Ca dao về tình yêu có câu:
“Chim khuyên đậu mái nhà quan,
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan kén chồng”.
Làm sao để kiếm được người vợ hoàn toàn?
Ông Bà Thiên Phúc tại tư gia, Montreal, đã mừng lễ cưới thứ 50 vào ngày 19.4.2009
|
Khi giải đáp thắc mắc về so đôi tuổi vợ chồng và chọn ngày giờ cưới hỏi, tôi vẫn thường được các bạn thanh niên nam nữ nêu nhiều câu hỏi hắc búa khó trả lời quá!
Mặc dầu là Dịch giả sách “Ái Tình hôn nhân và Hạnh Phúc” và Giáo sư thỉnh giảng về Hôn nhân tại Học viện Nhân Xã, Sài Gòn trước năm 1975; đồng thời chính bản thân đã được sống hạnh phúc trong tình vợ chồng qua 50 năm trời và nay con cái, trai gái đều trưởng thành cả rồi.
Nhưng nhìn lại quãng đường dài mình vừa đi qua, nghĩ lắm lúc cũng rất ái ngại cho các bạn trẻ ngày hôm nay. Hỏi bí quyết nào mà chúng tôi giữ gìn được Hạnh Phúc tốt đẹp đến ngày giờ này?
Xin thưa là chúng tôi đã tuân thủ cha chú trong gia đình Nho Y Lý Số Phúc Lộc Đường so đôi tuổi và chọn ngày giờ cưới hỏi để tiến tới hôn nhân hoàn hảo thì Khoa Lý Số rất đáng tin cậy lắm vậy.
Nhưng cũng phải nói ngay, chúng tôi không mù quáng đặt hết niềm tin vào Lý Số mà phải tích cực sống đời sống vợ chồng đúng theo lẽ thường là tôn trọng, thương yêu lẫn nhau và triệt để biết về Giáo dục Hôn nhân của tiền nhân ta rất giản dị mà hiệu nghiệm đúng: “Chồng giận thì vợ làm lành…”
Người con trai sướng hay khổ phần nhiều là do người vợ, nên phải để tâm kiếm người vợ hoàn toàn. Kiếm theo Tử Vi có lẽ đúng hơn, vì những gì của cô gái, không cứ là tính nết, bộc lộ ra hết.
Những ai muốn kiếm người vợ hoàn toàn, nên biết rằng: Trong đời sống vợ chồng; số chồng thường trùng lấp và lấn số vợ, vì thế mà người đàn ông không nên đặt nặng vấn đề chọn vợ, là vì số của mình là số chính. Thí dụ: Một ông có số khắc vợ, vì mạng của ông khắc chính tinh ở cung Thê (mạng ông là mạng Thổ, chính tinh ở cung Thê là Thái Âm thuộc Thủy, và Thái Âm này Miếu ở Dậu; tốt như thế mà vẫn bị khắc) thì ông phải có hơn một đời vợ, có thể có vợ chết.
Một ông bạn khác có số “Thân Cư Thê”, cung Thê của ông lại có Hóa Quyền và Tam hợp Thê tại Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim khắc Tam hợp mạng thuộc Mộc ở Hợi Mão Mùi (Mạng ở Mão, Thê ở Sửu), thì dứt khoát là ông bạn phải sợ vợ, khổ sở vì vợ; dù ông có kiếm được một bà vợ rất hiền lành, thì cuối cùng cũng vẫn phải sợ vợ mà thôi! Nhưng cách đó ở số nữ lại không được kể.
Vậy thì vấn đề kiếm một người vợ hoàn toàn, theo Tử Vi, nên đặt khác đi. Nên kiếm những điều kiện sau:
1) Có sức khỏe tốt.
2) Có đức hạnh tốt.
3) Thêm đức tính tháo vát, khí phách và lạc quan yêu đời.
4) Có số giống số chồng và có sự hợp nhau.
Vấn đề chọn vợ cũng là vấn đề tìm hạnh phúc, hay là vấn đề cải số tốt.
