạn như chúng đang là gì đó. Chúng là tốt. Thực sự hạnh phúc và thông minh. Họ dường như không có bất kỳ bộ nhớ nào về cái điều xấu nào đó. Họ có thể già hơn một chút so với họ, nhưng điều đó thực là khó nói. Họ dường như hiểu biết ở các mức độ khác nhau. Vâng. Cô có thể nhận thấy Dimitri là cậu đã học được cách nói chuyện mà cậu không thể làm được. Họ đang ở trong một căn phòng tôi có thể phần nào nhận ra. Nó giống như ngôi nhà của chúng ta nhưng rộng rãi hơn và đẹp hơn. Tôi hỏi họ đang được chăm sóc như thế nào và họ chỉ cười với tôi và nói một cái gì đó giống như họ đã có thể chăm sóc bản thân. Tôi nghĩ rằng Sasha là người đã nói thế. Đôi khi chúng không nói chuyện riêng hoặc ít nhất là tôi không thể tách rời tiếng nói của họ nhưng danh tính của họ là khá rõ ràng và tôi phải nói, vui vẻ.
Xin đừng kết luận rằng tôi điên. Đó là nỗi sợ hãi khiến tôi không muốn nói với cô về điều đó. Tôi đã điên một lúc nào đó nhưng tôi tin rằng tôi đã bỏ rơi tất cả điên cuồng cũ của tôi như con gấu bỏ áo khoác của nó. Hoặc có lẽ tôi nên nói rắn đã lột da của nó. Tôi biết rằng nếu tôi không làm điều đó tôi sẽ không bao giờ được cấp cho khả năng này để kết nối lại với Sasha và Barbara Ann và Dimitri. Bây giờ tôi muốn rằng cô cũng có thể được cấp cơ hội này bởi vì nếu nó là một vấn đề xứng đáng thì cô đang ở phía trước tôi. Nó có thể là khó khăn hơn cho cô để làm bởi vì cô đang sống trong thế giới nhiều hơn tôi nhưng ít nhất tôi có thể cung cấp cho cô thông tin này- sự thật- và trong lời nói với cô, tôi đã thấy chúng, tôi hy vọng rằng nó sẽ làm cho trái tim của cô nhẹ nhàng hơn.
Doree tự hỏi những gì bà Sands sẽ nói hoặc suy nghĩ, nếu bà đọc lá thư này. Bà Sands sẽ cẩn thận, tất nhiên. Bà sẽ cẩn thận không vượt qua bất kỳ phán quyết dứt khoát về sự điên loạn nhưng bà sẽ cẩn thận, tử tế, chỉ đạo Doree xung quanh theo hướng đó. Hoặc bạn có thể nói rằng bà ấy sẽ không chỉ đạo – bà sẽ chỉ cần kéo sự nhầm lẫn đi để cho Dorée sẽ phải đối mặt với những gì sau đó dường như đã là kết luận của riêng bà.Bà sẽ phải đưa toàn bộ sự nguy hiểm vô nghĩa – điều này là do bà Sands nói – ra khỏi tâm trí của cô.
Đó là lý do tại sao Doree sẽ không đi đến bất cứ nơi nào gần nơi cô ở.
Doree đã nghĩ rằng anh bị điên. Và trong những gì anh đã viết dường như có một số dấu vết của thói khoe khoang cũ. Cô không viết thư trả lời. Ngày ngày trôi đi. Nhiều tuần nữa. Cô không thay đổi ý kiến ​​của mình nhưng cô vẫn  níu giữ nó với những gì anh đã viết, như một bí mật. Và theo thời gian, khi cô ở giữa vòi phun trong một phòng tắm gương hoặc kéo căng một tờ giấy, một cảm giác trùm lên cô. Trong gần hai năm, cô không có chút cảm nhận nào về những điều thường làm cho con người hạnh phúc, chẳng hạn, như thời tiết đẹp hoặc hoa nở hoặc mùi của bánh nướng. Cô vẫn không có cảm giác tự nhiên của hạnh phúc, chính xáclà, tuy nhiên cô đã có sự gợi nhớ về những gì giống như thế. Cô chẳng có gì để làm với thời tiết hoặc hoa. Đó là ý tưởng về trẻ em trong những gì mà anh ấy đã gọi là “mức độ” của họ, cái ấy đã len lén đến với cô theo cách này, và lần đầu tiên nó mang một cảm xúc nhẹ nhàng đến cho cô, không đau đớn.
Trong suốt thời gian từ những gì đã xảy ra, bất kỳ suy nghĩ nào về lũ trẻ cũng là một cái gì đó cô phải thoát khỏi, kéo ra ngay lập tức giống như một con dao trong cổ họng. Cô không thể nghĩ về tên gọi của chúng, và nếu cô ấy nghe một cái tên nghe như một trong những tên ấy thì cô cũng phải rứt nó ra. thậm chí tiếng nói lũ trẻ, những tiếng la hét và đập chân khi họ chạy đến và đi từ các hồ bơi khách sạn, đã bị trục xuất bởi một loại cánh cửa mà cô có thể đóng sập lại ngoài tai. Cái khác nhau bây giờ là cô đã có một nơi trú ẩn để cô có thể đi đến đó sớm ngay khi sự nguy hiểm nổi lên bất cứ nơi nào ở quanh cô.
Và ai đã đưa nó cho cô ấy? Không phải bà  Sands – điều đó là chắc chắn. Không phải trong suốt những giờ ngồi bên bàn với hộp hăn giấy kín đáo tiện dụng.
Lloyd đã đưa nó cho cô ấy. Lloyd, con người khủng khiếp ấy, người mất trí và bị cô lập.
”Điên” nếu bạn muốn gọi nó là vậy. Nhưng không có khả năng những gì anh nói là sự thật – rằng anh đã đi ra phía bên kia? Và những người đã nói rằng tầm nhìn của một con người-kẻ đã làm một điều như vậy và tạo một hành trình như vậy lại có thể không có nghĩa là một cái gì đó ?
Khái niệm này chui vào đầu cô và ở lại đó.
Cùng với ý nghĩ rằng Lloyd, trong tất cả mọi người, bây giờ có lẽ là người cô đang ở cùng. Những gì khác cô có thể sử dụng khi cô tồn tại trong thế giới – dường như cô sẽ nói điều này với ai đó, có lẽ là bà Sands – rằng cô ở đây vì  cái việc, ít nhất là để lắng nghe anh ta  chăng?
Tôi không nói “tha thứ”, cô nói với bà Sands trong đầu cô. Tôi sẽ không bao giờ nói như vậy. Tôi sẽ không bao giờ làm điều đó.
Nhưng nghĩ xem. Chẳng phải tôi như bị cắt đứt bởi những gì đã xảy ra như anh ta cũng vậy? Không ai biết về nó lại muốn tôi lẩn quẩn xung quanh. Tất cả những việc tôi có thể làm là, nhắc nhở mọi người về những gì không ai có thể chịu được bị nhắc nhở.
Sự che đậy là không thể, thực sự là không. Rằng cái vòng hoa làm bằng cọc hàng rào nhọn màu vàng thực là thảm hại.
Vì vậy, cô thấy mình đi du lịch trên xe buýt một lần nữa, hướng về phía đường cao tốc. Cô nhớ lại những đêm ngay sau khi mẹ cô qua đời, khi cô lẻn ra ngoài để gặp Lloyd, nói dối với bạn của mẹ, người phụ nữ cô đang ở cùng, về nơi cô sắp đi. Cô nhớ tên của người bạn, người bạn của mẹ cô, tên là Laurie.
Ai đó bây giờ ngoài Lloyd sẽ nhớ tên của lũ trẻ, hay màu mắt của chúng? Bà Sands, khi bà phải nhắc đến chúng, thậm chí không gọi là trẻ em, mà gọi “gia đình của bạn” đặt chúng trong một nhóm với nhau.
Việc sắp gặp Lloyd trong những ngày đó, nói dối với Laurie, cô đã cảm thấy không phải là tội lỗi, chỉ là một ý nghĩa của số phận, sự khuất phục. Cô cảm thấy rằng cô đã được đặt trên trái đất chẳng với lý do nào khác hơn là sống với anh ta và cố gắng hiểu anh ta.
Vâng, nó không giống như bây giờ. Nó không cùng một kiểu.
Cô đang ngồi trên ghế trước, ngay phía sau người lái xe. Cô có một tầm nhìn rõ ràng qua kính chắn gió. Và đó là lý do tại sao cô là hành khách duy nhất trên xe buýt, người duy nhất ngoài người lái xe, nhìn thấy một chiếc xe tải nhỏ chạy ra từ một con đường phụ mà không hề giảm tốc, nhìn thấy tảng đá vắt ngang trên đường cao tốc ngày Chủ nhật buổi sáng vắng vẻ ở trước mặt họ và lao vào con mương. Và cô nhìn thấy cái gì đó thậm chí là một sự lạ: tài xế của chiếc xe tải bay lên không trung trong theo cách dường như vừa nhanh vừa chậm, ngớ ngẩn và thanh nhã. Người ấy hạ cánh xuống đám sỏi ở rìa lề đường, phía bên kia đường cao tốc. 
Các hành khách khác không biết lý do tại sao người lái xe lại đạp phanh rồi đưa họ đến một điểm dừng không thoải mái, bất ngờ. Và ngay lúc đầu Doree nghĩ vì sao anh ta lại văng ra? Người thanh niên hay cậu bé, hẳn là đã ngủ trên tay lái. Làm thế nào anh ta bay ra khỏi xe tải và phóng mình rất thanh lịch vào không khí ?
“Cậu ta ở ngay trước mặt chúng tôi”, tài xế nói với hành khách. Ông đã cố gắng nói lớn tiếng và bình tĩnh, nhưng có một cơn chấn động kinh ngạc, một cái gì đó như kinh hãi, trong giọng nói của ông,”Nó chỉ cày trên đường và trượt vào con mương. Chúng ta sẽ tiếp tục đi  ngay khi có thể và trong khi chờ đợi xin vui lòng không ra khỏi xe buýt”.
Như thể cô đã không nghe lời nói đó, hoặc có một số quyền năng đặc biệt là có ích, Doree đã đến phía sau ông. Ông không quở trách cô.
“Mẹ kiếp thằng khốn”, ông nói khi họ băng qua đường và không có gì trong giọng nói của ông  bây giờ ngoài sự giận dữ và bực tức, “Mẹ kiếp thằng khốn, cô có tin được không?”
Cậu ta đang nằm ngửa, cánh tay và chân lủng lẳng ra, giống như ai đó làm một thiên thần trong tuyết. Chỉ có sỏi xung quanh, không có tuyết. Đôi mắt của cậu không hoàn toàn nhắm chặt. Cậu còn quá trẻ, một cậu bé đã bắn lên cao trước khi cậu hút chết. Chắc là không có bằng lái xe.
Người lái xe buýt đang nói chuyện với điện thoại của mình.
“Một dặm gì đó về phía nam của Bayfield, đường 21, phía đông của đường này”.
Một dòng bọt màu hồng chảy ra từ dưới đầu của chàng trai, gần tai. Nó không giống như máu chút nào, mà giống như những thứ bạn hớt bỏ dâu tây khi bạn đang nấu mứt.
Doree cúi xuống bên cạnh cậu ta. Cô đặt một tay lên ngực nạn nhân. Nó vẫn yên lặng. Cô cúi xuống, áp tai gần hơn. Ai đó đã ủi áo sơ mi của cậu mới gần đây- nó có mùi đó.
Không có hơi thở.
Nhưng những ngón tay cô đặt trên cổ mịn màng của cậu nhận thấy một rung động của mạch máu.
Cô nhớ lại một cái gì đó đã từng được nghe. Đó là Lloyd đã nói với cô, trong trường hợp một trong những trẻ em bị tai nạn và anh không có ở đó. Cái lưỡi. Lưỡi có thể chặn hơi thở, nếu nó đã rơi vào mặt sau của cổ họng. Cô đặt ngón tay của một bàn tay lên trán của cậu và hai ngón tay của bàn tay kia dưới cằm. Nhấn xuống trán, nhấn lên cằm, để dọn sạch đường thông gió. Một tư thế nằm hơi nghiêng, khá vững.
Nếu cậu ta vẫn không thở cô sẽ phải thổi vào miệng cậu.
Cô nhéo lỗ mũi, hít một hơi thật sâu, ngậm miệng anh ta với đôi môi của mình, và thổi. Hai hơi thở và kiểm tra. Hai hơi thở và kiểm tra .
Một giọng đàn ông khác, không phải tiếng ông lái xe. Một người đi mô tô phải dừng lại. “Cô cần cái chăn này dưới đầu anh ta không ?”. Cô lắc đầu căng thẳng. Cô đã nhớ lại một cái gì khác, về việc không di chuyển nạn nhân, như vậy bạn sẽ không làm tổn thương cột sống. Cô bao bọc miệng cậu ta. Cô bóp làn da tươi ấm của anh. Cô thở và chờ đợi. Cô thổi và chờ đợi một lần nữa. Và hơi nước ẩm mờ mờ toát ra trên khuôn mặt cô.
Người lái xe nói gì đó nhưng cô không thể nhìn lên được. Sau đó, cô cảm thấy khá tin chắc. Một hơi thở bật ra khỏi miệng của cậu bé. Cô với tay lên lớp da ngực nạn nhân và lúc đầu cô không thể nói hơi thở đã tăng lên xuống chưa, vì cô quá run rẩy.
Đươc, được rồi.
Đó là một hơi thở thực sự. Đường hô hấp đã được mở. Cậu ta tự thở rồi. Cậu thở.
“Chỉ cần phủ tấm chăn lên anh ta”, cô nói với người đàn ông cầm cái chăn “Để giữ ấm”.
“Nó còn sống không?”, Người lái xe hỏi, cúi xuống bên cô.
Cô gật đầu. Ngón tay cô tìm thấy xung động mạch máu một lần nữa. Cái thứ bọt màu hồng khủng khiếp đã không tiếp tục chảy nữa. Có thể nó không quan trọng lắm. Không phải từ bộ não của anh ta.
“Tôi không thể để chuyến xe này chờ cô”, người lái xe nói,”Chúng tôi chậm tiến độ của nó rồi”.
Người chạy xe mô tô nói,”Thôi được. Tôi có thể tiếp tục đảm nhận”.
Xin im lặng, im lặng, cô muốn nói với họ. Dường như với cô, im lặng là cần thiết, mà tất cả mọi thứ trong thế giới bên ngoài cơ thể của cậu bé phải được tập trung, giúp nó không để lỡ mất bổn phận hít thở.
Còn thiếu hụt nhưng luồng hơi ổn định, một sự phục tùng ngọt ngào trong lồng ngực. Tiếp tục đi, tiếp tục thở đi.
“Cô nghe thấy không? Anh chàng này nói rằng  sẽ ở lại và canh chừng cho cậu bé”, người lái xe buýt nói, “Xe cứu thương đang đến nhanh hết sức đấy”.
“Cứ đi đi,” Doree nói,”Tôi sẽ quá giang đến thị trấn với họ [7]và bắt kịp ông trên đường ông quay  lại đêm nay”.
Ông ta phải cúi xuống để nghe cô. Cô nói thô bạo, mà không ngẩng đầu, như thể cô là một người có hơi thở quý giá.
“Cô chắc chứ?”, ông hỏi.
 Chắc chắn.
“Cô không phải đi London [8]nữa à ?”.
  Không.

(Nguồn nguyên tác: Tạp chí  Tthe New Yorker, đăng 2006)

Lời bàn của người dịch 
Mở đầu truyện, nhân vật nữ Doree đón ba chuyến xe buýt đi thăm chồng nằm bệnh viện tâm thần.  Kết truyện, cô đi thăm  anh ta lần cuối cùng và gặp một tai nạn xe bi thảm. 
Từ một người có gia đình đầy đủ, ổn định, Doree những tưởng xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc với chồng và ba đứa con. Thế mà, cô đã mất tất cả và trở thành cô hầu phòng khách sạn, nhưng cô vẫn tiếp tục yêu đời… 
Doree lấy phải người chồng thiếu bản lĩnh kém kiềm chế, nổi cơn điên giết chết ba đứa con. Cô có phải chịu trách nhiệm gì về căn bệnh người chồng khởi phát ? Bạn đọc cũng có thể lăn tăn như vậy. 
Hai người phụ nữ đáng quý là bà Sands và cô Meggie, tận tình giúp đỡ Doree vượt qua biết bao khó khăn. Tình cảm của hai người đồng giới đã giúp Doree gắng sống được qua thảm họa và đến lượt cô, cô lại ra sức cứu sống một chàng trai trẻ lái xe bị tai nạn. Bởi cô đã biết rõ giá trị của sự sống hơn ai hết. Đó là thiên tính của người phụ nữ. 
Người chồng Lloyd ở Bệnh viện tâm thần vùi đầu triết lý về “mức độ” của cuộc sống, phải chăng anh ta muốn nghĩ về “mức độ” trong ứng xử gia đình? Một bệnh nhân muốn gửi cho thiên hạ một triết lý tuy muộn màng nhưng cần thiết cho đời. 
Về phân tích tâm lý nhân vật: Doree và Lloy thường độc thoại nội tâm, những lời lẽ lộn xộn hiện tại và quá khứ, tỉnh và mê, và tự vấn, khiến bạn đọc hơi khó theo dõi. 
 Câu chuyện thực u buồn, nó khiến người ta phải suy ngẫm cẩn trọng về ứng xử, biết cân nhắc bước tiến, lùi và làm chủ mức độ trong cuộc sống.
 Người dịch vẫn còn băn khoăn về tựa đề tiếng Việt, bởi “Dimension” rất đa nghĩa. Bạn đọc nào có cách dịch khác hay hơn xin vui lòng cho dịch giả biết. 
ND
 [1] . Giải Nobel văn chương 2013 dành cho toàn bộ 14 tập truyện ngắn của Alice Munro.
[2] . London: một thị trấn ở Canada, không phải thủ đô nước Anh.
[3]. Hipie -một phong trào ăn mặc lập dị như quần loe áo chim cò, nhằm chống lại lối ăn mặc quý tộc thế kỷ 20 ở Bắc Mỹ… (ND)
 [4] . “Giống như anh” tức là cô cũng bị tâm thần.
[5] . Gặp Magie cô sẽ nhớ đến cảnh tượng ba đứa con chết vì chồng giết.
[6] . Nhắc việc cô Doree đi thăm chồng ở bệnh viện tâm thần.
[7] .  Cô nói về xe cứu thương sắp tới.
[8] . Một thị trấn mang tên London ở Canada, không phải thủ đô nước Anh – (ND chú thích)
“BỘ VÁY ĐỎ”
 Truyện ngắn, nguyên tác “A Red Dress”, 1946.
