Khi nói đến bổn phận làm
con phải biết kính hiếu đối với cha mẹ, mà không kể vua Tự Đức có hiếu
với mẹ là thiếu sót, cho nên trích dẫn trong quyển Tìm Hiểu Các Danh
Nhân từ trang 279 đến trang 281 cùng tác giả Nguyễn Phú Thứ như sau :
Để TƯỞNG NHỚ VUA
Tự-Đức Là vị vua rất có Hiếu với Mẹ bậc nhứt trong 13 vị Hoàng ĐẾ Triều Nguyễn.
Được biết, vua Tự-Đức
là con thứ hai của Vua Thiệu-Trị (1841-1847) và Bà Hoàng Thái Hậu
Từ Dũ (1810-1901) tức Bà Phạm-Thị-Hằng quê quán làng Tân Niên Đông, huyện
Tân-Hòa, Tỉnh Gò-Công (thuộc Gia-Định thành).
Để được đầy đủ tiểu sử Bà
Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, may thay! tôi được giáo sư tiến sĩ Nguyễn-Thanh-Liêm
từ nam California Hoa kỳ gởi tặng đặc san Tiền Giang Hậu Giang số 6 phát hành
năm 2002, thì thấy từ nơi trang 221 đến 226 có bài viết của Nguyên Minh,
xin mạn phép trích dẫn sơ lược như sau :
... Theo tài liệu sưu tập thì nhũ
danh của bà là Phạm Thị Hằng. Gia phả dòng Phạm Đăng
còn ghi rõ là : "Ngự húy bên tả là chữ Nữ, bên hữu là chữ Càng tức là chữ
Hằng". Ngoài ra, ở một phần khác của gia phả lại ghi nhũ danh của bà là Phạm
Thị Hằng Nga với lời chú thích "nguyên nhân đặc tên đó là vì lúc thọ
thai phu nhân Quốc Công Phạm Đăng Hưng tức bà Phạm Thị Dụ chánh thất
nằm mộng thấy trên đỉnh màn một vầng trăng tròn".Bà được triệu về kinh vào
năm 14 tuổi và mãi đến khi vua Tự Đức lên ngôi vua, thì bà được tôn phong là
Hoàng Thái Hậu hiệu là Từ Dũ... khi bà băng hà, gia phả dòng Phạm Đăng ghi rằng
tôn thụy của bà là :"Nghi Thiên Tán Thánh Từ Dũ Bác Huệ Trai Tức Tuệ Dạt
thọ Đức Nhân Công Chương Thái Hoàng Thái Hậu" và lăng tẩm của bà tọa lạc
tại Xương Thọ Huế".
Ngày sanh của bà, theo Thủy Lan Vy cho biết, bà sanh ngày 9 tháng 5 âm lịch năm Canh
Ngọ (1810). Về năm tháng thì gia phả dòng Phạm Đăng cũng ghi
như vậy, nhưng ngày sanh lại là ngày 19 (mười chín). về điều
này, gia phả còn chú thích thêm là ngày Nhâm Thân, giờ Kỷ Dậu. Sách Đại Nam
liệt truyện, tập III, trang 25 ghi bà sanh ngày 9
tháng 5 mùa hạ năm Gia Long thứ 9. Điều này cần được soi rọi
để biết là ngày 9 hay 19 ?
Ngày mất của bà, theo Thủy Lan Vy cho biết, bà mất vào ngày 5 tháng 4 âm lịch năm Nhâm
Dần (1902) thọ 92 tuổi. Về ngày tháng thì gia phả cũng ghi như vậy, nhưng thêm
chi tiết là giờ Mão ngày mùng 5 (Canh Tý) và năm là năm Tân Sửu, với tuổi thọ
93. Ở đây, có mấy điểm cần xét lại :
Về năm Tân Sửu, gia phả
dòng Phạm Đăng còn chú thích thêm là năm Thành Thái thứ mười ba. Vua Thành Thái
lên ngôi năm 1889. Từ đó suy ra thì năm thứ mười ba của ngài làm vua là năm
1901, đúng là năm Tân Sửu. Đại Nam Liệt Truyện; tập III, trang 64 cũng ghi là
bà mất vào năm Tân Sửu (1901). Tuy nhiên, nói đến tuổi thọ thì gia phả dòng
Phạm Đăng cũng như Đại Nam Liệt Truyện lại sai. Hai tư liệu này ghi là bà thọ
93 tuổi. Nếu đem hai ngày sanh tử trừ đi sẽ là 91 năm và theo quan Niệm người
Việt Nam thì tính là 92 tuổi. Phải chăng người ghi chép muốn tăng tuổi thọ cho
tiền nhân để muốn nói lên cái "đại phúc" của bậc tiền bối của mình?
Tóm lại, năm tháng sanh của bà Từ
Dũ được xác nhận là năm Canh Ngọ (1810), tháng 5 nhưng ngày thì không biết 9
hay 19. Còn ngày mất của bà là ngày mùng 5 (Canh Tý) tháng 4 năm Tân Sửu
(1901), thọ 92 tuổi.