Trước hết, xin bác bỏ luận cứ cho rằng hôn nhân là một cuộc lựa chọn của con người, thì không có số. Trong hôn nhân, hai người Nam và Nữ ghép vào nhau cũng có số. Những người hợp bất thường rất ít, gọi là trường hợp trái số. Có nhiều trường hợp đã xảy ra để minh chứng là con người có số mạng trong hôn nhân và những sự ghép trái số khó có thể thành tựu là đúng.
Bây giờ xin phân tích các điều kiện chọn vợ theo Tử Vi.
1) Chọn người có sức khỏe: Lấy vợ là để chọn người chung sức với mình làm việc, sinh con, nuôi con, trông coi gia đình, nên cần người có sức khỏe và không bệnh tật. Điều này tương đối dễ dàng vì có thể nhìn bề ngoài qua hình tướng thấy khỏe mạnh; có bộ mông to lợi cho việc sinh đẻ mà theo Tướng học dạy: “Đàn bà to mông, đàn ông to vai”…
2) Có đức hạnh tốt: Tính lành và lương thiện, nhất là nết na, ngay thẳng, không sinh hai lòng; lấy chồng rồi còn thương yêu kẻ khác. Đàn bà có Hồng Loan, Nguyệt Đức vì thế quý hơn Đào Hoa. Đàn bà Tử Phú, Thiên Lương quý nhất. Nói chung các chính tinh miếu vượng đều quý; vừa là người ngay thẳng. Đàn bà Thái Tuế thì hay nói, nhưng lại được sự ngay thẳng. Theo Phú đoán đàn bà có mạng Tham Sát ở Dần Thân là bất nghĩa, nhưng có Tam Hợp Thái Tuế lại không sao. Đàn bà cũng không nên có Không Kiếp tại Mạng, có thể long đong.
3) Thêm đức tính khí phách, tháo vát, lạc quan: Cưới được người vợ có đức tính như vậy thật là hoàn toàn.Người vợ lạc quan thì không buồn khổ trước nghịch cảnh và không trách móc chồng. Người vợ khí phách thì cứ lo toan mọi việc đâu ra đấy, không làm phiền hà đến chồng; chồng cứ việc làm ăn đấu tranh với xã hội bên ngoài. Người vợ tháo vát xứng danh là nội tướng.
Cụ Phúc Lộc Đường, thân phụ tôi nói: Chọn người vợ có Chính Tinh là Thiên Tướng, rất có bản lãnh, rất tháo vát. Nhưng những cô Thiên Mã, Tràng Sinh hay Mã Khốc Khách cũng tháo vát lắm vậy. Còn muốn có người lạc quan, phải kiếm người Thiên Hỷ hay Hỷ Thần.
4) Có số giống số chồng, có sự hợp nhau: Nhưng vợ chồng đích thực là những vợ chồng Tử Vi có sự truyền tinh: Số chồng mà cung Thê có những Chính Tinh, trung tinh chính nào, thì số vợ có mạng cũng có những sao đó. Giống số nhau, có sự hợp nhau, lại còn có nghĩa là có các Đại vận gần giống nhau, tốt cũng tốt, xấu cũng xấu. Giống số nhau còn phải nói đến sự sống chết: số chồng chết yểu thì số vợ phải ở góa; ngược lại cũng thế; vợ yểu thì chồng góa; mà cả hai vợ chồng cùng sống lâu thì đời sống chung phải lâu dài, thịnh vượng.
5) Cuối cùng, lấy vợ cũng phải tránh được những người có những cái xấu nguy hại, như gặp những cách vợ bất nghĩa, hại chồng, vợ ngoại tình (Đào Hoa mà ngộ Sao Thai, chồng ra khỏi cửa dắt trai vào nhà), vợ ác độc, xấu tánh. Vợ quá đẹp cũng có khi là điều nên tránh, vì vợ đẹp là vợ của người ta! Người quá đẹp lại đoảng, thiếu nhiều tánh tốt khác.
Về số con, số hai vợ chồng có sự chênh lệch vừa phải, không sai, vì số con là do số con của hai người cộng lại chia đôi – chứ không phải chênh lệch về con là không hợp số.