Tác giả: nữ văn sĩ Alice Munro, Canada, giải Nobel văn chương 2013
Người dịch: Phùng Hoài Ngọc
( Vũ Thị Phương Anh hiệu đính)
Alice Munro 2
 Mẹ tôi đang làm cho tôi một chiếc váy. Suốt tháng Mười một khi tôi từ trường học về và nhìn thấy mẹ trong nhà bếp, bao quanh bởi những dải vải nhung đỏ và các mảnh mô hình rập bằng giấy. Bà sử dụng một máy may đạp chân cũ, cửa sổ chống lên để có được ánh sáng, và cũng để cho mẹ nhìn ra, qua các dải đất lởm chởm và vườn rau trơ trụi, xem có ai đi ngang qua trên đường. Lâu lâu mới có người đi qua.
 Vải nhung đỏ rất khó may cắt, nó co lại, và kiểu váy mẹ tôi đã chọn cũng không dễ may. Bà không hẳn là một thợ may giỏi. Bà thích chế tạo mọi thứ, nhưng đó chuyện khác.
 Trong khi làm việc bà thường bỏ qua những việc tỉ mỉ của cắt may mà bà chẳng mấy thích thú, như lược vải, ủi li, thùa khuyết, hoặc vắt sổ các mép vải, những việc mà bà tôi hoặc dì tôi luôn thực hiện.
 Không giống như họ, bà đang bắt đầu với một cảm hứng, một ý tưởng táo bạo và kinh ngạc, từ thời điểm đó trở đi, niềm vui của bà giảm dần. Ngay từ đầu, bà không bao giờ có thể tìm thấy một mô hình phù hợp với mình. Chẳng có gì lạ, không có mô hình thực hiện phù hợp với ý tưởng nở hoa trong đầu bà. Bà đã làm cho tôi, tại thời điểm khác nhau khi tôi còn trẻ, một chiếc váy đầm vải hoa bông mịn với một đường viền cổ áo kiểu Victoria cao viền ren hỗn tạp, với chiếc mũ có vành, dây buộc dưới cằm cho phù hợp, một bộ trang phục kẻ sọc Scotland với một chiếc áo khoác nhung và mũ bê rê, một chiếc áo nông dân thêu mặc với một chiếc váy dài màu đỏ và áo lót có đăng ten màu đen. Tôi đã mặc những bộ quần áo với sự ngoan ngoãn, thậm chí với niềm vui trong những ngày tôi chưa ý thức gì về dư luận người đời. Bây giờ, lớn khôn hơn, tôi muốn có váy áo như  Lonnie người bạn của tôi đã có, mua tại cửa hàng của Beale.
 Tôi phải mặc thử cái váy. Đôi khi Lonnie đi học về cùng với tôi và cô ấy sẽ ngồi trên ghế xe bus mà nhìn ngắm. Tôi rất xấu hổ vì cách mẹ tôi bò trườn len lỏi quanh tôi, đầu gối của bà kêu cót két, với hơi thở dồn dập nặng nề. Bà lẩm bẩm một mình. Đi xung quanh nhà, bà không mặc áo lót ngực hoặc vớ, bà đi đôi giày nêm gót và vớ tới mắt cá chân, chân bà đã được đánh dấu bằng những cục tĩnh mạch màu xanh- xanh lá cây. Tôi nghĩ rằng dáng ngồi xổm của bà thực đáng hổ thẹn, thậm chí tục tĩu; tôi đã cố gắng tiếp tục nói chuyện với Lonnie để kéo cô ra khỏi chú ý tới mẹ tôi càng nhiều càng tốt. Lonnie mặc trang phục lịch sự, biểu lộ sự đáng khen, đó là cách ngụy trang của cô trong sự hiện diện của người lớn. Cô đã cười giễu người lớn và là một cách bắt chước mãnh liệt, và họ chẳng bao giờ biết.
Mẹ kéo tôi xung quanh, và đánh dấu tôi với những cái kẹp. Bà bắt tôi quay tròn, lại bảo tôi bước đi, lại bảo tôi đứng yên. “Cháu nghĩ thế nào, Lonnie?”, bà nói lúng búng với các ghim kẹp ngậm quanh miệng.
“Nó đẹp lắm ạ,” Lonnie nói nhỏ nhẹ, vẻ chân thành. Mẹ đẻ của Lonnie đã chết. Cô ấy sống với cha, ông ấy chẳng bao giờ chú ý đến cô, và điều này, theo tôi nghĩ, đã khiến cô ấy dường như vừa dễ bị tổn thương vừa có đặc quyền.
 “Nó sẽ đẹp, nếu tôi có thể điều chỉnh cho phù hợp,” mẹ tôi nói. “A,” bà nói với vẻ phô trương, cố đứng dậy với một tiếng cọt kẹt thiểu não và thở dài sườn sượt, “Mẹ không tin nếu cô ấy đánh giá cao cái váy”. Bà nổi giận với tôi, nói chuyện như với Lonnie, như thể Lonnie đã lớn và tôi vẫn là một đứa trẻ. “Đứng yên”, bà nói, kéo mạnh chiếc váy có kẹp và lược vài mũi kim trên đầu tôi. Đầu tôi bị bóp nghẹt trong vải nhung, cơ thể của tôi lọt vào trong một đống bông cũ. Tôi cảm thấy như một mảng lớn, thô nháp và luộm thuộm như da ngỗng bị mụn nhọt. Tôi ước gì mình được như Lonnie, thân thể nhẹ nhàng, xanh xao và gầy gò, cô ấy từng được gọi là một “em bé tái xanh”[1] .
 “Ôi dà, không ai làm cho mẹ một chiếc váy khi mẹ vào trung học,” bà nói, “Mẹ tự làm lấy”, hoặc “đã làm không có ai giúp”. Tôi sợ mẹ sẽ bắt đầu lại kể câu chuyện bà đi bộ bảy dặm vào thị trấn, tìm kiếm một công việc phục vụ bàn trong một nhà trọ để bà có thể học trung học. Tất cả những câu chuyện về cuộc sống của mẹ tôi đã từng gây thích thú cho tôi giờ đã bắt đầu có vẻ khoa trương, không thích hợp và gây buồn chán.
 “Một lần mẹ đã có một chiếc váy của mình”, bà nói,”đó là một loại vải len cashmere màu kem với màu xanh hoàng gia đường ống xuôi phía trước và nút lớn bằng ngọc trai đáng yêu, mẹ tự hỏi không biết đã bao giờ  được như thế?”
 Khi chúng tôi được tự do, Lonnie và tôi đi lên lầu vào phòng của tôi. Trời lạnh, nhưng chúng tôi ngồi ở đó. Chúng tôi nói về các chàng trai trong lớp lượn lên lượn xuống các hàng ghế, và nói: “Bạn có thích anh ta không ? Ui, bạn có thích một nửa anh ta? Bạn có ghét anh ta ? Bạn có dám đi chơi với anh ta nếu anh ta rủ bạn ? “. Chẳng có ai rủ rê chúng tôi. Chúng tôi đã mười ba tuổi, và sắp được đi học trung học trong hai tháng nữa. Chúng tôi đã làm bảng câu hỏi trên các tạp chí để tìm hiểu xem mình có cá tính hay chỉ có tính cách bình thường. Chúng tôi đọc các bài báo về cách trang điểm khuôn mặt để làm nổi bật ưu điểm của mình và làm thế nào để thực hiện một cuộc hò hẹn đầu tiên và phải làm gì khi một cậu bé cố gắng muốn đi “quá xa”. Ngoài ra chúng tôi còn tìm đọc bài viết về sự lãnh cảm của thời kỳ mãn kinh, của sự phá thai và tại sao người chồng tìm kiếm sự hài lòng khi xa nhà. Khi không phải làm bài tập, chúng tôi đã dùng hầu hết thời gian tìm kiếm thông tin, chuyền cho nhau các vấn đề tình dục và thảo luận. Chúng tôi đã thực hiện một hiệp ước để nói với nhau tất cả mọi thứ khác. Nhưng có một điều tôi không nói là về buổi khiêu vũ này, buổi vũ hội nhân lễ Giáng sinh ở  trường trung học mà mẹ tôi đã làm cho tôi một chiếc váy để đi dự. Lần đó tôi nói không muốn đi.
Ở trường trung học tôi đã chẳng bao giờ thoải mái được một phút. Tôi không biết gì về Lonnie. Trước một kỳ thi, cô ấy nhận được sự giúp đỡ lạnh lùng và cô ấy hồi hộp, còn tôi đã gần tuyệt vọng ở tất cả các lần thi. Khi tôi được hỏi một câu hỏi trong lớp học, bất kỳ câu hỏi đơn giản nào, giọng nói của tôi có khuynh hướng phát ra nghe chút chít, ​​hoặc nghe như tiếng người nào khác khàn khàn và run rẩy. Khi phải đi đến trước bảng đen, tôi chắc rằng, ngay cả khi vào kỳ kinh nguyệt, điều này thực khó tin, tôi đã thấy có máu trên váy mình. Tay của tôi trở nên trơn mồ hôi khi đôi tay phải làm việc vẽ vòng tròn trên bảng đen. Tôi không thể vụt bóng khi chơi bóng chuyền, không thể bị gọi thực hiện một hành động trước mặt những người khác đã làm tất cả các phản ứng của tôi bị bỏ dở. Tôi ghét môn Kinh doanh thực hành bởi vì phải ra quy tắc cho các trang mục trong một cuốn sách kế toán với việc sử dụng một cây bút ngay ngắn, và khi giáo viên nhìn qua vai tôi thấy tất cả các dòng chữ mảnh khảnh, nghiêng ngả và xô líu ríu với nhau. Tôi ghét môn Khoa học, chúng tôi ngồi trên ghế đẩu dưới ánh sáng gay gắt phía sau tấm bảng quen thuộc, thiết bị mong manh, và được giảng dạy bởi thầy hiệu trưởng của trường, một người đàn ông tự mãn lạnh lùng, ông ấy đọc Kinh Thánh mỗi buổi sáng và có một tài năng tuyệt vời để  sỉ nhục người ta. Tôi ghét môn tiếng Anh vì các chàng trai chơi bingo một loại cờ bạc ở phía sau của căn phòng trong khi cô giáo hơi lé mắt, giọng khỏe khoắn đọc nhẹ nhàng thơ Wordsworth [2] ở phía trước. Cô đe dọa họ, cô năn nỉ họ, khuôn mặt đỏ lên và giọng nói của cô dường như không tin cậy tôi. chúng đưa ra lời xin lỗi hài hước và khi cô bắt đầu đọc một lần nữa, chúng làm điệu bộ chăm chú, những khuôn mặt xúc động, chúng liếc xéo, đập tay lên tim mình. Đôi khi cô ấy bật khóc, không có sự giúp đỡ lúc ấy, cô đã phải chạy ra ngoài, vào phòng lớn. Sau đó, các chàng trai lại gây tiếng ồn; những tiếng cười thèm khát của tụi tôi (ôi tôi cũng vậy) đuổi theo cô ấy. Một bầu không khí lễ hội thô bạo trong phòng vào những thời điểm như vậy, đáng sợ là những người yếu đuối và nghi ngờ như tôi.
Nhưng những gì đã thực sự xảy ra trong nhà trường không phải là môn Kinh doanh thực hành, Khoa học và tiếng Anh, có điều gì đó khác làm cho cuộc sống thêm vẻ hối hả và vui nhộn.
 Đó là tòa nhà cũ, với tầng hầm đá vách lạnh, phòng treo áo màu đen và hình ảnh của các nhà quý tộc hoàng gia đã chết và nhà thám hiểm mất tích, đầy những sự căng thẳng và hứng thú  về cuộc cạnh tranh tình dục, và trong chỗ này, bất chấp những giấc mơ  ban ngày về những thành công lớn, tôi đã có linh cảm về sự thất bại toàn bộ. Một cái gì đó phải xảy ra, để giữ cho tôi tránh buổi khiêu vũ.
 Tháng Mười Hai đến với tuyết, và tôi đã có một ý tưởng. Trước đây tôi đã suy nghĩ về vụ ngã xe đạp và bong gân mắt cá chân và tôi đã cố gắng làm chủ việc này, khi tôi chạy xe về nhà dọc theo con đường nông thôn đầy vết bánh xe lún sâu, trời lạnh dữ dội. Nhưng điều đó thực là quá khó khăn. Tuy nhiên, cổ họng và phế quản của tôi được coi như là rất yếu, tại sao không dám hở cổ ra? Tôi bắt đầu ra khỏi giường vào ban đêm và hé mở cửa sổ một chút. Tôi quỳ xuống và để cho gió, đôi khi buốt nhói vì có tuyết rơi táp vào xung quanh cổ họng trần của tôi. Tôi cởi phần trên áo pyjama. Tôi tự nói với mình những lời  như”xanh tái vì lạnh” và khi tôi quỳ ở đó, tôi nhắm mắt lại, tôi hình dung ngực và cổ họng của tôi chuyển sang màu xanh, tĩnh mạch dưới da xanh xám và lạnh. Tôi ở đó cho đến khi không thể chịu đựng được nữa, và sau đó tôi vốc đầy tay tuyết đóng từ các bậu cửa sổ, bôi trên ngực, trước khi tôi cài nút bộ đồ ngủ trên mình. Nó sẽ tan vào đồ nỉ và tôi sẽ ngủ trong quần áo ướt,  cái được coi là điều tồi tệ nhất tất cả. Vào buổi sáng, khi tôi thức dậy, tôi hắng giọng, thử cho đau nhức, hy vọng, ho thử xem, sờ trán xem có bị sốt. Điều đó là không tốt. Mỗi buổi sáng, kể cả vào ngày vũ hội, tôi thức dậy không nổi, trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo.
 Ngày khiêu vũ, tôi đã làm tóc mình bằng dụng cụ thép uốn. Tôi chưa từng bao giờ làm điều này, bởi vì tóc tôi là xoăn tự nhiên, nhưng hôm nay tôi muốn bảo vệ tất cả các trình tự trang điểm của phụ nữ. Tôi nằm trên chiếc ghế dài trong nhà bếp, đọc Những ngày cuối cùng của Pompeii ([3]), và muốn ở đó. Mẹ tôi, chẳng bao giờ hài lòng, đang may cổ áo ren trắng trên trang phục, bà đã khẳng định, trông nó có vẻ quá già. Tôi đã trông ngóng nhiều giờ. Đó là một trong những ngày ngắn nhất trong năm. Trên chiếc ghế dài, trên hình nền, những trò chơi cũ Xs và Os ([4]), bản vẽ cũ và chữ viết vội vàng mà anh trai tôi và tôi đã làm khi chúng tôi bị bệnh viêm phế quản. Tôi nhìn chúng và nóng lòng mong mỏi được trở về an toàn sau biên giới của thời thơ ấu.
 Khi tôi lấy ra các dụng cụ uốn tóc của tôi ra, cả tự nhiên và nhân tạo, hào hứng, kéo lò xo khỏi ống lót bóng loáng hồ hởi. Tôi nhúng ướt tóc, tôi chải nó, đánh nó với bàn chải và kéo nó xuống dọc theo má tôi. Tôi thoa bột mặt, trộn với phấn lên khuôn mặt nóng của mình. Mẹ tôi đã lấy ra thứ nước hoa Ashes of Roses Cologne của bà, mà bà không bao giờ  sử dụng, và để cho tôi vẩy trên cánh tay tôi. Sau đó, bà kéo khóa bộ váy và quay người tôi  nhìn vào tấm gương. Trang phục là theo kiểu công chúa, thắt chặt chỗ bụng. Tôi đã thấy ngực của mình ra sao trong áo nịt vú cứng mới, nhô ra một cách ngạc nhiên, với uy quyền của sự trưởng thành, dưới cái cổ áo diềm xếp nếp kiểu trẻ con.
 “Ôi, mẹ muốn chụp tấm ảnh,” mẹ tôi nói, “Mẹ thực sự chân thành tự hào về sự phù hợp đó. Và con có thể nói lời cảm ơn mẹ vì điều đó”.
 “Cảm ơn mẹ,” tôi nói.
 Lời đầu tiên Lonnie nói khi tôi mở cửa cho cô ấy là “Lạy Chúa Giêsu, bạn đã làm gì với mái tóc của bạn?”.
 “Tôi đã uốn tóc”.
 “Bạn trông giống như một Zulu. Oi, đừng lo. Lấy cho tôi một chiếc lược và tôi sẽ làm phía trước thành cuộn. Nó sẽ coi được lắm. Thậm chí nó sẽ làm cho bạn trông già dặn hơn”.
Tôi ngồi trước gương, Lonnie đứng đằng sau tôi, sửa chữa mái tóc tôi. Mẹ tôi dường như không thể rời khỏi chúng tôi. Tôi ước gì bà đi khỏi. Bà nhìn những cuộn tóc và nói: “Cháu là một kỳ quan, Lonnie. Cháu phải làm nghề uốn tóc”.
 “Đó là một ý tưởng”, Lonnie bảo. Cô đã có một  bộ váy kếp màu xanh nhạt, với một cái cổ áo ngắn, nó có vẻ trưởng thành hơn tôi thậm chí không có cổ áo. Tóc của cô đã trở nên bóng mượt như kiểu dáng cô gái trên phù hiệu đeo của cảnh sát. Tôi đã luôn luôn nghĩ thầm rằng Lonnie không thể xinh đẹp vì cô có hàm răng khấp khểnh, nhưng bây giờ tôi không thấy rõ răng cô khấp khểnh hay không, kiểu thời trang của cô và mái tóc mượt của cô khiến tôi nhìn hơi giống như một con búp bê bằng vải nhồi nhung đỏ, mắt mở to, với mái tóc hoang dã, gợi ra sự cuồng nhiệt.
Mẹ tôi đi theo chúng tôi ra cửa và gọi vào bóng tối, “Tạm biệt !” bằng tiếng Pháp.  Đây là lời chia tay truyền thống của Lonnie và tôi, nghe có vẻ ngớ ngẩn và bơ vơ đến từ bà  ấy, và tôi đã rất giận với bà ấy khi sử dụng nó đến nỗi tôi không trả lời. Chỉ có mình Lonnie đáp lời vui vẻ, khích lệ, “Chúc ngủ ngon!”