Bà con của Phạm-Đăng-Hưng Thượng
Thơ Bộ Lễ, được tuyễn vào cung làm vợ Hoàng-Tử Miêng-Tông tức Vua Thiệu-Trị sau
này và sanh được hoàng tử Hồng-Nhậm tức vua Tự-Đức (1847-1883), vua
Tự-Đức mất ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi nhằm ngày 17 tháng 7 năm 1883, trị vì 36
năm, thọ 55 tuổi. Vua Tự-Đức là vị vua thông minh, hiền lành, hiếu học, siêng
năng và rất hiếu thảo với mẹ là Bà Từ Dũ được nhắc nhở như sau :
vào năm 14 tuổi và mãi đến khi vua
Tự Đức lên ngôi vua, thì bà được tôn phong là Hoàng Thái Hậu hiệu là Từ Dũ...
khi bà băng hà, gia phả dòng Phạm Đăng ghi rằng tôn thụy của bà là :"Nghi
Thiên Tán Thánh Từ Dũ Bác Huệ Trai Tức Tuệ Dạt thọ Đức Nhân Công Chương Thái
Hoàng Thái Hậu" và lăng tẩm của bà tọa lạc tại Xương Thọ Huế".
Ngày sanh của bà, theo Thủy Lan Vy cho biết, bà sanh ngày 9 tháng 5 âm lịch năm Canh
Ngọ (1810). Về năm tháng thì gia phả dòng Phạm Đăng cũng ghi
như vậy, nhưng ngày sanh lại là ngày 19 (mười chín). về điều
này, gia phả còn chú thích thêm là ngày Nhâm Thân, giờ Kỷ Dậu. Sách Đại Nam
liệt truyện, tập III, trang 25 ghi bà sanh ngày 9
tháng 5 mùa hạ năm Gia Long thứ 9. Điều này cần được soi rọi
để biết là ngày 9 hay 19 ?
Ngày mất của bà, theo Thủy Lan Vy cho biết, bà mất vào ngày 5 tháng 4 âm lịch năm Nhâm
Dần (1902) thọ 92 tuổi. Về ngày tháng thì gia phả cũng ghi như vậy, nhưng thêm
chi tiết là giờ Mão ngày mùng 5 (Canh Tý) và năm là năm Tân Sửu, với tuổi thọ
93. Ở đây, có mấy điểm cần xét lại :
Về năm Tân Sửu, gia phả
dòng Phạm Đăng còn chú thích thêm là năm Thành Thái thứ mười ba. Vua Thành Thái
lên ngôi năm 1889. Từ đó suy ra thì năm thứ mười ba của ngài làm vua là năm
1901, đúng là năm Tân Sửu. Đại Nam Liệt Truyện; tập III, trang 64 cũng ghi là
bà mất vào năm Tân Sửu (1901). Tuy nhiên, nói đến tuổi thọ thì gia phả dòng
Phạm Đăng cũng như Đại Nam Liệt Truyện lại sai. Hai tư liệu này ghi là bà thọ
93 tuổi. Nếu đem hai ngày sanh tử trừ đi sẽ là 91 năm và theo quan Niệm người
Việt Nam thì tính là 92 tuổi. Phải chăng người ghi chép muốn tăng tuổi thọ cho
tiền nhân để muốn nói lên cái "đại phúc" của bậc tiền bối của mình?
Tóm lại, năm tháng sanh của bà Từ
Dũ được xác nhận là năm Canh Ngọ (1810), tháng 5 nhưng ngày thì không biết 9
hay 19. Còn ngày mất của bà là ngày mùng 5 (Canh Tý) tháng 4 năm Tân Sửu
(1901), thọ 92 tuổi.
Bà con của Phạm-Đăng-Hưng Thượng
Thơ Bộ Lễ, được tuyễn vào cung làm vợ Hoàng-Tử Miêng-Tông tức Vua Thiệu-Trị sau
này và sanh được hoàng tử Hồng-Nhậm tức vua Tự-Đức (1847-1883), vua
Tự-Đức mất ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi nhằm ngày 17 tháng 7 năm 1883, trị vì 36
năm, thọ 55 tuổi. Vua Tự-Đức là vị vua thông minh, hiền lành, hiếu học, siêng
năng và rất hiếu thảo với mẹ là Bà Từ Dũ được nhắc nhở như sau :
Trải qua 36 năm làm Vua trên ngai
vàng, Vua Tự-Đức lúc nào cũng dành ngày chẵn vào cung để vấn an sức
khỏe mẹ, đồng thời nghe lời truyền bảo của mẹ, nếu có điều gì quan trọng đáng
lưu tâm thì ghi ngay vào quyển sổ tùy thân mà nghiền ngẫm. Đó là, quyển sổ từ
huấn lục(tức quyển sổ chép lời mẹ dạy). Còn ngày lẻ thì lo việc triều
đình, chớ không vì làm Vua có vạn năng quyền thế mà lơ là bổn phận làm con. Hơn
nữa, khi có việc gì lo âu, liền thỉnh ý mẹ để xin được nghe lời dạy bảo của mẹ.
Chính vì thế, mà Bà Từ Dũ đã từng đề nghị giảm thuế má cho dân vào những năm bị
thiên tai mất mùa, đói kém cũng được Vua Tự - Đức đều làm theo ý mẹ. Có lần,
ngày mai là đến kỳ giỗ kỵ tiên đế Thiệu-Trị, thế mà hôm ấy Vua Tự-Đức ham đi
săn bắn, gặp nước lụt chảy xiết mạnh bất ngờ, Vua quan chưa dám dùng thuyền hồi
cung, phải mắc kẹt chốn ngoại thành thuộc rừng Thuận-Trực. Bà Từ-Dũ sai quan
Nguyễn-Tri-Phương đi rước, khi vào cung, vua biết lỗi, dâng roi, nằm xuống chờ
quở phạt. Bà Từ-Dũ giận, quay mặt chẳng nói một lời, sau đó mới tha cho hình
phạt, chỉ trách dạy bằng lời mà thôi.