Khi chọn vợ, người ta còn xem xét qua nét tướng bề ngoài như: Những người có má đỏ hây hây mà mắt long lanh ướt nhãy, hay nhìn trộm, hay chớp mắt lia lịa, là người kém đức, dễ ngoại tình; những người đi như rắn bò, như chim sẻ nhảy là người yểu tướng; và những người nhỏ mông là những người khó có con, sinh đẻ khó.
Tuy nhiên, chọn vợ theo Tử Vi cũng chỉ là tương đối chứ khó tìm ra người lý tưởng. Nên chú trọng rằng cung Thê của người Nam mà tốt thì mới dễ kiếm được vợ tốt; chứ cung Thê đó mà quá xấu thì số đã định, khó kiếm được người vợ hoàn hảo. Vả lại, còn tình yêu nữa; mỗi khi mắc vào tình yêu thì số đã an bài, khó mà theo được vấn đề chọn vợ.
Làm sao chọn được người chồng tốt?
Vấn đề chọn vợ không quan trọng bằng chọn chồng là sao? Vì người vợ thường theo số chồng hơn là chồng theo số vợ. Nói cách khác, số người chồng quan trọng hơn và có tính cách quyết định hơn là số người vợ.
Các cô thường chọn chồng sang, chồng giàu, chồng đẹp trai và thường bị hỏng trong việc lựa chọn đó. Người chồng có thể sang, giàu, nhưng mà có cái tệ vũ phu, bỏ nhà đi chơi bời, bỏ vợ, đủ thứ xấu thì cái sang giàu đó lại hoàn toàn vô nghĩa.
Thế cho nên, cộng vào các điều kiện tất nhiên khác, khi đặt vấn đề chọn chồng, các cô chỉ nên chọn người tử tế. Các điều kiện nên có là:
1. Được người tử tế quý vợ.
2. Có tính hạnh tốt, nói chung.
3. Biết cố gắng chịu khó làm việc cho gia đình.
4. Có số giống số chồng và có sự hợp nhau.
Về điều kiện 1, nên nhìn vào cung Thê của người nam, thấy tốt là được, hay không thấy tệ hại.
Về điều kiện 2, những cậu trai đáng kể là người có tam hợp Thái Tuế ở Mệnh, có Chính Tinh Miếu Vượng (Thiên Lương là nhất).
Về điều kiện 3, thấy mạng tốt, hẳn là người khá, chịu khó làm việc.
Về điều kiện 4, hai số hợp nhau, giống nhau, có truyền tinh hay không cũng được, nhưng những Đại vận nên có tốt xấu gần nhau.
Khi so đôi tuổi vợ chồng, thường thường các thầy bà chỉ đoán về sự hợp tuổi, hợp mạng: hành hai mạng hợp nhau là tốt, hay khắc cũng được, nhưng phải là mạng chồng khắc mạng vợ mới tốt. Như thế tức là mạng vợ khắc mạng chồng thì không tốt, nhưng các thầy bà còn tìm ra xem hai mạng là hành gì? thuộc thế gì? để so sánh rồi cũng dễ dàng chấp nhận. Như Thủy phải khắc Hỏa.
Nhưng mạng vợ là Đại Hải Thủy thì cũng không khắc được mạng chồng; nếu là Thiên Thượng Hỏa; mạng vợ là Trường Lưu Thủy cũng không khắc được mạng chồng là Sơn Đầu Hỏa.
Đó là cách so đôi tuổi, để tìm về sự kiện hợp ý trong cuộc sống chung.
Còn về sự kiện sống chết, mạng vận hợp nhau thế nào thì phải coi cả hai lá số. Dầu sao thì trong nhiềutrường hợp, số vợ cũng theo số chồng. Không những là chồng giàu thì vợ phải giàu, chồng nghèo thì vợ phải nghèo; mà còn có sự kiện chồng yểu thì vợ phải góa chồng không có số góa và đời sống hôn nhân phải dài lâu, thì cái đó có thể biến một người vợ long đong về đường chồng, thành một người vững vàng trong hôn nhân.