Phòng tập thể dục có mùi của cây thông và tuyết tùng. Những cái chuông màu đỏ và màu xanh lá cây bằng giấy có rãnh treo trên vành đai bóng rổ, cao, cửa sổ cấm mở bị ẩn bởi cành cây xanh. Tất cả mọi người trong các lớp trên dường như đã đến trong từng cặp. Một số cô gái lớp Mười Hai và lớp Mười ba đã mang bạn trai theo- những người đã tốt nghiệp rồi- những người doanh nhân trẻ xung quanh thị trấn. Những con người trẻ hút thuốc trong phòng thể dục, không ai có thể ngăn chặn chúng, họ được tự do. Các cô gái đứng bên cạnh họ, buông tay như tình cờ trên cánh tay người nam, khuôn mặt của họ uể oải, khép kín và xinh đẹp. Tôi khao khát được như thế. Họ cư xử như thể chỉ có họ – những người lớn tuổi hơn, đã thực sự bước vào điệu nhảy, như thể phần còn lại chúng tôi, những người di chuyển chen trong giữa và phần xung quanh hạn hẹp, là, nếu không vô hình, vô tri vô giác, khi điệu nhảy đầu tiên đã được công bố, điệu Paul Jones, họ di chuyển tản ra chậm rãi, mỉm cười với nhau như thể họ đã được mời tham gia một số trò chơi trẻ con nửa bị quên lãng. Nắm tay và run rẩy, tràn ngập lên cùng nhau, Lonnie và tôi và các cô gái lớp Chín khác theo sau.
Tôi không dám nhìn vào những người nhảy vòng tròn bên ngoài khi họ lướt qua tôi, vì tôi sợ sẽ nhìn thấy một sự thô tục vội vã. Khi âm nhạc dừng lại, tôi vẫn ở chỗ ban đầu, và hé mắt nhìn, tôi thấy một chàng tên là Mason Williams có vẻ miễn cưỡng tiến về phía tôi. Cậu ta chạm vào eo tôi và các ngón tay của tôi một cách thô kệch, và bắt đầu nhảy với tôi. Chân tôi cảm thấy như trống rỗng, tay tôi run lên từ bả vai, tôi đã không thể nói được. Mason Williams là một trong những anh hùng của trường, cậu chơi bóng rổ và khúc côn cầu và bước đi trong hội trường với một không khí rầu rĩ quý tộc và khinh rẻ man rợ. Phải nhảy với một kẻ vô danh như tôi là sự  xúc phạm với cậu, như khi phải ghi nhớ thơ của Shakespeare. Tôi cảm thấy hăng hái như cậu ta cảm thấy, và tưởng tượng rằng cậu đã trao đổi những cái nhìn bất an với bạn bè của mình. Cậu ta điều khiển quay tôi một vòng, vấp vào cạnh sàn nhà. Cậu nắm  tay qua eo tôi và bỏ thõng cánh tay tôi.
“Hẹn gặp lại”, Mason nói. Rồi bỏ đi.
 Tôi phải mất một hoặc hai phút để nhận ra những gì đã xảy ra và biết rằng anh không quay trở lại. Tôi bước đi và đứng bên bức tường một mình. Cô giáo dạy giáo dục thể chất nhảy lướt qua hăng hái trong vòng tay một cậu bé lớp Mười, khiến tôi tò mò nhìn theo. Cô là giáo viên duy nhất trong trường đã sử dụng các từ “điều chỉnh xã hội”, và tôi sợ rằng nếu cô đã nhìn thấy, hoặc nếu cô ấy phát hiện ra, cô ấy có thể có nỗ lực đáng sợ nào để làm cho Mason kết thúc điệu nhảy với tôi. Bản thân tôi đã không tức giận hay bất ngờ với Mason, tôi chấp nhận vị trí của anh ta và tôi trong thế giới trường học, và tôi thấy rằng những gì anh đã làm là điều thực tế. Anh là một anh hùng tự nhiên, không phải một loại anh hùng Hội học sinh nhảy vọt thành công ngoài trường học; một trong những người sẽ nhảy với tôi một cách lịch sự và trịch thượng khiến tôi cảm thấy không khá hơn. Tuy nhiên, tôi hy vọng không nhiều người đã nhìn thấy tôi. Tôi ghét người ta nhìn thấy. Tôi bắt đầu cắn lớp da ngón tay cái của mình.
 Khi âm nhạc dừng lại, tôi tham gia vào làn sóng con gái đi đến cuối phòng thể dục. Giả vờ nó đã không xảy ra, tôi nói với bản thân mình. Giả vờ thế này là sự khởi đầu, ngay bây giờ.
Ban nhạc lại chơi tiếp. Tôi thấy một sự chuyển động trong đám đông dày đặc ở phía cuối sàn nhảy, rồi tản dần nhanh chóng. Các chàng trai đi qua, các cô gái bước ra để nhảy. Lonnie đã bước ra sàn. Cô gái ở  bên tôi cũng đã ra sàn. Không ai mời tôi. Tôi nhớ một bài viết trên tạp chí mà Lonnie và tôi đã đọc, có câu “Hãy đồng tính! Hãy để chàng trai nhìn thấy đôi mắt của bạn lấp lánh, cho họ nghe tiếng cười trong giọng nói của bạn! Đơn giản, rõ ràng, nhưng bao nhiêu cô gái đã quên điều đó! Đúng vậy, tôi đã quên. Hai hàng lông mày của tôi rãn ra cùng với sự căng thẳng, hẳn là trông tôi sợ hãi và xấu xí lố bịch lắm. Tôi hít một hơi thật sâu và cố gắng nới lỏng khuôn mặt mình. Tôi mỉm cười. Nhưng tôi cảm thấy vô lý, chẳng mỉm cười với ai. Và tôi quan sát thấy rằng những cô gái trên sàn nhảy, những cô gái được ngưỡng mộ, đã không mỉm cười, nhiều người trong số họ vẻ buồn ngủ, khuôn mặt hờn dỗi và chẳng chút mỉm cười.
 Các cô gái vẫn đi ra sàn nhảy. Một số, tuyệt vọng, đã đi với nhau. Còn hầu hết đi với con trai. Những cô gái béo, những cô gái với mụn nhọt, những cô gái nghèo không sở hữu một chiếc áo đầm tốt và phải mặc một chiếc váy và áo len đi vũ hội, họ đã quả quyết nhảy ra phía xa. Tại sao chọn họ mà không chọn tôi? Tại sao người khác mà không phải tôi? Tôi có một áo đầm nhung đỏ, tóc tôi đã uốn trong dụng cụ, tôi sử dụng một chất khử mùi và thoa nước hoa cologne.Cầu nguyện, tôi nghĩ. Tôi không thể nhắm mắt được nhưng tôi đã nói nhiều lần trong tâm trí mình, Xin vui lòng, tôi đây, làm ơn, và tôi nắm ngón tay tôi ra sau lưng trong một dấu hiệu mạnh hơn, bắt chéo cùng một dấu hiệu mật mà Lonnie và tôi không quen sử dụng khi bị gọi đến bảng đen trong giờ học Toán.
 Điều đó chẳng tác dụng. Những gì tôi sợ đã là sự thật. Tôi sẽ bị bỏ lại. Có điều gì đó bí ẩn và là vấn đề quan trọng với tôi, cái gì đó mà không thể sửa cho đúng, như hơi thở hôi hoặc cố lãng quên như nổi mụn, và tất cả mọi người biết điều đó, và tôi biết điều đó, tôi đã biết tất cả. Nhưng tôi không biết nó cho chắc chắn, tôi đã hy vọng bị nhầm lẫn. Chắc chắn tăng lên trong tôi như bệnh tật. Tôi vội vã  đi qua một hoặc hai cô gái cũng bị bỏ lại và đi vào nhà vệ sinh nữ. Tôi ẩn mình trong một căn phòng nhỏ.
 Đó là nơi tôi đứng. Giữa các điệu nhảy, các cô gái bước vào và đi ra ngoài một cách nhanh chóng. Có rất nhiều phòng nhỏ, không ai nhận thấy rằng tôi không phải là một người cư ngụ tạm thời. Trong những điệu nhảy, tôi nghe âm nhạc mà tôi thích. Đối với tôi, sẽ không cố gắng nữa. Tôi chỉ muốn ẩn kín trong đây, đi được ra mà không nhìn thấy bất cứ ai, chỉ muốn về được đến nhà.
Một lúc sau khi nhạc bắt đầu, có người đứng lại phía sau. Cô ấy mất một lúc lâu vặn nước, rửa tay, chải tóc. Cô nghĩ rằng thực buồn cười là tôi ở lại quá lâu. Tôi thấy tốt hơn là đi ra ngoài và rửa tay, và có thể trong khi tôi đang rửa tay, cô ấy sẽ ra về.
 Đó là Mary Fortune. Tôi biết tên cô ấy, bởi vì cô là một chỉ huy của Hội điền kinh nữ và cô đang ở trong Danh sách danh dự và cô  ta luôn luôn tổ chức mọi việc. Cô đã làm một việc gì đó để tổ chức vũ hội này, cô đã được bao vây để tất cả các lớp học yêu cầu các tình nguyện viên làm các đồ trang trí. Mary học lớp Mười một hoặc Mười hai.
 “Ở đây dễ chịu và mát mẻ”, cô nói. “Tôi vào cho đỡ lạnh. Tôi muốn nóng hơn”.
 Cô vẫn còn chải tóc thì tôi đã rửa xong bàn tay. “Bạn có thích ban nhạc không?”, cô hỏi.
“Được ạ.”- Tôi thực sự không biết phải nói gì. Tôi ngạc nhiên nhìn cô, một cô gái lớn tuổi hơn lại dành thời gian này để nói chuyện với tôi.”Tôi  thì không. Tôi không thể chịu đựng được. Tôi ghét nhảy khi tôi không thích ban nhạc. Nghe kìa. Họ rất hay thay đổi. Tôi chỉ không thích nhảy như kiểu đó thôi”.
 Tôi chải tóc. Cô ấy tựa vào một chậu rửa, nhìn tôi.
“Tôi không muốn nhảy và  đặc biệt không muốn ở lại đây. Chúng ta hãy đi và lấy một điếu thuốc”.
“Ở đâu?”
“Đi nào, tôi sẽ chỉ cho bạn”.
Ở cuối phòng vệ sinh có một cái cửa. Nó đã được mở khóa và dẫn vào một phòng quần áo tối đầy giẻ lau sàn và thùng. Cô ấy đã để tôi giữ cho cửa mở, để có được ánh sáng nhà vệ sinh, cho đến khi cô tìm thấy núm cửa khác. Cánh cửa này mở vào bóng tối.
 “Tôi không thể bật đèn nhưng…lỡ ai đó có thể nhìn thấy”, cô nói. “Đây là phòng của người gác cửa”. Tôi nghĩ rằng các vận động viên luôn luôn có vẻ biết nhiều hơn chúng tôi về trường học như một tòa nhà, họ biết nơi mà mọi thứ được lưu giữ và họ đã luôn luôn ra khỏi cái cửa cấm ra vô trái phép với một không khí bận tâm rõ rệt. “Cẩn thận nơi bạn đang đi,” cô nói. “Ở phía xa kia có một cầu thang. Họ đi đến một phòng quần áo trên tầng hai. Cửa bị khóa ở phía trên, nhưng có một vùng trống giữa cầu thang và phòng. Vì vậy, nếu chúng ta ngồi trên bậc thềm, ngay cả khi tình cờ có một người nào đó vào đây, họ sẽ không nhìn thấy chúng tôi”.
 “Họ sẽ không ngửi thấy mùi khói thuốc chứ ?” Tôi hỏi.
“Ồ chà. Sống thế này thực nguy hiểm”.
Có một cửa sổ cao trên cầu thang cho chúng tôi một chút ánh sáng. Mary Fortune có thuốc lá và hộp diêm trong ví của cô. Tôi chưa từng hút thuốc trước đây trừ thuốc lá mà Lonnie và tôi đã tự mình dùng giấy báo và sợi thuốc lá đánh cắp từ cha cô, họ đã đi ra ngoài ở cửa giữa. Những chỗ đó  là tốt hơn nhiều.
 “Lý do duy nhất ngay cả tôi phải đến tối nay,” Mary Fortune cho biết, “là bởi vì tôi chịu trách nhiệm cho các đồ trang trí và tôi muốn thấy, bạn biết không, một khi người ta có trong đó trông thế nào và tất cả mọi thứ. Nếu không tại sao bận tâm? Tôi không phải là cậu bé điên”.
Trong ánh sáng từ cửa sổ cao rọi xuống tôi có thể thấy khuôn mặt khinh bỉ của cô, da xẫm tối, rỗ hoa và mụn trứng cá, cô nghiến răng lại ở phía trước, làm cho cô ấy trông trưởng thành và có vẻ chỉ huy.
 “Hầu hết các cô gái là vậy. Bạn không nhận thấy điều đó ư? Bộ sưu tập lớn nhất của các cô gái, chàng trai điên mà bạn có thể tưởng tượng là ở ngay tại trường này”.
Tôi rất biết ơn sự quan tâm của cô, bạn bè của cô và thuốc lá cô cho. Tôi nói tôi cũng nghĩ như vậy.
 “Giống như chiều nay. Chiều nay tôi đã cố gắng nhờ họ treo các chuông và đồ tạp nhạp. Họ chỉ trèo lên trên các thang và đùa rỡn với bọn con trai. Họ chẳng quan tâm nó có được trang trí không. Đó chỉ là một cái cớ. Mục tiêu duy nhất mà họ có trong cuộc sống là đùa giỡn với đám con trai. Về phần tôi nghĩ, họ là những kẻ ngu ngốc”.
 Chúng tôi nói chuyện về giáo viên, và những thứ khác ở trường. Cô cho biết cô muốn trở thành một giáo viên giáo dục thể chất và cô sẽ phải đi học đại học thể dục, nhưng cha mẹ cô không có đủ tiền. Cô cho biết cô dự định làm việc theo cách riêng của mình, dù sao cô cũng muốn được độc lập, cô sẽ làm việc trong các tiệm ăn và vào mùa hè cô sẽ làm công việc trang trại, như chọn thuốc lá. Nghe cô nói, tôi cảm thấy giai đoạn khó khăn bất hạnh của tôi trôi qua. Đây là một người đã phải chịu đựng sự thất bại giống như tôi đã chịu, tôi thấy vậy, nhưng cô tràn đầy năng lượng và lòng tự trọng. Cô đã nghĩ đến những điều khác để làm. Cô sẽ chọn thuốc lá.
 Chúng tôi ở đó nói chuyện và hút thuốc trong thời gian tạm dừng lâu trong khi âm nhạc vẫn tiếp diễn, khi nào, ở bên ngoài, họ đã có bánh rán và cà phê. Khi âm nhạc bắt đầu lần nữa Mary nói: “Hãy nhìn xem, chúng ta phải chờ loanh quanh ở đây bao lâu nữa? Hãy lấy áo của chúng ta và đi thôi. Chúng ta có thể đi xuống cửa hàng Lee và mua một ly sô cô la nóng và nói chuyện thoải mái, tại sao không? “
Chúng tôi cảm thấy như chúng tôi ngang qua căn phòng của người gác cửa, mang theo tro tàn và mẩu thuốc lá trong tay. Trong phòng quần áo, chúng tôi dừng lại và lắng nghe để chắc chắn rằng không có ai trong phòng vệ sinh. Chúng tôi trở lại dưới ngọn đèn sáng và ném tro vào nhà vệ sinh. Chúng tôi phải đi ra ngoài và cắt ngang qua sàn nhảy để đến phòng treo áo, nó ở bên cạnh cửa  ngoài.
 Một điệu nhảy nữa vừa bắt đầu. “Đi vòng quanh mép sàn nhà”, Mary nói, “Không ai để ý đến chúng ta đâu”. Tôi đi theo cô ấy. Tôi không nhìn vào bất cứ ai. Tôi không tìm kiếm Lonnie. Lonnie có lẽ sẽ không phải là người bạn của tôi nữa, nhưng không đậm tình như trước nữa. Cô ấy là cái mà Mary sẽ gọi là “cậu bé điên”.
 Tôi thấy rằng tôi đã không quá sợ hãi, bây giờ thì tôi đã quyết tâm rời bỏ cuộc khiêu vũ. Tôi không chờ đợi bất cứ ai mời tôi ra nhảy. Tôi đã có ý đồ riêng. Tôi không phải mỉm cười hoặc ra dấu hiệu cầu may mắn. Nó đã không quan trọng với tôi. Tôi đang trên đường tìm một ly sô cô la nóng với người bạn của tôi.

Một cậu bé nói gì đó với tôi. Cậu ta cũng làm như tôi. Tôi nghĩ cậu phải nói với tôi rằng tôi đã đánh rơi một cái gì đó hoặc là tôi không thể đi theo cách đó hay rằng phòng treo quần áo đã bị khóa. Tôi không hiểu rằng cậu ta đã yêu cầu tôi nhảy cho đến khi cậu nói một lần nữa. Đó là  Raymond Bolting từ lớp của chúng tôi, người mà tôi chưa bao giờ nói chuyện với cậu ta trong đời tôi. Cậu ta nghĩ tôi đồng ý. Cậu ta đặt tay lên eo tôi và hầu như chẳng cần phải giải thích, tôi bắt đầu nhảy.

Chúng tôi di chuyển vào giữa sàn nhà. Tôi đang nhảy. Chân tôi đã quên run rẩy và tay tôi đổ mồ hôi. Tôi đang nhảy với một chàng trai đã mời tôi. Không ai bảo cậu ta làm việc ấy, cậu  không phải nói, mà cậu ấy chỉ mời tôi. Điều đó có chắc vậy không, tôi có thể tin được chăng, rút cục  không có vấn đề gì quan trọng với tôi chứ ?
 Tôi nghĩ rằng tôi nên nói với anh ấy là có một trục trặc, rằng tôi sắp dời đi, tôi sẽ đi lấy một ly sô cô la nóng với bạn nữ của tôi. Nhưng tôi đã không nói được gì cả. Khuôn mặt của tôi đã có sự điều chỉnh tinh tế nhất định, đạt được như ý mà không có nỗ lực chút nào trước những cái nhìn vừa đãng trí vừa nghiêm trang của những người đã được chọn, những người đang nhảy. Đây là khuôn mặt mà Mary Fortune đã thấy khi cô nhìn ra ngoài cửa phòng treo áo, khăn quàng cổ xòe xung quanh đầu. Tôi đã thực hiện một chuyển động vẫy nhẹ với bàn tay đặt trên vai của cậu bé, ý là tôi xin lỗi, rằng tôi không biết những gì đã xảy ra và cũng có thể  là không cần chờ đợi tôi. Sau đó, tôi quay đầu đi, và khi nhìn lại thì cô ấy đi rồi.