Xem thế, đủ biết Vua Tự-Đức thờ mẹ
rất chí hiếu bực nào, cho nên nếu có bất cứ người nào có lòng hiếu kính mẹ,
huống hồ một vị Thiền Sư Nhất Định có mẹ già đau ốm phải lo chăm sóc thức ăn
mặn cho mau lành bịnh đi đôi với đi tu, vì thế bị người đời dị nghị, nhưng
Thiền Sư cứ để ngoài tai, cứ lo tròn bổn phận làm con cùng tu hành đi đôi tại An-Dưỡng-Am.
Lâu ngày, chuyện này đến tai Vua
Tự-Đức, Vua sai người theo dõi, tìm hiểu hư thực thế nào? Khi Vua biết hoàn
cảnh của thiền sư sự thật, Vua vô cùng cảm-động, rồi cho tu bổ An-Dưỡng-Am,
cung cấp lương thực để nuôi dưỡng bà mẹ của thiền sư, để thiền sư có điều kiện
tu hành hơn. Sau đó, Vua Tự-Đức còn ban biển ngự đề "Sắc Tứ Từ Hiếu
Tự". Kể từ đó, An-Dưỡng-Am trở thành chùa Từ Hiếu
lưu danh đến ngày nay.
Như đã thấyVua Tự-Đức là
người con chí hiếu đối với mẹ là Bà Từ Dũ, vì thế bất cứ việc gì làm
cho người mẹ buồn phiền, thì nhà Vua xem như bất hiếu.
Do vậy, khi giặc Pháp đã chiếm được
lục tỉnh thuộc Nam Kỳ lúc bấy giờ, trong lãnh thổ này có quê hương của Bà Từ
Dũ, làm cho nhà Vua rất tức giận và trút hết tội tình lên một vị quan văn
trung-thần ái quốc là Ông Phan-Thanh-Giản, mà không xét lỗi mình là
Ông Vua của một nước có quân, có quyền trong tay và lại có hành-xử chủ hòa với
giặc Pháp? ...
Như thế, ở đời chúng ta nên : "Xét
lỗi mình trước khi xét lỗi người" có vậy mới thấy trung thực của mọi
vấn đề. Đó là bài học đáng quý vậy!
Lâu ngày, chuyện này đến tai Vua
Tự-Đức, Vua sai người theo dõi, tìm hiểu hư thực thế nào? Khi Vua biết hoàn
cảnh của thiền sư sự thật, Vua vô cùng cảm-động, rồi cho tu bổ An-Dưỡng-Am,
cung cấp lương thực để nuôi dưỡng bà mẹ của thiền sư, để thiền sư có điều kiện
tu hành hơn. Sau đó, Vua Tự-Đức còn ban biển ngự đề "Sắc Tứ Từ Hiếu
Tự". Kể từ đó, An-Dưỡng-Am trở thành chùa Từ Hiếu
lưu danh đến ngày nay.
Như đã thấyVua Tự-Đức là
người con chí hiếu đối với mẹ là Bà Từ Dũ, vì thế bất cứ việc gì làm
cho người mẹ buồn phiền, thì nhà Vua xem như bất hiếu.
Do vậy, khi giặc Pháp đã chiếm được
lục tỉnh thuộc Nam Kỳ lúc bấy giờ, trong lãnh thổ này có quê hương của Bà Từ
Dũ, làm cho nhà Vua rất tức giận và trút hết tội tình lên một vị quan văn
trung-thần ái quốc là Ông Phan-Thanh-Giản, mà không xét lỗi mình là
Ông Vua của một nước có quân, có quyền trong tay và lại có hành-xử chủ hòa với
giặc Pháp? ...
Như thế, ở đời chúng ta nên : "Xét
lỗi mình trước khi xét lỗi người" có vậy mới thấy trung thực của mọi
vấn đề. Đó là bài học đáng quý vậy!
Ông Phan-Thanh-Giản,
có tên chữ là Tịnh Bá và Đạm, hiệu là Lương-Khê, biệt hiệu là Mai-Xuyên, sinh
vào giờ Thìn, ngày 12, tháng 10 thuộc Hợi, năm Bính Thìn tức năm 1796
dương-lịch, thuộc đời vua Cảnh-Thịnh Nguyễn-Quảng-Toản (1792-1802). Con của Ông
Phan-Thanh-Xáng, tự Văn-Ngạn, hiệu Mai-Thư tiên sinh, rất giỏi
chữ nho, đến Vĩnh Long làm thơ lại cho Nam triều, thưòng lãnh nhiệm-vụ tãi
lương-thực về Huế. Và con của Bà Lâm-Thị-Phần (có sách nói tên
Lâm-Thị-Bút, người huyện Bảo-An).