Cho nên chọn chồng phải tránh những ông chồng có hành mạng khắc hành của chính tinh cung Thê. Như ông chồng mạng Thổ có chính tinh cung Thê là Thái Âm Thủy, như ông mạng Thổ có chính tinh cung Thê là Liêm Trinh Hỏa; bởi vì đó là những ông có thể có đến mấy đời vợ không chừng! Nhưng cũng không nhất thiết như thế, vì cũng có những ông chồng không ở trường hợp đó mà cũng góa vợ.
Cũng nên ngại những ông chồng có Hồng Đào, Tả Hữu, hay Long Phượng,Tả Hữu ở cung Thê, vì các ông đó có mấy vợ; hoặc các ông có Hồng, Kỵ,hay Kinh Đà, Kỵ. Gặp Nhật Nguyệt hãm, là những ông chồng oán ghét vợ; có Cô, Hình là xa vợ; có Phá Quân hay Thất Sát gặp Hình, Riêu, Binh là người có thể làm hại vợ v.v…
Nói tóm lại, khi chọn vợ, kén chồng theo khoa Tử Vi Đông Phương rất phức tạp. Nếu không phải là một nhà Tử vi có chân truyền thực học, có kiến thức uyên bác thì không thể tin cậy được. Lá số lấy sai giờ sinh là số của người khác và nếu lại luận giải theo các công thức trong sách chưa được kiểm nghiệm đúng sai thì kết quả giải đoán làm sao đúng được.
Cách đây trên 30 năm khi cùng với giáo sư Nguyễn Hữu Lương, tác giả Luận Văn “Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông Phương” tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, xuất bản tuần báo Nho Y Lý Số thì chúng tôi đã làm một cuộc phỏng vấn gồm 20 Thầy, Bà đủ loại hành nghề Bói toán, có môn bài nhưng chỉ tìm ra chưa đến mười thầy là có thực học, chân truyền. Tính tỷ lệ 95% là thầy bói “giả cầy”!
“Việc đời hai chữ Âm Dương,
Tiếc thay mất giá tại phường lăng nhăng!”.
Thực ra thì “Tử Vi không sai, chỉ có những quan niệm sai lầm vì không hiểu Tử Vi mà thôi”
Tử Vi Gia Thiên Phúc
Khoa Tử Vi được phổ biến trong dân gian, gắn bó với nền văn học dân tộc. Do đó, một số đông đồng bào Việt Nam tin vào số mệnh nên thích xem Tử Vi một vài lần trong đời để thỏa tính tò mò hoặc để tiến thân lập sự nghiệp. Tuy nhiên mức độ tin tưởng vào khoa Tử Vi cao hay thấp vẫn còn tùy thuộc từng người. Có người xem khoa Tử Vi như là một tập tục cổ truyền mà đầu năm ngày Tết bói quẻ mua vui thì không sao hết. Nhưng cũng có người quá mê tín dị đoan, bạ đâu tin đó mà không may gặp phải các lời giải đoán sai lầm thì thật tác hại vô cùng.
Những điều di hại còn kia
Kẻ thì bỏ vợ, người thì gia vong.
Ngày nay, khoa Điện Toán IBM thảo sẵn chương trình an sao lập số Tử Vi, chỉ cần cho đủ các dữ kiện chính xác ngày, giờ, tháng và năm sinh vào máy, bấm sẽ có ngay một lá số Tử Vi để xem sách tự giải đoán lấy một cách nhanh chóng. Cho nên Tử Vi càng được phổ biến và các thầy bà lợi dụng lòng mê tín của những người nhẹ dạ thích coi Tử Vi không phải trả tiền dịch vụ. Chúng ta thấy có những thầy bà thực tập Tử Vi bằng cách an sao lập số bừa bãi rồi lấy sách Tử Vi ứng dụng đi vào giải đoán lung tung gây ra một nạn «dịch» Tử Vi không có thuốc chữa được nữa.
Tôi may mắn xuất thân từ một gia đình Nho Y lý Số qua gia phả của tổ tiên thuộc dòng họ Vũ-Hồn (804-853), gốc làng Mộ Trạch, tỉnh Hải Dương. Đến đời các Cụ Tổ tôi thiên cư về lập nghiệp tại làng Hàn Thông, xã Mỹ Thuận, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, gia phả ghi được đến tôi là đời thứ 13. Các Cụ Tổ tôi có nghề Đông Y Lý Số gia truyền mà sách vở lưu truyền chép tay còn giữ được đến nay.