 Raymond Bolting đưa tôi về nhà và Harold Simons đưa Lonnie về. Tất cả chúng tôi đi cùng nhau  xa dần lối rẽ của Lonnie. Các chàng trai đang tranh luận về một trò chơi khúc côn cầu, mà Lonnie và tôi không thể đi theo chơi. Sau đó, chúng tôi chia thành các cặp vợ chồng và Raymond tiếp tục với tôi cuộc trò chuyện anh ta đang có với Harold. Anh dường như không nhận thấy rằng lúc này anh đang nói chuyện với tôi. Một hoặc hai lần tôi đã nói, “Ui, tôi không biết, tôi đã không nhìn thấy trò chơi  đó,” nhưng sau một thời gian tôi quyết định chỉ để nói, “H’m, hmm”, và dường như đó là tất cả những gì cần thiết.
 Một điều khác anh đã nói là, “Tôi không nhận ra bạn đã sống lâu theo cách đó”. Và anh sụt sịt. Cái lạnh đã làm mũi tôi chảy một chút, và tôi đã thọc ngón tay của mình qua giấy gói kẹo trong túi áo khoác của tôi cho đến khi tôi tìm thấy một cái kẹo Kleenex tồi tàn. Tôi không biết liệu tôi có nên mời anh ta hay không, nhưng anh sụt sịt lớn tiếng đến nỗi cuối cùng tôi nói: “Tôi chỉ có một cái Kleenex này, nó có thể thậm chí không sạch, nó có thể bị vấy mực. Nhưng nếu tôi xé nó ra hai phần, hai chúng tôi đều có một cái gì đó. “
“Cảm ơn,” anh nói. “Tôi chắc là có thể sử dụng được nó”.
 Đó là một điều tốt, tôi nghĩ, rằng tôi đã làm điều đó, tại cửa nhà tôi, khi tôi nói: “Vâng, chúc ngủ ngon”, và sau khi anh nói, “Oh, yeah. Chúc ngủ ngon”, anh cúi người về phía tôi và hôn tôi ngắn ngủi, với không khí của một người biết công việc của mình khi nhìn nó, trên khóe miệng của tôi. Sau đó, anh quay trở lại thị trấn, không bao giờ biết rằng anh đã là người cứu hộ của tôi, anh đã mang lại cho tôi từ lãnh thổ của Mary Fortune vào thế giới bình thường.
 Tôi đã đi xung quanh nhà để ra cửa sau, suy nghĩ, tôi đã đến một buổi khiêu vũ và một cậu bé đã đi bộ đưa tôi về nhà và hôn tôi. Đó là tất cả sự thật. Cuộc sống của tôi có thể là triển vọng. Tôi đã đi qua cửa sổ nhà bếp và nhìn thấy mẹ tôi. Bà đang ngồi gác chân trên cửa lò mở, uống trà trong một cốc không có đĩa. Bà chỉ ngồi và chờ đợi tôi trở về nhà và nói tất cả mọi chuyện đã xảy ra. Và tôi sẽ không làm điều đó, tôi sẽ không bao giờ làm thế. Nhưng khi tôi nhìn thấy nhà bếp chờ đợi, và mẹ tôi trong bộ kimono Paisley đã bạc màu, với khuôn mặt buồn ngủ nhưng kiên trì chờ đợi, tôi hiểu một nghĩa vụ bí ẩn ngột ngạt mà tôi đã có để được hạnh phúc, và tôi đã gần như thất bại thế nào đó, và gần như thất bại, mọi lúc, và bà ấy sẽ không biết được.
 (Nguồn: From Dance of the Happy Shades And Other Stories (Vintage, 1998). Reprinted by permission of The Random House Group Limited )
 Lời bình nhanh của người dịch
Hình như truyện không có chuyện, bởi câu chuyện thực đơn giản, chỉ chú ý miêu tả tâm lý lứa tuổi teen, một bút pháp của nhà văn Alice Munro.
 Câu chuyện bắt đầu từ sự chăm chút bộ váy đỏ mẹ may cho con gái. Dẫn đến một loạt nét phác thảo về tình mẹ con, tình bạn nữ và tình yêu nhen nhóm ở một thiếu nữ mới lớn. Tình yêu đầu đời, giao tiếp trai gái diễn ra trong buổi khiêu vũ đầu tiên của một nữ sinh trung học.
Câu mở đầu “Mẹ tôi đang làm cho tôi một chiếc váy.”
và câu kết thúc” và bà ấy sẽ không biết được.”.
tô đậm hình ảnh người mẹ.
Tình mẹ con, mẹ và con gái, vẫn bao trùm tất cả. Nghe cũng giống như tình mẫu tử Việt Nam vậy nhỉ.

An Giang 13/11/2013
Người dịch
[1] . Blue Baby : tên gọi những em bé khi sinh ra xanh tái do có khuyết tật bẩm sinh về tim.(ND)
 [2] .Wordsworth:  William Wordsworth (7.4.1770 – 23.4.1850): nhà thơ lãng mạn người Anh. (ND)
[3] .Những ngày cuối cùng của thành Pompeii (nguyên tác tiếng Italia). Đây là tác phẩm viết từ năm 79 sau công nguyên (tức thế kỷ 1, viết về con người, tình yêu và thiên nhiên cách đây đã 20 thế kỷ, xuất bản lần đầu năm 1834. Nhưng dường như những gì chứa đựng trong cuốn sách vẫn chưa cũ, chưa lạc hậu chút nào (ND chú thích)
[4] . Trò chơi Xs và Os: có lẽ là cờ ca rô, một bên đánh dấu X, đối phương viết chữ O, chặn đầu nhau luân lưu…bên nào không còn lối thoát thì chiụ thua (ND chú)
Tàu hỏa
 Truyện ngắn, nguyên tác Anh ngữ: “Train”
Tác giả : nữ văn sĩ Alice Munro (Canada)
Giải Nobel 2013 (tặng chung 14 tập truyện ngắn của A.Munro)
 Nguyễn Anh Thư  biên dịch
Phùng Hoài Ngọc hiệu đính
 Dẫu sao đây cũng là tàu chậm, và nó còn chạy chậm hơn tại khúc quành. Jackson là hành khách duy nhất rời khỏi tàu. Khoảng hai mươi dặm nữa là đến ga tiếp theo. Sau đó là các ga Ripley, rồi Kincardine và hồ. Anh đang có cơ hội để nhảy xuống và không thể bỏ lỡ nó được. Anh đã rút vé ra khỏi máy dập vé ở phía trên đầu rồi.
Anh quăng túi và nhìn thấy nó rơi gọn xuống giữa các đường ray. Bây giờ không còn lựa chọn nào khác – con tàu sẽ không thể chạy chậm hơn được nữa.
Giờ là lúc anh nắm cơ hội. Một người đàn ông trẻ tuổi có thân hình cân đối, nhanh nhẹn hơn bao giờ hết. Nhưng cú nhảy rồi cú chạm đất làm anh thất vọng. Người anh không được mềm dẻo như anh tưởng. Theo quán tính, anh chúi người về phía trước. Lòng bàn tay trầy xát vì ma xát với lớp đá dăm rắc giữa các thanh tà vẹt. Hồi hộp.
Con tàu đã khuất dạng; anh nghe nó tăng tốc thêm một chút khi ra khỏi chỗ quành. Anh nhổ nước bọt vào hai bàn tay bị đau, phủi hết đá đi. Sau đó anh nhấc túi lên và bắt đầu đi bộ trở lại theo hướng anh đã chọn lúc còn ở trên tàu. Nếu theo tàu, anh sẽ có mặt ở ga khi trời vừa tối. Anh vẫn có thể tự trách đã ngủ thiếp đi, và thức dậy rối bời, cho là mình đã lỡ mất ga cần xuống, rồi lại lẫn lộn hết.
Anh đã cố tin chắc bản thân mình. Trở về nhà từ nơi rất xa, từ nước Đức và chiến tranh thế giới II, anh có thể bị lẫn lộn trong đầu. Vẫn chưa muộn lắm, đáng lẽ anh phải ở nơi cần đến trước nửa đêm. Nhưng trong khi nghĩ như vậy, anh lại cuốc bộ theo hướng ngược lại. Anh không biết nhiều về tên các loại cây. Phong. Mọi người đều biết. Thông. Anh nghĩ rằng nơi anh vừa nhảy tàu có mấy cây thông, nhưng không phải. Những cái cây mọc dầy đặc hai bên đường kè tàu nhưng anh có thấy thấp thoáng đằng sau chúng là các cánh đồng. Những cánh đồng cỏ xanh, cánh đồng mùa vụ màu gỉ sắt hay là cánh đồng lúa trơ gốc rạ màu vàng. Anh chỉ biết đến thế. Bây giờ vẫn là tháng Tám.
Và khi tiếng xình xịch của con tàu đã im bặt, anh nhận ra xung quanh không yên tĩnh tuyệt đối như mong đợi. Nhiều xáo trộn đâu đó, những chiếc lá khô tháng Tám xao xác dù trời lặng gió. Lũ chim không rõ tên kêu inh tai từ nơi ẩn nấp,chỗ khuất nào đó, như dọa nạt anh.
Mấy năm qua, có vẻ những người anh gặp đều nghĩ nếu ai đó không phải dân thành thị thì ắt phải là nông dân. Không hẳn vậy. Bản thân Jackson là con trai một thợ sửa ống nước. Anh chưa từng sống ổn định một nơi, như con bò được chăn giữ hay ngũ cốc nằm yên trong kho. Hoặc như bây giờ thấy mình lê bước dọc theo con đường sắt mà dường như đã chuyển từ mục đích bình thường chở người và hàng hóa sang thành lãnh địa của táo dại và các bụi cây có gai mọng quả (bụi cây quả mọng, có gai), những bụi nho và bầy quạ ồn ĩ đâu đó ở trên cao. Và ngay lúc này một con rắn mảnh dẻ như dây nịt tất đang trườn giữa các đường ray, hoàn toàn tự tin rằng anh sẽ không đủ nhanh để chạy trốn hoặc giết nó. Anh biết nó vô hại, nhưng sự bình thản của nó làm anh tức tối.
Con bò cái giống Jersey bé nhỏ có tên Margaret Rose đều đặn xuất hiện trước cái cửa kiên cố mỗi ngày hai lần, sáng và chiều để cô chủ vắt sữa. Belle không hay phải gọi nó. Nhưng sáng nay con bò chỉ chú mục vào cái gì đó dưới sườn dốc của đồng cỏ, hoặc trong những cái cây che khuất đường ray ở phía bên kia hàng rào. Nó nghe thấy tiếng Belle huýt sáo, sau đó là tiếng cô gọi và bắt đầu ngúc ngắc một cách miễn cưỡng. Nhưng rồi nó vẫn ngoái nhìn trở lại.
Belle đặt cái xô và ghế đẩu xuống và băng qua qua đám cỏ ướt sương buổi sáng.
” Nào, nỡm nào!”
Giọng cô nửa dỗ dành nửa la mắng.
Cái gì đó di chuyển trong đám cây. Giọng đàn ông cất lên cho thấy không có gì nguy hiểm .
 Tất nhiên là không có gì nguy hiểm cả. Anh ta nghĩ là cô sợ anh ta tấn công một con bò có sừng như Magaret Rose?
Leo qua hàng rào đường sắt, anh vẫy tay chào như để trấn an cô.
Điều này vượt quá sức chịu đựng của Margaet Rose. Nó buộc phải hình dung sẽ phải làm gì. Nhảy hướng này, rồi hướng kia.  Dứ dứ cặp sừng nhỏ đáng sợ. Không có gì nhiều, nhưng những con bò Jersey luôn làm bạn ngạc nhiên về tốc độ và cơn giận bột phát. Belle cất tiếng để mắng nó và trấn an anh .
 -Nó sẽ không húc anh đâu. Chỉ cần đừng di chuyển kẻo nó bị kích động.
Bây giờ cô mới nhận ra anh đang quàng cái túi. Đó có thể là nguyên nhân của rắc rối. Cô tưởng anh ta chỉ đi dạo dọc theo đường tàu nhưng anh đang trên đường đến một nơi nào đó.
-Vấn đề là đây. Phiền anh đặt túi xuống một lát. Tôi phải dắt nó về chuồng để vắt sữa.
 Anh làm như lời cô yêu cầu, sau đó anh đứng yên quan sát.
Cô dắt Margaret Rose quay trở lại nơi để chiếc xô và cái ghế ở phía bên này của chuồng.
“Giờ anh nhặt túi lên được rồi” – cô nói. “Miễn là anh đừng lượn lờ quanh nó. Anh là quân nhân phải không? Nếu chờ được tôi vắt sữa xong, tôi sẽ dọn bữa sáng cho. Chúc ngủ ngon, tôi chả còn thở được nữa. Margaret Rose. Nghe thật nực cười khi anh phải la mắng nó bằng cái tên như vậy.”[1]
Cô có vóc người nhỏ nhưng rắn chắc. Tóc cô thẳng, màu xám pha lẫn vàng hoe. Cô để rèm mái trước trán như một bé gái.
“Tôi chăn dắt con bò”- cô nói, khi đã yên vị trên ghế. “Tôi ủng hộ chế độ quân chủ hay có thể nói là từng như vậy. Tôi đã ninh cháo phía sau bếp. Vắt sữa cũng không mất nhiều thời gian lắm. Phiền anh đi dạo một vòng và đừng để con bò nhìn thấy anh. Thật tệ là tôi không có trứng cho anh. Chúng tôi từng có một đàn gà mái nhưng lũ cáo đã vồ sạch. Chúng tôi chẳng thiết nuôi nữa”.
Chúng tôi. Chúng tôi từng nuôi gà mái. Có nghĩa là cô có một người đàn ông đâu đó quanh đây.
– Có cháo là ổn rồi. Tôi xin được gửi chị tiền ăn sáng.[2] “
– Đừng bận tâm. Chỉ cần anh tránh khỏi đây một lát kẻo con bò sẽ không thể xuống sữa được vì quá chú tâm vào anh. “
Anh đi một vòng xung quanh cái chuồng có hình thù xấu xí. Anh săm soi giữa đống đồ xem cô có loại xe hơi gì, nhưng tất cả anh có thể nhận ra trong đó là một chiếc xe ngựa cũ và những đầu máy cũ nát.
Lớp sơn màu trắng trên ngôi nhà đã long tróc  và ngả sang màu xám. Một cái cửa sổ, chắc hẳn bị vỡ kính, được bịt ngang bằng những tấm ván. Cái chuồng gà đổ nát là nơi cô nhắc đến lũ cáo vồ mất đám gà mái. Chỗ nào trông cũng đến nản.
Nếu có một anh chàng sống ở đây, hẳn không bị tàn phế thì gã ta cũng tê liệt vì lười nhác.
Có một con đường chạy qua. Một cánh đồng nhỏ có rào bao, nằm trước cửa ngôi nhà, một con đường đất. Trong khoảng đất hiện diện một con ngựa đốm, dáng vẻ bình thản. Một con bò thì còn hiểu được, nhưng còn ngựa? Ngay cả trước chiến tranh, trang trại đã thay thế chúng bằng máy kéo. Và cô không phải típ phụ nữ thích thú với việc phi nước đại trên lưng ngựa. Rồi anh sững người. Cái xe ngựa trong kho không phải là di vật. Đó là tất cả những gì cô có.
 Giờ trong chốc lát anh nghe thấy một âm thanh đặc biệt. Con đường vắt lên đồi, từ đó vẳng ra tiếng lộp cộp, kèm theo tiếng leng keng hoặc tiếng huýt sáo nhè nhẹ.
Và rồi từ trên đồi xuất hiện một cái thùng trên bánh xe, được kéo bởi hai con ngựa rất nhỏ. Nhỏ hơn con ngựa trên cánh đồng nhưng hoạt bát hơn rất nhiều. Và trong thùng có khoảng trên dưới 6 người bé nhỏ. Tất cả đều mặc đồ đen, đội mũ đen đúng kiểu.
Âm thanh phát ra từ họ. Đó là tiếng hát. Những giọng cao, khe khẽ và ngọt ngào nhất có thể. Họ không nhìn anh khi đi ngang qua chỗ anh đứng.
Tiếng hát làm anh hồi hộp. Cái xe ngựa trong chuồng trại và con ngựa trên cánh đồng chả thấm vào đâu so với âm thanh đó.
Anh vẫn đứng đó, hết trông lên lại ngó xuống thì nghe cô gọi: “Xong rồi.” Cô đang đứng bên ngôi nhà.
“Đây là nơi ra vào” – cô nói về cái cửa sau. – “Cửa trước bị kẹt từ mùa đông năm ngoái, và nó từ chối hoạt động. Anh có thể coi như nó vẫn bị đông cứng.”
Trong bóng tối do cửa sổ bị bịt ván gỗ, họ đi trên những tấm ván đặt trên nền đất không bằng phẳng. Ngôi nhà lạnh như trong cái hố nơi anh từng thiếp ngủ. Anh thức giấc lần nữa và một lần nữa, cố gắng tìm cho mình một tư thế để giữ ấm. Người phụ nữ không rùng mình trong ngôi nhà- cô toát ra vẻ khỏe khoắn và cái gì đó dẻo dai như da bò.
Cô đổ sữa tươi vào một cái chậu, dùng một một miếng vải màn phủ lên trên, sau đó cô dẫn anh vào phòng chính của ngôi nhà. Các cửa sổ không có rèm nên ánh sáng lọt được vào đây. Ngoài ra có một cái bếp lò đang cháy. Có một bồn rửa với máy bơm tay, một cái bàn trải bằng vải dầu đã rách đôi chỗ, và một chiếc đi-văng phủ chăn cũ với những vết vá.
Và cả một cái gối đã lòi lông ra ngoài.
Vậy đó, cũng không quá tệ dù cũ và tồi tàn. Mọi cái đều sử dụng được. Nhưng hãy ngước mắt nhìn lên: trên giá là hàng đống báo, tạp chí hoặc chỉ là giấy tờ gì đó chất cao đến trần nhà.
Anh phải hỏi liệu cô không sợ lửa chứ? Và cả cái bếp nữa.
– Ồ, tôi luôn ở đây. Ý tôi là, tôi ngủ ở đây và mọi thứ cũng ở đây. Tôi chả có nơi nào khác để thông khí. Tôi rất thận trọng. Thậm chí tôi không gắn ống khói trên bếp lò. Đôi khi bếp lò quá nóng và tôi chỉ ném một ít bột nở vào nó. Dễ thôi mà.
