Monday, June 6, 2016

TƯỚNG TINH

http://www.tuviglobal.com/baiviet/detail/955.html

Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư không hề nhắc đến vòng sao Tướng Tinh. Nhưng nhiều sách Tử Vi bên Trung Quốc có ghi vòng Tướng Tinh. Khoa Tử Vi Việt chịu ảnh hưởng của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư nên không có vòng sao này. Tuy nhiên vì vòng Tướng Tinh trong đó có Hoa Cái, Đào Hoa (Hàm Trì) và Kiếp Sát nên cũng cần hiểu qua về vòng sao này ra sao ?
Trước hết là cách an sao Tướng Tinh. Tướng Tinh thuộc sao của niên chi chỉ tính theo thế tam hợp.

Dần Ngọ Tuất Tướng Tinh an ở Ngọ

Thân Tí Thìn Tướng Tinh an ở Tị

Tỵ Dậu Sửu Tướng Tinh an ở Dậu

Hợi Mão Mùi Tướng Tinh an ở Mão


Tướng Tinh chỉ đi theo chiều thuận như vòng Thái Tuế. Lần lượt đến Phan An, Tuế Dịch, Tức Thân, Hoa Cái, Kiếp Sát, Tai Sát, Thiên Sát, Chỉ Bối, Hàm Trì, Nguyệt Sát, Vong Thần.

Chỉ có ba sao của vòng Tướng Tinh xuất hiện trong lá số Tử Vi Việt là: Đào Hoa (Hàm Trì), Hoa Cái, Kiếp Sát. Vị trí y hệt vị trí an bài qua vòng Tướng Tinh, nghĩa là Đào Hoa ở bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu. Hoa Cái ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi, Kiếp Sát ở bốn cung Hợi Tí Dần Thân.


Phan Án có hai ý nghĩa cơ bản:

a. Làm tăng thanh thế, tác dụng giống như Bát Tọa, chỉ khác ở điểm Phan Án có lưu niên trong khi Bát Tọa thì không. Bởi vậy Thai Tọa làm tăng thanh thế cho cả một đời, còn Phan Án tăng thanh thế cho một năm.

b. Gần cận người cao sang quyền thế, hay nói khác đi là dễ gặp quí nhân. Phan Án rất hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt. Có Khôi Việt đứng bên thì quí nhân chiếu cố, nhưng chỉ là hữu danh vô thực kiểu nhân sĩ tư vấn vớ vẩn.

Tuế Dịch được xem như một loại lưu niên Thiên Mã và tính chất là một. Lưu Lộc mà có Tuế Dịch thì cũng kể làm Lộc Mã giao trì, vào Mệnh vào Tài Bạch Quan Lộc hay Thiên Di đều chủ về sự tấn tài tấn lộc.

Tuế Dịch gặp Lộc Tồn cố định trên lá số thì lại không kể làm Lộc Mã giao trì, chỉ gặp lưu Lộc mới kể. Nếu lưu Lộc đứng cùng, đối xung với Lộc Tồn cố định mà thêm cả Tuế Dịch nữa gọi bằng hiện tượng “động” đưa đến đi xa hoặc thay đổi công việc lâu dài.

Tức Thần mang ý nghĩa thiếu xung động trì trệ nằm ỳ một chỗ. Tức Thần vào cung Phúc Đức tâm tư tiêu cực dễ bi quan, luôn luôn nghĩ đến thất bại thành ra kém nỗ lực phấn đấu.

Tức Thần không nên đứng cùng sao Thiên Cơ ở Mệnh hay Phúc Đức hễ làm việc mà thấy hơi khó là bỏ. Tức Thần hợp với sao Thiên Lương, đứng cùng Thiên Lương thì giỏi tùy hòa mà thành ra đắc lực.

Tức Thần gặp Hàm Trì (Đào Hoa) dễ thuận chịu an bài của mệnh vận, nhất là đối với duyên tình, thiếu ý chí mạnh, gặp sao hay vậy.

Tai Sát trên cơ bản tính chất là tai nạn thường đem hung hiểm tới. Cần phối hợp với các sao khác để đo trình độ hung hiểm.