Trước năm 1945, tôi học chữ Hán với ông nội là cụ đồ Vũ Khắc Khoan trong làng. Sau năm 1945 chạy tản cư khắp các tỉnh miền Bắc, theo Cụ thân sinh Giáo học Đông Y Sĩ Phúc Lộc Đường đi chữa bệnh và xem Tử Vi phong thủy ở khắp làng quê nên tôi sớm nhìn ra môn Cổ học truyền thống này vốn có một giá trị thực tiễn.
Năm 1954 di cư vào Saigon, tôi còn say mê tiếp tục học hỏi qua kinh nghiệm gia truyền của ông Bác họ là cụ Vũ văn Khải, đền Đức Thánh Trần, Hiền Vương, Saigon. Ông Bác tôi và Thân phụ tôi đều học chữ Hán để chuẩn bị thi Hương tại trường thi Nam Định. Tôi dài dòng là để quý vị và các bạn trẻ biết được tài là phải học vì «không thầy đố mày làm nên».
Năm 1971, tôi gặp một anh bạn đồng nghiệp là giáo sư Nguyễn Hữu Lương, cùng dạy với tôi ở Trung học Phan Sào Nam. Anh gốc Thanh Hóa, cũng trong một gia đình khoa bảng Hán Học có truyền thống, tinh thông Hán Nôm và dịch sách Thanh Cung 13 Triều nổi tiếng. Chúng tôi xuất bản Tuần báo Nho Y Lý Số để tuyên dương khoa Lý Số Đông Phương. Giáo sư Nguyễn Hữu Lương tốt nghiệp Cao Học Triết Đông với Luận văn «Kinh Dịch với Vũ trụ quan Đông Phương» và sau đó là giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon và Huế.
Anh cũng giỏi Tử Vi nên tôi nhờ anh chấm thử một lá số Tử Vi cho con trai đầu lòng của tôi để xem cách lý giải của anh thế nào mà học hỏi thêm càng tốt. Anh chấm lá số viết tay đến trên 50 trang thật là văn vẻ rất lý thú. Tôi tin vào tài học của anh hơn hẳn ông Bác tôi và Thân sinh tôi về cấp bằng Cao Học Triết Đông. Tôi đã lầm, thực tế lại khác. Cũng ngày giờ sinh ấy, lá số của con trai tôi được ông Bác và Thân phụ tôi đều chấm cùng một giờ giống nhau.
Vì cháu đẻ vào nửa đêm có thể còn ở giờ Hợi ngày hôm trước, mà cũng có thể qua giờ Tý ngày hôm sau. Nhưng nếu là thầy Tử Vi có thực học chân truyền nắm được nguyên tắc tính giờ thì chỉ hỏi một câu rất giản dị sẽ biết giờ Hợi hay giờ Tý đúng. Cho đến nay, con trai tôi trưởng thành thì lá số Tử Vi của cháu do ông Bác tôi và Thân phụ tôi đều là những lão sư có trên 50 năm kinh nghiệm hành nghề đã giải đoán rất chính xác. Còn lá số của ông bạn tôi cũng giải đúng nhưng sai giờ là lá số của người khác.
Tôi mới vỡ lẽ là «trăm hay không bằng tay quen» là vậy. Mãi gần đây, tôi giật mình khi nhận được lá thư chúc Tết của ông Chef mình là Cựu Trung Tá Lê Quang Tiềm, nguyên Giám đốc Đài Tự Do và Mẹ Việt Nam trước năm 1975 ở Việt Nam. Ông Chef «tình xưa nghĩa cũ» của tôi, biết rõ lý lịch địa chỉ tôi trên báo, quý mến tôi đã gửi tặng hai quyển sách quý được lưu giữ trong tủ sách tham khảo gia đình:
– Bói Dịch (I Ching, A Philosophical Prophecy, by Lê Quang Tiềm – USA – 1992).