Ông nội của Ông Phan-Thanh-Giản là
Ông Phan-Thanh-Tập tự Đào-Ấn hiệu Ngẫu-Cư tiên sinh và Bà nội
là Bà Huỳnh - Thị - Học. Tổ tiên Ông là người Trung-Hoa đến
cuối đời nhà Minh mới sang nước Việt-Nam, trước ở Bình-Định (
Miền Trung ), đến lúc Tây-Sơn nổi dậy, thân sinh Ông chạy xuống Định-Tường
(Miền Nam), rồi đến xã Bảo-Thạnh, quận Bảo-An,Tỉnh Bến -Tre (Kiến-Hòa trước kia)
.Lúc Ông được 7 tuổi, mẹ mất được người cha gởi sang bên ngoại ở làng Phú Ngãi,
để ăn học vở lòng với nhà sư Nguyễn-Văn-Noa, đến năm 1816 Ông theo học trường
tỉnh Vĩnh-Long. Việc học-hành của Ông lại gặp trở ngại, vì cha bị vu cáo nên bị
ở tù tại Vĩnh-Long. Ông xin ở tù thay cha, nhưng không được chấp- thuận. Các
quan thuở ấy thấy Ông nhỏ tuổi mà là một đứa con hiếu-thảo, lại có đức-hạnh và
thông-minh, nên các quan nâng-đỡ cùng khuyên Ông nên cố-gắng học-hành để tiến
thân. Năm Ất-Dậu 1825, Ông đâu Cử-Nhơn tại Gia-Định và năm sau ra Huế thi Hội
và thi Đình, Ông đậu đệ tam tiến-sĩ đầu tiên tại Nam Kỳ (Khoa thi Hội năm 1826
có khoảng 200 cống sĩ, nhưng kết quả chỉ có 10 người đậu, gồm : 7 người ở
Bắc-Kỳ, 2 người ở Trung-Kỳ và 1 người ở Nam Kỳ là Ông được đứng vào hạng thứ 3
trong số 10 người, cho nên được gọi Ông là "Đệ Tam Giáp Tiến Sĩ
"). Sau đó, Ông cưới vợ Cần-Giuộc, rồi được bổ-nhậm chức Biên-Tu
ở Hàn-Lâm-Viện kinh đô Huế, vài tháng sau đổi ra Quảng-Bình. Rủi thay người vợ
trẻ ở Cần-Giuộc mất sớm vì bịnh, nên Ông tục-huyền với Bà Trần-Thị-Hoạch
ở Quảng-Trị, sống chung nhau chưa bao lâu, để báo hiếu với cha, Ông cho vợ về
Kiến-Hòa để phụng dưỡng cha già. Người vợ là người đức-hạnh nên buộc lòng
hy-sinh việc "xuất giá tùng phu", nghe lời chồng, cho nên
khi Ông khi tiễn đưa vợ hiền về Nam Kỳ đã làm bài thơ kiệt-tác như sau :
Từ thuở vương xe mối chỉ hồng,
Lòng nầy tạc dạ có non sông,
Đường mây cười tớ ham dong ruổi,
Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng,
Ơn nước nợ trai đành lỗi bận,
Cha già, nhà khó cậy nhau cùng,
Mấy lời dặn bảo cơn ly biệt,
Rằng nhớ, rằng quên, lòng hởi lòng!.
Riêng bà Trần - Thị - Họach, không những đồng-ý thay chồng để báo hiếu, mà còn sẵn sàng muốn có người hầu hạ cho chồng khi bà xa vắng, nên dẫn người tỳ thiếp tên Thịnh để giúp chồng, bị Ông quyết liệt từ khước và bảo người tỳ thiếp trở về, Bà Thịnh cảm cái nghĩa của Ông, nên về sau không lấy chồng, mà ở với Bà Hoạch cho tới già tại làng Bảo Thạnh, quận Bảo-An, Tỉnh Bến-Tre. Ngoài ra, khi Ông ra làm quan không bao giờ tỏ ra kiêu-hãnh "áo gấm về làng" bằng cách mỗi lần trở về quê thăm lại các quan ở Vĩnh-Long, thăm các thầy, thăm các bạn lúc nào nhã-nhặn lễ phép, không phô-trương ta đây là quan lớn ở triều-đình, Ông mặc áo như người thường dân. Đời sống Ông rất mực-thước, giản-dị, thanh-liêm, Ông dành nhiều thì giờ cho công-vụ và đọc-sách làm vui, cũng vì thế trong 41 năm làm quan, ít khi trở về thăm lại quê-hương của Ông, có lẽ vì đường xá quá xa xôi, việc nghỉ phép khó-khăn, đặc-biệt có lần về nhà cư tang cha vào năm 1843 và ngược lại bà Hoạch cũng thỉnh-thoảng mới ra thăm Ông tại nhiệm-sở. Về
đường
quan lộ của Ông rất thăng trầm trong nhiều chức vụ khác nhau của các lãnh vực
trải qua 3 triều đại: Minh-Mạng, Thiệu-Trị và Tự-Đức, xin trích dẫn như sau :
Giai-đoạn 1826-1859, Ông lận-đận, thăng-trầm
trên đường hoan lộ nhiều lần, ví như tháng 8 năm 1826 thuộc vua Minh-Mạng thứ
6, Ông giữ chức Biên Tu ở Hàn Lâm Viện, rồi được thăng chức Lang Trung Bộ Hình,
kế đến Tham Hiệp ở Quảng-Bình, quyền Hiệp-Trấn Nghệ-An và sau đó làm Hiệp-Trấn
Quảng-Bình. Năm sau tức 1827 Ông được về triều-đình để nhận chức Phủ-Doãn
Thừa-Thiên, Ông được vua Minh-Mạng chú-ý vì có nhận-định chánh-trị sắc-bén và
già dặn, nên ít lâu sau được thăng làm Thị-Lang Bộ Lễ tức làm việc tại Nội-Các