Tai Sát bao giờ cũng đóng ở cung Tí Ngọ Mão Dậu nếu nó gặp Đào Hoa Mộc Dục hoặc Văn Xương Hóa Kị mà lưu niên lưu nguyệt thấy luôn các sát kị xung hội hẳn nhiên là có tai họa vì tình, bị gái lừa trai gạt, hoặc bị đánh đập vì ghen tuông

Tai Sát vào cung Tật Ách làm tăng thêm sự trầm trọng của hung hiểm. Tai Sát chỉ gây hung hiểm khi nó đến cung nào, toa rập với các hung sát tinh khác, trường hợp cung đó cát tường thì tai sát vô lực.

Thiên Sát tính chất ngược với Thiên Đức. Thiên Đức đem thuận lợi cho quan hệ với người trên, bố mẹ hoặc người hơn chức vị mình. Thiên Sát gây khó khăn cho quan hệ này. Thiên Sát ở mệnh hay vận hạn khó được thượng ty nâng đỡ hoặc bị người thân ghét bỏ.

 Chỉ Bối là sao hay bị người nói xấu, nó cùng chất với Phi Liêm. Chỉ Bối đi cặp với văn tinh Khoa, Xương Khúc thì hay bị người ghen với tài học mà phỉ báng.

 Nếu Chỉ Bối đứng cùng Phi Liêm thì tình trạng bị dèm pha càng nặng, hoặc gặp Thiên Cơ cũng vậy. Chỉ Bối đứng với Thiên Lương Hóa Lộc là con người vì tham lợi việc gì cũng làm. Chỉ Bối kị đóng ở Mệnh cung, Huynh Đệ và Nô Bộc.

Nguyệt Sát na ná Thiên Sát nhưng tai ách thường đến một cách âm thầm. Nguyệt Sát ảnh hưởng mạnh với số nữ hơn nam mạng.

Nguyệt Sát phải có sự trợ lực của sao mà nó đứng cùng thì mới gây rắc rối mạnh. Nguyệt Sát vào cung Tật Ách là có bệnh khó phát hiện rõ ràng. Nguyệt Sát gặp Văn Khúc Văn Xương Hóa Kị cũng có thể gặp họa trên tình ái.

Vong Thần mang tính chất phá hoại bất ngờ, công việc đang trôi chảy đột nhiên bị phá hoặc do đối thủ hoặc hoàn cảnh thay đổi làm cho mất tiền của, hao tốn tài lộc.
Vong Thần là chuyện thất bại bất ngờ, nhưng nó cũng còn mang ý nghĩa lãng phí nếu nó đứng với Hình, Hao hay Không Kiếp thành ra con người thiếu khả năng quản thủ tiền bạc.
...
Trang Web TuviGLOBAL trình lập lấy lá số theo lịch Trung Quốc. 
Vì giao điểm chuyển giờ của mỗi tháng khác nhau (bài viết BÀN VỀ 12 GIỜ ÂM LỊCH có đăng trên trang Web TuviGLOBAL) là do trái đất tự quay theo một trục nghiêng, vì vậy các giao điểm chuyển giờ của tất cả các tháng không thể đồng loạt giống nhau. 