– Tự Điển Tử Vi Đầu Số và Thần Số Học (Thái Cực & Lưỡng Nghi) by Lê Quang Tiềm, USA, 1998 (418 pages).
Lê tiên sinh, tác giả hai quyển sách Tử Vi và Bói Dịch soạn rất nghiêm chỉnh và công phu đến như thế mà lại không đăng đàn xưng là «Tử Vi Gia» để hành nghề kiếm sống lúc tuổi già nghỉ hưu là sao?
Lê tiên sinh lại tự «hạ mình» viết thư với lời lẽ khiêm tốn và lễ độ rằng: «Tôi năm nay sắp bát tuần, sinh ngày… tháng… năm Đinh Tỵ (1917) giờ… (Năm nay Lê tiên sinh vừa tròn 90 tuổi. Lúc cụ đỗ Tú Tài bản xứ thì tôi sinh ra đời). Theo tôi xem thì sang năm Bính Tý (1996) lưu tại cung Dần thuộc cung Tử túc, ngộ tuần Triệt. Cơ nguyệt Đồng Lương ngộ Tang, Diêu, Cô, Quả, Mã Khốc Khách, Đào Hồng, Thiên Không. Tôi đoán là tôi rất nặng hoặc là con cái, vậy giáo sư có kinh nghiệm nhiều về Tử Vi, xin vui lòng cho tôi biết đôi lời quý báu của Giáo sư. Tôi chỉ viết về Dịch và Tử Vi mà không hành nghề nên thiếu kinh nghiệm. Xin cám ơn Giáo sư»
Thư lại có cả Tái bút viết thêm mấy dòng: «Mr Edward John là cố vấn cho tôi và Trung tá Thoại có ghé thăm chúng tôi năm ngoái, chúng tôi có mời ông ta dự bữa ăn tối có cả bà Khuê và anh Vũ Quang Ninh đến dự».
Thú thật là tôi rất vui mừng nhận được tin ông Chef cũ, ân nhân của mình được bình an. Tôi cũng nhận được sách tặng chuyên ngành có giá trị để học hỏi thêm. Nhưng tôi lo sợ về giải đoán của mình không đúng thì chỉ còn nước «giải nghệ» đi là tốt.
Thế nhưng «Số được làm thầy, gieo đúng quẻ», tôi đã quyết đoán là Tiên sinh bình an vô sự, sống thọ ngoài 90 tuổi đúng. Nhưng trong gia đình có đại tang cũng đúng «boong»… Rồi qua năm sau, tôi lại nhận được thiệp chúc Tết của Lê tiên sinh kèm theo tấm check (gọi là mừng tuổi) với lời lẽ xưng hô càng làm tôi «nhột nhạt» thêm. Chef cũ xưng hô với tôi lúc thân tình, cụ gọi tôi là “bạn” có chết không?
Tôi nhớ lại lúc làm việc tại Khối Giáo vụ Nha Tuyên Úy Công Giáo thì cha Trưởng khối là Linh mục Tuyên Úy Nguyễn văn Minh cũng quý mến tôi gọi tôi là «bạn». Tôi nói đùa với các bạn đồng nghiệp là chết ở danh xưng «bạn» đó, chứ đừng tưởng bở gì đâu! Còn Linh mục Phó Giám đốc Phan Phát Huờn, kiêm trưởng Khối Giáo vụ, nhân vật nặng ký thứ 2 của Nha Tuyên Úy Công giáo thì mỗi lần đến bàn giấy giao cho tôi việc gì thì ngài vui vẻ tươi cười, rằng: «Cha xin lỗi con, cha nhờ con việc này…». Số Tử Vi của tôi được cụ Phúc Lộc Đường có câu «Số Cận quý được gần cấp lãnh đạo rất yêu thương». Đúng vậy!
Tôi học Tử Vi Lý Số từ trong gia đình trước năm 1954, sau năm 1975 mới hành nghề vì hoàn cảnh dẫn đến chứ cũng không ham lắm vì quá nặng trách nhiệm. Có nhiều lúc chờ đợi một giải đoán, xem đúng hay sai cũng mất ăn mất ngủ, lo lắng như mọi người có thiện tâm thiện chí vậy.