và kế đến lại tái nhậm chức Hiệp-Trấn Quảng-Bình lần thứ hai đến năm 1831 Ông
bị thuyên-chuyển về Quảng - Nam để dẹp cuộc khởi-loạn của dân-tộc thiểu số miền
sơn cước. Cuộc chinh phạt đó, Ông gặp khó-khăn vì là quan văn, nên xem như thất
bại, cho nên Ông bị giáng chức lần thứ nhứt. Rồi, Ông từ một thuộc viên của sứ
bộ sang Hạ-Châu (Singapore), lại thăng lên Hàn-Lâm Kiểm-Thảo Sung Nội-Các
Hành-Tẩu, đến năm 1833 được thăng Viên Ngoại-Lang Bộ Hộ, quyền ấn, Phủ
Thừa-Thiên, rồi Hồng-Lô Tự-Khanh và cuối năm này, Ông được cử làm Phó Sứ sang
Tàu, sau khi trở về được thăng chức Đại-Lý Tự-Khanh để coi việc Bộ Hình và được
sung vào Cơ-Mật-Viện Đại-Thần. Sau đó, vì nhờ tài ngoại giao, nên Ông được khen
ngợi và lãnh chức Kinh-Lược Sứ Trấn Tây (Cao-Miên), rồi trở về sung chức
Bố-Chánh Tỉnh Quảng-Nam, quyền ấn Tuần-Phủ Quan-Phòng. Vào tháng 5 năm 1836
thuộc vua Minh-Mạng thứ 7, nhà vua muốn ngự du Ngũ-Hành Sơn ở Quảng-Nam, Ông
dâng sớ cản ngăn đại lược như :"Nhà vua đi tuần hành, dân trong hạt
chẳng vui mừng, nhưng nay khoảng tháng 4, tháng năm mùa hạ, mùa lúa không được
tốt, lại đang lúc thời tiết cấy cày, trồng trọt, nếu dân lo cung đón nhà vua
thì được việc này, mất việc kia. Nay xin tạm đình để dân dốc sức vào việc rung
nương..."
Lá sớ của Ông làm vua tức giận và
nghi các quan ở Quảng-Nam làm việc bê-bối, nên vua cử Ông Vũ-Duy-Tân đến
điều-tra hư thật. Ông này lại nịnh hót đặt điều nào : Dân chúng đang mong vua
đến, các quan nhũng lạm...
Khâm-Định Việt-Sử Thông-Giám
Cương-Mục. Nước Pháp và Tây Ban Nha liên minh đánh Việt-Nam, gồm 14 chiếc
thuyền chở 3000 quân dưới quyền chỉ huy của Rigault de Genouilly, ngày 24-7 năm
Mậu Ngọ 1858 đến đánh Đà-Nẵng, triều đình cử Ông Nguyễn-Tri-Phương chống giữ,
quân giặc thấy khó chiếm, bèn bỏ ý định đánh Huế, quay vào Gia-Định năm 1959 để
đánh chiếm thành Gia-Định sau hai ngày giao tranh, chiếm được hơn 80.000 ký
thuốc súng, 200 khẩu đại bác và một số tiền điếu rất lớn. Các quan bày tỏ
lập-trường về việc chiến hay thủ, Ông dâng sớ bàn đại lược như sau : "Thiên
hạ đất rộng, công việc rất nhiều, ở chỗ việc nhiều, cai trị chỗ đất rộng, cốt
làm cho yên mà thôi. Theo sức người mà dạy, không khó nhọc mà thành công, noi
phép mà cai trị, quan lại quen mà dân yên, cho nên lợi không gắp trăm thì không
đổi phép, công mà không gắp mưu thì không đổi đồ dùng. Làm cái kế ngày nay cốt
nhứt nuôi dân chăm cày cấy, nuôi lính đủ ăn, lưu ý như thế thì sức dân được thư
thả mà quân có chỗ dạy, sức đất không bỏ phí mà lương có chỗ ra, quân giỏi,
lương đủ thì như nước chảy cuồn cuộn không hết, thì hoặc đánh hoặc giữ, không
việc gì là không nên, đối với việc dân yên nước thịnh, may ra bổ ích đôi chút
..." Vua Tự-Đức khen rằng : "Lời nói đều có cốt yếu, bọn
tân tiến không thể ví nổi, chỉ nên thực lòng cố sức giúp trẩm, đời sau chắc có
tiếng khen". Kế đến : Ngày 25-2-1861 thành đồn Kỳ-Hòa (Chí-Hòa)
thất thủ em Ông Nguyễn-Tri-Phương là Nguyễn-Duy tử trận, ông Phạm-Thế-Hiển bị
thương nặng mấy hôm sau thì chết, riêng Ông Nguyễn-Tri-Phương cũng bị thương
phải bỏ đồn rút quân về Biên-Hòa. Ngày 12-4-1861 Page hạ thành Mỹ-Tho; ngày
9-9-1861 Đề Đốc Bonard thay Charner chiếm thành Biên-Hòa và ngày 28-3-1862
Bonard chiếm thành Vĩnh-Long. Trước tình thế nguy-ngập, vua Tự-Đức cử Ông và
Ông Lâm-Duy-Hiệp vào Nam-Kỳ để thương-thuyết hầu tìm cách cứu vãn tình thế,
cuộc thương-thuyết diễn ra tại Sài-Gòn, có Đô-Đốc Bonard đại-diện quân Pháp và
tướng Palanca đại-diện Tây-Ban-Nha. Kết-quả, bắt buộc phải ký hòa-ước vào ngày
5-6 dl năm 1862 nhằm ngày 9 tháng 5 âl năm Nhâm-Tuất, quân giặc ở thế thượng
phong, gồm 12 khoản, trong đó những khoản làm cho dân-tộc chúng ta khổ tâm như
:
Khoản 3 : Nhường cho Pháp các tỉnh : Biên-Hòa, Định-Tường, Gia-Định và đảo
Côn-Nôn. Người Pháp được đi lại trên sông ngòi Nam-Kỳ.