“Dù sao mẹ tôi cũng phải ở đây” – cô nói. “Chả có chỗ nào thoái mái hơn. Tôi đặt giường bà ở đây. Tôi để mắt đến mọi thứ. Tôi đã nghĩ về việc chuyển tất cả các giấy tờ sang phòng phía trước nhưng ở đó thực sự quá ẩm, chúng sẽ bị hư hại. Bà mất vào tháng Năm, đúng khi thời tiết khá hơn. Bà sống để nghe về sự kết thúc của chiến tranh trên đài. Bà hiểu hết. Bà bị mất tiếng một thời gian dài trước đây, nhưng bà có thể hiểu được. Tôi quá quen việc bà không nói được đến nỗi đôi khi tôi nghĩ bà vẫn còn đây nhưng sự thực không phải thế. “
Jackson cảm thấy đến lúc phải lên tiếng, chia sẻ sự cảm thông với cô.
– Phải, việc gì đến đã đến. Thật may là bà không mất vào mùa đông.
Cô dọn cho anh cháo yến mạch cháo và trà.
– Trà có đặc quá không?
Anh lắc đầu vì miệng đang đầy thức ăn.
– Tôi không bao giờ dè sẻn trà. Nếu dè sẻn thì sao không uống quách nước nóng? Chúng tôi mất sạch do mùa đông năm ngoái, thời tiết quá xấu. Trạm thủy điện ngừng hoạt động, đài hỏng còn biển thì chẳng đánh bắt gì được. Tôi phải giăng một sợi dây thừng ngang cửa sau để bám vào mỗi khi ra ngoài vắt sữa. Tôi định cho Margaret Rose vào bếp nhưng tôi nhận thấy nó rất khó chịu với cơn bão và tôi không thể giữ nó được. Dù sao nó cũng sống sót. Chúng tôi đều sống sót.
Thấy cô ngừng lại, anh hỏi quanh đây có người lùn nào sống không?
– Tôi không nhìn thấy.
–  Trong một cái thùng xe ư?
– À, có phải bọn họ ngồi trong đó? Hẳn là các thanh niên theo phái Tin lành Mennonite. Họ đánh xe đến nhà thờ và dọc đường họ luôn miệng ca hát. Các cô gái đi xe ngựa nhưng (còn)  họ để các chàng trai cầm cương.
– Họ không thèm nhìn tôi lấy một lần.
– Không đâu. Tôi từng nói với mẹ rằng chúng ta sống bên phải đường vì chúng tôi giống như người Mennonites. Con ngựa và cỗ xe và chúng tôi uống sữa chưa được tiệt trùng nhưng điều khác biệt duy nhất là không ai trong chúng tôi có thể (biết) hát.
– Khi mẹ qua đời, họ mang tới nhiều thức ăn đến mức hàng tuần lễ sau tôi mới ăn hết. Họ có suy nghĩ phải thức tỉnh hoặc một cái gì đó. Tôi may mắn khi có họ ở đó.
– Nhưng họ cũng may mắn, bởi vì họ có nghĩa vụ phải thực hiện các hoạt động từ thiện và tôi đang ở trước cửa nhà họ, một cơ hội làm từ thiện lý tưởng mà anh từng thấy.
Ăn xong, anh đề nghị trả cô tiền bữa sáng  nhưng cô xua tay từ chối.
Nhưng có một điều- cô nói. Nếu được thì trước khi đi anh có thể sửa chữa máng ngựa giùm tôi.
Thực ra việc sửa này chính là làm hẳn một cái mới. Để làm điều đó, anh phải cố lùng sục những vật liệu và công cụ cần thiết. Phải mất cả một ngày trời, và cô dọn bữa tối cho anh với bánh và xi-rô hoa quả. Cô nói nếu anh đến đây muộn hơn một tuần, cô có thể mời anh món mứt tươi, làm từ quả dại mọc dọc theo đường tàu.
Họ ngồi trên ghế bếp, ngoài cửa sau cho đến khi mặt trời lặn. Cô nói với anh về việc làm thế nào cô đến ở đây và anh lắng nghe, nhưng không tập trung lắm: đưa mắt nhìn xung quanh, anh nghĩ nơi này thật rệu rã nhưng không hẳn hoàn toàn vô vọng, nếu ai đó muốn đến định cư và sửa chữa lại. Tiền sẽ phải cần đến, nhưng cần hơn là đầu tư thời gian và công sức. Nó có thể là một thách thức. Anh gần như lấy làm tiếc là lại đang phải tiếp tục cuộc hành trình.
Cha cô – cô gọi ông là ba – đã mua nơi này để làm nơi nghỉ hè, rồi ông quyết định họ cũng có thể sinh sống ở đây quanh năm. Ông có thể làm việc bất cứ nơi nào, bởi vì ông phụ trách một chuyên mục cho tờ Toronto Telegram. (Trong một giây Jackson xấu hổ vì đã nghĩ đến một cây cột thực sự hoặc cột để chống đỡ một tòa nhà). Nhân viên bưu tá đến lấy những gì ông viết và chuyển chúng lên tàu hỏa. Ông viết về tất cả những chuyện xảy ra, chỉ thi thoảng nhắc đến mẹ của Belle nhưng gọi bà là công chúa Casamassima trong một cuốn sách. Mẹ có thể là lý do vì sao họ ở lại đây quanh năm. Bà nhiễm bệnh trong dịch cúm khủng khiếp năm 1918- bệnh dịch đã khiến rất nhiều người chết. Khi khỏi bệnh, bà trở nên câm lặng. Không thực sự câm vì bà có thể phát ra âm thanh nhưng dường như bà bị mất đi câu từ. Hoặc câu chữ đã tuột khỏi bà. Bà phải làm quen lại với việc ăn và tắm nhưng có một điều bà không bao giờ có thể học được là mặc quần áo khi trời nóng. Vì vậy, bạn hẳn không muốn thấy bà lang thang và trở thành trò cười trên phố. Mùa đông, Belle đi học xa nhà. Anh phải gắng một chút để nhận ra Tu viện Strawn cô đề cập đến là một ngôi trường. Nó nằm ở Toronto và cô rất ngạc nhiên vì anh chưa nghe đến nó. Ở đó có nhiều cô gái giàu có nhưng cũng có những cô gái như cô, được họ hàng chu cấp hoặc có ý chí để đến học. Cô nói những gì cô học ở trường khá phù phiếm và chả cho cô biết cần làm gì để kiếm sống.
Nhưng mọi sự đã an bài do vụ tai nạn. Cha cô bị tàu đâm khi đi bộ trên đường ray- một sở thích của ông vào những chiều hè. Chuyện xảy ra khi cô và mẹ cô đã lên giường đi ngủ. Belle nghĩ đó hẳn là một con vật nuôi đi lạc trên đường ray nhưng mẹ cô rền rĩ khủng khiếp và dường như bà cảm nhận được điều đó đầu tiên.
Đôi khi, một cô bạn ở trường viết thư hỏi thăm cô làm cái quái gì ở đây nhưng họ chỉ biết rất ít. Cô vắt sữa và nấu ăn, chăm sóc mẹ và cả những con gà mái tại thời điểm đó. Cô đã học được cách cắt khoai tây sao cho mỗi miếng có một mống mắt, giâm xuống đất và bới củ vào mùa hè năm sau. Cô không học lái xe và khi chiến tranh nổ ra, cô đã bán chiếc xe của cha mình. Những người Mennonites để cho cô một con ngựa dù nó cũng chẳng giúp ích gì cho việc nông trại. Một người trong số họ dạy cô đóng yên cương và cưỡi nó.
Một trong những người bạn cũ đến thăm và nghĩ rằng cách cô đang sống là một sự xấu hổ. Bà muốn cô trở lại Toronto nhưng còn mẹ cô? Mẹ cô giờ đã tĩnh lặng hơn rất nhiều và chịu mặc quần áo. Bà cũng rất thích nghe đài, nhạc kịch vào chiều thứ Bảy. Tất nhiên bà có thể làm điều đó ở Toronto nhưng Belle không muốn bứt bà ra khỏi đây. Hay có thể là chính Bell đang tự nói mình, cô cũng sợ bị bứt khỏi chỗ này.
Điều đầu tiên anh phải làm là sửa sang một vài phòng phù hợp để ngủ hơn là nhà bếp khi trời lạnh. Anh đuổi cổ mấy con chuột nhắt và thậm chí là chuột cống, chúng đã mò vào trong nhà tránh giá lạnh. Anh hỏi sao cô không mua một con mèo và nhận được một lời giải thích kỳ cục. Cô nói con mèo sẽ giết hết bọn chuột và kéo lê xác chúng để cô nhìn thấy, mà cô lại không thích cảnh đó tý nào. Anh để tâm vào việc nghe ngóng tiếng bẫy sập và vứt lũ chuột đi trước khi cô biết chuyện gì xảy ra. Sau đó anh giảng giải về đống giấy tờ chất đầy nhà bếp, nguy cơ cháy và cô đã đồng ý chuyển chúng nếu căn phòng phía trước khô ráo hơn. Đó trở thành công việc chính của anh. Anh mua máy sưởi và sửa các bức tường. Anh thuyết phục cô dành ra hơn nửa tháng để dỡ đống giấy tờ xuống, xem lại và xếp chúng vào những cái giá anh đã đóng.
Cô cho biết các giấy tờ đó là bản thảo cuốn sách của cha cô. Đôi khi cô gọi nó là một cuốn tiểu thuyết. Anh không nghĩ đến việc hỏi bất cứ điều gì về nó nhưng một hôm cô nói với anh cuốn sách có hai nhân vật tên là Matilda và Stephen. Một cuốn tiểu thuyết lịch sử.
– “Anh có nhớ môn lịch sử không?” – Anh đã hoàn tất năm năm trung học với điểm số cao và có khả năng thiên phú về môn lượng giác và địa lý nhưng không nhớ nhiều về lịch sử. Vào năm học cuối, tất cả những gì mọi người có thể nghĩ là chuẩn bị ra trận.
Anh nói: Không hẳn.
– Anh sẽ nhớ lại được nếu đi đến Tu viện Strawn. Anh hẳn muốn nghẹn cả cổ. Dù sao đó cũng là lịch sử nước Anh.
Cô nói Stephen là một anh hùng. Một người đàn ông của danh dự, quá tốt vào thời đó. Ông là người hiếm hoi không vơ váo cho mình hoặc tìm cách nuốt lời nếu có dịp. Do đó, cuối cùng ông đã không thành công.
Và tiếp theo là nhân vật Matilda. Cô ấy là một hậu duệ trực tiếp của William Người Chinh phục[3], độc ác và kiêu căng như bạn có thể hình dung. Dẫu vậy, sẽ có người vẫn ngu ngốc đứng ra bênh vực chỉ vì ả ta là một phụ nữ.
– Nếu ba viết xong được, nó sẽ là một cuốn tiểu thuyết rất hay.
Tất nhiên Jackson không ngốc. Ạnh biết các cuốn sách tồn tại bởi có người ngồi xuống và viết. Chúng không xuất hiện một cách bất ngờ. Nhưng tại sao chúng lại xuất hiện, đó là câu hỏi. Có rất nhiều cuốn sách trùng lặp nhau. Anh có đọc hai quyển như vậy ở trường. Câu chuyện hai thành phố (1) và Huckleberry Finn (2), quyển nào cũng thu hút anh với ngôn từ riêng của nó dù theo những cách khác nhau. Và điều đó có thể hiểu được. Chúng được viết ra trong quá khứ. Mặc dù không định nói ra nhưng điều làm anh bối rối là tại sao bây giờ lại có người muốn ngồi xuống và đóng vai người khác. Lúc này đây.
– Một bi kịch – Belle nói khô khan, và Jackson không biết cô ám chỉ ba cô hay những nhân vật trong cuốn sách còn dang dở. Dù sao, bây giờ căn phòng này đã có thể ở được, anh bắt đầu chú ý đến mái nhà. Thật phí công nếu sửa sang lại một căn phòng và mái mà chỉ sử dụng trong một hay hai năm. Anh đã lợp lại mái và cô có thể yên tâm trong vài mùa đông tới. Nhưng anh không thể đảm bảo cho những năm sau nữa. Và anh vẫn có kế hoạch tiếp tục hành trình khi Giáng sinh đến.
Các gia đình Mennonites ở trang trại kế bên có nhiều cô gái lớn tuổi và các cậu thiếu niên mà anh đã nhìn thấy, họ không đủ khỏe để đảm đương việc nặng. Jackson đã làm thuê cho họ trong vụ thu hoạch. Anh được mời cùng ăn với họ và ngạc nhiên thấy các cô gái tỏ ra phấn khích khi dọn món cho anh, họ không hoàn toàn nín lặng như anh nghĩ. Anh nhận thấy các bà mẹ luôn trông chừng họ, còn các ông bố thì canh chừng anh. Tất cả đều trong vòng kiểm soát.
Và tất nhiên không phải nói gì về Belle. Anh phát hiện ra cô lớn hơn anh tận 16 tuổi. Đề cập đến sự chênh lệch này, thậm chí chỉ là đùa, sẽ làm hỏng mọi thứ. Cô và anh thuộc hai kiểu người khác nhau.
Khi cần mua sắm, họ tới thị trấn Oriole, ngược hướng với thị trấn nơi anh lớn lên. Anh buộc chặt ngựa trong chuồng của Nhà thờ vì tất nhiên trên các phố chính không còn những cột buộc ngựa nữa. Lúc đầu, anh khá dè dặt với cửa hiệu bán đồ sửa chữa gia dụng và tiệm hớt tóc. Nhưng anh sớm nhận ra điều gì đó về các thị trấn nhỏ – giống như thị trấn anh từng lớn lên. Họ không có gì nhiều để gây chuyện, trừ khi có các trận bóng chày hoặc khúc côn cầu phải đấu thêm hiệp phụ, lúc đó sự cuồng nhiệt tạo ra một kiểu thù địch. Họ tìm lên thành phố mỗi khi cần mua thứ gì đó không có sẵn tại các cửa hàng thị trấn. Cũng như vậy, họ sẽ tìm đến một bác sỹ ở thành phố khi không muốn đến các phòng khám quen thuộc của thị trấn. Anh không bắt gặp người quen nào và không có ai tỏ ra tò mò về sự có mặt của anh, mặc dù họ có thể nhìn con ngựa hai lần. Trong những tháng mùa đông, thậm chí chẳng ai nhìn ngó đến con ngựa, bởi vì những con đường không được cào tuyết và mọi người bận bịu mang sữa tới xưởng làm bơ hoặc trứng đến hiệu tạp hóa.
Belle luôn dừng lại để tìm hiểu bộ phim nào đang được chiếu mặc dù cô không có ý định đi xem dù chỉ một trong số đó. Kiến thức về phim ảnh và các ngôi sao điện ảnh của cô khá tốt nhưng toàn là thông tin của những năm trước. Ví dụ cô có thể cho bạn biết ngoài đời thực Clark Gable (diễn viên nam chính phim Cuốn theo chiều gió) đã kết hôn với ai trước khi trở thành Rhett Butler.
Jackson đi hớt tóc khi cần và mua thuốc lá khi hết.  Giờ anh hút như một nông dân, tự cuộn thuốc cho mình và không bao giờ châm thuốc trong nhà.
Trong một thời gian, xe cũ không có bán sẵn. nhưng khi chúng xuất hiện trở lại, với những xe mới nhất trình làng và những người nông dân kiếm tiền theo cách sẵn sàng biến chúng thành những chiếc xe cũ, anh đã bàn với Belle. Có Chúa mới biết con ngựa Tàn nhang đã bao nhiêu tuổi và bướng bỉnh ra sao khi leo đồi.
Anh nhận thấy ông đại lý xe hơi để ý đến mình, dù anh mới qua một lần.
“Tôi luôn nghĩ rằng anh và em gái anh thuộc nhóm Tin lành nhưng trang phục của họ lại khác” – ông đại lý nói.
Điều ông ta lầm tưởng khiến Jackson hơi choáng váng nhưng cũng khả dĩ hơn việc anh và cô bị nhầm là một cặp. Điều đó khiến anh nhận ra mình đã già dặn và thay đổi theo tháng năm, rằng dấu vết của người lính gầy gò, hoảng loạn nhảy tàu lúc trước đã không còn nhận ra được trong người đàn ông hiện tại. Trong khi đó, Belle, như anh có thể thấy đến thời điểm này, đã ngưng lớn tại một cột mốc thời gian nào đó và cô giữ nguyên dáng vẻ một đứa trẻ già dặn. Cách nói chuyện của cô càng củng cố thêm ấn tượng này: chuyện nọ xọ chuyện kia, quá khứ xen lẫn hiện tại. Dường như cô không nhận thấy sự khác biệt giữa chuyến đi vào thị trấn gần đây nhất của họ với lần xem phim cuối cùng với ba và mẹ cô, hay lần gặp mặt hài hước khi Margaret Rose, giờ đã chết, dứ dứ đôi sừng vào một Jackson đầy lo lắng.
Mùa hè năm 1962, họ đến Toronto trên chiếc xe hơi thứ hai của mình. Đó là một chuyến đi ngoài dự tính và không được đúng lúc lắm với Jackson. Một mặt, anh đang xây chuồng ngựa mới cho hội Tin lành, những người bận rộn với các loại cây trồng. Mặt khác anh phải chuẩn bị thu hoạch rau và dự định bán cho cửa hàng ở Oriole. Nhưng Belle có một khối u và rút cuộc bị thuyết phục cần phải để tâm đến nó. Và giờ đây cô được xếp lịch mổ tại Toronto.
Belle tiếp tục nói – nhiều thay đổi quá. Phải chăng chúng ta vẫn đang sống tại Canada ?
Đó là trước khi họ đi qua Kitchener. Một lần họ đang lái xe trên một đường cao tốc mới, cô đã thực sự lo lắng, cầu khẩn anh tìm một con đường phụ hoặc rẽ lối khác và trở về nhà. Anh thấy mình sẵng giọng với cô – bản thân anh cũng ngạc nhiên vì giao thông ở đây. Cô im lặng suốt trên quãng đường còn lại và anh không có cách nào để biết liệu cô có nhắm mắt bỏ cuộc hay cầu nguyện. Anh chưa bao giờ thấy cô cầu nguyện.
Thậm chí sáng nay cô cố gắng khiến anh thay đổi ý nghĩ về chuyện ra đi. Cô nói khối u đang nhỏ lại chứ không to ra nữa. Do mọi người giờ đều có bảo hiểm y tế, cô tiếp, chả ai thèm làm gì trừ việc chạy tới bác sĩ và làm cuộc sống của họ thành một bộ phim bi thương dài về bệnh viện và phẫu thuật. Tất cả những cái đó chả có tác dụng gì ngoài việc kéo dài giai đoạn phiền toái vào cuối đời.