Hồi học Đông Y Châm Cứu với cụ Lương y Nguyễn Trung Hòa sau năm 1975, tôi ghi lòng tạc dạ lời Cụ khi vào lớp thường nhắc «Nhất thế y, tam thế suy» Nếu thiếu lương tâm trách nhiệm mà gieo tội ác cho người ta thì ai oán đến 3 đời con cháu chưa hết. Khiếp quá, trời đất ông bà ơi!
Cụ Thiên Lương Lê Hữu Khải, tác giả sách Tử Vi Nghiệm Lý (Saigon 1974) và Tử Vi Nghiệm Lý Toàn thư (1985), với 50 năm kinh nghiệm chỉ giúp người, giúp đời cũng không chính thức hành nghề mà chỉ an sao lập số tặng những ai có duyên với Cụ mà thôi. Nay con cháu Cụ cũng thế, thật đáng kính phục.
Trong đời, nếu tôi có duyên may được gặp các bậc thầy danh sư uyên bác, vừa học hỏi được chuyên môn, vừa có diễm phúc được các cụ quý mến. Trước một năm, Cụ Thiên Lương qua đời thì tôi xuất ngoại đoàn tụ gia đình. Tôi đến chào từ biệt Cụ lại được Cụ trao tặng một tấm hình bóc trong album với hàng bút tích vô cùng quý giá như sau:
«Thân tặng Ông Vũ Tiến Phúc với lòng thành thực của tôi tin tưởng ông sẽ thành công danh dự trên bước đường Toán Số Học.
Ngày Kỷ Mão tháng Nhâm Tý năm Nhâm Tuất
Ký tên: Thiên Lương»
Lý số gia Thiên Lương (1910-1984)
|
Ngày nay, ở hải ngoại, tôi còn được tiếp tục hành nghề là nhờ công đức của Tổ Tiên, Thân phụ tôi và ông Bác tôi đều là những nhà Lý Số đạo đức và tên tuổi với trên 50, 70 năm kinh nghiệm hành nghề, các bậc ân sư thành danh đều đã đi vào cõi Vĩnh Hằng, thân phụ tôi thọ 99 tuổi.
Tết năm Bính Tuất ra, tôi nhận được rất nhiều câu hỏi thắc mắc về các giải đoán Tử Vi trên nhiều tờ báo với những danh xưng mới lạ. Tôi tôn trọng nghề nghiệp, không dám phê bình ai hết. Nhưng tôi vô cùng lo sợ về cái nạn Tử Vi «đào tẩu», «báo hại» những người nhẹ dạ mê tín dị đoan dễ đi đến sụp đổ sự nghiệp vì nghe thầy dùng sinh khắc Ngũ hành chỉ bậy cho thân chủ đang làm ăn khá, xui người ta đổi nghề mất cả cơ nghiệp, đáng oán trách lắm.
Một Tử vi gia có văn phòng hành nghề và cũng viết sách Tử Vi như ai. Nhưng nếu đọc sách của ông viết, chỉ toàn những điều ngang ngược. Thầy cứ làm ra vẻ thông thiên đạt địa, coi thiên hạ chẳng ai ra gì hết.
Nếu chúng ta nhìn vào trong lịch chúc Tết đầu năm Bính Tuất của thầy thì quyển sách Tử Vi đi ngang vế tắt ấy cũng theo thầy đi luôn!
Một trang lịch ngày Tết còn không biết tính sao cho đúng thì có viết cả một quyển sách Tử Vi 500 trang cũng chẳng đến đâu hết. Thầy nói ngang, nói ngược thì thầy nói thầy nghe cho vui chứ các học giả Tử Vi chẳng ai thèm có ý kiến gì đâu! Thầy yên tâm là một Tử vi gia có sánh để đời. Nhưng:
Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Tôi chỉ lấy một trang lịch Tết này hỏi rằng thầy học cách tính này ở đâu, ở sách nào mà ngày mùng 1 Tết là ngày Mậu Ngọ thì tuổi kỵ nhất phải là tuổi Giáp Tý chứ không phải Bính Tý? Giờ Mão (Ngọc Đường) nhưng là giờ Niên Xung cả năm Ất Dậu đều xấu; là giờ hung, sao thấy lại nói tốt ở chỗ nào? Giờ Ngọ chỉ là giờ trung bình. Hú họa thầy chỉ tính đúng mỗi giờ Thân.