Khoản 5 : Người Pháp và người Tây-Ban-Nha (Y-Pha-Nho) được buôn bán ở Đà-Nẵng,
Đà-Lạt và Quảng-Yên.
Khoản 8 : Nước Đại-Nam
tứcViệt-Nam phải trả 4 triệu đồng chiến phí trong hạn 10 năm...
Hòa-ước Nhâm-Tuất ký xong, vua
Tự-Đức và các triều không hài lòng và chủ trương : "Việc nhường đất,
bồi tiền như thế không hợp lý, nhưng các điều ước mới định mà cãi nghị ngay thì
họ sẽ không đồng ý". Ngoài ra, vua Tự Đức không bắt tội Ông Phan-Thanh-Giản
mà còn cử Ông làm Tổng-Đốc Vĩnh-Long để từ từ thương chước để chuộc lại lầm
trước kia. Tháng 11-1862 Ông Phan-Thanh-Giản yêu cầu Pháp trả lại Vĩnh-Long,
nhưng Pháp cho hay, chỉ trả lại khi nào Ông Quản-Cơ Trương-Định thôi đánh Pháp.
(Bởi vì, khoảng thời gian trước và sau khi ký hòa-ước Nhâm-Tuất cho đến mất
trọn 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ, các sĩ phu và dân chúng thuộc 6 tỉnh (Nam Kỳ) rất uất
hận nổi lên chống cự giặc ngoại xâm, dầu biết võ khí thô sơ nhưng với lòng yêu
nước nồng nàn cao độ họ đã làm cho quân Pháp điên đảo, trong số những người cầm
đầu lúc bấy giờ có các Ông : Trương-Định, Nguyễn-Trung-Trực,
Nguyễn-Hữu-Huân (Thủ-Khoa-Huân), Võ-Duy-Dương tức Thiên-Hộ-Dương, Đức Cố Quản
Trần-Văn-Thành .v.v.).
theo tài-liệu nào? Chỉ thấy trong
quyển La Geste Française en Indochine của Cura Taboulet tập 2, trang
518-519, đã dịch ra và in trong quyển quân-sự tập 3 của BTM do Ông Pham-Văn-Sơn
biên soạn viết : Ông Phan-Thanh-Giản viết thơ buộc Tổng Đốc
An-Giang và Hà-Tiên hạ vũ khi đầu hàng. "Nếu cần xin xem quyển Nguyễn-Đình-Chiểu
về tác-giả và tác-phẩm trang 672" ).
"Minh tinh thỉnh tỉnh nhược vô ứng thư,
Đại-Nam hải nhai lão thư sinh tính Phan chi cửu.
Diệc dĩ thử chí mộ".
nghĩa là: Xin bỏ tấm triệu, còn nếu không chịu bỏ thì chỉ nên viết : "Linh cữu của người học trò già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam" mộ chí cũng đề như thế. Đồng thời Ông làm thơ tuyệt mạng :
Thời trời, lợi đất, lại người hòa,
Há dễ ngồi coi phải nói ra.
Làm trả ơn vua, đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng ruổi đường xa.
Lên gềnh xuống thác thương con trẻ,
Vượt biển trèo non cam phận già.
Cũng tưởng một lời an bốn cõi,
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba!