Cô bình tĩnh lại và phấn khởi hẳn lên khi họ đến ngã rẽ và thực sự vào trong thành phố. Họ thấy mình trên Đường Đại lộ, và thay vì thốt lên  mọi thứ đã thay đổi, cô dường như nhận ra điều gì đó trên mọi tòa nhà cô từng biết. Có một tòa chung cư nơi một giáo viên của Tu viện Stawn đã sinh sống (Strawn chỉ là phát âm, lý ra phải Strachan như cô đã nói với anh). Tại tầng hầm có một tiệm hàng nơi bạn có thể mua sữa và thuốc lá và báo. Chẳng kỳ lạ sao- cô nói – nếu anh vào đó và vẫn tìm thấy tờ báo Telegram, trên đó không chỉ có tên mà còn có cái hình mờ mờ của ba tôi chụp khi ông còn trẻ.
Sau đó cô khóc một chút, và ở dưới một con phố cô nhìn thấy nhà thờ – cô có thể thề chính là nhà thờ đó – nơi cha mẹ cô đã tổ chức hôn lễ. Họ đã đưa cô đến đó để chỉ cho cô thấy mặc dù họ không phải là giáo dân của nhà thờ đó. Họ không đi bất cứ nhà thờ nào xa hơn. Ba cô cho biết hôn lễ diễn ra tại tầng hầm nhưng mẹ cô lại nói là phòng lễ.
Mẹ cô có thể nói chuyện sau đó, lúc bà còn có thể nói. Có lẽ vào thời điểm đó có một đạo luật khiến bạn cần kết hôn tại một nhà thờ, nếu không hôn lễ của bạn sẽ trở nên bất hợp pháp.
Tại Eglinton cô nhìn thấy bảng tàu điện ngầm.
– Nào nghĩ đi, tôi chưa bao giờ được đi trên một chuyến tàu điện ngầm nào.
Cô nói điều này với một vẻ đau đớn xen lẫn với tự hào.
– Tưởng tượng mọi thứ còn lại thật xa lạ.
Bệnh viện đã chuẩn bị sẵn sàng tiếp nhận cô. Cô tiếp tục tỏ ra hoạt bát, nói với họ về sự kinh sợ của mình đối với giao thông và về những thay đổi, tự hỏi nếu vẫn còn có một chương trình biểu diễn như vậy vào dịp Giáng sinh tại cửa hàng của Eaton. Và còn ai nhớ tờ báo Telegram?
– Hai người nên lái xe qua khu phố Tàu – một y tá nói. Bây giờ khu đó thú vị đấy
– Tôi mong được nhìn thấy nó trên đường về nhà – cô cười và nói- Nếu tôi về được.
– Ồ chị đừng có nghĩ ngợi lung tung.
Một y tá khác đang nói chuyện với Jackson về chỗ nên đậu xe, và nói cho anh nơi để di chuyển nó để không bị phạt. Anh này cũng cho anh biết những nhà trọ dành cho khách vãng lai có giá mềm hơn hẳn so với khách sạn.
Họ nói giờ Belle nên nằm xuống giường. Một bác sĩ sẽ đến xem xét bệnh tình và Jackson có thể quay lại sau để chúc cô ngủ ngon. Họ cho biết lúc đó cô sẽ hơi mơ màng buồn ngủ.
 Cô nghe được và nói cô luôn luôn mơ màng nên anh sẽ không ngạc nhiên, và cô cất tiếng cười khẽ.
Người y tá đưa anh ký lên thứ gì đó trước khi anh rời phòng. Anh ngập ngừng ở mục hỏi về quan hệ với bệnh nhân. Sau đó anh ghi “bạn bè”.
Buổi tối khi anh quay lại, anh đã thấy một sự thay đổi mặc dù anh không có ý miêu tả Belle đang mơ màng. Họ mặc cho cô bộ quần áo màu xanh lùng thùng, để lộ cổ và hai cánh tay. Anh hiếm khi nhìn thấy cô lộ trần nhiều như vậy, hoặc nhận thấy các sợi gân xanh khô cứng nằm dài giữa xương đòn và cằm.
Cô tức giận vì miệng khát khô.
– Họ không để lại cho tôi thứ gì ngoại trừ mấy hớp nước.
Cô muốn anh đi kiếm cho cô một lon Coca, thứ đồ uống- theo anh biết- cô chưa bao giờ được thưởng thức trong đời.
– Dưới sảnh có một cái máy – hẳn là lấy Coca ở đấy. Tôi thấy mọi người đi qua với một cái  chai trong tay. Điều đó làm tôi khát khô cả cổ.
Anh nói không thể làm trái với yêu cầu của bác sỹ.
Nước mắt ứa ra, cô bực tức quay đi.
– Tôi muốn về nhà
– Sẽ sớm thôi mà.
– Anh có thể giúp tôi tìm quần áo của tôi
– Không, tôi không thể.
– Nếu anh không làm thì tôi sẽ làm. Tôi sẽ tự đi đến ga xe lửa.
– Không còn bất kỳ tàu chở khách nào cho tuyến đường của chúng ta nữa.
Đột ngột sau đó, cô có vẻ từ bỏ kế hoạch tẩu thoát của mình.
Trong một khoảnh khắc cô bắt đầu nhớ lại ngôi nhà và tất cả những sự sửa chữa mà họ –  hoặc chủ yếu là anh – đã tiến hành. Bên ngoài nhà sơn màu trắng sáng và thậm chí phía sau nhà bếp cũng được quét vôi trắng và lắp thêm tấm ván sàn. Mái nhà được lợp lại và các  cửa sổ lấy lại được dáng vẻ cũ của chúng. Và hơn hết hệ thống ống nước là một niềm vui trong mùa đông.
– Nếu không có anh đến, tôi sớm sẽ phải sống trong cảnh bần hàn bẩn thỉu.
Anh không nói lên ý kiến ​​của mình rằng cô quả đã từng sống như vậy.
– Khi mổ xong, tôi sẽ viết di chúc – cô nói. Tất cả là của anh. Công sức của anh sẽ không bị lãng phí.
Tất nhiên anh có nghĩ về điều này, và anh có thể hy vọng rằng triển vọng về quyền sở hữu sẽ mang lại cho anh một sự hài lòng đúng mực, dù đáng lẽ anh cần bày tỏ niềm hy vọng một cách trung thực và thân mật rằng không có gì xảy ra quá sớm. Nhưng không. Dường như tất cả chả là gì với anh, tất cả đều ở rất xa.
Cô lại băn khoăn
– Ồ, tôi ước là đang ở nhà chứ không phải ở đây.
– Chị sẽ cảm thấy khỏe hơn nhiều lúc tỉnh dậy sau ca phẫu thuật
Mặc dù từ những gì anh nghe được, đó chỉ là một lời nói dối trơ trẽn. Đột nhiên anh cảm thấy rất mệt mỏi.
Anh đã tiến gần với sự thật hơn anh có thể đoán. Hai ngày sau khi cắt bỏ khối u, Belle ngồi trong một căn phòng khác, háo hức được chào đón anh và không phiền lòng chút nào vì những tiếng rên phát ra từ một người phụ nữ phía sau bức màn ở giường bên cạnh. Ít nhiều giống cô – Belle –  vào ngày hôm qua, khi anh không bao giờ buộc cô mở mắt hay chú ý tới anh cả.
– Đừng để ý đến bà ta – Belle nói. Bà ấy hoàn toàn khỏe rồi. Có thể chưa cảm nhận được một điều gì. Ngày mai bà ấy sẽ đi lại, tươi tắn như đồng xu. Hoặc có thể không hồi phục.
Có có dáng vẻ tự mãn, sự nhẫn tâm của một cựu chiến binh. Cô đang ngồi trên giường và nuốt một số loại thức uống sáng màu da cam qua một ống hút cong. Cô trông trẻ hơn rất nhiều so với người phụ nữ anh đã mang đến bệnh viện mấy ngày trước.
Cô muốn biết liệu anh có ngủ được đủ giấc, liệu anh tìm thấy chỗ ăn uống thích hợp, và thời tiết có quá ấm khiên anh không thể đi bộ. Cô muốn biết anh có thời gian để ghé thăm Bảo tàng Hoàng gia Ontario, như cô đã khuyên không.
Nhưng cô không thể tập trung vào những câu trả lời của anh. Cô dường như trong trạng thái bên trong của sự ngạc nhiên. Ngạc nhiên được kiểm soát.
– À tôi phải nói với anh – cô nói, đi thẳng vào lời giải thích lý do tại sao anh chưa đến được bảo tàng.
 – Ồ, đừng có căng thẳng như vậy. Vẻ mặt như thế của anh sẽ khiến tôi phá lên cười và như vậy sẽ ảnh hưởng đến vết khâu. Tuy nhiên, tại sao tôi lại không suy nghĩ về nụ cười trên đời này chứ? Đó thực sự là một điều đáng buồn khủng khiếp, một thảm kịch. Anh có biết về cha tôi, những gì tôi đã nói với anh về cha tôi …
Điều anh nhận thấy là cô gọi cha thay vì ba.
– Cha tôi và mẹ tôi…
Cô dường như phải tìm kiếm cái gì xung quanh và  tiếp tục.
– Hình dáng của ngôi nhà vốn khả dĩ hơn lần đầu tiên anh nhìn thấy nó. Ừ nó vậy đấy. Chúng tôi sử dụng căn phòng ở gác hai, đầu cầu thang làm nhà tắm. Tất nhiên chúng tôi phải lên xuống gác để xách nước. Chỉ sau này, lúc anh tới, tôi mới sử dụng tầng hầm. Anh có biết nó từng là kho thực phẩm với những cái giá trong đó?
Làm sao cô có thể không nhớ việc anh đã tháo các kệ ra và đặt chúng trong phòng tắm? Chính anh là người đã làm điều đó.
– Tốt thôi, vậy thì sao nào? – cô nói, như thể đang trôi theo dòng suy nghĩ của anh. – Vậy nên tôi đun nước và xách lên lầu để kỳ cọ thân thể bằng bọt biển. Và tôi trút bỏ tất cả quần áo của mình. Đúng thế. Có một tấm gương lớn trên bồn rửa. Anh thấy là nó  có một bồn rửa như một phòng tắm thực sự khi anh rút phích cắm và đổ nước lại vào thùng khi tắm xong. Nhà vệ sinh ở nơi khác. Anh hình dung ra rồi. Vậy, tôi rửa ráy và tất nhiên là cởi bỏ quần áo. Lúc đó khoảng 9h đêm vì vậy có nhiều ánh đèn. Tôi đã nói là vào mùa hè phải không? Và rằng căn phòng nhỏ đó trông ra hướng Tây?
– Sau đó, tôi nghe tiếng bước chân và tất nhiên đó là ba. Cha tôi. Hẳn ông đã xong công đoạn đưa mẹ đi ngủ. Tôi nghe thấy các bước chân lên gác và nhận thấy chúng vang to. Phần nào không bình thường. Đầy chủ ý. Hoặc có thể đó chỉ là ấn tượng của tôi sau đó. Anh có thể bi kịch hóa vấn đề sau đó. Tiếng chân dừng lại ngay bên ngoài cửa phòng tắm và nếu tôi phải nghĩ điều gì đó, tôi nghĩ: ồ ông ấy chắc phải rất mệt mỏi. Tôi không cài then cửa vì tất nhiên là phòng không có then cài cửa. Anh chỉ giả định có ai đó trong phòng nếu cửa được khép lại.
– Như vậy, ông đứng bên ngoài cửa; tôi không nghĩ bất cứ điều gì tới chuyện đó và rồi ông mở cửa. Ông chỉ đứng và nhìn tôi. Và tôi phải nói điều định nói. Ông nhìn toàn bộ cơ thể tôi chứ không chỉ riêng khuôn mặt. Mặt tôi in lên trên gương và ông nhìn tôi qua gương, từ phía sau cơ thể và tôi không thể nhìn thấy ông. Đó hoàn toàn không phải một cái nhìn bình thường.
– Tôi sẽ cho anh biết những gì tôi nghĩ. Tôi nghĩ ông ấy đang mộng du. Tôi không biết phải làm gì, bởi vì bạn không nên làm ai đó trong cơn mộng du phải giật mình.
Nhưng sau đó ông nói: “Xin lỗi!” và tôi biết ông không mơ ngủ. Tuy nhiên, ông nói bằng một kiểu giọng hài hước, ý tôi là giọng lạ lùng. Kiểu như ông ghét bỏ tôi. Hoặc giận tôi, tôi cũng không biết nữa. Sau đó, ông để cửa mở và đi xuống sảnh. Tôi lau khô người, mặc bộ áo ngủ, lên giường nằm và ngủ ngay lập tức. Khi tôi thức dậy vào buổi sáng, tôi thấy chỗ nước đã bị rút cạn. Tôi không muốn đến gần, nhưng chả hiểu sao tôi đã làm.
– Nhưng tất cả mọi thứ có vẻ bình thường và ông đã lên gõ máy chữ. Ông chỉ nói to chào buổi sáng và sau đó ông hỏi tôi cách đánh vần một số từ. Điều ông thường làm vì tôi đánh vần tốt hơn ông. Vì vậy, tôi đã giúp ông và sau đó tôi nói rằng ông cần học đánh vần nếu ông cho mình là một nhà văn, ông có vẻ tuyệt vọng. Nhưng lúc sau, khi tôi đang rửa đĩa chén, ông đã đến ngay sau lưng tôi: người tôi đông cứng lại. Ông chỉ nói: “Belle, bố xin lỗi!” Và tôi nghĩ, ồ, tôi mong là ông không thốt ra lời xin lỗi. Nó làm tôi sợ. Tôi biết bố thực sự hối lỗi nhưng ông đã nói lời xin lỗi công khai theo cách mà tôi không thể ngơ đi. Tôi chỉ nói: “Không sao đâu bố” nhưng tôi không thể khiến bản thân thốt ra những lời đó với một giọng dễ dàng tuồng như thực sự là không sao.
– Tôi không thể. Tôi phải để bố biết ông đã thay đổi chúng tôi. Tôi đi ra trút bỏ nước rửa bát và sau đó tôi quay trở lại với bất cứ điều gì khác tôi đang làm và không nói một lời. Sau đó tôi lay mẹ dậy sau một giấc ngủ ngắn và nấu xong bữa tối. Tôi gọi bố nhưng ông không tới ăn. Tôi nói với mẹ hẳn ông ra ngoài đi dạo. Ông thường làm thế khi mạch viết bị tắc. Tôi giúp mẹ cắt thức ăn.
– Tôi không biết ông đi đâu. Tôi đưa mẹ lên giường mặc dù đó là công việc của bố. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng tàu hỏa lăn tới và cùng lúc là chấn động và tiếng phanh kít vang trời. Và tôi biết chắc điều gì đã xảy ra mặc dù  không nhớ chính xác khi nào tôi biết được điều đó.
– Tôi đã nói với anh lúc trước. Tôi đã nói ông bị tàu hỏa cán.
– Nhưng tôi không nói với anh điều này, điều làm tôi đau lòng. Lúc đầu, tôi không thể chịu đựng và thực ra trong thời gian dài nhất tôi đã sai khiến đầu óc rằng ông đang đi dọc theo đường tàu với công việc trong tâm trí và không nghe thấy con tàu lao tới. Được rồi, đó là tất cả câu chuyện. Tôi sẽ không nghĩ rằng đó là vì chuyện của tôi hay thậm chí về điều căn bản nhất. Tình dục.
Dường như chỉ lúc này tôi mới thực sự hiểu vấn đề và đó không phải lỗi của ai. Đó là lỗi của tình dục trong một tình huống bi thảm. Tôi lớn lên ở đó và mẹ theo cách của bà và ba theo cách tự nhiên của ông. Không phải là lỗi của tôi, cũng không phải lỗi của ông.
– Tất cả những gì tôi muốn nói, là phải thừa nhận có những nơi mọi người có thể đến nếu họ mắc phải một tình huống. Và không phải xấu hổ hay tội lỗi về điều đó. Nếu anh nghĩ tôi muốn nói đến nhà chứa, anh đã đúng. Cũng lại đúng nếu anh nghĩ tới gái mại dâm. Anh có hiểu không?
Nhìn qua đầu cô, Jackson nói có.
– Tôi cảm thấy rất thanh thản. Không phải  tôi không cảm nhận được bi kịch, nhưng theo một cách tôi đã đứng ở ngoài thảm kịch, ý tôi là vậy. Nó chỉ là những sai lầm của nhân loại mang tính bi thảm, nếu anh hiểu ý tôi. Anh đừng cho là tôi không có lòng từ bi nếu tôi đang mỉm cười. Tôi có lòng trắc ẩn lớn lao. Nhưng tôi phải nói rằng tôi khuây khỏa hơn. Cùng lúc, tôi phải nói rằng tôi lại cảm thấy hạnh phúc. Những lời này không làm anh bối rối chứ?
– Không
– Anh nhận thấy tôi đang ở trong một trạng thái hơi bất thường. Tôi biết mình đang ở trạng thái ấy. Bất thường rõ ràng. Ý tôi là trong mọi thứ. Tất cả mọi thứ rất rõ ràng. Tôi rất vui vì điều đó.
Người phụ nữ trên giường không ngừng rên rỉ suốt cuộc nói chuyện của họ. Jackson cảm thấy như điệp khúc đó đã đi vào trong đầu anh.
Anh nghe tiếng giày nhẹ của y tá trong sảnh và hy vọng họ sẽ vào phòng. Họ đã vào.
Cô y tá nói phải cho Belle uống thuốc ngủ theo thời gian. Anh sợ cô đề nghị anh hôn từ biệt. Theo như anh nhận thấy, trong bệnh viện người ta rất hay ôm hôn nhau. Anh vui mừng khi đứng lên mà không  phải nghe lời đề nghị như vậy.
– Hẹn gặp lại chị vào ngày mai.
Anh dậy sớm, và quyết định tản bộ trước khi ăn sáng. Anh ngủ rất ngon giấc nhưng tự nhủ phải lánh xa cái không khí bệnh viện. Không phải vì anh lo quá nhiều vì sự thay đổi trong Belle. Anh nghĩ nhiều khả năng hôm nay hoặc vài ngày tới cô sẽ trở lại bình thường. Cô thậm chí còn không thể nhớ câu chuyện đã nói với anh. Đó sẽ là một phước lành.