Rõ ràng là nhà thầy không biết tính tuổi kỵ và cũng không biết tính giờ xấu, tốt trong ngày. Thế mà thầy dám viết sách Tử Vi, «ngang ngược» đến thế là hết chỗ chê! Không ai chê cho nên thầy mới nhảy vào các tờ báo lớn phụ trách mục Tử Vi đánh lừa độc giả bấy lâu nay. Nghe nói thầy lại đổi tên mới còn ngon lành hơn!
Năm Bính Dần (1986), trong lịch sách Tử Vi chùa Khánh Anh bên Pháp, có giới thiệu «Lời đầu» như sau: «Từ nhà Tướng số Nhựt Thanh đến Lý Số Học Thiên Đức và bắt đầu năm nay là Cư sĩ Thiên Ân Ngô Thiên Hựu, mỗi người có một sác thái đặc biệt riêng…»
Tội nghiệp cho Lý Số gia Thiên Đức, xuất thân là Đốc phủ sứ, cố vấn Tòa Đại sứ VN trước 1975. Sau 1975, sa cơ thất thế mới phải làm thầy Tử Vi kiếm sống độ nhật. Nhưng Lý Số gia Thiên Đức là người có thực học chân tài. Tôi ca tụng hết lời, còn cư sĩ Thiên Ân Ngô Thiên Hựu nay đổi tên là Phật Quang Thiên Lương, Pháp sư Thiên Lương v.v… đã được bà con ta thuộc loại mê tín dị đoan đón rước về nhà giải Tử Vi bừa bãi nhưng làm sao giấu được tông tích. Thầy bỏ Canada đi đâu rồi?
Cũng may, Thượng tọa chùa Khánh Anh, sau khi được thư tôi «hạch tội» Tử vi gia này, cũng nhìn ra sự thật. Lỡ một lần rồi, năm sau đó «bye» thầy luôn. Cái «nạn» Tử vi giải loạn cào cào đang làm cho bà con cô bác khinh khi cũng đúng. Sợ thầy như sợ ma quỷ!
Số cô có mẹ có cha
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai (Ca dao)
Chính tôi cũng là nạn nhân bị người ta «lấy cắp» Tử Vi của mình giải ở các năm trước, sửa đổi lại cho các năm sau, cũng không làm sao kêu ca vào đâu được. Tệ hại đến thế là hết chỗ nói! Xin quý vị và các bạn trẻ hãy thận trọng và sáng suốt nhìn ra sự thật đâu đó cho phân minh. Rất tiếc và đáng giận, trong cảnh huyên náo chợ đời này, có một số thầy bà bất học vô thuật, trà trộn vào mọi ngành học thuật, nhưng lại viết sách giải Tử Vi lung tung, đảo lộn trắng đen, đầu độc người nhẹ dạ.
Giáo sư Vương Ngọc Đức, tác giả bộ sách Tổng Tập Văn Hóa Thần Bí Trung Quốc, sau ba chục năm nghiên cứu toàn bộ loại sách chuyên ngành này, đã cho chúng ta lời khuyên quý báu như sau: «Văn hóa thần bí là một kho biến ảo thần kỳ, người theo nghiệp học nhận thấy ở đấy ánh hào quang của trí tuệ; người cầm quyền qua đấy mà tổng kết những quyền mưu gìn giữ chính quyền; người kinh doanh lấy từ đấy vô vàn của cải; kẻ mộng muội thì xin ở đấy sợi dây để tự trói mình…».
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chử tài (ND)
Thiên Phúc Vũ Tiến Phúc
(Tác giả sách Tử Vi Giảng Minh)
Kỷ niệm 50 năm Hôn Nhân Hạnh Phúc
No comments:
Post a Comment