Và Ông tuyệt thực suốt 17 ngày mà không chết để chờ quyết định của vua Tự-Đức. Sau cùng, vào lúc nửa đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng 7 năm Đinh Mão 1867, Ông hướng về phương Bắc nơi có vua Tự-Đức để lạy 5 lạy và trước sự chứng kiến đau lòng của các con cháu, rồi Ông uống á-phiện với dấm thanh để tự vận. Lúc đó có nhiều người quan Pháp kính nể việc làm của Ông, bác sĩ hải-quân Pháp là Le CoNiat đã tận lực cứu chửa, nhưng không cứu Ông được, nên phải trút hơi thở cuối cùng thượng thọ 71 tuổi và được các quan lớn nhỏ ở lục tỉnh cùng thân nhân bằng cố hữu về đông đủ để chịu tang và các con cháu đưa về an táng tại làng Bảo-Thạnh, quận Ba-Tri (Bến-Tre) đúng như ý muốn của Ông. Khi hay tin Ông chết, các quan Việt-Nam và Pháp tới phúng điếu đều ngậm ngùi thương tiếc một công thần với 41 năm công cán suốt 3 triều đại là: 1.-Vua Minh - Mạng (1820-1840) tức con thứ ba của vua Gia-Long là Thánh-Tổ Nguyễn-Phúc-Đảm, thọ 50 tuổi, trị vì 20 năm và có 170 người con. 2.-Vua Thiệu-Trị (1841-1847) tức Hoàng-Thái Tử của vua Minh-Mạng là Hiến-Tổ Nguyễn-Miên-Tông, thọ 37 tuổi và trị vì 6 năm. 3.- Vua Tự-Đức (1847-1883) tức con thứ hai củaVua Thiệu-Trị với Bà Thái-Hậu Từ-Dũ, quê ở Gia-Định (Nam Kỳ) là Hoàng-Thái Tử Dực-Tông Nguyễn-Hồng-Nhậm, thọ 55 tuổi và trị vì 36 năm. Lúc làm Kinh-Lược trấn nhậm tỉnh Vĩnh-Long Ông có lập miếu thờ Đức Khổng Tử do Ông Nguyễn-Thông trông nom, khởi công năm Giáp Tý 1864 đến cuối năm 1866 hoàn-thành, đồng thời cất tòaVăn-Xương-Các chung trong đất Văn -Thánh tại làng Long-Hồ để khi rảnh rổi việc quan, Ông cùng các bạn văn nho họp luận bàn thi phú. Tòa Văn Xương-Các đến nay vẫn còn uy-nghiêm dưới nhiều cây cổ thụ trồng từ xa xưa, cách chợ Vĩnh-Long khoảng 3 cây số. Bên trong có thờ chân dung Ông và bài-vị Ông Võ-Trường-Toản. Riêng tại Miểu Quốc-Công nằm trong thị xã Vĩnh-Long cũng có thờ Ông, hai nơi này lúc nào khói hương cũng nghi ngút. Ngoài ra, năm 1966, chánh-quyền Tỉnh và thân hào nhân sĩ trước kia, cũng dựng tượng đồng bán thân Ông đặt tại công viên tại chợ Vĩnh-Long. Bởi vì, Ông là vị quan thanh-liêm, cương trực, hết lòng phục mệnh các vì vua và lo cho đất nước, dân tộc, lúc bấy giờ, cho nên Ông bị hành-động gian-xảo của giặc Pháp ở thế thượng phong về quân-sự cùng văn-minh tân kỳ của giặc Pháp (bởi vì, Ông đã thấy tận mắt khi cầm đầu sứ bộ sang Pháp), lúc nào cũng muốn cưỡng chiếm 6 tỉnh Nam-Kỳ cho bằng được. Dù ai, ngoài Ông ra cũng không tránh khỏi kết-quả thiệt-thòi của giặc Pháp đưa đến. Vì thế, Ông đành thất thủ thành và đưa đến cái chết can-đảm. Trong khi đó, có tin từ triều đình Huế gởi vào : Bãi chức hàm của Ông, đục tên trên bia tiến-sĩ ngoài Huế để làm gương, cuối cùng đến năm 1885 vua Đồng-Khánh mới phục hồi chức hàm và đến năm 1924 vua Khải-Định mới phong thần cho Ông. Hơn nữa, sau khi Ông chết, hai con của Ông là: Phan-Tôn và Phan-Liêm đã nghe lời Ông căn dặn trước khi chết là : "không ra làm quan với Pháp" mà còn đứng lên chống Pháp
Vì vậy, khi Ông qua đời không những
thân bằng quyến thuộc, các quan lớn nhỏ Việt-Pháp cùng đồng bào miền lục tỉnh
đến nơi tiễn đưa Ông rất long-trọng và luyến tiếc một nhân tài không thể cưỡng
lại tình thế lúc bấy giờ.
Non nước tan tành hệ bởi đâu?
Dàu dàu mây bạc (trắng) cõi Ngao châu,
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cang (cương) thường một gánh thâu,
Ải (Trạm)Bắc ngày trông (chiều) tin nhạn (điệp) vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu,
Minh tinh (sinh) chín chữ (*) lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thu.
(*) Ông Phan-Thanh-Giản viết di bút để lại cho các con cháu có 11 chữ là
: Đại Nam hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cửu có nghĩa là "Linh cữu của người học trò
già họ Phan ở bãi biển nước Đại-Nam". Như vậy, chữ "cữu" là
cuối chữ của câu 11 chữ do Ông Phan-Thanh-Giản viết rớt đúng chữ "linh"
thì rất đúng quy tắc. Bởi vì, theo quy-tắc thời xưa, khi viết minh tinh (tấm triệu) hay mộ bia
bắt buộc phải chú ý đến 4 chữ : Quỷ,
Khốc, Linh, Thính và phải tôn trọng quy tắc : "Nam Linh, Nữ Tính, bất dụng
Quỷ Khốc nhị tự" .Nhưng tại sao Ông Nguyễn-Đình-Chiểu là đồ nho
lại viết 9 chữ và cắt bỏ hai chữ Đại-Nam có ý nghĩa gì ? Theo thiển nghĩ lúc
bấy giờ ở Nam Kỳ lục tỉnh đã bị giặc Pháp chiếm, thì không thể dùng chữ Đại-Nam
mà phải cắt bỏ để trách khéo Ông Phan-Thanh-Giản?
và có ý để Ông Phan-Thanh-Giản thành Quỷ
sau khi chết, bởi để mất Nam Kỳ. Hơn nữa, câu thơ chót Ông Nguyễn-Đình-Chiểu kết
bằng chữ gió thu
(tức gió mùa Thu,
theo ngũ-hành thuộc Kim, theo phương hướng thuộc hướng Tây) ý nói lục
tỉnh Nam Kỳ giờ đây do giặc
Pháp cai trị là để gói trọn sự
thống hận đổ trút hết tội tình lên Ông Phan-Thanh-Giản, giống như hành động vua
Tự-Đức vậy.