Mặt trời lên cao như ta có thể trông đợi tại thời điểm này trong năm; xe buýt và xe điện  đã khá đông người. Anh đi về phía Nam một chút, sau đó rẽ hướng Tây vào phố Dundas, và một lúc sau thấy mình đang ở trong khu phố Tàu mà anh đã nghe đã nhắc đến. Hàng đống rau, loại biết tên lẫn không biết, chất đầy trong các cửa hiệu, và các con vật nhỏ, gầy, dường như ăn được, treo bán lủng lẳng. Đường phố đầy xe tải đậu trái phép và những người Tàu ồn ã. Tất cả những tiếng la the thé nghe như có một cuộc chiến, nhưng có lẽ đối với họ đó chỉ là cơm bữa. Tuy nhiên anh có cảm giác như bị lạc đường. Anh tạt vào một nhà hàng Trung Quốc nhưng quảng cáo phục vụ ăn sáng bình thường gồm trứng và thịt xông khói. Khi ra khỏi quán, anh định quay lại lần theo cung đường đã đi.
Nhưng thay vào đó anh thấy mình đang tiến về hướng Nam một lần nữa. Anh đi vào một phố dân cư với những ngôi nhà cao và hẹp bằng gạch. Chúng hẳn được xây trước khi mọi người trong khu vực thấy cần có đường để lái xe hoặc có thể thậm chí trước khi họ có xe ô tô. Trước khi có những thứ như xe hơi xuất hiện.  Anh đi tới khi nhìn thấy biển báo phố Queen mà anh từng nghe nói. Anh lại rẽ sang phía tây và sau khi đi qua một vài tòa nhà, anh bị ách lại. Anh len vào một đám người tập trung trước một cửa hàng bánh. Họ bị chiếc xe cứu thương – đỗ ngay trên lối đi bộ – chiếm mất đường đi lại. Một số người đang phàn nàn vì trễ giờ và hỏi to liệu đỗ xe cứu thương trên lối đi bộ là đúng luật không. Một số khác trông ôn hòa hơn, trao đổi với nhau về những khả năng xảy ra. Thương vong được nhắc tới, một số người đứng xem nói về những ai có thể thiệt mạng và những người khác cho đấy là lý do hợp pháp duy nhất để chiếc xe có thể đậu tại đó.
Rốt cuộc thì người đàn ông cũng được khiêng ra trên cáng. Ông rõ ràng chưa chết, nếu không người ta đã phủ khăn lên mặt. Ông không được khiêng ra qua cửa hàng bánh, như một số người đã bông đùa dự đoán – đó là một sự kiểm tra chất lượng của bánh rán – nhưng qua cổng chính của tòa nhà. Đó là một tòa nhà 5 tầng bằng gạch. Tầng trệt là hiệu giặt và tiệm bánh. Cái tên khắc trên cửa chính gợi lên niềm tự hào cũng như một số điều điên rồ trong quá khứ của nó .
Bonnie Dundee.
Một người đàn ông không mặc áo cứu thương ra cuối cùng. Anh ta đứng đó, bực tức nhìn đám đông đang tính chuyện giải tán. Điều duy nhất phải chờ đợi bây giờ là tiếng kêu inh ỏi của xe cứu thương khi tìm thấy đường của nó trên phố và lao đi.
Jackson là một trong những người không bận tâm đến chuyện phải đi tiếp. Anh không tò mò chút nào về chuyện này, hơn là chuyện chỉ đang đợi chỗ rẽ không thể tránh được mà anh mong đợi, chỗ rẽ đưa anh trở lại nơi anh xuất phát. Người đàn ông cuối cùng ra khỏi tòa nhà  đi ngang qua và hỏi anh có vội không.
Không. Không vội lắm.
Đó là ông chủ tòa nhà. Người được khiêng lên xe cứu thương là người phụ trách bảo trì và quản lý.
– Tôi cần tới bệnh viện để xem ông ấy có việc gì không. Hôm qua mọi chuyện vẫn suôn sẻ. Không có gì phải phàn nàn. Theo như tôi biết, chả có ai gần đây để có thể nhờ cậy. Tệ nhất là tôi không thể tìm thấy chùm chìa khóa. Không thấy trên người ông ấy và tôi cũng không biết chúng thường được cất ở đâu. Vậy tôi phải về nhà và lấy chùm dự phòng và tự hỏi: anh có thể trông giúp tôi một lúc không? Tôi phải về nhà và qua bệnh viện nữa. Tôi có thể nhờ một trong số người thuê nhà nhưng chỉ là không thích, nếu anh biết tôi định nói gì. Bản tính tọc mạch hay cái gì đó tương tự. Ông ta hỏi lại một lần nữa liệu Jackson có cảm thấy phiền toái và anh nói không sao.
– Chỉ cần để mắt mọi người ra vào tòa nhà và yêu cầu họ giơ chìa khóa cho anh xem. Nói với họ đây là trường hợp khẩn cấp nhưng sẽ không kéo dài.
Ông ta bước đi rồi quay lại.
– Anh có thể ngồi.
Jackson không để ý có một cái ghế. Nó được gấp lại và đẩy ra khỏi đường để xe cứu thương có chỗ đậu. Nó chỉ bằng vải nhưng đủ vững và thoải mái. Jackson thầm cảm tạ, đặt nó xuống một chỗ không làm vướng người qua đường hoặc cư dân tòa nhà. Chả ai chú ý đến anh. Anh bắt đầu nhớ tới bệnh viện và việc anh phải trở lại đó trước khi vắng mặt quá lâu. Nhưng người đàn ông đó vội quá, và ông đã có đủ thứ phải lo nghĩ rồi. Anh kết luận sẽ trở về nhanh nhất có thể.
Khi đã ngồi xuống Jackson nhận ra anh đã đi bộ quá xa khỏi khách sạn.
Người đàn ông đã nói với anh nếu muốn hãy yêu cầu một tách cà phê hoặc một thứ đồ ăn tại cửa hàng bánh.
– Chỉ cần nói tên tôi với họ.
Nhưng Jackson thậm chí không biết tên ông ta.
Khi người chủ nhà trở lại, ông xin lỗi vì về trễ. Thực tế là người đàn ông được đưa đi  cấp cứu đã qua đời. Cần sắp xếp lại mọi thứ. Cần đánh một bộ khóa mới. Chúng đây rồi. Những người thuê nhà lâu năm sẽ tham dự tang lễ. Bản cáo phó có thể được đưa tới trong chốc lát. Một loạt rắc rối dù nó đã giải quyết xong.
 Vấn đề giải quyết được nếu Jackson có thể giúp. Tạm thời. Chỉ là tạm thời.
Jackson nói: được thôi.
Sẽ thu xếp được nếu anh cần thêm một chút thời gian. Ngay sau tang lễ và thu xếp đồ. Một vài ngày sau đó anh có thể sắp đặt công việc và chuyển tới tòa nhà.
– Điều đó không cần thiết – Jackson nói. Đồ vật của anh dồn cả một nơi với nhau còn tài sản thì nằm gọn trên lưng.
Đương nhiên điều này dấy lên một chút nghi ngờ. Một vài ngày sau, Jackson không hề ngạc nhiên khi biết rằng ông chủ mới này đã tới đồn cảnh sát. Nhưng mọi việc có vẻ tốt đẹp. Anh xuất hiện như là một trong những gã cô đơn, có thể đắm mình quá sâu trong cô độc theo cách này hay cách khác nhưng không phải kẻ vi phạm pháp luật.
Có vẻ như không phải tiến hành điều tra gì cả.
Theo một thói quen, Jackson thích những người lớn tuổi hơn trong tòa nhà. Và theo quy luật của những người độc thân. Không phải những kẻ vô hồn. Những người có quyền lợi. Tài năng. Loại tài năng đã được ghi nhận, từng giúp kiếm sống nhưng không đủ để theo đuổi cả đời. Một phát thanh viên radio nổi tiếng trong thời kì chiến tranh nhưng giờ bị đứt dây thanh quản. Hầu hết mọi người tin rằng ông đã chết. Nhưng ông sống ở đây trong căn hộ độc thân, cập nhật tin tức và đặt tờ Globe and Mail, tờ báo ông thường đưa cho Jackson trong trường hợp có thông tin gì đó làm anh quan tâm.
Đã có bản tin như thế này.
Marjorie Isabella Treece (thường gọi là Belle) con gái của Willard Treece, ký giả lâu năm phụ trách chuyên mục cho tờ Toronto Telegram, và vợ, bà Helena Treece (nhũ danh Abbott), đã qua đời sau một cuộc chiến dũng cảm với bệnh ung thư. Báo Oriole chép. Ngày 18 tháng 7 năm 1965.
Tin không đề cập đến nơi cô đang sống. Có lẽ ở Toronto. Cô đã dai dẳng hơn anh dự tính. Anh không có một giây phút nào hình dung ra những việc cần làm nếu ở địa vị của cô. Anh không phải hình dung – những điều như vậy thường được khơi gợi trong mơ, và anh có cảm giác bực tức hơn là khát khao, như thể anh phải tìm kiếm một công việc không bao giờ kết thúc được.
Trong tòa nhà Bonnie Dundee, cần phải quan tâm đến những người thuê nhà vì anh đảm nhiệm trông coi khuôn viên và các căn hộ mà cánh phụ nữ gọi là tổ ấm của họ. (Cánh đàn ông thường không dễ dàng với bất cứ việc sửa chữa nâng cấp vì điều đó đồng nghĩa với việc tăng tiền thuê nhà). Anh thể hiện sự tôn trọng khi nói chuyện với họ, đưa ra đề xuất hợp lý, và căn hộ sẽ được đưa vào danh sách chờ sửa chữa. “Chúng ta có thể lấp đầy tòa nhà, không cần bất cứ gã dở hơi nào cả” – ông chủ nhà bình luận. Nhưng Jackson chỉ ra rằng các gã dở hơi như ông gọi nói chung ngăn nắp hơn mức trung bình, hơn nữa họ chỉ là thiểu số. Có một quý bà đã từng chơi cho Dàn nhạc giao hưởng Toronto. Một nhà phát minh đã đổ hết tiền của vào một trong những phát minh của mình và vẫn không từ bỏ mặc dù đã hơn tám mươi. Một diễn viên tị nạn Hungary có âm giọng không được ưa chuộng nhưng vẫn kinh doanh đâu đó trên thế giới. Tất cả họ đều cư xử đúng mực, ngay cả những người đến quán ba Epicure vào mỗi trưa và ở lại cho đến khi quán đóng cửa. Ngoài ra bạn bè họ thuộc số những người thực sự nổi tiếng để thăm hỏi, dù hiếm hoi. Cũng không cần cầu Chúa vì điều đó: Bonnie Dundee có một nhà giảng thuyết tại gia, dù khiến nhà thờ phát run, nhưng luôn có thể làm lễ khi có yêu cầu.
Người ta thường ở lại cho tới khi cần đến sự giúp đỡ của anh.
Một ngoại lệ là cặp vợ chồng trẻ Candace và Quincy. Họ chưa bao giờ trả tiền thuê nhà và đã bỏ đi lúc nửa đêm. Tình cờ ông chủ nhà có mặt lúc họ đến tìm phòng và bào chữa cho việc nhận họ vào trọ bằng lý do cần có một khuôn mặt tươi mới. Khuôn mặt của Candace. Không phải khuôn mặt cậu bạn trai. Anh ta giống một kẻ thô lỗ cục súc.
Vào một ngày hè nóng nực, Jackson mở toang cửa sau, cửa giao hàng, để thông khí trong khi anh đánh bóng cái bàn. Đó là một cái bàn xinh xắn anh lấy được mà không mất đồng xu nào vì lớp véc-ni phủ đã tróc hết. Anh nghĩ có thể dùng kê nó ở lối vào, và để thư lên mặt bàn.
Anh có thể ra ngoài vì ông chủ nhà đang ở đây thu tiền thuê phòng.
Có ai đó khẽ bấm chuông. Jackson đã sẵn sàng đứng dậy, chùi sạch bàn chải vì anh nghĩ ông chủ đang bận tính toán và không muốn bị quấy rầy. Nhưng mọi việc đều ổn, anh nghe tiếng mở cửa, vẳng vào một giọng phụ nữ. Một giọng gần như kiệt sức, nhưng vẫn đầy sức quyến rũ, đảm bảo chắc chắn có thể thu phục bất cứ người nghe nào.
Có lẽ cô được thừa hưởng giọng nói từ cha mình, nhà truyền giáo. Anh nhớ đã nghĩ đến điều này trước đây.
Cô nói đây là địa chỉ cuối cùng cô có từ con gái. Cô đang tìm kiếm con bé. Candace. Cô đến từ British Columbia. Từ Kelowna, nơi cô và cha của Candace sống .
Ileane. Người phụ nữ đó là Ileane .
Anh nghe cô hỏi liệu cô có thể ngồi. Sau đó, chủ nhà kéo chiếc ghế của Jackson ra cho cô.
Toronto nóng hơn nhiều so với hình dung của cô mặc dù cô lớn lên ở Ontario.
Cô hỏi xem có thể uống một ly nước không.
Chắc hẳn cô cúi gục, vùi đầu trong đôi tay vì giọng nói của cô như bị bóp nghẹt. Ông chủ nhà đi ra sảnh và nhét ít tiền xu vào máy để lấy một lon 7-up. Có thể ông cho rằng nó nữ tính hơn một lon Coke.
Ông nhìn thấy Jackson đang lắng nghe từ góc phòng và ra hiệu là Jackson nên đến giải quyết. Anh giải quyết những người thuê quẫn trí tốt hơn. Nhưng Jackson lắc đầu dứt khoát. Không.
Cô không quẫn trí lâu.
Cô mong ông chủ nhà thứ lỗi và ông nói rằng nhiệt độ cao ngày hôm nay là thủ phạm của mọi thứ.
Bây giờ họ nói về Candace. Hai đứa đã rời đi được khoảng một tháng, có thể là ba tuần trước. Không có địa chỉ chuyển tiếp.
“Thường những trường hợp này là vậy… “
Cô hiểu ý.
“Ồ, tất nhiên là tôi có thể tìm ra …
Cô trả lời, lẩm bẩm và nghèn nghẹn. Sau đó, “Tôi nghĩ ông không thể cho phép tôi được xem căn hộ chúng đã sống … “
– Giờ người thuê đi vắng. Nhưng kể cả anh ta có nhà, tôi không nghĩ rằng anh ấy sẽ đồng ý.
– Vâng. Tôi đã đòi hỏi một điều ngớ ngẩn
– Cô còn muốn hỏi gì nữa không?
– Ồ không. Không. Ông thật tử tế. Tôi đã làm mất thời giờ của ông.
Cô đứng dậy và họ bước ra cửa. Rồi tiếng cánh cửa được mở ra và đường phố ồn ào  nuốt mất lời từ giã (nếu có) của cô.
Dù bị thất bại, cô vẫn toát lên dáng vẻ đầy duyên dáng.
Jackson rời khỏi góc khuất khi ông chủ nhà quay vào.
– Thật ngạc nhiên – đó là tất cả những gì ông ta nói. – Chúng ta đã thu được tiền nhà.
Ông là một người về căn bản không tọc mạch, ít nhất là về những chuyện riêng tư. Một điều mà Jackson đánh giá cao ở ông ta.
Tất nhiên anh muốn được gặp cô. Anh không có nhiều ấn tượng về đứa con gái. Tóc vàng nhưng nhiều khả năng là nhuộm. Không quá hai mươi mặc dù đôi khi trông già hơn. Rất phụ thuộc vào bạn trai. Bỏ nhà ra đi, chạy trốn các loại hóa đơn, làm trái tim bố mẹ tan nan vì một mảnh vải nhàu nhĩ, một gã bạn trai.
Kelowna ở đâu? Nơi nào đó phía tây. British Columbia. Một chặng đường dài để đi tìm. Tất nhiên cô là một phụ nữ kiên trì. Một người lạc quan. Có lẽ đó là bản chất thật sự của cô. Cô đã kết hôn. Trừ phi là con ngoài giá thú và điều đó khó xảy ra. Cô tự tin, tự tin vào bản thân. Lần tới cô sẽ không đặt mình vào bi kịch. Đứa con gái cũng vậy. Nó sẽ trở về khi đã chán. Có thể nó mang theo về một đứa bé nhưng đó là cách sống hiện nay.
Ngay trước lễ Giáng sinh năm 1940, trường trung học xảy ra một vụ náo loạn. Nó thậm chí dội lên tận tầng ba, nơi tiếng máy chữ lạch xạch và tiếng gõ bàn tính thường át mọi tiếng ồn ào bên dưới. Ở đó, các cô gái lớn tuổi nhất trong trường – những cô gái năm ngoái học tiếng La tinh, sinh vật và lịch sử châu Âu – giờ đây học đánh máy chữ .
Một trong số đó là Ileane Bishop, con gái của một mục sư, mặc dù không có giám mục trong Giáo Hội thống nhất của cha cô. Ileane cùng gia đình chuyển đến khi cô đang học lớp Chín và trong năm năm, cô được xếp chỗ sau Jackson Adams theo thứ tự ngồi abc. Vào thời điểm đó, tính nhút nhát trở thành hiện tượng cũng như sự im lặng của Jackson được cả lớp chấp nhận trừ cô. Suốt năm năm, bằng cách không thừa nhận đặc tính đó, cô đã làm tan băng. Cô mượn anh tẩy, ngòi bút và các dụng cụ hình học, không quá nhiều để phá vỡ lớp băng vì cô khá đãng trí. Họ trao đổi các đáp án và chấm điểm bài kiểm tra của người kia. Khi gặp nhau trên phố, họ chào nhau. Đối với cô, lời chào của anh thực sự to chỉ hơi lí nhí một chút- hai âm tiết và một sự nhấn mạnh. Không có gì nhiều hơn việc đó trừ việc họ thỉnh thoảng trêu đùa nhau. Ileane không phải là một cô gái nhút nhát nhưng cô thông minh và sống khép kín, không có gì nổi bật. Điều đó dường như phù hợp với anh.
Khi tất cả những cô gái lớn tuổi ùa ra xem, Ileane, từ cầu thang, cùng với tất cả những người khác, ngạc nhiên khi thấy rằng một trong hai nhân vật chính là Jackson. Người kia là Bill Watts. Những chàng trai chỉ một năm trước đây còn dán mắt vào sách và khẽ khàng đi từ lớp này sang lớp kia. Giờ trong bộ quân phục, họ như cao lớn gấp đôi, những chiếc giày nhà binh to nặng phát ra tiếng động mạnh khi họ chạy quanh các lớp. Họ la lối rằng trường học sẽ sớm đóng cửa vì tất cả mọi người phải nhập ngũ. Họ phân phát thuốc lá khắp nơi, thậm chí rải chúng trên sàn, nơi những cậu bé còn chưa đủ tuổi cạo râu có thể nhặt chúng.
Những chiến binh bất cẩn, những kẻ xâm lăng gà mờ. Mắt họ tràn ngập sự xay xỉn.
– Tôi không phải bọn thỏ đế – họ la hét.