Tuy hiện nay trên tất cả các trang Web trên Internet có trình lập lấy lá số chưa giải quyết được vấn đề lập lá số tùy theo giao điểm chuyển giờ của từng tháng, nhưng nếu ta biết được giờ sinh chính xác thì vẫn có thể lập được lá số đúng của mình.
Vấn đề cần bàn là trình lập của các trang Web lại sử dụng các lịch khác nhau. Trang Web TuviGLOBAL có trình lập lấy lá số theo lịch Trung Quốc, còn VIETLYSO (lấy ví dụ) thì lại trình lập theo lịch Việt Nam. Sao lại có sự lộn xộn vậy ? Vậy thì theo lịch nào mới chuẩn xác ???
Khoa Tử Vi và hầu như tất cả các phương pháp coi về Mệnh lý nói chung đều khởi nguồn từ Trung Quốc và đều lấy giờ Bắc Kinh (MT+8) làm mốc tính toán chuyển đổi sang giờ âm lịch, (ngay tại Trung Quốc ở các vùng khác múi giờ cũng phải chuyển thành giờ Bắc Kinh).
Tại các nước như Nhật, Đài Loan, Singapore…cũng đều dùng giờ địa phương chuyển đổi sang giờ Bắc Kinh, tức là dùng lịch Trung Quốc ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực.
Từ xa xưa Việt Nam đều dùng Âm-Dương lịch theo lịch Tàu (giờ Hà Nội  MT+7 nên chậm hơn giờ Trung Quốc 01 tiếng), ứng dụng ngày giờ âm lịch tốt-xấu dùng cho rất nhiều lĩnh vực như hiếu hỉ-khai trương, cất nhà v.v…đặc biệt trong lĩnh vực coi về Mệnh lý nói chung thì yêu cầu về sự chính xác của giờ sinh phải chuẩn xác.
Thật sự chúng tôi cũng không rõ vì nguyên nhân gì mà tự dưng Lịch Việt Nam lại “bỏ rơi” lịch Trung Quốc để tự tìm một quĩ đạo thời gian mới ???
Theo chúng tôi là nguyên nhân năm 1979 Việt Nam và Trung Quốc đánh nhau, do diễn biến chính trị giữa 2 nước căng thẳng, Việt Nam không muốn mang tiếng ảnh hưởng của “1000 năm đô hộ giặc Tàu” mãi nên muốn “tự khẳng định mình”, cũng có đủ trình độ lập ra một lịch pháp riêng cho nên Tiến sĩ Hồ Ngọc Đức (không rõ học vị này có phản ánh đúng trình độ học thức không ? ) mới biên soạn ra Lịch Việt Nam mà cho đến bây giờ hầu như các phần mềm trình lập lấy lá số của hầu hết các trang Web trên Internet đều ứng dụng trên tinh thần “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam!!!”. Thật đáng khen!
Theo Lịch của Hồ Ngọc Đức thì năm 1985 thời gian ở Việt Nam sẽ đi “trước” lịch Trung Quốc 01 tháng !!! Tức là Theo lịch Trung Quốc thì năm 1984 sẽ có 2 tháng 10 nhuận, nhưng lịch Việt Nam thì không có tháng nhuận cho nên Việt Nam ăn trước tết Nguyên Đán so với Trung Quốc 1 tháng! Nhưng chỉ 1 năm đó thôi, rồi đến tết Nguyên Đán sau (1986) Việt Nam lại ăn tết theo lịch Trung Quốc (không rõ nguyên nhân!).
Chính do sự không thống nhất giữa 2 lịch nên ngày âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc trong năm 1984 và đầu năm 1985 có mấy tháng có sự khác biệt chênh nhau 1 tháng âm lịch, và nhiều người sinh sau tháng 10 âm lịch năm 1984, nếu chỉ lấy ngày âm lịch làm căn cứ để lập lá số thì đều bị sai và đã có nhiều ý kiến thắc mắc gởi đến chúng tôi.
Từ năm 1985 đến nay thì hầu như thỉnh thoảng lại có sự chênh lệch 01 ngày âm lịch giữa lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc, nếu Thầy nào không nắm được rõ sự kiện này thì cũng sẽ không có cách nào để hiểu rõ nguyên nhân và lập lá số đúng được.
Tuy nhiên cho dù ngày âm lịch của 2 lịch có khác nhau nhưng nếu có nhu cầu lấy lá số thì chỉ cần lấy theo ngày dương lịch rồi chuyển đổi ra ngày âm lịch thì sẽ không sợ nhầm lẫn được (tức là lập lá số theo lịch Trung Quốc mới đúng.)
Vui lòng nhấn vào đây để tham gia dịch vụ luận giải tử vi.
Hướng dẫn thanh toán xin Xem tại đây
Bộ phận luận giải chấm lá số tử vi. 
TuviGLOBAL
http://www.tuviglobal.com/tuvi/tuvitrondoitheolaso/


No comments:

Post a Comment