Quỷ
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Quỷ
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Quỷ
|
Khốc
|
Linh
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
10
|
11
|
Đại
|
Nam
|
hải
|
nhai
|
lão
|
thơ
|
sanh
|
tánh
|
Phan
|
chi
|
cữu
|
|
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
|
7
|
8
|
9
|
|
|
Quỷ
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Quỷ
|
Khốc
|
Linh
|
Thính
|
Quỷ
|
Ngoài ra, Ông Nguyễn-Đình-Chiểu không dừng ở đây, lại làm thêm bài thơ điếu Ông Phan-Thanh-Giản bằng chữ Hán, không kém sự phiền giận của Ông. Xin trích dẫn như sau :
"Bỉnh tiết tằng lao sinh Phú Bật,
Tận trung hà hận tử Trương Tuần,
Hữu thiên lục tỉnh tồn vong sự,
Nam đắc thung dung tựu nghĩa thần..."
Với
4 câu thơ trên Ông Nguyễn-Đình-Chiểu, mượn Ông Phú-Bật ở đời nhà Tống
được vua cử đi sứ để thuyết phục được giặc Khiết-Đan và lấy lại được đất cho
nhà Tống, còn Ông Phan-Thanh-Giản cũng được cử đi sứ, nhưng không thành công.
Riêng Ông Trương-Tuần ở đời nhà Đường giữ thành Tuy Dương, chống giặc
An-Lộc-Sơn, đã chiến đấu đến cuối cùng, thành mất Ông Trương Tuần chết theo
thành, còn Ông Phan-Thanh-Giản không theo gương người xưa, chết tức khắc theo
thành?. Vì thế, việc còn mất lục tỉnh, còn có trời. Nhưng, Ông Phan-Thanh-Giản
muốn ung dung làm thần (tựu nghĩa thần) thì thật khó lắm thay!
Qua
những trích dẫn vừa qua, chúng ta thấy được những hành động của các bậc danh
nhân ngày xưa, lúc nào cũng có tấm lòng yêu dân mến nước, đáng cho thế hệ chúng
ta và kế tiếp sau này tôn vinh mãi mãi.
Để
biểu lộ tôn kính đối với các bậc tiền nhân bằng hành động, không gì bằng mỗi
khi có dịp chúng ta qua Tiền Giang hay Hậu Giang thuộc miền Nam Việt Nam, xin
nhín chút thời giờ quý báu đến Bến Tre để thăm các lăng mộ của các Ông : Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản...
Nếu du khách muốn đi thăm viếng mộ
Ông Nguyễn-Đình-Chiểu ở ấp Vĩnh-Đức-Trung, làng An Đức, quận
Ba-Tri, Tỉnh Bến Tre ( Kiến-Hòa trước kia), trước hết phải đến
Mỹ-Tho thuộc Tỉnh Tiền-Giang (Định-Tường trước kia) tìm bến bắc Rạch
Miểu, để qua con sông Tiền Giang, kế đến lấy xe đò đi về Thị Xả Bến-Tre
khoảng 12 cây số, rồi đi tiếp về chợ quận Ba-Tri khoảng 35 cây
số, thì thấy lăng mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu.
Sau khi đến thăm lăng mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu
xong, khi trở ra đi về hướng Phú Lễ quẹo mặt. Hoặc là, nếu
chúng ta đến chợ quận Ba Tri, nơi đây thấy có ngã ba, phải
quẹo trái (nhớ đừng quẹo mặt sẽ đi trở lại ngôi mộ Ông Nguyễn-Đình-Chiểu
đã thăm) và đi hướng Phú Lễ trên
15 cây số, để đến ấp 4, xã Bảo Thạnh, Quận Ba Tri (Bến Tre) sẽ thấy lăng mộ Ông
Võ-Trường-Toản khang trang như sau :
Rồi chúng ta đi tiếp khoảng 300
thước thì thấy ngôi mộ Ông Phan Thanh Giản điêu tàn, không
được tu bổ do anh Phan Thanh Nhàn, là người cháu sáu đời của
Ông Phan Thanh Giản lo săn sóc, cúng giỗ hằng năm như bên đây :
Nếu quý độc giả cần tìm hiểu thêm,
xin đọc bài Thăm Mộ Phan Thanh Giản của Võ Thị Thu Vân trong
đặc san Tiền Giang Hậu Giang số 6 năm 2002 từ trang 61 đến trang 66, phát hành
tại Nam California Hoa Kỳ, tác giả đã trích dẫn các hình lăng mộ vừa qua ở
trước.
No comments:
Post a Comment