Hiệu trưởng cố gắng yêu cầu họ ra ngoài. Nhưng vì thời điểm này mới bắt đầu cuộc chiến và có một sự kính sợ và nể phục tới các chàng trai đã đăng lính, những người có thể bọc mình trong bộ trang phục của tử thần, ông  không thể biểu lộ sự cứng rắn mà ông sẽ kêu gọi một năm sau đó.
– Nào nào – ông nói.
– Tôi không phải thỏ đế –  Billy Watts nói với ông.
Jackson đã có thể thốt ra câu như thế nhưng đúng lúc đó mắt anh bắt gặp ánh mắt của Ileane Bishop: họ trao nhau một sự thấu hiểu nào đó.
Ileane Bishop hiểu rằng dường như Jackson đã thực sự say nhưng điều đó có tác dụng cho phép anh ta giả bộ say, do đó anh có thể kiểm soát được việc thể hiện cơn say. (Billy Watts thì chỉ thuần túy say và say). Với sự thấu hiểu này, Ileane bước xuống cầu thang, mỉm cười, và nhận một điếu thuốc; cô kẹp nó giữa các ngón tay. Cô khoác vai cả hai anh hùng và đưa họ ra khỏi trường.
Khi đã ở bên ngoài, họ châm thuốc hút.
Có những ý kiến trái chiều về việc này sau đó  trong giáo đoàn của cha Ileane. Một số người nói Ileane không thực sự hút; cô chỉ giả vờ để làm yên lòng các chàng trai, trong khi những người khác nói rằng cô chắc chắn có hút.
Billy vòng tay quanh người  Ileane, cố hôn cô, nhưng trượt chân và ngồi xuống bậc thềm trường, vênh váo như một con gà trống: giờ thì anh ta có thể chết trong vòng hai năm tới.
Trong lúc chờ đợi tử thần ghé thăm, anh ta phải về nhà. Jackson kéo anh ta dậy, họ túm lấy vai Billy và kéo gã theo. May mắn thay nhà Billy không cách xa trường. Họ thả anh ta trước thềm nhà và bắt đầu trò chuyện.
Jackson không muốn về nhà. Tại sao không? Bởi vì mẹ kế của mình ở đó, anh nói. Anh ghét mẹ kế của mình. Tại sao? Không có lý do .
Ileane biết rằng mẹ anh đã qua đời trong một tai nạn xe hơi khi anh còn rất nhỏ – đôi khi điều này để giải thích cho sự nhút nhát của anh. Cô nghĩ rằng thức uống có lẽ làm anh phóng đại lên nhưng cô không cố ngăn anh nói thêm về chuyện đó nữa.
– Được rồi -cô nói. Bạn có thể tới nhà mình
Lúc đó mẹ Ileane vắng nhà để chăm sóc người bà bị ốm. Ileane trông nom ngôi nhà cho cha mình và hai đứa em trai một cách lơ đễnh. Thật là may. Không phải mẹ cô sẽ làm ầm lên, nhưng bà muốn biết ai đã ra vào ngôi nhà và chàng trai này là ai. Ít nhất thì bà cũng cho Ileane đi học như bình thường.
Một người lính và một cô gái, đột nhiên quá gần gũi. Nơi không có gì vào lúc này trừ các phép tính logarit và quy tắc ngữ pháp.
Cha Ileane không chú ý đến họ. Ông quan tâm đến chiến tranh nhiều hơn mức cần thiết của một mục sư trong con mắt một số giáo dân, do vậy việc có một người lính trong nhà làm ông tự hào. Ngoài ra ông không vui lắm vì không thể cho con gái theo học đại học bằng đồng lương của mục sư. Ông phải dành dụm để một ngày nào đó có thể gửi hai cậu con trai tới trường đại học. Điều này khiến ông rộng lượng với cô hơn.
Jackson và Ileane không đi xem phim. Họ cũng không tới sàn nhảy. Họ dạo bộ bất kể mưa hay nắng và thường sau khi trời tối. Đôi khi họ ghé qua quán và uống cà phê, nhưng không cố gắng tỏ ra thân thiện với bất kỳ ai. Vấn đề của họ là gì? Phải chăng họ đang yêu nhau?
Ileane đến nhà Jackson để lấy túi xách cho anh. Bà mẹ kế nhướng cặp lông mày mảnh và để lộ hàm răng giả trắng bóng, cố gắng tỏ ra sẵn sàng cho điều gì đó thú vị .
Bà hỏi họ đã ở đâu.
– Tốt hơn là cháu tự xem thứ đó – bà ta nói và phá lên cười. Bà ta có tiếng là lắm mồm nhưng không có ác ý. Ileane đặc biệt nữ tính, ít nhiều làm bà thấy khó chịu.
Cô thuật lại những lời đó với Jackson theo cách hài hước nhưng anh không cười.
Cô xin lỗi.
– Mình đoán bạn sẽ có thói quen giễu cợt mọi người khi sống trong nhà một mục sư – cô nói.
Anh nói rằng không sao.
Thời gian tại nhà ông mục sư hóa ra là kỳ nghỉ cuối cùng của Jackson. Họ viết thư cho nhau. Ileane thông báo đã hoàn thành khóa đánh máy và tốc ký và được nhận vào làm tại văn phòng hội đồng thành phố. Bất chấp những gì đã nói về thói châm biếm, cô kiên quyết châm biếm tất cả mọi thứ, nhiều hơn lúc cô ở trường. Có lẽ cô nghĩ rằng người trong cuộc chiến cần vui vẻ.
Khi những hôn lễ vội vàng được tổ chức thông qua phòng hội đồng, cô gọi đó là “cô dâu trinh nữ “.
Và khi cô đề cập đến một mục sư tẻ nhạt đến thăm nhà và ngủ trong phòng dành cho khách, cô tự hỏi liệu cái đệm có tạo ra những giấc mơ khiếm nhã.
Anh đã viết thư kể về đám đông trên Île de France và cách tránh né tàu ngầm của Đức. Khi tới nước Anh, anh mua một chiếc xe đạp và anh nói với cô về những nơi anh đã đạp xe tới thăm thú nếu không quá xa.
Sau đó anh được chọn để học về vẽ bản đồ. Điều này có nghĩa anh sẽ không phải xuất hiện ở mặt trận nếu có nhu cầu như vậy (tất nhiên là sau ngày D-Day- ngày Đồng minh đổ bộ lên đất Pháp tấn công bọn phát xít) .
Những lá thư này mặc dù không bay bướm bằng thư của cô, luôn kết thúc với dòng chữ “yêu em”.  Khi ngày D-Day đến, anh đã có cái cô gọi là một sự im lặng đau đớn nhưng cô hiểu được lý do, và khi anh viết lại cho cô rằng tất cả đều tốt đẹp dù các chi tiết không thể kể được.
Trong thư này, anh đã đề cập chủ đề giống cô: hôn nhân.
Và cuối cùng là ngày Chiến thắng và hành trình trở về. Anh nói về những chòm sao mùa hè lung linh trên cao.
Ileane học may. Cô chuẩn bị bộ cánh mùa hè mới để đón mừng anh trở về nhà: một chiếc váy liền tay trần bằng lụa nhân tạo màu chanh cốm, thắt lưng nhỏ giả da màu vàng. Cô quấn thêm một dải ruy băng cũng bằng lụa xanh  chung quanh chỏm mũ rơm.
– Em miêu tả tất cả chi tiết đó để anh dễ dàng nhận ra và biết rằng đó là em, và cũng để anh khỏi bỏ chạy trốn cùng một phụ nữ xinh đẹp khác, người có thể xuất hiện tại ga xe lửa.
Anh gửi thư cho cô từ Halifax, thông báo anh sẽ có mặt trên chuyến tàu tối thứ Bảy. Anh nói nhớ cô rất rõ và không có lý gì lại nhầm cô với một thiếu nữ khác ngay cả khi có rất nhiều phụ nữ hiện diện tại nhà ga xe lửa tối hôm đó.
Vào buổi tối cuối cùng, họ đã ngồi lại rất lâu trong nhà bếp, nơi treo bức chân dung Vua George Đệ Tứ (3) – năm đó ở đâu cũng thấy bức ảnh đó. Và những dòng chữ bên dưới.
Tôi nói với người đàn ông đứng ở cổng chào năm mới: “Hãy cho tôi một cây đèn để tôi có thể an toàn đi vào nơi chưa biết”.
Và ông ấy trả lời: “Đi ra ngoài vào bóng tối và hãy đặt tay bạn vào tay của Chúa. Điều đó sẽ tốt và an toàn hơn bất cứ cách thức quen thuộc nào”.
Sau đó, lặng lẽ, họ đi lên lầu và anh vào ngủ trong căn phòng dành cho khách. Cô đã đến với anh hẳn như một sự thỏa thuận giữa hai người vì anh không ngạc nhiên.
Đó là một thảm họa. Nhưng theo cách cô xử sự thì dường như cô ra vẻ không biết điều đó. Thảm họa hơn, điên cuồng hơn đã trở thành hiển thị âm ỉ của niềm đam mê. Anh không có cách nào ngăn cản sự cố gắng của cô lại, hoặc giải thích. Lẽ nào một cô gái có thể biết ít như vậy thôi sao? Cuối cùng họ chia tay như thể tất cả đã diễn ra tốt đẹp. Và sáng hôm sau anh nói lời tạm biệt trong sự hiện diện của cha và hai cậu em trai cô. Trong một thời gian ngắn, khi  các bức thư bắt đầu bày tỏ yêu thương như có thể. Anh đã say rượu và cố thử một lần nữa, ở Southampton. Nhưng cô nói: “Đủ rồi, cậu pháo thủ, súng của anh hết đạn mất rồi” (4).
Một điều anh không thích là nhìn phụ nữ thắng bộ. Găng tay, mũ, váy áo loạt xoạt, tất cả mang một vẻ đòi hỏi và phiền phức nào đó. Nhưng làm thế nào cô có thể biết được? Màu chanh cốm, anh không chắc có biết về màu sắc. Nó nghe có vẻ khá gay go.
Sau đó, mọi việc đó đến với anh dễ dàng, rằng một người chỉ không thể có mặt ở đó .
Liệu cô có tự nhủ với bản thân hay nói với ai khác rằng cô đã nhầm ngày? Anh nói với bản thân rằng cô đã nói dối, chắc chắn – suy cho cùng thì cô là người đa mưu túc kế.
Bây giờ cô đã đi mất. Jackson cảm thấy mong được nhìn thấy cô. Dù đau khổ, giọng của cô vẫn giữ nguyên một cách kỳ diệu. Nó khắc họa tất cả tầm quan trọng với các cung bậc nhạc tính. Anh không bao giờ có thể hỏi ông chủ nhà trông cô ra sao, tóc của cô vẫn còn đen hay ngả xám, người cô ốm hay mập. Anh không quan tâm nhiều đến đứa con gái, ngoại trừ việc không thích cậu bạn trai của nó.
Cô đã kết hôn. Trừ khi cô làm mẹ đơn thân và khả năng đó là không có. Cô ấy sẽ có một người chồng giàu có, những đứa trẻ khác. Đây là kẻ làm tim cô tan nát.
Đứa con gái ấy sẽ trở lại. Cô bé đã hư hỏng quá độ đến mức không thể bỏ đi xa. Nó sẽ trở lại khi cần thiết. Thậm chí người mẹ – Ileane – chẳng phải đã làm đục bầu không khí  theo một cách nào đó, cách sắp xếp thế giới và sự thật cho phù hợp với bản thân mình, như thể không có gì có thể đánh bại cô về lâu dài?
Ngày hôm sau, mọi suy nghĩ thanh thản về người phụ nữ đi qua đời anh biến mất. Cô biết nơi này, cô có thể trở lại. Cô có thể thu xếp nơi ăn chốn ở một thời gian, rảo bước qua các con phố, cố gắng tìm ra dấu vết con gái. Một cách khiêm nhường, cô sẽ đưa ra những câu hỏi không khiêm nhường lắm bằng giọng nói dỗ dành đó. Có thể anh sẽ chạm trán cô ngay bên ngoài cánh cửa này.
Mọi thứ có thể bị khống chế; chỉ cần có quyết tâm nào đó. Khi là một đứa trẻ lên sáu hoặc bảy, anh đã khống chế được cơn giận ngu ngốc của mẹ kế- bà gọi là trêu tức – khi đưa anh đi tắm. Anh chạy ra ngoài đường khi trời tối và bà bắt anh vào nhà nhưng bà nhận thấy nếu không dừng lại anh sẽ bỏ đi thật; bà đã dừng lại. Bà nói anh thật đáng bực mình vì theo bà không bao giờ có ai đó ghét bà. Nhưng bà biết anh ghét bà ngay cả khi bà không thể lý giải điều đó và bà dừng lại.
Anh trải qua ba đêm nữa trong tòa nhà mang tên Bonnie Dundee. Anh để lại lời nhắn cho mỗi chủ hộ, nhắc họ thời hạn cũng như những gì cần bảo trì. Anh nói mình được gọi đi, không nêu lý do ra đi hoặc nơi đến. Anh rút hết tiền trong tài khoản ngân hàng và đóng gói số đồ đạc ít ỏi của mình. Tối muộn, anh lên tàu. Anh mơ màng nửa tỉnh nửa mơ trong đêm và tại một trong những đoạn vòng đó, anh đã nhìn thấy các chàng trai Mennonites nhỏ bé đi xe ngựa. Anh nghe thấy giọng hát họ thanh thanh và ngọt ngào.
Chuyện này đã xảy ra trước đây trong những giấc mơ của anh.
Buổi sáng, anh xuống tàu ở Kapuskasing. Anh có thể ngửi thấy mùi bột và cảm thấy phấn khích bởi làn không khí mát hơn <
 Chú thích:
1/ A Tale of Two Cities: Câu chuyện hai thành phố 
 Một cuốn tiểu thuyết (1859) của Charles Dickens, bối cảnh ở London và Paris tại thời điểm xảy ra cuộc Cách mạng Pháp. Charles Darnay là một quý tộc trẻ người Pháp không đồng ý với cách đối xử tàn nhẫn của gia đình ông khi cai trị những người nghèo. Ông đã di chuyển tới London và yêu Lucie, con gái của một bác sĩ già đã bị đưa vào nhà tù của gia đình Darnay. Darnay kết hôn với Lucie trước khi trở lại Pháp để cứu một người đầy tớ già tên Charles, nhưng ông bị bắt giữ ở đó và bị kết án tử. Anh ta đã được cứu bởi một người Anh, Sidney Carton, người này cũng yêu Lucie. Hai người đàn ông trông rất giống nhau, và Sidney đã thay thế Charles trên giàn giáo (dụng cụ giết người phạm tội ở nơi công cộng). Cuốn sách kết thúc với suy nghĩ của mình khi anh đi đến cái chết, tạo thành một trong những câu nổi tiếng nhất trong văn học Anh: “Đó là một điều tốt hơn rất nhiều những việc mà tôi đã làm, tốt hơn những điều còn lại tôi sẽ làm; nó là  điều còn lại tôi sẽ làm tốt hơn những điều tôi đã từng biết”.
 2/ Huckleberry Finn:
Tên một nhân vật được tạo ra bởi Mark Twain cho cuốn tiểu thuyết “Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer” (1876), sau đó lại làm nhân vật chính trong cuốn “Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn”(1885). Huckleberry, được bạn bè gọi là Huck, không được giáo dục tử tế nhưng là một cậu bé độc lập và hạnh phúc. Cuốn sách thứ hai được xem là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất của Mỹ. Đó là về chuyến đi của Huck xuống sông Mississippi với một nô lệ tên là Jim người đã được cậu giúp đỡ trốn thoát.)
 3/ George IV: vua của Vương quốc Anh và Ireland (1820-1830). Trước khi trở thành vua, ông đã cai trị như hoàng tử tạm quyền vì cha của ông George III bị bệnh. Ông đã có nhiều người yêu thích và nhiều người bị sốc bởi cách anh sống, chi tiêu rất nhiều thời gian ăn, uống và cờ bạc.
 4/ “Đủ rồi, cậu pháo thủ, súng của anh hết đạn rồi”: có lẽ cô thất vọng bảo anh biết ràng anh đã không còn khả năng sinh dục (do tai nạn chiến tranh ?).
  Lời bàn của người dịch và người hiệu đính
 Bà Munro viết truyện theo kiểu cắt dán, cầu kỳ quá, làm rối trí bạn đọc.
Xin tạm vạch ra thời gian cốt truyện như sau:
Jackson từ nước Đức trở về Canada sau Thế chiến II kết thúc 1945. (Anh về quê gặp lại người yêu, thất vọng), lại lên tàu. Đi ngang qua trang trại của cô Belle, anh nhảy xuống. Anh ở lại đây khá lâu, sống chung với cô một thời gian dài và đến năm 1962 đưa cô đi bệnh viện trị ung thư…Trong khi chờ đợi Belle trị bệnh, anh được mời vào làm ở khách sạn Bonnie Dundee… Hồi tưởng những ngày đi học và mối tình đầu với Ileane trước chiến tranh. Gặp lại Ileane ở Bonnie Dundee nhưng không thể nối lại cuộc tình. Khi báo Oriole ngày 18 tháng 7 năm 1965 có bản tin nói cô Belle đã chết trong bệnh viện (điều trị liền ba năm), anh dời khỏi Bonnie Dundee và đi tiếp, rồi xuống tàu ở Kapuskasing.
Truyện kể thấm thía về nỗi đau của chiến tranh: một chàng trai hiền lành, thông minh đáng lẽ sẽ học tiếp đại học nhưng vì chiến tranh (Thế chiến II) mà phải khoác quân phục, rồi bị thương cả về thể xác lẫn tâm hồn…..
 Có cảm giác như anh lính chính là “con tàu”, chậm rãi tiến về phía trước, dừng lại để tàu đón người lạ hoặc người quen cũ rồi lại xuống tàu. Anh cứ lặng lẽ và cô độc tiến lên phía trước… 
Câu chuyện cho thấy năm 1962 ở Canada đã có Bảo hiểm y tế toàn dân. Văn minh thay tư bản chủ nghĩa . “Tiên sư anh Tào Tháo”! 
Nguyễn Anh Thư – Phùng Hoài Ngọc
Hà Nội – An Giang tháng 7/2014
[1] . Câu này ẩn ý thú vị: Margaret Rose, một cái tên đẹp, tên phụ nữ. Cô gái nói phải la mắng một cái tên đẹp như thế  thì thực tức cười. “You” ở đây không trỏ anh lính mà nói chung “người ta” trong đó có cô gái vắt sửa bò..
[2] . Tôi rất vui được trả tiền bữa sáng mà. .
[3] Vua nước Anh (1066-1087)



No comments:

Post a Comment